Trong nền kinh tế tự do hoá thương mại, sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng phụ
thuộc vào năng lực tài chính và khả năng kinh doanh của mình. Hơn nữa, ngành ngân hàng
là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng
của rất nhiều loại rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi
nhưng mức độ rủi ro làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và hiệu quả của hoạt động bảo
đảm tiền vay như thế nào lại phụ thuộc vào chính khả năng ngăn ngừa và biện pháp khắc
phục của mỗi ngân hàng. Một giải pháp hữu hiệu đặt ra trong trường hợp này là sử dụng bảo
đảm tiền vay. Tuy nhiên hiệu quả của đảm bảo lại phụ thuộc rất nhiều vào các quy định của
pháp luật về bảo đảm tiền vay và cách thực hiện vận dụng các quy định đó vào thực tế như
thế nào.
107 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2803 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quy chế pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp & Phát triển nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iết một trong những hạn
chế của chi nhánh là việc định giá tài sản bảo đảm chủ yếu dựa vào sự đánh giá chủ quan
của các cán bộ tín dụng, nên tính chính xác còn hạn chế, nếu gặp rủi ro thì giá trị thanh lý
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 86 Luật Kinh Doanh 45
của tài sản bảo đảm có thể không đủ thu hồi nợ gốc và lãi. Do vậy, chi nhánh cần chú trọng
nhiều đến việc định giá tài sản bảo đảm bằng việc: xây dựng một số tiêu thức định giá tài sản
bảo đảm dựa trên những thông tin xác thực có căn cứ khoa học, lập ra hội đồng định giá tài
sản bảo đảm để có quyết định chính xác hơn, công tác thu thập thông tin về tài sản bảo đảm
phải nhanh và chính xác, phải dự tính được mức độ rủi ro để xác định giá trị của tài sản bảo
đảm.
- Thứ hai, chi nhánh cần đa dạng hoá các tài sản bảo đảm. Trong môi trường cạnh tranh
hiện nay, nhu cầu vốn của khách hàng là rất lớn nhưng thị trường vốn cũng rất sẵn để cho
vay đối với những khách hàng đủ điều kiện. Do vậy, để khách hàng dễ tiếp cận với chi
nhánh khi có nhu cầu vay vốn, trước hết danh mục tài sản bảo đảm của chi nhánh cần phong
phú, phù hợp với khả năng của khách hàng trên cơ sở những quy định của pháp luật.
- Thứ ba, chi nhánh phải thường xuyên đánh giá lại giá trị của tài sản bảo đảm. Do giá trị
tài sản bảo đảm chính là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng, nên sự biến động giá trị của tài
sản bảo đảm có ảnh hưởng rất lớn đến sự an toàn của khoản vay. Với sự phát triển bùng nổ
của nền kinh tế như hiện nay, giá trị các tài sản có sự biến động rất lớn theo từng thời điểm,
một số tài sản lại có sự hao mòn vô hình, khó xác định được mức khấu hao, gây khó khăn
cho việc định giá. Do đó, chi nhánh phải thường xuyên đánh giá lại tài sản bảo đảm để xác
định được giá trị thực tế của tài sản mà mình đang nắm giữ, để đề xuất những giải pháp thích
hợp nhằm hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra.
- Thứ tư, chi nhánh cần nâng cao hiệu quả công tác xử lý tài sản bảo đảm. Khi đến hạn mà
khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với
TCTD thì tài sản bảo đảm tiền vay được xử lý để thu hồi nợ. Tuy nhiên trên thực tế việc xử
lý tài sản gặp rất nhiều khó khăn, liên quan đến nhiều tổ chức cũng như được sự điều chỉnh
của nhiều văn bản pháp luật. Nhiều trường hợp công tác xử lý tài sản bảo đảm gặp khó khăn
về thủ tục pháp lý, hoặc chủ tài sản không chịu giao tài sản cho ngân hàng xử lý như đã cam
kết, ngân hàng không được sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng trong việc thu hồi tài sản
bảo đảm… Bên cạnh đó việc phát mại tài sản có khi phải tốn rất nhiều chi phí, có khi không
có thị trường tiêu thụ làm giảm giá trị tài sản bảo đảm, không đủ bù đắp giá trị khoản vay.
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 87 Luật Kinh Doanh 45
Do đó chi nhánh cần phải thực hiện tốt khâu xử lý tài sản bảo đảm thì mới đạt mục đích của
bảo đảm tiền vay.
3.2.2. Đối với cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
Tại chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ, hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản hiện nay chiếm tỷ trọng rất lớn (trên 50%), đây là hình thức cấp tín dụng có tỷ lệ rủi ro
cao. Do vậy để khoản vay cấp cho khách hàng trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản
trở về với ngân hàng một cách an toàn, thì chi nhánh cần thực hiện các giải pháp sau:
- Thứ nhất, chi nhánh lựa chọn khách hàng thích hợp để cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản. Bất cứ ngân hàng nào khi quyết định cho khách hàng vay vốn không có bảo đảm
bằng tài sản bằng tài sản cũng cân nhắc rất kỹ, vì nó tiềm ẩn rủi ro rất cao. Nhưng không
phải với khách hàng nào ngân hàng cũng yêu cầu phải có tài sản bảo đảm thì mới cho vay, vì
nếu áp dụng quá cứng nhắc nguyên tắc này có thể dẫn đến tình trạng đông cứng vốn của
ngân hàng, và ngân hàng mất đi những khách hàng tiềm năng. Tại chi nhánh, tỷ lệ này chiếm
phần lớn nhưng chủ yếu là cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước, cho vay theo chỉ định
của Chính phủ, các thành phần khác hầu như không được áp dụng biện pháp này. Do vậy để
phát triển bền vững trong dài hạn, chi nhánh cần có sự điều chỉnh giảm dần tỷ lệ cho vay đối
với các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời tăng dần tỷ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh có uy tín trên thị trường và kinh doanh có hiệu quả. Để thực hiện được
điều này thì chi nhánh Láng Hạ cần phải xây dựng được hệ thống chỉ tiêu đánh giá, phân
loại khách hàng cụ thể, phù hợp với tính chất hoạt động của chi nhánh. Chi nhánh có thể
tham khảo cuốn “sổ tay tín dụng NHNN & PTNT Việt Nam”, đây được coi là cẩm nang tín
dụng hướng dẫn cho cán bộ tín dụng thực hiện các khâu trong quá trình cho khách hàng vay
khá đầy đủ và chi tiết. Từ đó có thể quyết định xem loại khách hàng nào có thể được xem
xét để áp dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
- Thứ hai, chi nhánh cần nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, bên bảo lãnh của cán
bộ tín dụng. Theo quy trình bảo đảm tiền vay, thẩm định khách hàng là khâu đầu tiên. Để
biết được thông tin mà khách hàng cung cấp có xác thực hay không, ngân hàng cần thiết
phải thẩm định khách hàng. Thẩm định khách hàng đó là việc thu thập các thông tin về năng
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 88 Luật Kinh Doanh 45
lực tài chính của khách hàng, năng lực dân sự, tư cách đạo đức, các mối quan hệ của khách
hàng với đối tác, bạn hàng… để từ đó ngân hàng có thể phân loại được khách hàng chính
xác hơn, ra quyết định hạn mức cho vay là bao nhiêu, nên áp dụng hình thức bảo đảm tiền
vay nào trên cơ sở đã dự tính mức rủi ro của tài sản bảo đảm…Để làm được điều này, chi
nhánh cần có chính sách trọng dụng những cán bộ tín dụng đủ tài năng chuyên môn, có kinh
nghiệm và có đạo đức để có thể xử lý thông tin một cách nhanh nhạy và chính xác.
Bên cạnh đó chi nhánh cần phải thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng thêm
nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng của chi nhánh. Đồng thời, trong gian đoạn
hiện nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, việc ứng dụng các công nghệ vào nghiệp
vụ ngân hàng đã làm đơn giản đi rất nhiều các thủ tục rườm rà, phức tạp kết nối giữa khách
hàng và ngân hàng một cách trực tiếp với chi phí thấp nhất. Việc đổi mới công nghệ ngân
hàng không những nâng cao chất lượng quản lý nội bộ ngân hàng, chất lượng dịch vụ của
ngân hàng mà còn giúp cho ngân hàng có thể kiểm tra, giám sát, rà soát, quản lý các loại tài
sản bảo đảm, xác nhận thông tin khách hàng một cách nhanh chóng nhất. Như vậy, với sự
giúp đỡ của công nghệ thông tin, việc cập nhật các phần mềm ứng dụng mới trong quản lý
ngân hàng, triển khai áp dụng một cách đồng bộ, thống nhất, giúp toàn bộ hoạt động của chi
nhánh được thông suốt, nhanh chóng và an toàn hiệu quả…
II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay tại chi nhánh
NHNN & PTNT Láng Hạ.
1. Kiến nghị với Nhà nước, các bộ ngành.
Trên cơ sở tìm hiểu những mặt đã làm được và những tồn tại cần khắc phục trong hoạt
động bảo đảm tiền vay của một chi nhánh trong hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam, em xin
mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước và các bộ ngành nhằm hoàn thiện hoạt
động bảo đảm tiền vay như sau:
Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, bảo đảm tính đầy
đủ, thống nhất và nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động
bảo đảm tiền vay của ngân hàng.
Từ trước đến nay các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay luôn được xây dựng dựa
trên cơ sở những quy định hiện hành của pháp luật dân sự như Bộ luật dân sự năm 1995,
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 89 Luật Kinh Doanh 45
pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989… Các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay đã cụ
thể hoá các quy định có liên quan của pháp luật dân sự để áp dụng vào hoạt động đặc thù của
các TCTD. Hiện nay, Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của Chính phủ, Nghị
định 85/2002/NĐ-CP về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 178/1999/NĐ-CP,
Thông tư số 07/2003/TT-NHNN của Ngân hang Nhà nước hướng dẫn thực hiện một số quy
định về bảo đảm tiền vay của các TCTD, Thông tư lien tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-
BCA-BTC-TCĐC hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các
TCTD. Nhìn chung, trong thời gian qua các văn bản pháp luật này đã phát huy tác dụng, tạo
cơ sở pháp lý cho các TCTD mở rộng hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản và bảo
toàn được nguồn vốn cho vay. Tuy nhiên, sau 10 năm thực hiện, Bộ luật dân sự năm 1995 đã
bộc lộ một số bất cập, hạn chế, gây khó khăn cho các chủ thể thực hiện. Theo đó, ngày
14/6/2005, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân
sự để khắc phục những hạn chế, bất cập nói trên. Do vậy, nhiều quy định pháp luật về bảo
đảm tiền vay được xây dựng dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 không
còn phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 nữa. Để các quy định về bảo đảm
tiền vay trong Bộ luật Dân sự năm 2005 phát huy tác dụng, cần thiết phải có sự sửa đổi, bổ
sung các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay đã được đề cập ở trên, đó là:
* Chính phủ, các bộ ngành cần có những quy định mới về điều kiện của tài sản bảo đảm
tiền vay. Theo quy định của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP và thông tư số 07/2003/TT-
NHNN, thì tài sản mà khách hàng vay, bên bảo lãnh dùng để cầm cố, thế chấp, bảo lãnh vay
vốn tại TCTD phải thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng, quản lý của khách hàng
vay, bên bảo lãnh. Đây là những quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay phù hợp với quy
định của Bộ luật Dân sự năm 1995. Theo đó, Nhà nước chỉ giao vốn và tài sản cho doanh
nghiệp quản lý và sử dụng chứ không giao quyền định đoạt, do đó doanh nghiệp Nhà nước
không có quyền sở hữu đối với tài sản do Nhà nước giao. Mặt khác quyền của doanh nghiệp
về thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng phát triển sản xuất kinh doanh cũng bị hạn chế, vì
doanh nghiệp nhà nước chỉ được thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của mình theo
nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Đối với tài sản là toàn bộ dây truyền
công nghệ chính theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật, thì việc thế chấp,
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 90 Luật Kinh Doanh 45
cầm cố tài sản này phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đó đồng ý bằng
văn bản. Tuy nhiên cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định những
tiêu chí xác định tài sản là dây truyền công nghệ chính và cũng chưa có văn bản hướng dẫn
về trình tự, thủ tục xin phép cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước khi thế
chấp, cầm cố dây truyền công nghệ chính. Thực tế, trên cơ sở văn bản đồng ý của cơ quan
chủ quản, ngân hàng mới nhận thế chấp, cầm cố tài sản đó để doanh nghiệp nhà nước vay
vốn sử dụng vào mục đích phát triển sản xuất kinh doanh. Một số trường hợp, khi nhận hồ
sơ xin phép thế chấp, cầm cố dây chuyền, thiết bị của doanh nghiệp nhà nước trực thuộc, cơ
quan chủ quản đã cố tình kéo dài thời gian xem xét hoặc không trả lời bằng văn bản vì cho
rằng chưa có văn bản hướng dẫn về vấn đề này. Do đó, trong một thời gian dài nhiều doanh
nghiệp nhà nước không thể hoàn thiện được thủ tục thế chấp, cầm cố dây chuyền, thiết bị để
vay vốn ngân hàng. Chính vì thế mà trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp Nhà nước
luôn ở trong tinh trạng thiếu vốn để mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh do không vay
được vốn ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp Nhà nước
hoạt động kinh doanh kém hiệu quả hoặc thua lỗ kéo dài. Theo quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2005, thì tài sản thế chấp, cầm cố nhất thiết phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm và được
phép giao dịch. Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 và Nghị định số 199 đã tạo điều kiện
cho các công ty Nhà nước được quyền chủ động sử dụng vốn Nhà nước giao, các loại vốn
khác, các quỹ do công ty Nhà nước quản lý vào hoạt động kinh doanh. Theo đó, tài sản của
doanh nghiệp nhà nước bao gồm tài sản cố định, tài sản lưu động mà công ty Nhà nước có
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt theo quy định của pháp luật. Như vậy, so với Luật
Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995, thì Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 đã quy định
rõ công ty Nhà nước có đủ cả 3 quyền năng đối với tài sản được Nhà nước giao: chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt. Chiếu theo Điều 164 của Bộ luật Dân sự năm 2005, thì quyền sở hữu
bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt; do đó, công ty Nhà nước có quyền sở hữu
đối với tài sản Nhà nước giao. Chính vì vậy, Nghị định số 178 và Thông tư số 07 cần sửa đổi
quy định về điều kiện của tài sản thế chấp, cầm cố cho phù hợp với quy định của Bộ luật
Dân sự năm 2005, Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 và Nghị định số 199/2004/NĐ-
CP.
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 91 Luật Kinh Doanh 45
* Sự cần thiết phải có những quy định mới liên quan đến việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh
bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đã được quy định trong thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 (TTLT số 05). Đó là:
- Theo quy định tại Nghị định 08/2000/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm, thời hạn
hiệu lực của việc đăng ký giao dịch bảo đảm có trị giá 5 năm kể từ ngày đăng ký, trừ trường
hợp các bên có yêu cầu xoá đăng ký trước thời hạn hoặc có yêu cầu đăng ký gia hạn. Thời
hạn hiệu lực của mỗi lần gia hạn đăng ký là 5 năm. Thực tế cho thấy, có những hợp đồng tín
dụng có thời hạn vay vốn trên 5 năm, khi đó sẽ phát sinh các giao dịch bảo đảm với thời hạn
hiệu lực trên 5 năm để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng. Sau 5 năm kể từ
ngày giao dịch bảo đảm có hiệu lực, trong khi hợp đồng tín dụng vẫn còn hiệu lực thì giao
dịch bảo đảm đã hết thời hạn hiệu lực, lúc đó các TCTD và khách hàng sẽ cần phải gia hạn
thời hạn hiệu lực của giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên TTLT số 05 lại không hướng dẫn việc
gia hạn thời hạn hiệu lực của các giao dịch bảo đảm liên quan đến thế chấp, bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Điều này làm cho cả TCTD và cơ quan đăng ký
giao dịch bảo đảm không thể thực hiện việc gia hạn thời hạn hiệu lực của giao dịch bảo đảm.
Thực tế đặt ra hai cách giải quyết vấn đề này đó là TCTD và khách hàng phải tiến hành giải
chấp, ký kết hợp đồng bảo đảm mới và đăng ký giao dịch bảo đảm hay vẫn sử dụng hợp
đồng bảo đảm cũ và tiến hành đăng ký mới. Trong cả hai trường hợp đều tốn thời gian công
sức, thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp tài sản được bảo đảm cho nhiều TCTD cũng
bị thay đổi bất lợi cho TCTD.
- Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định một tài sản có thể được bảo đảm thực hiện nhiều
nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn các nghĩa vụ
được bảo đảm (Điều 323). Giả sử khách hàng vay vốn tại một TCTD với thời hạn dưới 5
năm, nhưng thời hạn hiệu lực của giao dịch bảo đảm vẫn là 5 năm. Sau đó, khách hàng lại
tiếp tục có nhu cầu vay thêm vốn hoặc khách hàng trả hết khoản nợ vay trước và vay lại,
trong khi thời hạn hiệu lực của giao dịch bảo đảm trước vẫn còn, cả TCTD và khách hàng
đều muốn tiếp tục sử dụng giao dịch bảo đảm này để bảo đảm cho các khoản vay lại. Tuy
nhiên TTLT số 05 không quy định về việc bổ sung nghĩa vụ được bảo đảm. Khi đó, khách
hàng và TCTD phải tiến hành thủ tục giải chấp, ký kết hợp đồng bảo đảm mới và đăng ký
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 92 Luật Kinh Doanh 45
giao dịch bảo đảm mới. Do vậy gây mất thời gian công sức, chi phí của khách hàng vay, bên
bảo lãnh và TCTD; đồng thời tăng thêm việc cho phòng công chứng, chứng thực và các
phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
- Theo luật Đất đai năm 2003 (Điều 130) và TTLT số 05, TCTD và khách hàng phải tiến
hành thủ tục đăng ký thế chấp trong thời hạn không quá 5 ngày kể từ ngày ký kết hợp đồng
tín dụng. Tuy nhiên TTLT số 05 lại không hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất hình thành trong tương lai, TCTD và khách hang chỉ có thể đăng ký thế
chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất khi quyền sử dụng đất đã được hình thành và có đầy
đủ các giấy tờ theo quy định. Đến lúc đó, chắc chắn sẽ vi phạm quy định về thời hạn đăng ký
thế chấp, bảo lãnh và sẽ bị phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Đồng thời TCTD
cũng gặp rủi ro mất thứ tự ưu tiên thanh toán từ khi cho vay đến trước khi hoàn thành thủ tục
nhận thế chấp, bảo lãnh và đăng ký thế chấp bảo lãnh nếu khách hàng dùng quyền sử dụng
đất này đi thế chấp, bảo lãnh tại TCTD khác.
- TTLT số 05 quy định trường hợp có sửa chữa sai sót về phần kê khai của người yêu cầu
đăng ký thì giá trị pháp lý của việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh được tính từ thời điểm cơ
quan đăng ký nhận hồ sơ yêu cầu sửa chữa sai sót hợp lệ. Nếu không có quy định cụ thể như
thế nào là sai sót, mà chỉ vì lỗi sai do đánh máy sai lỗi chính tả…rất nhỏ mà giá trị pháp lý
của việc đăng ký tài sản, bảo lãnh chậm có hiệu lực sẽ gây thiệt thòi cho người đăng ký và
cả TCTD trong một số trường hợp cụ thể.
- Tại mẫu số 07/BSTS theo TTLT số 05 hướng dẫn trang bổ sung về tài sản quy định chỉ có
chữ ký của người yêu cầu đăng ký, điều này có thể dẫn đến rủi ro như thông tin kê khai chưa
đầy đủ do lỗi của người yêu cầu đăng ký nhưng bên còn lại không thể kiểm tra được hoặc
người yêu cầu đăng ký tự ý thay đổi thông tin không nằm trong sự kiểm soát của bên còn lại
sẽ dẫn đến hậu quả bất lợi cho bên còn lại.
Như vậy qua các khó khăn vướng mắc nêu trên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần
xem xét, hoàn thiện các quy định về đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài
sản gắn liền với đất cho phù hợp với thực tiễn các giao dịch bảo đảm hiện nay, góp phần
đảm bảo các quyền của người sử dụng đất, có tài sản trên đất mà pháp luật đã thừa nhận.
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 93 Luật Kinh Doanh 45
* Sự cần thiết phải sửa đổi bổ sung các mẫu hợp đồng bảo đảm tiền vay phù hợp với Bộ
luật Dân sự năm 2005. Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, thì mẫu hợp đồng bảo đảm tiền vay
bao gồm các điều khoản chủ yếu sau:
- Chủ thể tham gia hợp đồng bảo đảm, thể hiện nguyên tắc bình đẳng giữa mọi công dân
khi tham gia giao dịch bảo đảm, không phân biệt là người mang quốc tịch Việt Nam hay
người có quốc tịch nước ngoài.
- Có sự phân biệt giữa cầm cố và thế chấp, bằng việc xây dựng tiêu chí đánh giá cơ bản đó
là sự chuyển dịch tài sản bảo đảm. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 trường hợp
cầm cố thì bên cầm cố phải chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố, còn thế chấp thì bên
thế chấp sẽ giữ tài sản thế chấp. Sự phân biệt này sẽ làm đơn giản hơn khi cần thiết phải
phân biệt giữa động sản và bất động sản, cũng như đơn giản hoá các quy định về cầm cố, thế
chấp. Với quy định này các ngân hàng sẽ bỏ hẳn quy định về trường hợp ngân hàng giữ tài
sản thế chấp và có thể quy định việc kiểm tra, giám sát, quản lý tài sản cầm cố trong khi bên
vay vẫn phải chịu toàn bộ các chi phí cho việc quản lý và giữ gìn tài sản cầm cố đó.
- Về phạt vi phạm, xét về bản chất phạt vi phạm không phải là một biện pháp bảo đảm, vì
vậy Bộ luật Dân sự năm 2005 đã không quy định phạt vi phạm là một biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự như Bộ luật Dân sự năm 1995, mà cho phép các bên có thể thoả
thuận phạt vi phạm là một trong các nội dung của hợp đồng bảo đảm (khoản 7 điều 402),
hoặc các bên có thể thoả thuận chỉ phạt vi phạm mà không bồi thường thiệt hại hoặc cả hai,
tuy nhiên nếu không có thoả thuận trước thì được coi là phải bồi thường thiệt hại toàn bộ
(Điều 422). Đây là những quy định mới căn cứ vào đó, các ngân hàng có thể quy định phạt
vi phạm trong các hợp đồng bảo đảm thành một điều khoản riêng, độc lập với bồi thường
thiệt hại.
- Về phương thức xử lý tài sản bảo đảm, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã khẳng định hơn nữa
trách nhiệm, quyền tự chủ, quyền tự do cam kết cũng như tôn trọng sự thoả thuận của các
bên; theo đó việc xử lý tài sản bảo đảm trước tiên theo phương thức các bên đã thoả thuận,
nếu không được sẽ bán đấu giá. Đặc biệt trong hợp đồng cầm cố, cho phép ngân hàng nhận
tài sản cầm cố được phép lựa chọn tài sản cầm cố để xử lý trước trong trường hợp có nhiều
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 94 Luật Kinh Doanh 45
tài sản cầm cố. Đây chính là một quyền mới được pháp luật quy định, các ngân hàng nên bổ
sung trong hợp đồng bảo đảm.
- Về thứ tự ưu tiên thanh toán: thứ nhất, thanh toán theo thứ tự đã đăng ký giao dịch bảo
đảm; thứ hai, ưu tiên cho các giao dịch bảo đảm đã đăng ký; nếu tất cả đều chưa đăng ký thì
theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm (Điều 325). Như vậy, theo quy định này Bộ luật Dân
sự năm 2005 đã nhấn mạnh các hợp đồng bảo đảm cần phải đăng ký giao dịch bảo đảm tại
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đây không chỉ là quyền lợi của các bên mà còn là
trách nhiệm của ngân hàng.
- Về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã mở rộng không quy
định hạn chế của phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm như Bộ luật Dân sự năm 1995. Theo Bộ
luật Dân sự năm 1995 các cơ quan công chứng, chứng thực thường yêu cầu các bên tham gia
hợp đồng bảo đảm phải ghi cụ thể nghĩa vụ được bảo đảm vào trong hợp đồng, do đó đã gây
không ít khó khăn cho ngân hàng. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các bên có quyền thoả
thuận về biện pháp bảo đảm để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ kể cả nghĩa vụ hiện tại,
nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện. Đây là một quy định mới bổ sung khái
niệm về tài sản trong hợp đồng bảo đảm của các ngân hàng và là cơ sở pháp lý để các hợp
đồng bảo đảm của các ngân hàng không bị các cơ quan chức năng từ chối.
- Về quyền tài sản dùng để bảo đảm: Bộ luật Dân sự năm 1995 chỉ quy định quyền tài sản
dùng để bảo đảm là các quyền tài sản trị giá được bằng tiền, không bị tranh chấp và được
phép giao dịch và quyền sử dụng đất có thể được dùng để thế chấp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo
đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối
với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiêng bảo hiểm đối với vật bảo hiểm,
quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng
và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự. Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã ghi nhận rõ các quyền tài sản là
được dùng chứ không dùng thuật ngữ có thể được dùng như Bộ luật Dân sự năm 1995. Theo
đó danh mục tài sản bảo đảm trong hoạt động ngân hàng đã dược mở rộng hơn trước, do vậy
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 95 Luật Kinh Doanh 45
các ngân hàng cần có sự điều chỉnh danh mục các tài sản được phép dùng để bảo đảm tiền
vay cho phù hợp với quy định mới này của Bộ luật Dân sự năm 2005.
- Về mối quan hệ giữa hợp đồng bảo đảm và hợp đồng tín dụng. Nếu hiểu hợp đồng bảo
đảm là hợp đồng phụ và hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính thì Bộ luật Dân sự năm 1995
không có quy định cụ thể và rõ ràng về mối quan hệ giữa hai hợp đồng chính và hợp đồng
phụ này. Đến Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định về nguyên tắc khi hợp đồng phụ vô hiệu
không đương nhiên làm mất hiệu lực của hợp đồng chính trừ trường hợp các bên có thoả
thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính (Điều 410). Với quy
định mới này, thì hợp đồng bảo đảm tiền vay vẫn có thể ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp
đồng tín dụng nếu các bên có ghi trong hợp đồng. Như vậy, các ngân hàng cần sửa lại nội
dung này cho phù hợp, bởi không nên để hiệu lực của hợp đồng bảo đảm lại có thể làm ảnh
hưởng tới hiệu lực của hợp đồng tín dụng.
Như vậy theo những quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, các ngân hàng nên sửa đổi
bổ sung các điều khoản trong mẫu hợp đồng bảo đảm, điều này không chỉ thể hiện sự tuân
thủ pháp luật mà còn bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các ngân hàng.
* Cần có sự thống nhất cách định giá tài sản vay vốn ngân hàng. Nếu như trước đây, các
ngân hàng thương mại khi giải quyết cho khách hàng vay vốn luôn đặt tính hiệu quả của dự
án/phương án lên hàng đầu và xem đó là điều kiện tiên quyết để cán bộ tín dụng thẩm định
trình duyệt cho vay vốn. Sau nhiều năm thực hiện việc lấy dự án/phương án làm căn cứ vay
vốn đã bộc lộ những khó khăn nhất định, vì có một số ít doanh nghiệp và cá nhân khi xây
dựng phương án đã không trung thực. Họ đưa ra những con số ảo làm ngân hàng rất khó tính
toán, xác định cho vay vốn. Vì thế hiện nay các ngân hàng thương mại khi quyết định cho
khách hàng vay vốn ngoài việc căn cứ vào đơn xin vay vốn, tính khả thi của dự án còn căn
cứ vào tài sản bảo đảm. Đây là một biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tao cơ sở pháp lý để
các ngân hàng thu hồi các khoản nợ và lãi vay của khách hàng một cách an toàn và hiệu quả.
Tuy nhiên, việc áp dụng như thế nào để vừa đảm bảo cho vay được vốn nhưng không sai
luật lại an toàn khi thu hồi là một vấn đề rất khó. Đặc biệt là những quy định về phương
pháp xác định giá trị tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất hiện nay đang gây nhiều tranh
cãi. Hiện nay một số ngân hàng thường xác định theo giá đất thực tế chuyển nhượng ở địa
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 96 Luật Kinh Doanh 45
phương đó tại thời điểm định giá thế chấp với mức: mức tối đa bằng với mức giá đất thực tế
chuyển nhượng trên thị trường nếu thấp hơn hoặc bằng với giá trị trong khung giá đất của
UBND tỉnh, thành phố nơi có đất; hoặc mức tối đa không quá 70% giá đất thực tế chuyển
nhượng trên thị trường nếu cao hơn giá trị trong khung giá đất của UBND tỉnh thành phố nơi
có đất. Ngoài ra một số ngân hàng cho phép các chi nhánh tự xây dựng khung giá đất, đây có
thể coi là biện pháp khả thi nhưng xem ra rất khó thực hiện vì không có dịch vụ nhà đất,
không xác định được giá đất chuyển nhượng trên thị trường tại địa phương đó. Từ những
quy định và thực tế trên, thiết nghĩ các ngân hàng cần có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn.
Không quy định một cách chung chung để rồi các chủ thể thực hiện muốn hiểu như thế nào
cũng được dẫn đến áp dụng không thống nhất, rất khó trong việc đưa ra kết quả đúng để đầu
tư cho vay vốn. Và cũng không thể quy định cho phép các chi nhánh tự xây dựng khung giá
đất để xác định giá trị tài sản bảo đảm làm căn cứ cho vay, vì như thế khác nào vừa đá bóng
vừa thổi còi; hơn nữa các chi nhánh không phải là một pháp nhân, do đó không được phép tự
đưa ra quyết định. Do đó cần có sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước nên tập hợp các ngân
hàng thương mại lại để cùng nhau bàn bạc đưa ra cách giải quyết thống nhất trong việc xây
dựng khung giá đất để làm căn cứ xác định mức cho vay.
Trên đây chỉ là cách định giá một tài sản dùng làm bảo đảm tiền vay, còn đối với các tài
sản bảo đảm khác để các ngân hàng và khách hàng thuận tiện trong giao kết hợp đồng, thì
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần nhanh chóng ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn chính quyền địa phương cách xác định giá trị tài sản bảo đảm. Đồng
thời sở nhà đất và sở địa chính khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các
hộ sản xuất kinh doanh có nhu cầu vay vốn có đủ điều kiện để thế chấp với TCTD. Bên cạnh
đó, để việc định giá tài sản bảo đảm được chính xác, Nhà nước nên thành lập một ban riêng
chuyên nghiên cứu thị trường để có thể xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu định giá tài sản
một cách đầy đủ, cụ thể, chính xác.
* Cần đơn giản hoá các thủ tục cho vay có bảo đảm bằng tài sản, trong đó quan trọng nhất
là việc công chứng, chứng thực các giấy tờ sở hữu tài sản. Mà việc xây dựng hệ thống cơ
quan đăng ký giao dịch bảo đảm một cách khoa học là việc cần làm trước tiên. Muốn vậy,
các quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan này
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 97 Luật Kinh Doanh 45
và các cán bộ trong cơ quan phải được quy định một cách cụ thể rõ ràng. Thực tế rất nhiều
trường hợp việc công chứng, chứng thực các giao dịch bảo đảm tốn rất nhiều thời gian, công
sức của ngân hàng và khách hàng. Đây không chỉ là thiếu sót của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền liên quan chưa có văn bản hướng dẫn một cách cụ thể vấn đề này, mà còn do
một nguyên nhân khác rất quan trọng đó là vấn đề đạo đức của một số cán bộ công chứng,
chứng thực. Họ lợi dụng chức vụ, trục lợi cá nhân thiếu trung thực, khách quan trong công
việc, gây sách nhiễu, phiền hà cho các chủ thể đến công chứng, chứng thực. Nhiều khi do sự
thiếu trách nhiệm của một số cán bộ công chứng đã gây ra những thiệt hại không nhỏ cho
ngân hàng vì ngân hàng thường căn cứ vào sự công chứng của cơ quan Nhà nước để quyết
định cho khách hàng vay khi có đủ điều kiện về tài sản bảo đảm. Mặt khác, các quy định về
công chứng, chứng thực của Chính phủ và văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành chưa thống
nhất về căn cứ xác định năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng, chứng thực
và hồ sơ công chứng, chứng thực. Cụ thể theo quy định của pháp luật thì một số tài sản khi
đem bán, chuyển nhượng phải có công chứng, chứng thực như nhà, quyền sử dụng đất. Theo
Nghị định số 75/2000/NĐ-Chính phủ ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng
thực thì khi công chứng, chứng thực, công chứng viên xác định năng lực hành vi dân sự của
người yêu cầu công chứng, chứng thực. Tuy nhiên mục VIII phần Bảo đảm, Thông tư
03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC lại hướng dẫn rõ việc công chứng, chứng
thực văn bản bán tài sản được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm,
văn bản bán tài sản, bản án, quyết định của Toà án. Nguyên nhân này dẫn đến thực trạng áp
dụng pháp luật không thống nhất. Một số cơ quan công chứng, chứng thực không thực hiện
việc công chứng, chứng thực hợp đồng mua bán, chuyển nhượng tài sản do TCTD không
phải là chủ sở hữu hoặc người được uỷ quyền. Một số cơ quan khác yêu cầu TCTD phải
thực hiện việc uỷ quyền xử lý tài sản cho trung tâm đấu giá thì mới công chứng, chứng thực.
Một số cơ quan công chứng, chứng thực lại căn cứ vào hợp đồng bảo đảm, coi hợp đồng này
có giá trị pháp lý như một văn bản uỷ quyền của chủ sở hữu tài sản để thực hiện việc công
chứng, chứng thực văn bản bán tài sản.
* Cần tạo điều kiện để việc xử lý tài sản bảo đảm đơn giản hơn. Quan hệ xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay là một quan hệ được thiết lập trên cơ sở thoả thuận của các bên tham gia giao
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 98 Luật Kinh Doanh 45
dịch bảo đảm. Thực hiện Nghị định 178/1999/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ
Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Tổng cục địa chính đã thống nhất hướng dẫn việc xử
lý tài sản bảo đảm tiền vay bằng thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-
BTC-TCĐC ngày 23/4/2001 (gọi tắt là TTLT số 03). Từ khi ra đời cho đến nay thông tư là
cẩm nang, là cơ sở cho các TCTD thực hiện việc xử lý tài sản một cách thuận tiện và nhanh
chóng; Thông tư quy định rõ trách nhiệm của các ban ngành liên quan trong quá trình xử lý,
do đó đã tạo nhiều thuận lợi cho TCTD; đồng thời hướng dẫn từng phương thức, từng
trường hợp rất phù hợp với các tình huống thực tế, đã không ngững tạo điều kiện cho ngân
hàng xử lý nhanh mà còn làm rõ trách nhiệm đến cùng của khách hàng vau vốn khi có thế
chấp tài sản. Nhưng cho đến thời điểm hiện nay, với sự ra đời của một số văn bản pháp luật
mới TTLT số 03 đã bộc lộ một số nhược điểm cần sửa đổi bổ sung đó là:
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai
năm 2003 thay thế cho nghị định số 17/1999/NĐ-CP, nhưng một số điều khoản quy định tại
TTLT số 03 vẫn hướng dẫn thực hiện theo Nghị định số 17.
- Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003, luật Doanh nghiệp năm 2005 đã có sự thay đổi
về Doanh nghiệp Nhà nước, do đó cũng cần có những quy định cụ thể về xử lý tài sản bảo
đảm đối với doanh nghiệp Nhà nước mà thông tư số 03 chưa đề cập tới. Hiện nay, việc xử lý
tài sản bảo đảm đối với doanh nghiệp Nhà nước còn lúng túng và có nhiều vướng mắc rất
khó xử lý, các TCTD đang rất cần sự hướng dẫn kịp thời của các bộ ngành liên quan.
- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp mới được sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/1/2004, ngân
hàng phải nộp thuế thu nhập chuyển quyền sử dụng đất khi bán tài sản bảo đảm là quyền sử
dụng đất, nhưng trong TTLT số 03 chưa đề cập đến, hơn nữa việc nộp thuế thu nhập này
cũng có nhiều bất cập trong trường hợp ngân hàng bán tài sản chưa thu hết nợ vay nhưng
vẫn phải nộp thuế. Do vậy, cần có sự hướng dẫn cụ thể để phù hợp với thực tế tạo điều kiện
thuận lợi để ngân hàng thu hết nợ vay.
- Trong việc bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, các bộ
nên sửa đổi bổ sung vào TTLT số 03 cho phép tổ chức tín dụng được bán trực tiếp tài sản
bảo đảm như hướng dẫn tại điểm 2, phần II của Thông tư liên tịch số 02/2002/TTLT-
NHNN-BTP, ngày 5/2/2002 về xử lý tài sản bảo đảm nằm trong hệ thống của nợ tồn đọng.
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 99 Luật Kinh Doanh 45
- TTLT số 03 quy định trường hợp TCTD trực tiếp bán tài sản bảo đảm, quy định này
hướng dẫn rất khái quát, chưa cụ thể nên thực tế áp dụng rất khó, cần thiết phải sửa đổi.
Như vậy, cùng với những kiến nghị trên, thì các bộ ngành, UBND các cấp có sự chỉ đạo
cụ thể hơn để tạo được sự ủng hộ tích cực trong quá trình giúp ngân hàng xử lý tài sản bảo
đảm. Ví dụ có thể thành lập trung tâm bán đấu giá tại các tỉnh trong cả nước để giúp các
ngân hàng thuận tiện trong xử lý tài sản bảo đảm.
* Việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố của các doanh nghiệp Nhà nước đang là một thực
trạng nổi cộm trong việc áp dụng pháp luật xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Theo quy định
của Luật doanh nghiệp Nhà nước, một số tài sản quan trọng hoặc dây truyền sản xuất chính
khi cầm cố, thế chấp phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Khi
TCTD xử lý tài sản bảo đảm của DNNN, cơ quan tài chính một số địa phương yêu cầu phải
có sự chấp thuận của cơ quan quản lý tài chính tương tự như trường hợp DNNN thanh lý tài
sản. Do vậy tạo ra tâm lý lo ngại khi ngân hàng cho DNNN vay, vì ảnh hưởng tới quyền xử
lý tài sản bảo đảm hớp pháp của TCTD; đồng thời tạo ra sự bảo hộ bất bình đẳng giữa doanh
nghiệp Nhà nước và các chủ thể kinh doanh khác.
* Trong quy chế về xử lý tài sản bảo đảm, Nhà nước nên giao quyền chủ động hơn cho các
TCTD. Bởi vì tài sản bảo đảm thường bị xử lý khi khách hàng vi phạm điều khoản nghĩa vụ
trong hợp đồng bảo đảm, việc xử lý tài sản bảo đảm là để bảo vệ quyền và lợi ích của
TCTD.
Nhà nước cần thành lập tổ chức phân tích và xếp hạng doanh nghiệp.
Hiện nay tại Việt Nam vẫn chưa có tổ chức phân tích và xếp hạng doanh nghiệp, điều
này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc phân tích uy tín của khách hàng vay vốn.
Đặc biệt tại chi nhánh Láng Hạ thì cho vay không có bảo đảm bằng tài sản tức là cho vay
bằng uy tín khách hàng chiếm một tỷ trọng rất cao (trên 50%). Trong khi uy tín là một
yếu tố khó định lượng, nếu chỉ dựa vào các tiêu chí để xác định uy tín khách hàng như
luôn trả nợ song phẳng, có quan hệ thường xuyên, lâu dài với ngân hàng, dự án kinh
doanh có hiệu quả...nhưng khi khách hàng gặp rủi ro trong sản xuất kinh doanh thì họ
cũng khó có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Do đó, Nhà nước nên thành lập một cơ quan
có thẩm quyền chuyên môn để xác định được tính chính xác tương đối mức độ tín nhiệm
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 100 Luật Kinh Doanh 45
của khách hàng làm tiêu chí tham khảo cho các ngân hàng, giúp ngân hàng giảm được rủi
ro tổn thất khi thực hiện hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay.
2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và NHNN & PTNT Việt Nam.
2.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước.
Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tố chức tín dụng đã đi vào cuộc sống được gần 10
năm, từ khi ra đời đến nay đã phát huy được nhiều tác dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên với
sự ra đời của các văn bản pháp luật mới (như Bộ luật Dân sự năm 2005, luật doanh nghiệp
năm 2005…), một số quy định của nó đã không còn phù hợp với thực tế, đặc biệt là các quy
định về bảo đảm tiền vay. Vì bảo đảm tiền vay là biện pháp phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở
pháp lý cho TCTD xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ, đảm bảo cho sự an toàn và phát triển
bền vững cho từng TCTD nói riêng và toàn hệ thống ngân hàng nói chung. Do vậy ngân
hàng Nhà nước cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định mới
của pháp luật về bảo đảm tiền vay, nhanh chóng phổ biến tới các ngân hàng sự thay đổi, điều
chỉnh để các ngân hàng chủ động trong hoạt động cho vay có tài sản bảo đảm và không có
tài sản bảo đảm trong từng thời kỳ cụ thể. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay,
Ngân hàng Nhà nước nên giao quyền tự chủ cho các ngân hàng nhiều hơn trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng để các ngân hàng có thể tránh được một số rủi ro do có sự chủ
động đối phó với những tình huống bất ngờ, đồng thời có thể tận dụng những cơ hội khi thời
cơ đến. Hiện nay các quy định về chế độ hạch toán về cho vay có bảo đảm bằng tài sản do
TCTD tự lựa chọn, cho vay theo chỉ định của Chính phủ chưa cụ thể, Ngân hàng Nhà nước
nên có sự điều chỉnh cho hợp lý. Đặc biệt ngân hàng Nhà nước cần nâng cao hiệu quả hoạt
động của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) để cho nó trở thành nơi cung cấp thông tin
nhanh, chính xác kịp thời về khách hàng cho các TCTD. Mục tiêu hoạt động của CIC là giúp
các TCTD phòng ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất những khả năng rủi ro trong kinh
doanh, góp phần xây dựng một hệ thống ngân hàng bền vững. Muốn vậy CIC phải cập nhật
được sự phân loại khách hàng theo từng khoản nợ, đánh giá theo từng khoản nợ của khách
hàng. Yêu cầu đặt ra khá cao là bắt buộc là các TCTD phải chấp hành nghiêm túc chế độ báo
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 101 Luật Kinh Doanh 45
cáo thông tin cho CIC. Nếu thông tin về khách hàng không được cập nhật thường xuyên, số
liệu phản ánh không kịp thời thì tính pháp lý cũng như giá trị của thông tin do CIC cung cấp
ra sẽ không đáp ứng được yêu cầu của sự đánh giá. Do vậy để đáp ứng yêu cầu xử lý thông
tin do các TCTD báo cáo cũng như quá trình tổng hợp và quản trị kho dữ liệu, cung cấp
thông tin, CIC cần phải chuẩn hoá các quy trình, nghiệp vụ, áp dụng chương trình tự động
xử lý dữ liệu. Các cơ quan giám sát, đánh giá và các TCTD phải tham gia vào mạng của CIC
và khai thác thông tin để đưa ra đánh giá nợ chính xác và kịp thời. Ngoài nghiệp vụ cung cấp
tác nghiệp cho các TCTD, CIC phải được giao nhiệm vụ thực hiện hỗ trợ các tổ chức, đơn vị
có chức năng và nhiệm vụ phân loại, đánh giá các khoản nợ của các khách hàng của các
TCTD. CIC phải được quyền cung cấp kết quả đánh giá phân loại nợ của các TCTD, của
đơn vị giám sát có chức năng đánh giá nợ cho các TCTD. Những thông tin do CIc cung cấp
đòi hỏi phải phản ánh trung thực, khách quan và đặc biệt phải đảm bảo tính thời gian. Như
vậy để CIC hoạt động thực sự có hiệu quả, cần tăng cường hơn nữa vai trò của CIC trong
điều kiện hiện nay, tăng cường năng lực cho CIC cả về điều kiện vật chất kỹ thuật, cũng như
con người.
2.2. Đối với NHNN & PTNT Việt Nam.
NHNN & PTNT Việt Nam là cơ quan chủ quản cấp trên của chi nhánh NHNN & PTNT
Láng Hạ, là một trong 5 ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam hiện nay. Trong hoạt
động ngân hàng của mình NHNN & PTNT Việt Nam đã thực hiện theo đúng các quy định
của pháp luật, đặc biệt là các quy định về bảo đảm tiền vay. Đồng thời cùng với sự chỉ đạo
của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các bộ ngành có liên quan NHNN & PTNT Việt Nam
đã có những văn bản hướng dẫn cụ thể với các chi nhánh phụ thuộc của mình về bảo đảm
tiền vay (như quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/3/2002 ban hành quy định cho vay
đối với khách hàng trong hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam; quyết định số 300/QĐ-
HĐQT-TD ngày 24/9/2003 quy định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay…). Đây
là những quy định về bảo đảm tiền vay rất cụ thể, là cẩm nang cho hoạt động bảo đảm tiền
vay của các chi nhánh trong hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam thời gian qua. Tuy nhiên,
hiện nay với sự ra đời cúa các văn bản pháp luật mới điển hình là Bộ luật Dân sự năm 2005
hay quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN về quy chế bảo lãnh ngân hàng … các quy định về
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 102 Luật Kinh Doanh 45
bảo đảm tiền vay đã có sự thay đổi khá lớn, do vậy NHNN & PTNT Việt Nam cần kịp thời
ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để các chi nhánh trong hệ thống của mình thực hiện
một cách thống nhất có hiệu quả các quy định của pháp luật. Đồng thời NHNN & PTNT
Việt Nam cần theo dõi sự biến động lãi suất trên thị trường để có kế hoạch điều chỉnh lãi
suất cho phù hợp cơ chế quản lý khách hàng của các chi nhánh hiệu quả. Đối với một số
khách hàng của các chi nhánh tại các khu đô thị loại I có quan hệ nguồn vốn, tín dụng lâu
dài và có uy tín, chi nhánh cần được áp dụng mức lãi suất huy động, lãi suất cho vay và tỷ lệ
phí linh hoạt trên cơ sở an toàn vốn, tính toán hiệu quả tài chính đối với từng khách hang
đem lại nhằm đảm bảo tính cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt nhất là trong những năm
đầu hội nhập nền kinh tế. Việc đăng ký làm ngân hàng phục vụ giải ngân các dự án ODA
của các chi nhánh NHNN & PTNT Việt Nam còn chồng chéo gây khó khăn trong việc triển
khai hoạt động đối với các bộ ngành, cần có biện pháp khắc phục. NHNN & PTNT Việt
Nam cũng nên tập trung làm đầu mối trong việc đi vay của các TCTD không nên để các chi
nhánh tự đi vay như hiện nay. Bên cạnh đó về công nghệ thông tin, NHNN & PTNT Việt
Nam cần bổ sung các MODUL nghiệp vụ liên quan đến công tác tín dụng, các phần mềm
kiểm tra thông tin khách hàng, thông tin về tài sản bảo đảm khi khách hàng vay vốn…
3.Kiến nghị với chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ.
Trên cơ sở khảo sát thực tế tại chi nhánh Láng Hạ, nhận thức được những thành tựu cũng
như những tồn tại khó khăn tại chi nhánh trong hoạt động bảo đảm tiền vay, bên cạnh những
giải pháp đã đề cập ở trên, em xin mạnh dạn kiến nghị một số vấn đề sau:
- Trong công tác chỉ đạo điều hành của chi nhánh phải thường xuyên phổ biến các văn bản
có liên quan đến hoạt động tín dụng, bảo đảm tiền vay, các văn bản của Ngân hàng Nhà
nước, NHNN & PTNT Việt Nam, thường xuyên tổ chức họp phòng để nắm bắt kịp thời
những khó khăn vướng mắc trong hoạt động tín dụng, bảo đảm tiền vay để từ đó có những
điều chỉnh kịp thời.
- Chi nhánh cần đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội
ngũ cán bộ nghiệp vụ nhằm trang bị kiến thức, tránh lạc hậu về chuyên môn, pháp luật, các
thông lệ quốc tế trong giai đoạn đầu của tiến trình hội nhập quốc tế.
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 103 Luật Kinh Doanh 45
- Chi nhánh nên định kỳ tổ chức gặp mặt khách hàng để lắng nghe những ý kiến đánh giá
của khách hàng về những việc đã làm được, chưa làm được của chi nhánh, ghi nhận những
đóng góp, những mong muốn của khách hàng. Trên cơ sở đó mà chi nhánh có thể có những
chính sách điều chỉnh hợp lý đáp ứng tốt tâm tư nguyện vọng của khách hàng theo đúng quy
định của pháp luật.
- Chi nhánh cần tăng cường hơn nữa chiến lược thu hút khách hàng, tiếp tục củng cố tạo
niềm tin với khách hàng truyền thống, tạo sức hút với những khách hàng mới. Trong chiến
lược dài hạn chi nhánh cần nâng cao tỷ trọng đối tượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, cá nhân dân cư.
- Chi nhánh cần đúc rút các kinh nghiệm của các chi nhánh khác trong hệ thống NHNN &
PTNT Việt Nam, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại khác
trong nước và trên thế giới, để đề xuất những chính sách hợp lý, phù hợp hoạt động ngân
hàng của mình.
4. Kiến nghị đối với khách hàng.
Trong quy chế về bảo đảm tiền vay khách hàng là một chủ thể không thể thiếu. Bảo đảm
tiền vay chỉ phát huy tác dụng khi có sự tham gia tích cực của khách hàng, vì khách hàng là
một bên trong hợp đồng bảo đảm. Để việc sử dụng bảo đảm tiền vay có hiệu quả đó không
chỉ là nghĩa vụ của các ngân hàng, mà các khách hàng cũng phải tham gia tích cực. Bởi vì
khách hàng tìm đến với ngân hàng là lúc họ đang có nhu cầu cần vốn để thực hiện mục tiêu
của mình. Nhưng không phải bất kỳ khi nào tìm đến với ngân hàng họ cũng được cấp vốn
ngay. Do vậy các khách hàng cần có kiến thức, am hiếu về pháp luật, đặc biệt là pháp luật về
hoạt động của các ngân hàng. Trên cơ sở tìm hiểu thông tin về ngân hàng, về chính sách lãi
suất, chính sách cho vay, các quy định về bảo đảm tiền vay… khách hàng căn cứ vào khả
năng của mình để tiến hành vay vốn ngân hàng. Trong quá trình giao kết hợp đồng, khách
hàng cần chủ động cung cấp các thông tin đầy đủ, trung thực cho ngân hàng. Và sau khi hợp
đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm đã được ký kết khách hàng cần nghiêm túc thực hiện đúng
các điều khoản trong hợp đồng. Có như vậy thì quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng luôn
luôn tốt đẹp, thuận tiện cho các lần vay sau của khách hàng.
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 104 Luật Kinh Doanh 45
Lời kết
Trong nền kinh tế tự do hoá thương mại, sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng phụ
thuộc vào năng lực tài chính và khả năng kinh doanh của mình. Hơn nữa, ngành ngân hàng
là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng
của rất nhiều loại rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi
nhưng mức độ rủi ro làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và hiệu quả của hoạt động bảo
đảm tiền vay như thế nào lại phụ thuộc vào chính khả năng ngăn ngừa và biện pháp khắc
phục của mỗi ngân hàng. Một giải pháp hữu hiệu đặt ra trong trường hợp này là sử dụng bảo
đảm tiền vay. Tuy nhiên hiệu quả của đảm bảo lại phụ thuộc rất nhiều vào các quy định của
pháp luật về bảo đảm tiền vay và cách thực hiện vận dụng các quy định đó vào thực tế như
thế nào.
Trên cơ sở nhận thức được các vấn đề trên và qua tìm hiểu thực tiễn về hoạt động bảo
đảm tiền vay tại chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ, em đã đi sâu nghiên cứu những quy
định pháp luật về bảo đảm tiền vay để tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động
bảo đảm tiền vay của chi nhánh từ đó đề ra những giải pháp riêng cho chi nhánh trong hoạt
động bảo đảm tiền vay. Đồng thời đưa ra kiến nghị đối với Nhà nước, các bộ ngành, Ngân
hàng Nhà nước, NHNN & PTNT Việt Nam nhằm giúp hoạt động bảo đảm tiền vay tại chi
nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung phát huy
hiệu quả, bảo đảm an toàn và phát triển bền vững cho ngành ngân hàng. Tuy nhiên, do hạn
chế về mặt nhận thức và thời gian, chuyên đề này của em không tránh khỏi sự thiếu sót,
hoàn chỉnh. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô hướng dẫn cùng toàn
thể các cán bộ tín dụng trong chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ để nội dung nghiên cứu
được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 105 Luật Kinh Doanh 45
Danh mục tài liệu tham khảo
I. Các văn bản pháp luật
1. Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005.
2. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997.
3. Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997, và Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm
2004.
4. Luật Đất đai năm 2003.
5. Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các Tổ chức tín
dụng.
6. Nghị định số 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 178.
7. Thông tư số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh
bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.
8. Thông tư số 07/2003/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực
hiện một số quy định về bảo đảm tiền vay.
9. Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế cho vay
của TCTD đối với khách hàng.
10. Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN của ngân hàng Nhà nước về quy chế bảo lãnh ngân
hàng.
11. Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về quy chế bảo lãnh ngân
hàng (quy chế mới).
12. Nghị định số 165/1999/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
13. Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm.
14. Thông tư số 06/2002/TT-BTP hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số
165 về giao dịch bảo đảm.
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 106 Luật Kinh Doanh 45
15. Quyết định số 300/QĐ-HĐQT-TD của Hội đồng quản trị NHNN & PTNT Việt Nam
quy định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống NHNN & PTNT
Việt Nam.
16. Quyết định số 72/QĐ-HĐQT ngày 31/3/2002 của Chủ tịch HĐQT NHNN & PTNT Việt
Nam ban hành quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống ngân hàng nông nghiệp.
17. Quyết định số 100/QĐ-HĐQT-KHTH ngày 20/4/2005 của NHNN & PTNT Việt Nam
về phân mức cho vay tối đa đối với một khách hàng.
18. Các văn bản pháp luật khác.
II. Các sách, báo, tạp chí
1. “Quản trị ngân hàng thương mại”- NXB Thống kê 1999.
2. “Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ”- NXB Thống kê 2004.
3. “Các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng ngân hàng"-TS. Lê Thị Thanh
Thuỷ (Đại học quốc gia Hà Nội).
4. Lịch sử chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ, xuất bản năm 2003.
5. Sổ tay tín dụng của NHNN & PTNT Việt Nam, xuất bản năm 2004.
6. Bài “quy trình của NHTM về an toàn cho vay” - Nguyễn Văn Lâm, tạp chí ngân hàng số
3/2005.
7. Bài “Bảo đảm tiền vay của Tổ chức tín dụng” – TS. Nguyễn Anh Sơn, tạp chí nghiên cứu
lập pháp số 3/2002.
8. Bài “Cần sửa đổi những văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay cho phù hợp với Bộ luật
Dân sự năm 2005” - Nguyễn Phương Linh, tạp chí ngân hàng số 3/2006.
9. Bài “Tín dụng có 4 nguyên tắc cơ bản hay chỉ có 3” – TS. Nguyễn Võ Ngạn, tạp chí ngân
hàng số 18/2006.
10. Bài “Tìm hiểu quy định mới của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng" - Nguyễn Thành
Nam, tạp chí ngân hàng số 17/2006.
11. Bài “Cần thống nhất cách định giá tài sản vay vốn ngân hàng" - Khắc Luyện, tạp chí
ngân hàng số 22/2006.
12. Các trang web của Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng.
13. Các tài liệu khác.
Chuyên đề thực tập
Phạm Thị Như 107 Luật Kinh Doanh 45
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_che_phap_ly_ve_bao_dam_tien_vay_va_thuc_tien_ap_dung_5035.pdf