Do điều kiện và thời gian nghiên cứu hạn hẹp cũng như những hạn chế nhất định
về khách quan lẫn chủ quan, luận văn khó tránh khỏi những sai sót nhất định và đủ khả
năng đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu đặt ra trong quản lý thu thuế khu vực KTNQD.
Tác giả mong nhận được nhiều đóng góp của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, quý
Thầy, Cô giáo và cán bộ, công chức ngành thuế - những người rất giàu kiến thức thực
tiễn, cũng như bạn bè đồng nghiệp, với hy vọng có thể đóng góp được một số giải pháp
trong quản lý thu thuế ở khu vực KTNQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có hiệu quả thiết
thực. Qua đó góp phần đảm bảo hệ thống thuế có thể phục vụ ngày càng tốt hơn trong
phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
116 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3175 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ, chính xác, kịp thời,
liên tục và có hệ thống số hiện có và quá trình sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn, lao động,
kết quả,... Mọi công việc trên phải được thực hiện theo đúng chế độ kế toán do Nhà nước
quy định và yêu cầu quản lý kinh tế - tài chính của cơ sở. Thông qua việc ghi chép, tính
toán, hạch toán kế toán phục vụ yêu cầu kiểm tra, thực hiện kế hoạch, chủ trương, hợp
đồng sản xuất kinh doanh,... Cung cấp số liệu, tài liệu, thông tin kinh tế phục vụ cho chủ
cơ sở và Nhà nước điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm tra và phân tích đánh
giá hiệu quả kinh tế.
Muốn thực hiện tốt mục tiêu của việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn
chứng từ ở các cơ sở sản xuất kinh doanh cần thiết phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Nâng cao chất lượng công tác sổ sách kế toán và sử dụng hóa đơn chứng từ
trong sản xuất kinh doanh
Thực hiện tốt chế độ kế toán NQD là một trong những công việc rất khó khăn
phức tạp, bởi lẽ: ở khu vực kinh tế này trình độ của cơ sở kinh doanh còn hạn chế, chưa
qua đào tạo, hầu như chưa nắm bắt kịp những chính sách, chế độ do Nhà nước ban hành;
với mục tiêu lợi nhuận là trên hết, cơ sở luôn tìm mọi cách để luồn lách trốn thuế của Nhà
nước cho nên việc ghi chép trên sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn còn nhiều hạn chế. Do
vậy, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ và quán triệt sâu sắc mục tiêu, ý nghĩa của công tác
kế toán trong quá trình quản lý thu thuế. Để nâng cao chất lượng thực hiện công tác này
và đưa nó trở thành công cụ giúp cho ngành thuế thu thuế đúng luật, thực hiện công bằng
xã hội, ngành thuế cần phối hợp tích cực với các ngành trong việc chỉ đạo công tác tuyên
truyền, hướng dẫn, giải thích cho các cơ sở thực hiện.
Cán bộ thuế phải nắm bắt đầy đủ, kịp thời các chế độ về kế toán và hóa đơn
chứng từ do Nhà nước quy định. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của cán bộ quản lý đối
với các cơ sở thực hiện chế độ sổ sách kế toán. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao
nghiệp vụ kế toán, nghiệp vụ quản lý thu thuế nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ đủ
mạnh về lượng và chất để đáp ứng yêu cầu quản lý ngày càng cao đối với các cơ sở sản
xuất kinh doanh.
- Tăng cường quản lý việc sử dụng hóa đơn chứng từ
Theo các quy định hiện hành của Nhà nước, tất cả các tổ chức, cá nhân có sản
xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế khi mua bán, trao đổi
hàng hóa, dịch vụ thu tiền đều phải thực hiện chế độ quản lý sử dụng hóa đơn. Các
trường hợp mua, bán hàng hóa, dịch vụ có giá trị từ 100.000đ trở lên đều phải lập và giao
hóa đơn bán hàng đúng quy định. Tuy nhiên việc sử dụng hóa đơn bán hàng hiện nay
chưa được thực hiện nghiêm túc. Nhiều tổ chức, cá nhân chỉ quan tâm đến lợi ích trước
mắt nên đã tìm cách lợi dụng hóa đơn để trốn thuế, thu lợi bất chính, gây thiệt hại về tài
chính công quỹ của Nhà nước thể hiện bằng các hành vi sau [33, tr. 39-40]:
+ Sử dụng hóa đơn in giả mẫu của Bộ Tài chính để kinh doanh trốn thuế hoặc
dùng để thanh toán, quyết toán tài chính trong các cơ quan - đơn vị thụ hưởng tiền từ
NSNN.
+ In hóa đơn giả mẫu của Bộ Tài chính.
+ Lập hóa đơn ghi liên 2 cao hơn liên 1 để chiếm đoạt tiền thuế, thanh toán,
quyết toán tài chính.
+ Bán hóa đơn khống.
+ Cạo sữa hóa đơn mua hàng ghi số tiền cao hơn số tiền thực tế để khấu trừ, hoàn
thuế, thanh toán, quyết toán tài chính.
(Gần đây có hiện tượng mua hàng hóa với giá trị thấp được người bán cấp hóa
đơn liên 2 sau đó tẩy xóa các nội dung đã lập, ghi lại giá trị, số thuế GTGT cao hơn để đưa
vào khấu trừ thuế, hoàn thuế, thanh toán, quyết toán tài chính).
+ Lập hóa đơn khống (thực tế là không mua, bán hàng hóa) thông đồng với đơn
vị xuất khẩu để kê khai hoàn thuế GTGT hàng xuất khẩu.
+ Khi bán hàng hóa, dịch vụ, việc lập, giao hóa đơn bán hàng của các cơ sở vẫn
còn tùy tiện: không giao hoặc giao hóa đơn thì đòi nâng giá hàng hoặc giao hóa đơn
không hợp pháp để kinh doanh trốn thuế. Đối với khách hàng khi mua hàng tiêu dùng
cho gia đình thì không quan tâm đến việc đòi hóa đơn hợp pháp. Nếu mua hàng cho cơ
quan - đơn vị nhiều trường hợp đã chủ động yêu cầu người bán hàng lập hóa đơn với số
tiền cao hơn thực tế để thanh toán hoặc tự lập hóa đơn mua bán hàng cao hơn để lấy tiền,
tham ô công quỹ của Nhà nước.
+ Lợi dụng Nhà nước tạo thuận lợi trong việc cấp giấy phép kinh doanh đã xuất
hiện một số doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép thành lập, đã đăng ký thuế, mã số
thuế và mua hóa đơn tại cơ quan thuế để sử dụng nhưng mang hóa đơn đi bán.
Từ tình hình thực tế nêu trên, Bộ Tài chính đề nghị UBND các tỉnh, thành phố
chỉ đạo các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan thuế, cơ quan tài chính các cấp:
Thứ nhất, quán triệt chỉ thị số 15/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
11/6/2001 về việc tăng cường quản lý thu và chống thất thu NSNN; Chỉ thị của Bộ
trưởng Bộ Tài chính số 3824/1999/CT/BTC ngày 5/8/1999 về việc thực hiện phòng
chống hóa đơn giả trong mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thu tiền và thanh quyết
toán tài chính; tăng cường kiểm tra, thanh tra có trọng điểm; thực hiện đối chiếu hóa đơn
đầu vào, đầu ra, hóa đơn mua hàng của các doanh nghiệp, đơn vị hành chính sự nghiệp,
lực lượng vũ trang trong thanh toán, quyết toán tài chính; phát hiện và xử lý nghiêm các
đối tượng sử dụng hóa đơn giả, hóa đơn không hợp pháp để kê khai khấu trừ thuế, hoàn
thuế, thanh toán và quyết toán tài chính; những hành vi lợi dụng, vi phạm phải được
thông báo công khai để giáo dục, ngăn chặn. Trường hợp phát hiện các hành vi vi phạm
pháp luật thì tùy mức độ vi phạm mà xử lý theo quy định hiện hành.
Thứ hai, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tự in
hóa đơn theo mẫu và quy định đăng ký sử dụng theo chế độ quản lý, sử dụng hóa đơn bán
hàng kèm theo Quyết định số 885/1998/QĐ/BTC ngày 16/7/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính.
Trường hợp không tự in hóa đơn thì sử dụng hóa đơn do Bộ Tài chính phát hành,
nhưng bắt buộc tổ chức, cá nhân phải ghi đầy đủ: tên, địa chỉ, mã số thuế trên liên 2 (liên
giao khách hàng) của từng số hóa đơn trước khi mang ra khỏi cơ quan thuế. Người mua
hàng có trách nhiệm đối chiếu tên, mã số thuế khi nhận hóa đơn mua hàng để bảo hành
hàng hóa, kê khai thuế; khấu trừ thuế; xác định chi phí hợp lý khi tính thuế theo quy định.
Thứ ba, các tổ chức, cá nhân được sử dụng hóa đơn nếu sau thời hạn nộp tờ khai
thuế theo quy định mà chưa nộp thì cơ quan thuế tiến hành kiểm tra tình hình quản lý và
sử dụng hóa đơn. Nếu vi phạm thì xử lý theo chế độ quản lý, sử dụng hóa đơn ban hành
theo Quyết định số 885/1998/QĐ/BTC ngày 16/7/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Thứ tư, cục thuế các tỉnh, thành phố tổ chức rà soát lại doanh nghiệp thành lập
nhưng không kinh doanh, sử dụng hóa đơn nhưng không kê khai nộp thuế để xử lý; thông
báo công khai, kịp thời cho cơ quan chức năng, phối hợp chặt chẽ với cơ quan bảo vệ
pháp luật, cơ quan cấp giấy phép kinh doanh để ngăn chặn việc lợi dụng gây thiệt hại cho
NSNN.
Thứ năm, định kỳ 10 ngày đầu tháng sau, cơ quan tài chính, cơ quan thuế các cấp
thực hiện báo cáo UBND cùng cấp các hành vi vi phạm và xử lý về sử dụng hóa đơn
không hợp pháp trong thanh toán, quyết toán tài chính, kê khai thuế của tháng trước, để
UBND theo dõi và chỉ đạo ngăn chặn kịp thời ở địa phương.
Để thực hiện tốt những nguyên tắc đã chỉ đạo của Bộ Tài chính về việc tăng
cường quản lý sử dụng hóa đơn chứng từ ở mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
trong nền kinh tế quốc dân, cần thiết UBND tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng
trong tỉnh, thành phố như: Sở Tài chính, Cục thuế,... phải phối hợp để thực hiện. Cụ thể:
+ Quy định Thủ trưởng các đơn vị phải chịu trách nhiệm trong việc duyệt thanh
quyết toán tài chính đối với những hóa đơn bán hàng không hợp pháp; đồng thời quán
triệt cho cán bộ, công chức trong đơn vị, ngành, địa phương khi mua hàng hóa, dịch vụ
cho cá nhân, gia đình phải yêu cầu người bán cung cấp hóa đơn hợp pháp, ghi đúng giá
bán thực tế thanh toán. Trường hợp người bán xuất hóa đơn yêu cầu trả thêm tiền hàng
thì phải kịp thời thông báo cho cơ quan quản lý thị trường, cơ quan thuế gần nhất để phối
hợp xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật hiện hành.
+ Khi lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng kinh phí nhà nước; các cơ quan,
đơn vị thụ hưởng tiền từ NSNN phải lập bảng kê hóa đơn của hàng hóa, dịch vụ mua vào
gởi cùng với báo cáo quyết toán cho cơ quan tài chính. Bảng kê hóa đơn phải ghi rõ ký
hiệu xêri, số hóa đơn, tên hàng hóa, dịch vụ, số tiền mua hàng và tên, địa chỉ, mã số thuế
của đơn vị bán hàng.
Cơ quan tài chính các cấp khi thực hiện kiểm tra, kiểm soát, thanh quyết toán tài
chính phải đối chiếu hóa đơn, chứng từ để phát hiện những hóa đơn giả; hóa đơn không
hợp pháp trong chi tiêu, thanh quyết toán tài chính ở các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi
quản lý. Thực hiện tốt công tác kiểm soát chi NSNN. Các vi phạm về sử dụng hóa đơn,
chứng từ đã phát hiện phải xử lý theo quy định của pháp luật, đồng thời thường xuyên
phối hợp với cơ quan thuế để xem xét, thẩm tra, xác minh các hóa đơn có dấu hiệu vi
phạm.
+ Ngoài ra, đối với người lao động bình thường để tăng cường quản lý hóa đơn,
chứng từ, nên giao nhiệm vụ tuyên truyền vận động gia đình, cá nhân mua bán hàng hóa,
dịch vụ phải thông qua chứng từ, hóa đơn cho chính quyền cấp cơ sở (các khối, tổ dân
phố, thôn, xóm, bản) và xem đây là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động của mình.
Là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành của nhiệm vụ chính trị được giao.
+ Đối với cơ quan thuế:
Tổ chức thực hiện việc ghi (đóng dấu) tên, địa chỉ, mã số thuế trên liên 2 (liên giao
khách hàng) của từng số hóa đơn ngay tại cơ quan thuế đối với hóa đơn do Bộ Tài chính
phát hành, khi cơ sở đến cơ quan thuế để mua hóa đơn, tránh tình trạng cho, bán hóa đơn
trắng.
Tăng cường công tác hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện việc
quản lý, sử dụng hóa đơn chứng từ đúng quy định; khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
phải xuất hóa đơn cho khách hàng, kể cả trường hợp hàng hóa có giá trị dưới 100.000đ
mà người mua yêu cầu.
Đẩy mạnh việc triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh, đồng thời phối hợp với các
cơ quan chức năng như: công an, quản lý thị trường định kỳ kiểm tra, xử phạt nghiêm
minh, đúng pháp luật đối với những cơ sở đặt, in hóa đơn không hợp pháp; các cơ sở khi
bán hàng hóa, dịch vụ không xuất hóa đơn hoặc yêu cầu khách hàng phải trả thêm tiền mới
xuất hóa đơn và những trường hợp sử dụng hóa đơn giả, hóa đơn không hợp pháp để kê khai
khấu trừ thuế, hoàn thuế.
Phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng tại địa phương tổ chức tuyên
truyền công tác quản lý sử dụng hóa đơn cho mọi đối tượng để người bán hàng lẫn người
mua hàng khi mua, bán hàng hóa, dịch vụ phải xuất và nhận hóa đơn, đồng thời đưa tin
những vụ vi phạm điển hình về hóa đơn, chứng từ ở địa phương trên các phương tiện
thông tin đại chúng nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm chế độ quản lý hóa đơn, chứng từ
còn phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
+ UBND các cấp tăng cường trách nhiệm trong việc chỉ đạo kiểm tra tình hình sử
dụng hóa đơn để thanh quyết toán kinh phí nhà nước đối với các cơ quan, đơn vị hành
chính sự nghiệp. Chỉ đạo cơ quan thuế tăng cường, củng cố, mở rộng diện hộ kinh doanh
thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ trong quá trình sản xuất kinh doanh của cơ
sở.
+ Định kỳ vào những ngày đầu tháng, quý, cơ quan tài chính, cơ quan thuế các
cấp thực hiện báo cáo bằng văn bản cho UBND cùng cấp các vi phạm và xử lý về sử
dụng hóa đơn không hợp pháp trong thanh quyết toán tài chính, trong kê khai thuế để
UBND theo dõi và chỉ đạo kịp thời.
+ Ngoài ra, để thực hiện tốt chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ trong mọi hoạt
động kinh tế, tạo thêm môi trường thuận lợi cho việc chống thất thu thuế có hiệu quả và
hỗ trợ tích cực cho chủ trương chống tham nhũng cần có thêm những quy định sau:
Có chế độ khen thưởng phù hợp đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ
thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn chứng từ. Chẳng hạn, hộ kinh doanh có thể
được giảm 5% - 10% số thuế khoán phải nộp trong tháng;... Muốn được giảm thuế, hộ
phải đăng ký với cơ quan thuế địa phương cam kết thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế
toán, hóa đơn chứng từ. Hàng tháng phải kê khai doanh số hàng mua vào, bán ra kèm
theo tờ khai cụ thể về hóa đơn đã có, cán bộ chuyên quản kiểm tra xác nhận tờ khai trình
lãnh đạo Chi cục thuế xét duyệt việc giảm thuế.
Đối với cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp khi mua hàng hoặc cung ứng dịch
vụ có đầy đủ hóa đơn hợp lệ, có bảng kê hóa đơn (ghi rõ ký hiệu xêri, số hóa đơn, tên
hàng hóa, dịch vụ, số tiền mua hàng và tên, địa chỉ, mã số thuế của đơn vị bán hàng),
được cơ quan tài chính chấp nhận thanh toán đầy đủ khi quyết toán tài chính năm.
áp dụng thử nghiệm hình thức mở thưởng đối với số xêri của hóa đơn, chỉ nên áp
dụng đối với khu vực người tiêu dùng hàng hóa trực tiếp cho sinh hoạt không kể các cơ
quan nhà nước vì khu vực này có thể kiểm soát dễ dàng. Có thể số tiền thưởng trong mở
thưởng sẽ tiết kiệm hơn nhiều lần so với công tác kiểm tra mà hiệu quả hơn, nhanh chóng
hơn, mang tầm vĩ mô hơn, tránh được phiền hà, nhũng nhiễu,... Việc mở thưởng nên thực
hiện theo tháng và được thông tin đến tận người dân. Trong qua trình thực hiện sẽ mất
nhiều thời gian và công sức của cán bộ, công chức và một phần số thu ngân sách nhưng
dần dần từng bước với biện pháp kích thích này sẽ phát huy tác dụng tích cực và có tác
dụng đòn bẩy trong quá trình quản lý thu thuế. Yêu cầu của việc mở thưởng là chọn đối
tượng tham gia, điều kiện để được lãnh thưởng, số lượng quy mô giải thưởng, quá trình
tổ chức mở thưởng để không xảy ra sự lợi dụng, thiếu công tâm.
Khuyến khích việc sử dụng hóa đơn bán hàng đối với những hộ nông dân tiêu thụ
sản phẩm thường xuyên hoặc định kỳ với giá trị lớn. Đây là điều kiện thuận lợi để sản
phẩm của người nông dân được tiêu thụ dễ dàng, giữ được giá bán phù hợp, không bị các
tổ chức, cá nhân thu mua ép cấp, ép giá, tránh phiền hà trong quá trình vận chuyển và
phản ánh đúng giá trị sản phẩm hàng hóa bán ra, giúp cho hộ nông dân tăng tích lũy, tái
đầu tư mở rộng sản xuất. Đồng thời nâng cao đời sống vật chất cho người nông dân và
làm cơ sở cho các chính sách ưu đãi đầu tư, phát triển sản xuất. Mặt khác, nhằm giảm bớt
những vướng mắc, những thủ tục rườm rà, tiêu cực trong quá trình kiểm tra, kiểm soát
đối với người nông dân khi mang sản phẩm đi tiêu thụ trên thị trường. Việc người nông
dân khi bán sản phẩm có sử dụng hóa đơn sẽ giảm bớt việc sử dụng bảng kê thu mua
hàng trong việc hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp, hạn chế hiện
tượng tiêu cực, quá trình khấu trừ, hoàn thuế GTGT, tăng cường hiệu quả của công tác
quản lý thu thuế.
+ Ban hành mẫu hóa đơn đặc thù cho việc mua bán hàng hóa theo hình thức đặt,
gửi hàng thông qua điện thoại, Fax, ký gởi phù hợp với yêu cầu thực tế phát sinh hiện
nay. Loại hóa đơn này áp dụng theo phương thức hồi báo (liên 2 và liên 3 được gởi kèm
theo hàng, khi người mua nhận đủ hàng thì ký nhận và gởi hồi báo liên 3 cho người bán
hàng làm cơ sở thanh toán), nhằm xác lập tính pháp lý rõ ràng giữa người mua, người
bán, khuyến khích các đơn vị tích cực sử dụng hóa đơn bán hàng, tạo điều kiện thuận lợi
để các cơ quan chức năng dễ kiểm tra, đối chiếu xác minh, hạn chế trường hợp quay vòng
hóa đơn để trốn thuế.
Thực hiện được những bước công việc trên mới hạn chế được tình trạng sử dụng
hóa đơn giả, mua bán hóa đơn trắng, ghi hóa đơn liên trên doanh số ít liên dưới doanh số
cao hơn,... góp phần xây dựng trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực tài chính, tăng cường pháp
chế của Nhà nước trong quản lý kinh tế và góp phần bảo vệ công bằng xã hội.
3.2.5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương
trong quản lý thu thuế
Quản lý thu thuế được thực hiện trên cơ sở chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Do đó, từng cấp ủy Đảng, tổ chức Đảng các cấp phải có chương trình và biện
pháp cụ thể để lãnh đạo cơ quan chính quyền, chuyên môn, đoàn thể triển khai tích cực
và thực hiện tốt chính sách thuế. Công tác quản lý thu thuế hiện nay đang thực sự là một
công tác lớn của Nhà nước và nhân dân. Đây đồng thời cũng là một cuộc đấu tranh quyết
liệt, bởi nó đụng chạm đến lợi ích của Nhà nước, của từng đơn vị sản xuất kinh doanh và
mỗi người dân trong xã hội. Trong khi chính sách thuế còn nhiều tồn tại cần phải khắc
phục, hoạt động của bộ máy ngành thuế còn chưa ổn định, cơ chế quản lý thuế còn nhiều
sơ hở, giác ngộ về nghĩa vụ thuế của đa số các đối tượng nộp thuế còn thấp, sự phát triển
của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập ngày càng mở mang đa dạng, phong phú về các
phát sinh kinh tế,... tất cả tạo nên sự phức tạp cao độ trong công tác quản lý thu thuế cho
nên nếu không có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng và chính quyền nhà nước các
cấp thì hiện tượng thất thu thuế sẽ ngày càng tăng.
Trong điều kiện hiện nay, chính quyền địa phương có vai trò rất quan trọng đến
công tác tổ chức quản lý thu thuế. Nhưng để thực hiện tốt vai trò chỉ đạo của chính quyền
các cấp, Trung ương cần quy định chức năng, quyền hạn của chính quyền địa phương
trên cơ sở quán triệt Luật NSNN. Xác định rõ ranh giới giữa tài chính Trung ương và tài
chính địa phương để xây dựng một hệ thống ngân sách thống nhất. Trên cơ sở đó tăng
cường sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp đối với công tác quản lý thu thuế;
UBND các cấp cần coi việc chỉ đạo điều hành công tác quản lý thu thuế trong địa phương
mình là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và Nhà nước giao phó. Từ nhận
thức đó để bố trí cán bộ theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc việc quản lý thu thuế, cần chỉ đạo để
giúp ngành thuế phối hợp tốt với các ngành tài chính, ngân hàng, kế hoạch, đầu tư, xây
dựng,... để chống thất thu thuế. Cần quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của UBND
các cấp trong tổ chức quản lý thu thuế. Chính quyền địa phương phải thực hiện quyền thu
thuế trên lãnh thổ của mình, giúp cho chính quyền địa phương là cơ quan thuế. Tránh tình
trạng chính quyền thờ ơ với công tác thuế, coi đó là nhiệm vụ riêng của ngành thuế, đồng
thời cũng không được can thiệp một cách sai trái vào chính sách, pháp luật thuế.
3.2.6. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách thuế
Xây dựng các Luật thuế, pháp lệnh thuế nhằm cung cấp cho cơ chế quản lý tài chính
những phương tiện quản lý, làm cơ sở và đảm bảo cho việc ban hành các quyết định phù hợp
với đối tượng quản lý. Muốn các quy phạm pháp luật thuế tác động vào đối tượng nộp thuế,
cần khâu tiếp theo đó là việc áp dụng luật thuế, đảm bảo cho chủ thể quản lý tổ chức thực
hiện các quy phạm pháp luật thuế đối với các đối tượng nộp thuế. Các quyết định quản lý
mang lại hiệu quả khi nó tác động tới đối tượng quản lý, tới những người chấp hành và thực
hiện nghiêm túc. Điều đó, phụ thuộc vào khâu thực hiện luật thuế, vào tính tự giác của mỗi
công dân, đồng thời phụ thuộc vào hiệu quả của các luật thuế. ở nước ta hiện nay, việc xây
dựng, áp dụng và tổ chức thực hiện Luật thuế còn nhiều hạn chế. Thể hiện sự coi thường
pháp luật của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Để khắc phục tình
trạng trên, điều quan trọng là phải tiến hành thường xuyên việc giáo dục và nâng cao ý thức
pháp luật là điều kiện hàng đầu để tăng cường pháp chế trong thực hiện các luật thuế. Phải
giáo dục những điều sơ đẳng về chính sách thuế ngay trong ghế nhà trường tiểu học, giáo
dục và phổ cập những điều cơ bản của luật thuế cho mọi công dân hiểu biết và thực hiện tốt.
Các nhà chức trách, các tổ chức, đặc biệt là cơ quan thi hành pháp luật phải có biện pháp
nâng cao sự hiểu biết và hình thành một ý thức pháp luật trong quảng đại quần chúng nhân
dân. Điều đó, không những là tiền đề mà còn là chỗ dựa cho việc xây dựng và thi hành các
luật thuế. Cần có sự kết hợp chặt chẽ của các ngành, các cơ quan thông tin báo chí, đặc biệt
là sự phối hợp chặt chẽ của ngành giáo dục để tuyên truyền phổ biến luật thuế. Cần tạo ra
một sự chuyển biến sâu sắc trong toàn xã hội từ chỗ khuyến khích chống thuế dưới chế độ cũ
sang hình thức nộp thuế là nghĩa vụ, là biểu hiện nhiệt tình yêu nước của mỗi người, niềm tự
hào về mức đóng góp của mình đối với đất nước. Trốn thuế, lậu thuế đồng nghĩa với lừa đảo
và ăn cắp, không những bị pháp luật trừng trị nặng, ghi vào hồ sơ cá nhân, không ai muốn
thuê mướn sử dụng người đang bị án mà còn bị xã hội khinh rẽ, phê phán. Phương pháp
tuyên truyền có hiệu quả nhất là thông qua các cấp chính quyền, cơ quan đoàn thể quần
chúng. Cần nhận thức rằng, Nhà nước Việt Nam là "Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân" [21, tr. 48]. Do đó, phải bằng mọi cách làm cho người dân
hiểu đúng pháp luật và chấp hành pháp luật, thực hiện sự kiểm tra của nhân dân đối với cơ
quan thuế. Ngành thuế và các cấp chính quyền tranh thủ kết hợp trong các cuộc họp, hội nghị
tổng kết của Đảng, chính quyền, đoàn thể, quần chúng để tuyên truyền, vận động thực hiện
chính sách thuế. Việc cung cấp tri thức và giáo dục, tuyên truyền ý thức về pháp luật cho mỗi
công dân không phải sự nghiệp riêng của ngành thuế mà là nhiệm vụ có tầm chiến lược quốc
gia cần đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Kinh
nghiệm cho thấy, trong quá trình tuyên truyền cần phải lưu ý quan tâm đến tâm tư của
người nộp thuế. Người nắm được chính sách thuế thì luôn mong đợi câu trả lời chính xác,
người chưa nắm vững thì mong được nghe trình bày và giải thích rõ hơn. Nếu làm được như
vậy sẽ cải tiến được mối quan hệ giữa nhân dân và người nộp thuế với các cơ quan chức năng
quản lý nhà nước về thuế. Các địa phương cần đẩy mạnh công việc thành lập các trung tâm
dịch vụ, tư vấn pháp luật về thuế (có thể thu lệ phí hoặc không thu lệ phí hướng dẫn, tư vấn).
Giúp đỡ, hướng dẫn thực hiện công tác kế toán, sổ sách chứng từ và khuyến khích động viên
sự trung thực trong khai báo và tự giác nộp thuế. Phải đề cao trách nhiệm của Bộ Tư pháp và
các cơ quan tư pháp ở địa phương trong việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật thuế. Hàng năm,
cần tiến hành tổ chức tổng kết công tác thuế với đối tượng nộp thuế trên địa bàn để rút kinh
nghiệm. Coi trọng việc biểu dương khen thưởng tổ chức, cá nhân nộp thuế đúng luật và phê
phán những cơ sở trốn thuế, lậu thuế để có tác dụng giáo dục. "Cần thiết phải tôn vinh và có
chế độ khen thưởng phù hợp ở các đối tượng nộp thuế và doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả, thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế" [22, tr. 4]. Ban tuyên giáo, các cấp ủy cần quan tâm
hơn nữa đối với công tác này, phải coi đây là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của mình.
Qua các phiên họp của Hội đồng nhân dân các cấp, cần phải thông báo cụ thể cho nhân dân
biết về tình hình và hiệu quả sử dụng nguồn thu thuế, nhằm tăng thêm chất lượng trong công
tác tuyên truyền. Mở rộng hình thức tuyên truyền bằng tranh cổ động, áp phích thể hiện các
công trình được xây dựng bằng nguồn thu thuế.
3.2.7. Một số giải pháp đặc thù đối với công tác quản lý thu thuế NQD
- Hoạt động kinh doanh thương mại xe máy
Thực hiện chủ trương của Nhà nước về tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, gian
lận thương mại trong tình hình mới, đặc biệt là tình trạng các cơ sở kinh doanh xe máy bán
hàng ghi giá bán thấp hơn giá người mua thực tế thanh toán đang diễn ra rất phổ biến, vi
phạm nghiêm trọng nguyên tắc hạch toán kế toán, làm thất thu tiền thuế của NSNN, gây
bất bình trong dư luận xã hội. Để hạn chế tình trạng này nên chăng UBND tỉnh và Cục
thuế tỉnh Quảng Ngãi căn cứ vào số liệu điều tra thống kê, quy định số thuế GTGT và
thuế TNDN cơ sở phải nộp dựa trên GTGT và TNCT ấn định để làm cơ sở tính thuế cho các
loại xe:
+ Xe mới 100% (gồm xe nhập khẩu và sản xuất trong nước)
+ Xe cũ đã qua sử dụng có biển số kiểm soát.
Thuế GTGT (TNDN) 1 chiếc = GTGT (TNCT) x Thuế suất thuế GTGT (TNDN)
Nếu cơ sở có cam kết bằng văn bản với cơ quan thuế thực hiện tốt chế độ sổ sách
kế toán, hóa đơn chứng từ và trong thực tế thực hiện đúng những điều đã cam kết thì
được tính thuế theo quy định hiện hành của hai luật thuế GTGT và TNDN. Ngược lại, sẽ
nộp thuế theo phương pháp ấn định, đồng thời còn phải bị phạt từ 1 đến 2 lần số thuế trốn
lậu hoặc có thể bị thu hồi giấy phép kinh doanh.
- Hoạt động đánh bắt hải sản
Do trình độ dân trí ở các vùng dân cư ven biển còn thấp, đòi hỏi ngành thuế phải
chủ động, linh hoạt áp dụng mọi hình thức tuyên truyền phong phú và đa dạng, phù hợp
với đặc điểm của ngành hải sản như tập trung tuyên truyền vào lúc biển động ngư dân
không ra khơi hoặc ngày lễ, tết. Đặc biệt phải xây dựng được mối quan hệ chặt chẽ giữa
ngành thuế với chính quyền địa phương, công an biên phòng như: đồn công an biên
phòng không cho tàu thuyền đánh bắt ra khơi khi không nộp thuế. Vấn đề có tính cấp
thiết hiện nay là phải tiến hành rà xét, đối chiếu, phân tích, phân loại tàu thuyền đánh bắt
hiện có trên địa bàn thuộc tỉnh quản lý để đưa vào diện thu thuế. Nghiên cứu xây dựng
mức sản lượng hải sản các loại khoán khai thác trong năm căn cứ vào công suất của tàu
thuyền, giá tính thuế hải sản bình quân, tỷ lệ GTGT, tỷ lệ TNCT đảm bảo tính dân chủ,
công khai, công bằng và ổn định trong thời gian khoảng 1 năm. Ngoài ra, để tạo động lực
khuyến khích tăng thu, Bộ Tài chính hoặc UBND tỉnh cần phải quy định chế độ sử dụng
nguồn thu một cách thỏa đáng có phân biệt những vùng thu đặc biệt khó khăn, số thuế
thu được nên chăng để lại một tỷ lệ % nhằm hỗ trợ công tác quản lý thu thuế và khen
thưởng cho các tổ chức, cá nhân.
- Hoạt động XDCB
+ Đối với hoạt động xây dựng công trình nhà nước:
Các công trình được ký kết trên cơ sở đấu thầu, giá xây dựng phải được xác định
trên cơ sở bên giao thầu thanh toán theo tiến độ hợp đồng. Số tiền ứng theo hợp đồng
phải được coi là doanh thu của bên xây dựng và phải được kê khai, tính thuế và nộp thuế
kịp thời, không nhất thiết phải có đầy đủ khối lượng hạng mục công trình hoàn thành bàn
giao từng phần hay phiếu giá công trình có xác nhận của hai bên. Khi có biên bản bàn
giao khối lượng hay ứng vốn công trình, bên nhận thầu bắt buộc phải xuất hóa đơn
GTGT cho bên giao thầu. Các cơ quan có thẩm quyền khi duyệt hồ sơ khối lượng đều
phải coi hóa đơn GTGT là một chứng từ bắt buộc không thể thiếu được, có như vậy mới
giúp cho cơ quan thuế quản lý chặt chẽ được doanh thu đối với doanh nghiệp xây lắp;
hoặc Tổng cục Thuế ban hành phiếu giá công trình xây dựng cơ bản, lắp đặt thay cho hóa
đơn làm cơ sở để kê khai nộp thuế.
+ Về hoạt động bán thầu và nhượng thầu:
Thời gian qua tính chất và quy mô của hoạt động xây dựng cơ bản có nhiều thay
đổi, việc bán thầu hay nhượng thầu tương đối phổ biến trong quá trình thi công. Tuy
nhiên, việc hạch toán doanh thu đối với các hoạt động trên vẫn chưa thống nhất, nhiều
doanh nghiệp ký toàn bộ công trình nhưng chỉ hạch toán phần gói thầu do mình thi công
phần nhượng lại cho nhà thầu phụ không được phản ánh vào doanh thu nhà thầu chính.
Một số nhà thầu phụ thực hiện các gói thầu nhỏ, lẽ lại cho rằng việc kê khai thuế GTGT
và TNDN là do nhà thầu chính cho nên nhà thầu phụ không có nghĩa vụ gì với NSNN.
Doanh thu nhượng thầu hay bán thầu theo tỷ lệ % được coi là một khoản thu nhập tài
chính (không kê khai thuế) hoặc có thể coi là một khoản doanh thu xây lắp và kê khai
nộp thuế theo thuế suất của hoạt động xây lắp. Do vậy, ở trường hợp này để hạn chế sự
thất thu thuế nên chăng cần quy định như sau: trường hợp doanh nghiệp xây lắp nhận
thầu một công trình nhưng vì lý do khách quan hoặc chủ quan nào đó không thực hiện mà
nhượng lại một phần hay toàn bộ công trình, thì phần chênh lệch doanh thu do nhượng lại
phải được xem là hoạt động môi giới và tiền thuế nộp ngân sách được kê khai thuế theo
thuế suất của hoạt động môi giới. Trường hợp doanh nghiệp ký nhận công trình, nhưng
phần nguyên vật liệu do chủ đầu tư cung cấp thì bên xây dựng vẫn phải kê khai thuế đầy
đủ giá trị công trình và phần vật tư bên chủ thầu cấp được coi như đầu vào của giá trị
công trình và được khấu trừ thuế, có như vậy mới buộc bên cung cấp vật tư phải kê khai
thuế GTGT theo đúng quy định.
+ Đối với xây dựng nhà ở tư nhân:
Đây là loại hình kinh doanh rất khó quản lý và rất khó phân biệt trường hợp nào
có bao thầu hoặc không có bao thầu. Hơn nữa, cá nhân nhận thầu xây dựng hầu hết là
thân quen với chủ nhà, họ có nhiều kinh nghiệm thực tế, có tay nghề cao được chủ nhà
tin cậy nhưng các cá nhân này lại không đăng ký kinh doanh và theo đó họ không kê khai
nộp thuế. Do vậy, để hạn chế thất thu thuế cần thiết phải có quy định của cơ quan có
thẩm quyền hoặc cơ quan chức năng, yêu cầu bên chủ nhà khi hợp đồng giao thầu phải có
trách nhiệm yêu cầu tổ chức hay cá nhân nhận thầu đến cơ quan thuế nơi có nhà ở xây
dựng để kê khai nộp thuế. Nếu công trình hoàn thành mà chưa nộp thuế và chủ công trình
nhà ở không cung cấp các tài liệu theo yêu cầu của cơ quan thuế để truy thu thuế, thì chủ
công trình nhà ở phải nộp thuế thay cho tổ chức, cá nhân nhận thầu. Để có cơ sở làm căn
cứ tính thuế văn bản ban hành phải quy định rõ giá tính thuế đối với từng cấp nhà, hạng
nhà và đây cũng là cơ sở để xác định tiền thuế trong trường hợp bên nhận thầu không ký
hợp đồng hoặc không cung cấp hợp đồng hoặc có hợp đồng nhưng giá ghi trong hợp
đồng không phù hợp với giá thực tế xây dựng.
- Đối với hoạt động thu thuế nợ đọng
Nhằm tăng cường quản lý và chống thất thu NSNN, đồng thời để quản lý tốt
nguồn thu, thúc đẩy nhanh tiến độ thu, hạn chế tình trạng cơ sở sản xuất kinh doanh dây
dưa nợ đọng tiền thuế, Cục thuế cần thiết tham mưu cho UBND tỉnh về việc thu tiền thuế
thông qua ngân hàng. Cụ thể: các Chi nhánh ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan thuế trong việc trích tiền từ tài khoản tiền gởi của cơ sở
kinh doanh để nộp thuế, nộp phạt vào NSNN theo quyết định xử lý về thuế của cơ quan
thuế hoặc cơ quan có thẩm quyền trước khi thu hồi nợ theo quy định của các luật thuế;
chỉ đạo các ngân hàng cấp huyện phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế địa phương triển
khai biện pháp thu nợ bằng Lệnh thu ngân sách. Trường hợp số dư trên tài khoản của cơ
sở sản xuất kinh doanh không đủ để thực hiện lệnh thu ngân sách thì ngân hàng hồi báo
kịp thời cho cơ quan thuế về số dư trên tài khoản để làm thủ tục trích toàn bộ số tiền hiện
có vào NSNN và tiếp tục theo dõi để làm Lệnh thu tiếp theo khi tài khoản có phát sinh
(có số dư) mà đơn vị chưa nộp; nếu trong tháng các ngân hàng không thể thực hiện được
Lệnh thu do tài khoản của đơn vị không có số dư thì phải thông báo kịp thời cho cơ quan
thuế để có biện pháp phối hợp xử lý.
* Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế khu vực
KTNQD
Thứ nhất, trong tuyển dụng cán bộ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
Theo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2001 - 2005 ở Đại hội Đảng lần thứ IX, cải cách hành chính là một công việc quan
trọng quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Tổ chức bộ máy Nhà nước theo
hướng tinh gọn, trong sạch, có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ nhân dân. Trong bối
cảnh đó, để đảm bảo yêu cầu ngày càng cao của bộ máy quản lý thu thuế nhằm tăng
cường năng lực cho đội ngũ cán bộ thuế cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm của
công chức thuế trong quá trình thi hành công vụ ngành thuế cần thiết cũng phải có những
cải cách phù hợp về công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ,
công chức ngành thuế, cụ thể:
Công tác thuế là công tác mang tính kinh tế - chính trị - xã hội tổng hợp, vì vậy
cán bộ thuế một mặt phải là người am hiểu sâu về các chính sách tài chính, kế toán, các
luật thuế, Pháp lệnh thuế đồng thời phải là người am hiểu các chính sách xã hội. Mặt
khác, cũng cần phải có khả năng tuyên truyền, vận động quần chúng, bên cạnh đó phải là
người có bản lĩnh kiên định vững vàng. Do đó, để có đội ngũ công chức thuế tốt, đủ tư
cách đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác thuế không gây lãng phí cho xã
hội, ngành thuế đã đến lúc cần có một cơ sở đào tạo riêng, không phải chỉ đào tạo mới mà
còn đào tạo lại, bồi dưỡng, tập huấn, phổ biến kinh nghiệm, một trung tâm chuyên ngành
có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu thực tiễn của công tác thuế. Muốn có được đội
ngũ công chức đủ đảm đương công tác thuế trong thời gian tới, công tác tổ chức cán bộ
hàng năm trên cơ sở cân đối tổng thể cả nước sẽ có chỉ tiêu tuyển dụng để đào tạo thay
thế. Vì yêu cầu của mỗi công chức thuế rất cao đòi hỏi phải nắm vững nhiều kiến thức và
có năng lực, có sức khỏe nên nhất thiết phải qua sơ tuyển. Nội dung đào tạo nhất thiết
phải có các giảng viên là cán bộ thuế có trình độ và kinh nghiệm truyền đạt và phải có
nhiều kiến thức thực hành,... khi ra trường nếu đủ yêu cầu sẽ được tuyển dụng chính thức
vào các vị trí đã được cân đối từ trước. Việc đào tạo có địa chỉ sẽ tạo nên khí thế tự học
tập, tự rèn luyện cho mỗi học sinh, sinh viên mà từ đây chất lượng đội ngũ cán bộ sẽ
được nâng cao.
Đối với một số cán bộ không được đào tạo đúng chuyên ngành thì hàng năm phải
có kế hoạch bồi dưỡng tập trung để nâng cao chất lượng cán bộ; còn bộ phận cán bộ thuế
có chức danh như: thanh tra viên thuế, kiểm soát viên thuế,... thì nhất thiết hàng năm phải
được tập huấn nghiệp vụ đồng thời phổ cập kiến thức quản lý mới, học tập trao dồi thêm
kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn. Luôn coi trọng công tác giáo dục tư
tưởng, thường xuyên rèn luyện phẩm chất "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" có như
vậy mới có đủ đội ngũ cán bộ có đức, có tài đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế trong tình
hình mới.
Để đánh giá công tác cán bộ hàng năm, từ đó có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng phù hợp, có thể dựa vào tiêu chuẩn để phân biệt phẩm chất và năng lực của
một cán bộ thuế thông qua tinh thần phục vụ các đối tượng nộp thuế như sau:
Bảng 2.12:
Cán bộ thuế yếu kém Cán bộ thuế giỏi
1. Bắt buộc và ra lệnh 1. Chỉ dẫn và tư vấn
2. Dựa trên quyền hành của mình 2. Dựa trên lòng tin cậy và thiện chí của đối tượng
nộp thuế (ĐTNT)
3. Gây sự sợ hãi cho ĐTNT 3. Làm cho ĐTNT phấn khởi
4. Thường dùng chữ "Tôi" 4. Thường dùng chữ "chúng ta"
5. Đỗ lỗi cho người khác 5. Giải quyết khó khăn hiện có
6. Nói với ĐTNT
- Hãy đóng thuế đi
- Hãy khai thuế đi
6. Nói với ĐTNT
- Chúng tôi sẽ chỉ dẫn cho Ông (Bà) khai thuế
- Ông (Bà) vui lòng nộp thuế để xây dựng đất
nước
Nguồn: [6, tr. 41].
Thứ hai, về chính sách chế độ.
- Về thuế môn bài: Mức thuế Môn bài hiện hành đang áp dụng được thực hiện
theo Nghị định số 52/CP ngày 9/9/1996 của Chính phủ về điều chỉnh mức thuế Môn bài.
Theo nghị định này mức thuế Môn bài gồm 6 mức là 850.000đ, 550.000đ, 325.000đ,
165.000đ, 60.000đ và 25.000đ...[7]. Căn cứ vào Nghị định của Chính phủ, Bộ Tài chính
đã ban hành Thông tư hướng dẫn trong đó quy định: Các tổ chức kinh tế hạch toán kế
toán độc lập nộp chung một mức thuế 850.000 đ/năm; các cơ sở kinh doanh hạch toán
phụ thuộc nộp chung một mức thuế 550.000 đ/năm; hộ kinh doanh cá thể nộp thuế căn cứ
vào thu nhập kinh doanh bình quân tháng, nếu thu nhập bình quân tháng trên 1.250.000 đ
nộp mức thuế là 850.000 đ/năm, nếu thu nhập dưới mức lương tối thiểu của cán bộ công
nhân viên chức (khi đó là 144.000 đ) nộp thuế là 25.000 đ. Cho đến nay tình hình kinh tế -
xã hội đã có nhiều biến đổi nên chế độ thuế môn bài đã có nhiều nhược điểm: có sự phân
biệt giữa các tổ chức kinh tế với hộ kinh doanh cá thể, các mức thuế có sự chênh lệch
cao, thu nhập làm căn cứ tính thuế cũng chưa phù hợp vì tổ chức kinh tế thu nhập hàng tỷ
đồng hoặc cao hơn cũng chỉ nộp mức thuế Môn bài 850.000 đ/năm, trong khi hộ cá thể
thu nhập 15.000.000đ/năm cũng phải nộp mức thuế Môn bài 850.000 đ/năm. Chính sách
thuế Môn bài chưa điều tiết mạnh ở những ngành nghề, hoạt động có thu nhập cao, chưa
có chế độ ưu đãi cho cơ sở sản xuất kinh doanh ở những vùng có khó khăn, vùng sâu,
vùng xa, nghề đánh bắt hải sản, sản xuất muối,... Để hoàn thiện chính sách thuế một cách
đồng bộ cần phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi chính sách thuế Môn bài cho phù hợp với
điều kiện mới theo hướng tích cực. Xóa bỏ sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế đảm
bảo người có thu nhập cao nộp thuế cao hoặc ngược lại, người kinh doanh không đảm
bảo mức sống tối thiểu thì được miễn giảm thuế. Có như vậy chính sách thuế mới đi vào
cuộc sống.
- Thuế GTGT:
Sau hơn 3 năm thực hiện, những vướng mắc cần giải quyết vẫn xoay quanh các
nội dung sau: hoàn thuế GTGT, hệ thống chứng từ hóa đơn và những quy định sử dụng
phù hợp, điều chỉnh mức thuế suất, những quy định khấu trừ cá biệt và khấu trừ khống,...
cần thiết phải sửa đổi nhanh để tạo thuận lợi hơn cho đối tượng nộp thuế, đồng thời nâng
cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế. Bởi lẽ, trong những năm qua các tổ chức đã sử
dụng những sơ hở trên chứng từ hóa đơn để moi tiền Nhà nước từ quá trình hoàn thuế, có
thể liệt kê điển hình như sau: Hợp tác xã thương mại và dịch vụ Vạn Lợi (An Giang) chỉ
có mỗi việc nhẹ tênh là bán hóa đơn cho các công ty chế biến để lập hồ sơ hoàn thuế lên
tới 26,5 tỷ đồng; Công ty xuất nhập khẩu Hà Nam - Chi nhánh Hà Nội cũng hình thức
trên đã được hoàn thuế 17 tỷ đồng; Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn tinh dầu Hà
Nội cũng vẽ ra con số 39.000 tấn tinh dầu (số lượng mà vét cả nước cũng không có được)
để xuất khẩu để được hoàn thuế 7,2 tỷ đồng;..... Ngoài ra, một thực tế khác nhiều doanh
nghiệp thành lập ra cũng để chỉ kinh doanh hóa đơn. Thành phố Hồ Chí Minh hiện có
khoảng 1.500 doanh nghiệp mất tích, con số này ở Hà Nội là 1.000 doanh nghiệp. Vì vậy
nên trong 3 năm thực hiện Luật thuế GTGT tổng số tiền được đề nghị hoàn là 15.600 tỷ
đồng nhưng số thực hoàn chỉ khoảng 11.000 tỷ đồng trong đó số tiền chiếm đoạt hơn 1%
[31, tr. 3].
- Thuế TNDN: Mức độ động viên 32% đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh của
Việt Nam là cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Trong thời gian đến
cần ban hành mức thuế suất phù hợp để doanh nghiệp có điều kiện tăng phần lợi nhuận
để lại tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Đối với thuế TNDN bổ sung cũng cần phải
nghiên cứu để quy định phù hợp, vì để có được địa điểm kinh doanh thuận lợi, ngành
nghề kinh doanh ít bị cạnh tranh, doanh nghiệp phải đầu tư nhiều vốn cho sản xuất kinh
doanh sản phẩm mới, tập trung nhiều công sức để có được sự nhạy bén trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, có tầm nhìn chiến lược trong kinh doanh, nên nếu đã nộp thuế suất
thuế TNDN 32%, ngoài ra còn phải nộp thuế TNDN bổ sung 25% trên phần thu nhập còn
lại sau khi nộp thuế TNDN theo thuế suất ổn định vượt 20% vốn chủ sở hữu có thể sẽ
làm triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh, kìm hãm sản xuất, không kích thích sự phát
triển và tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
- Thuế TTĐB: Mở rộng diện chịu thuế TTĐB, thực hiện thống nhất với thuế
GTGT, khuyến khích xuất khẩu, hạn chế và xóa bỏ các trường hợp giảm thuế TTĐB.
- Nhà nước cần có chính sách tiền lương phù hợp đối với cán bộ, công chức
ngành thuế, có thể tiền lương cao hơn các ngành khác và hình thức kỷ luật đối với những
cán bộ, công chức có hiện tượng tham những, tiêu cực cũng nghiêm khắc hơn. Có chính
sách hỗ trợ đối với cán bộ, công chức làm công tác ở các phòng tư vấn thuế, phòng tuyên
truyền thuế. Có kinh phí sử dụng cho hoạt động tuyên truyền, giáo dục ở một mức nhất
định, sẽ làm tiêu tốn của ngân sách một khoản không nhỏ nhưng bù lại là ở tương lai
trình độ dân trí được nâng cao, hiệu quả quản lý ngày càng tốt hơn không phải chỉ riêng
ngành thuế mà cả xã hội. Đối với những cơ sở có số thuế hàng năm vượt dự toán đầu
năm có thể quy định một mức thưởng phù hợp bằng một tỷ lệ % trên số thuế vượt dự
toán, sẽ kích thích cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn, thực
hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế, đây là một trong những nội dung bồi dưỡng nguồn thu thuế.
Đối với thủ tục nộp thuế qua Kho bạc đối với hộ kinh doanh hiện nay rất rườm rà, ngoài
thông báo nộp thuế của cơ quan thuế, hộ kinh doanh còn phải tự viết giấy nộp tiền 5 liên
gây rất nhiều khó khăn nhất là đối với những hộ kinh doanh có trình độ kế toán yếu và
trình độ văn hóa thấp. Đề nghị Tổng cục Thuế nghiên cứu xây dựng chương trình quản lý
thu thuế trên máy vi tính theo hướng căn cứ số tiền, chương, loại, mục, tiểu mục theo
mục lục ngân sách ghi trên thông báo nộp thuế, Kho bạc nhập dữ liệu, in chứng từ nộp
tiền để lưu giữ, hồi báo cho cơ quan thuế và giao cho người nộp tiền.
kết luận
Đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong những năm qua đã có
tác động tích cực thúc đẩy, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh
doanh đúng hướng, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn,
xóa được đói, giảm được nghèo. Đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp ban hành, các thủ tục
hành chính được cải tiến đơn giản hơn tạo ra sự thông thoáng, từ đó các thành phần kinh
tế phát triển mạnh, đặc biệt là các cơ sở KTNQD phát triển nhanh chóng, đa dạng và
phong phú góp phần tạo nhiều sản phẩm hàng hóa dịch vụ phục vụ nhân dân, thu hút
hàng vạn lao động có việc làm, ổn định thu nhập đóng góp một phần đáng kể cho NSNN.
Tuy nhiên, bên cạnh quá trình phát triển thì việc thực hiện nghĩa vụ với NSNN của các cơ
sở thuộc khu vực KTNQD chưa sát đúng với tình hình hoạt động của cơ sở theo pháp luật
hiện hành, do đó dẫn đến sự mất công bằng trong động viên tiền thuế ở tất cả các thành
phần kinh tế, hiện tượng thất thu thuế còn nhiều. Cho nên tăng cường và hoàn thiện quản
lý thu thuế ở khu vực KTNQD là điều cần thiết trong tiến trình cải cách thuế hiện nay.
Với 3 chương thể hiện đề tài nghiên cứu, luận văn "Quản lý thu thuế ngoài quốc
doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi - Thực trạng và giải pháp" đã đi sâu phân tích và
giải quyết một số nội dung cơ bản sau:
1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thuế và sự tồn tại phát triển tất yếu của
KTNQD.
2. Phân tích thực trạng công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi trong những năm 1999 - 2000 - 2001. Những nguyên nhân tồn tại trong quản lý thu
thuế, biện pháp khắc phục, từ đó rút ra những nguyên nhân chủ yếu tác động đến quản lý
thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua.
3. Luận văn đã phân tích những quan điểm mang tính chiến lược của Đảng và
Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và quan điểm về động viên
đóng góp bình đẳng, công bằng về thuế bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành
phần kinh tế.
4. Trên cơ sở nguyên nhân của những thực trạng quản lý thu thuế NQD cả nước nói
chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, luận văn đã đề xuất 7 giải pháp nhằm tăng cường và
hoàn thiện công tác quản lý thu thuế NQD trong giai đoạn hiện nay, hạn chế sự thất thu
về thuế ở khu vực này trong thời gian đến.
5. Qua nghiên cứu thực tiễn công tác quản lý thu thuế và chính sách chế độ hiện
hành, luận văn nêu ra 2 kiến nghị với mục đích tăng cường công tác quản lý thu thuế
trong giai đoạn mới hiện nay và những vấn đề còn chưa hợp lý ở các sắc thuế cũng như
những nhân tố tác động đến việc bồi dưỡng nguồn thu.
Do điều kiện và thời gian nghiên cứu hạn hẹp cũng như những hạn chế nhất định
về khách quan lẫn chủ quan, luận văn khó tránh khỏi những sai sót nhất định và đủ khả
năng đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu đặt ra trong quản lý thu thuế khu vực KTNQD.
Tác giả mong nhận được nhiều đóng góp của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, quý
Thầy, Cô giáo và cán bộ, công chức ngành thuế - những người rất giàu kiến thức thực
tiễn, cũng như bạn bè đồng nghiệp, với hy vọng có thể đóng góp được một số giải pháp
trong quản lý thu thuế ở khu vực KTNQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có hiệu quả thiết
thực. Qua đó góp phần đảm bảo hệ thống thuế có thể phục vụ ngày càng tốt hơn trong
phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (1998), Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 hướng dẫn thi
hành Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật thuế Giá trị gia tăng, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (1998), Thông tư số 99/1998/TT-BTC ngày 14/7/1998 hướng dẫn thi
hành Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp,
Hà Nội.
3. Bộ Tài chính (2000), Thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 hướng dẫn thi
hành Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật thuế Giá trị gia tăng, Hà Nội.
4. Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 18/2002/TT-BTC ngày 20/2/2002 hướng dẫn thi
hành Nghị định số 26/2001/NĐ-CP ngày 4/6/2001 của Chính phủ và Nghị định
số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp, Hà Nội.
5. Bộ Tài chính - Tổng cục Thuế (2001), Thuế Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, tập II,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Lê Văn Chấn (2001), "Cùng trao đổi về việc xử lý quan hệ giữa cán bộ thuế và đối
tượng nộp thuế", Thuế Nhà nước, (6), tr. 41.
7. Chính phủ (1996), Nghị định 52/NĐ-CP Chính phủ ban hành ngày 9/9/1996.
8. Chính phủ (1998), Nghị định số 28/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế
Giá trị gia tăng ngày 11/5/1998, Hà Nội.
9. Chính phủ (1998), Nghị định số 30/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế
Thu nhập doanh nghiệp ngày 13/5/1998, Hà Nội.
10. Chính phủ (2000), Nghị định số 79/2000/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế
Giá trị gia tăng ngày 11/5/1998, Hà Nội.
11. Chính phủ (2001), Nghị định số 26/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế
Thu nhập doanh nghiệp ngày 4/6/2001, Hà Nội.
12. PGS.PTS Ngô Thế Chi - PTS Vũ Công Ty (1999), Hướng dẫn thực hành thuế và kế
toán thuế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
13. Cục thống kê Quảng Ngãi (1996), Niên giám thống kê 1991 - 1995, Công ty in Thống
kê và sản xuất bao bì Huế, Huế.
14. Cục thống kê Quảng Ngãi (2001), Niên giám thống kê 1996 - 2000, Công ty in Thống
kê và sản xuất bao bì Huế, Huế.
15. Cục thuế Quảng Ngãi (2000), Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 1999, Quảng
Ngãi.
16. Cục thuế Quảng Ngãi (2001), Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 2000, Quảng
Ngãi.
17. Cục thuế Quảng Ngãi (2001), Báo cáo chuyên đề: Biện pháp quản lý thu thuế đối với
cơ sở kinh doanh NQD năm 2000 và 6 tháng đầu năm 2001, Quảng Ngãi.
18. Cục thuế Quảng Ngãi (2002), Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 2001, Quảng
Ngãi.
19. Cục thuế Quảng Ngãi (2002), Báo cáo tình hình kết quả triển khai công tác 6 tháng đầu
năm 2002; nhiệm vụ, biện pháp 6 tháng cuối năm 2002, Quảng Ngãi.
20. Đảng bộ Tỉnh Quảng Ngãi (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng
Ngãi lần thứ XVI, Xí nghiệp in Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Sinh Hùng (Bộ trưởng Bộ Tài chính) (2002), "Các doanh nghiệp kinh doanh
có hiệu quả và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế - cần được tôn vinh", Thuế Nhà
nước, (2), tr. 4.
23. Mác - Ăngghen (1962), tập 1, Nxb Sự thật Hà Nội.
24. Mác - Ăngghen (1962), tập 2, Nxb Sự thật Hà Nội.
25. Đào Duy Quát (2000), "Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng nhằm thực hiện thắng
lợi các luật thuế mới", Thuế Nhà nước, (5), tr. 1.
26. Huỳnh Huy Quế (2000), "Thuế trong thời kỳ đổi mới", Tài chính, tr. 10-12.
27. Quốc hội (1997), Luật thuế Giá trị gia tăng ban hành ngày 10/5/1997.
28. Quốc hội (1997), Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp ban hành ngày 10/5/1997.
29. Thanh Thanh (2002), "Luật quá thoáng", Báo Pháp luật, ngày 13/5, Hà Nội.
30. Vũ Thị Toản (1996), Công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn Hà Nội, Luận văn
thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
31. Trường Đại học Tài chính - Kế toán Hà Nội (2000), Thuế, Nxb Tài chính, Hà Nội.
32. Tổng cục Thuế (2001), Báo cáo công tác quản lý thu thuế đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ NQD, Hà Nội.
33. Tổng cục Thuế (2002), "Công văn số 11218 TC/TCT ngày 22/11/2001 của Bộ Tài
chính về việc tăng cường biện pháp quản lý sử dụng hóa đơn", Thuế Nhà nước,
(1), tr. 39-40.
34. UBND tỉnh Quảng Ngãi (1995), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi
thời kỳ 1996 - 2010, Xí nghiệp in Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
35. Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
phụ lục
Phụ lục 1: Kết quả thu ngân sách năm 1999 - phân theo sắc thuế.
Phụ lục 2: Kết quả thu ngân sách năm 2000 - phân theo sắc thuế.
Phụ lục 3: Kết quả thu ngân sách năm 2001 - phân theo sắc thuế.
MụC LụC
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thuế và quản lý thu thuế
ngoài quốc doanh
5
1.1. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế nước ta hiện nay 5
1.2. Đặc điểm của quản lý thu thuế ngoài quốc doanh 15
1.3. Kinh nghiệm quản lý thu thuế ngoài quốc doanh ở một số nước 36
Chương 2: thực trạng quản lý thu thuế ngoài quốc doanh
trên địa bàn tỉnh quảng ngãi
39
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh quảng ngãi 39
2.2. Thực trạng kinh tế ngoài quốc doanh và quản lý thu thuế ngoài
quốc doanh địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong những năm 1999 -
2001
41
Chương 3: quan điểm, giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế
ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh quảng ngãi
74
3.1. Một số quan điểm cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý thu thuế
ngoài quốc doanh
74
3.2. Giải pháp về tăng cường quản lý thu thuế đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh
80
Kết luận 114
danh mục tài liệu tham khảo 116
phụ lục 119
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi - Thực trạng và giải pháp.pdf