Việc sắp xếp lại, đổi mới và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc trong những
năm qua đã đem lại những kết quả tích cực. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc cổ
phần hoá đều có doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách cao hơn trƣớc khi cổ phần hoá;
việc làm và đời sống ngƣời lao động trong doanh nghiệp đã cổ phần hoá đƣợc bảo đảm,
có phần đƣợc cải thiện; quyền làm chủ thực sự trong quản lý doanh nghiệp từng bƣớc
đƣợc xác lập. Việc bán giá trị của doanh nghiệp thông qua đấu thầu trên thị trƣờng
chứng khoán đã khắc phục đƣợc tình trạng thất thoát vốn, tài sản của nhà nƣớc. Tuy
nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp mà nhà nƣớc có cổ phẩn hoặc cổ phần chi phối còn nhiều. Vốn
của nhà nƣớc trong doanh nghiệp còn lớn, tín dụng dành cho doanh nghiệp nhà nƣớc
chiếm tỷ lệ cao.
Phải khẩn trƣơng hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc
theo hƣớng hình thành loại hình công ty nhà nƣớc đa sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ
phần, kể cả các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nƣớc,
tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tƣ liệu sản xuất và dịch
vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích.
112 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2138 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quy định về thuế của WTO và lộ trình thực hiện các cam kết về thuế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t giảm thuế nông sản. Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Đoàn đàm phán đã kiên
trì và thận trọng trong việc mở cửa thị trƣờng nông sản. Mặc dầu vậy, nông nghiệp vẫn
là lĩnh vực bị sức ép cạnh tranh khá lớn, nhất là trong điều kiện nông nghiệp nƣớc Việt
Nam vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân tán, công nghệ lạc hậu, năng suất kém, chất lƣợng
sản phẩm không cao, bình quân đất nông nghiệp trên một lao động thấp. Vì thế để hạn
chế các tác động tiêu cực từ sự hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng nông sản cả trong và ngoài nƣớc, Nhà nƣớc và ngành nông nghiệp
cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó có cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp và nông thôn, từng bƣớc chuyển lao động nông nghiệp sang sản xuất
công nghiệp và dịch vụ; đƣa các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, yêu cầu đào tạo
không cao về nông thôn; phát triển các làng nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch
vụ; hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn. Đây là hƣớng phát triển quan trọng
nhất.
Hai là, tăng ngân sách đầu tƣ cho nông nghiệp và nông thôn cùng với việc dành
toàn bộ các nguồn vốn hỗ trợ trƣớc đây cho khuyến khích xuất khẩu nông sản để đầu tƣ
phát triển thuỷ lợi, giao thông nông thôn. Nhà nƣớc hỗ trợ việc xây dựng hệ thống kho
tàng, các cơ sở bảo quản, phơi sấy nhằm giảm hao hụt, bảo đảm chất lƣợng sản phẩm sau
thu hoạch, tạo điều kiện điều tiết lƣợng hàng hoá lƣu thông trên thị trƣờng nhằm ổn định
giá cả, phát triển chợ nông thôn. Giảm mạnh sự đóng góp của nông dân.
89
Ba là, nhà nƣớc đứng ra giúp đỡ thành lập một hiệp hội nông nghiệp hữu hiệu cho
nhà nông. Rõ ràng nông dân sẽ là ngƣời trực tiếp đƣơng đầu với sức ép một khi gia nhập
WTO. Sức ép này sẽ vô cùng nặng nề buộc nông dân phải thay đổi tƣ duy và thói quen
làm việc. Hiện đại hóa nông thôn sẽ nhờ đó mà phát triển. Nhƣng sẽ có một số nông dân
không có khả năng thích nghi với điều kiện sản xuất mới. Họ sẽ bị đào thải, tạo nên
những vấn đề khó khăn cho xã hội ở nông thôn. Hiện nay, mặc dù Việt Nam có hàng
triệu nhà nông giỏi trên mảnh ruộng dăm ba sào nhƣng lại hiếm có nhà nông sản xuất
hàng hóa lớn trên vài ba trăm mẫu. Mặc dù nhà nông Việt Nam kiểm soát sâu bệnh tốt
nhƣng hiếm có nhà nông biết đến hoặc nghiêm chỉnh làm theo chu trình nông nghiệp an
toàn GAP và kiểm tra chất lƣợng (QA) - là tấm hộ chiếu để xuất khẩu và cũng để cạnh
tranh với hàng ngoại trong nƣớc. Nhà nƣớc sẽ không có khả năng ngay tức khắc hiện đại
hóa nông thôn, chuyển giao công nghệ cao cho toàn bộ nông dân để chất xám đƣợc sử
dụng trên đồng ruộng. Tuy nhiên Nhà nƣớc có khả năng giúp nông dân tổ chức những
hiệp hội để nhà nông-nhà kinh doanh-nhà nƣớc hợp tác làm việc, qua đó việc chuyển
giao công nghệ về kỹ thuật sản xuất, chu trình nông nghiệp an toàn GAP, hoặc các yêu
cầu của thị trƣờng trong nƣớc và xuất khẩu… đƣợc thực hiện nhanh chóng. Đó là điểm
sinh tử của chính nhà nông và nhà kinh doanh. Kinh nghiệm của các nƣớc nhƣ Úc, Nhật
cho thấy không có một tổ chức nào đóng góp một cách tích cực và hữu hiệu vào nông
nghiệp bằng một tổ chức do chính nông dân đứng ra đảm đƣơng, dƣới sự trợ giúp của
nhà nƣớc. Úc là một ví dụ điển hình nói lên tính hữu hiệu của tổ chức nông dân đó. Ở
đây việc tổ chức, nghiên cứu, đào tạo chuyên viên, giao dịch mua bán… của những
ngành nông nghiệp chính nhƣ thịt bò, lúa mì, lúa gạo, bông vải, rau quả… đều do hiệp
hội nông dân tự đảm trách với sự trợ giúp của Bộ Nông nghiệp. Vì vậy, với tổng sản
lƣợng lƣơng thực chỉ khoảng 25 tỉ đô la Mỹ, vậy mà mỗi năm nông nghiệp Australia đã
đem về cho đất nƣớc 18-20 tỉ đô la Mỹ ngoại tệ.
Bốn là, đầu tƣ mạnh vào việc phát triển, cải tạo các loại giống có năng suất cao,
chất lƣợng tốt để cung cấp cho nông dân có sự hỗ trợ giá từ ngân sách nhà nƣớc. Phát
triển và tổ chức lại hệ thống khuyến nông trên cả 4 cấp: trung ƣơng, tỉnh, huyện, xã và
hợp tác xã.
Năm là, phát triển các doanh nghiệp, các hợp tác xã cổ phần sản xuất nông nghiệp
và kinh doanh dịch vụ ở nông thôn, thông qua đó mà thúc đẩy quá trình hình thành các
90
vùng sản xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp, bảo đảm tiêu thụ nông sản và cung ứng
vật tƣ cho nông dân. Khuyến khích nông dân trở thành cổ đông của các doanh nghiệp và
các hợp tác xã cổ phần, là đồng sở hữu các nhà máy chế biến nông sản, bảo đảm thu
nhập của nông dân và cung cấp ổn định nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Sáu là, nghiên cứu để hình thành cơ chế gắn việc thu hút lao động trong nông
nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, xuất khẩu lao động với việc chuyển giao, cho
thuê lại ruộng đất để đẩy nhanh quá trình tích tụ ruộng đất.
Bảy là, vai trò hỗ trợ và điều tiết của Chính phủ là vô cùng quan trọng, đặc biệt
trong việc phân bổ nguồn lực, đầu tƣ cho nông nghiệp, phát triển nông thôn, tiếp tục nỗ
lực giảm nghèo và cải thiện vấn đề bất bình đẳng trong xã hội. Cần tăng cƣờng nỗ lực
theo dõi chặt chẽ tác động đối với nhóm ngƣời nghèo và dẽ bị tổn thƣơng để có biện
pháp hỗ trợ kịp thời nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực.
Hiện tại hiệu quả sản xuất và thƣơng mại một số mặt hàng nông nghiệp còn thấp.
Song nếu đƣợc hỗ trợ đầu tƣ ở mức độ nhất định, thì có thể nâng cao hiệu quả để đảm
bảo duy trì tính hấp dẫn đối với thu nhập của ngƣời nông dân ngay cả khi thị trƣờng bị
giảm sút và vẫn có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo an ninh lƣơng thực. Trong nhiều
trƣờng hợp chính phủ có thể giúp đỡ nông dân đa dạng hoá sản phẩm hay chuyển sang
các loại cây trồng khác do khả năng cạnh tranh hay tiềm năng về sinh thái nông nghiệp
của Việt Nam có giới hạn.
Các loại cây trồng vật nuôi ƣu tiên cần đƣợc lựa chọn trên cơ sở nhu cầu của thị
trƣờng thay vì dựa vào tiềm năng cung cấp. Đồng thời, cần xem xét áp dụng cơ chế
chuyên hoá ở mức độ nhất định tại từng vùng, miền căn cứ vào các điều kiện sinh thái
nông nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của địa phƣơng để cho các hoạt động thƣơng mại và
chế biến ở địa phƣơng đó có thể tranh thủ đƣợc lợi thế về quy mô.
Đối với những nông dân nghèo, đặc biệt là ở các hệ sinh thái bất ổn định ở vùng
cao thì nên áp dụng chủ trƣơng đa dạng hoá cây trồng và thiết lập các hệ thống sản xuất
hỗn hợp (trồng trọt sử dụng các giống cây phù hợp; chăn nuôi gia súc; nuôi cá; trồng
rừng, kể cả các loại lâm sản ngoài gỗ). Đặc biệt là Chính phủ có thể hỗ trợ xây dựng cơ
sở hạ tầng về tiếp thị và thƣơng mại, kể cả các chợ bán buôn nơi mà giá cả đƣợc quy
định theo từng ngày. Cần tập trung hỗ trợ cho những địa phƣơng gặp khó khăn để tránh
tác động tiêu cực về công bằng xã hội.
91
Chính phủ cần tăng cƣờng đầu tƣ cho công tác nghiên cứu, đặc biệt về cây trồng
(nhƣ tạo ra các giống cây trồng năng suất cao phù hợp với các vùng sinh thái nông
nghiệp cụ thể và các vật tƣ cho sản xuất); nghiên cứu về các hệ thống sản xuất tổng hợp;
và các giống gia súc. Ngoài ra, Chính phủ cần đầu tƣ vào việc nâng cao chất lƣợng dịch
vụ thú y và vệ sinh chuồng trại (để phòng ngừa bệnh cúm gia cầm), và cơ chế quản lý
dịch hại tổng hợp (IPM).
3.2.1.8. Phát triển các loại hình dịch vụ
Lĩnh vực dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nền kinh tế.
Các nƣớc công nghiệp phát triển trình độ cao, dịch vụ chiếm từ 60 - 70%. Quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá và sự phân công lao động gắn với công nghiệp hoá, hiện đại
hoá vừa đặt ra nhu cầu vừa tạo khả năng phát triển dịch vụ. Ngƣợc lại sự phát triển dịch
vụ sẽ làm giảm chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, phải hết sức coi
trọng phát triển tất cả các ngành dịch vụ. Tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ có
giá trị gia tăng cao: dịch vụ tài chính, ngân hàng với nhiều sản phẩm đa dạng, dịch vụ
viễn thông, dịch vụ du lịch, các loại dịch vụ tƣ vấn để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân lập
doanh nghiệp, lựa chọn phƣơng án kinh doanh, các dịch vụ nghề nghiệp nhƣ kế toán,
kiểm toán để đánh giá chính xác hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm công khai,
minh bạch về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tham gia thị
trƣờng chứng khoán. Nhanh chóng xây dựng hệ thống mã số các loại dịch vụ theo phân
loại của Tổ chức thƣơng mại thế giới. Trên cơ sở đó, có định hƣớng đúng đắn chiến lƣợc
phát triển dịch vụ.
3.2.1.9. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp
Một là, phải xác định đúng năng lực cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp sẽ góp
phần xây dựng một chiến lƣợc phát triển và hội nhập đúng đắn. Năng lực cạnh tranh của
hàng hoá công nghiệp phải đƣợc xem xét trên cả thị trƣờng nội địa và quốc tế. Đối với
thị trƣờng nội địa, yêu cầu hàng hoá có giá rẻ, chất lƣợng không kém nhiều so với hàng
nhập khẩu cùng loại; trong khi đó, hàng xuất khẩu nói chung yêu cầu cao hơn về chất
lƣợng, sự độc đáo, khả năng thay đổi mẫu mã nhanh, khả năng cung cấp ổn định và
nhiều yêu cầu khác quy định bởi các rào cản kỹ thuật cũng phải đáp ứng. Từ kết quả
tham gia CEPT/AFTA trong thời gian vừa qua, có thể chia công nghiệp Việt Nam thành
3 nhóm theo năng lực cạnh tranh. Thứ nhất, nhóm các sản phẩm có khả năng cạnh tranh
92
tƣơng đối tốt gồm: hàng may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nông, lâm,
thuỷ hải sản nhiệt đới, dầu thô, than đá và một số loại khoáng sản, chất tẩy rửa, phân
chứa lân, một số loại sản phẩm cơ khí nhƣ các loại động cơ công suất nhỏ, các loại động
cơ công suất nhỏ, các loại máy biến áp lực đến 220kV, tàu biển trọng tải dƣới 12.000
tấn… Thứ hai, nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh yếu gồm: sắt thép, phân đạm, một
số chủng loại động cơ diesel, thiết bị điện-điện tử, sản phẩm nhựa, sành sứ thuỷ tinh, vật
liệu xây dựng. Thứ ba, nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh kém gồm: giấy, hoá chất
cơ bản, dệt, các sản phẩm máy công cụ chất lƣợng cao, các sản phẩm máy móc thiết bị
công nghệ cao và điện tử công nghiệp.
Qua đó có thể nhận định chung rằng khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp
Việt Nam tập trung vào nhóm các sản phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp, công nghiệp
tiêu dùng và thực phẩm vốn là thế mạnh của Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian dài lợi
thế về các nhóm sản phẩm này sẽ ngày càng giảm thì ngành công nghiệp sẽ gặp nhiều
khó khăn nếu không phát triển, nâng cao đƣợc năng lực cạnh tranh của các ngành công
nghiệp cao, sử dụng nhiều hàm lƣợng trí thức.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trƣớc, thế giới đã diễn ra hai mô hình công
nghiệp hoá. Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đi liền với chế độ bảo hộ mậu dịch. Mô
hình này khá phổ biến và đã thành công trƣớc những năm 80 thế kỷ trƣớc. Khi chế độ
bảo hộ mậu dịch giảm dần, sự phân công lao động quốc tế sâu rộng hơn, các nƣớc
chuyển sang mô hình công nghiệp hoá hƣớng về xuất khẩu trên cơ sở lợi thế so sánh. Từ
nửa sau thập kỷ 90 của thế kỷ trƣớc, toàn cầu hoá kinh tế trở thành xu thế. Hàng rào bảo
hộ bị cắt giảm thông qua việc ký kết các hiệp định mậu dịch tự do song phƣơng và khu
vực và việc hình thành Tổ chức thƣơng mại thế giới, ranh giới kinh tế giữa các quốc gia
bị giảm thiểu; sự phát triển của vận tải đa phƣơng thức và dịch vụ logistic đã làm chi phí
lƣu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia giảm mạnh, thị trƣờng trong nƣớc và thị trƣờng
nƣớc ngoài gần nhƣ thông nhau. Cái gọi là công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu và công
nghiệp hoá hƣớng về xuất khẩu không còn nguyên nghĩa nhƣ khái niệm ban đầu của nó.
Một sản phẩm cạnh tranh đƣợc trên thị trƣờng trong nƣớc cũng có khả năng cạnh tranh
trên thị trƣờng nƣớc ngoài và ngƣợc lại. Vì vậy, việc lựa chọn các ngành và sản phẩm để
phát triển phải căn cứ vào các yếu tố: lợi thế so sánh dài hạn; quy mô kinh tế đặt trong
quy hoạch liên vùng (để bảo đảm giảm chi phí cố định); dung lƣợng thị trƣờng (để bảo
93
đảm có đƣợc thị phần và tăng thị phần mà không bị các biện pháp tự vệ, điều tra chống
bán phá giá); mức giảm thuế và lộ trình giảm thuế theo cam kết (để đo sức ép cạnh tranh
của hàng nhập khẩu).
Đi đôi với việc phát triển một số ngành, sản phẩm theo các tiêu chí nêu trên cần
hết sức coi trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp nền tảng cho
công nghiệp hoá.
Hai là, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, khai thác năng lực toàn ngành,
nhằm duy trì mức tăng trƣởng sản xuất hợp lý. Tập trung phát triển các ngành, sản phẩm
có lợi thế cạnh tranh, có khả năng mở rộng thị trƣờng. Cần có biện pháp tổ chức sản xuất
thích hợp để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hƣớng gia tăng các
sản phẩm có hàm lƣợng chế biến, chế tạo; các sản phẩm xuất khẩu có giá trị lớn, có giá
trị gia tăng cao. Quan tâm khai thác các mặt hàng sử dụng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ,
sử dụng nhiều lao động nhƣ chế biến nông, lâm, thủy sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ công
mỹ nghệ. Theo phƣơng hƣớng ƣu tiên trên, từng ngành hàng chủ lực hay từng doanh
nghiệp có vai trò trọng yếu, cần xây dựng và thực hiện chƣơng trình sản xuất kinh doanh
thích hợp. Cùng với các ngành hàng, mỗi địa phƣơng, nhất là trong vùng trọng điểm có
những biện pháp cụ thể nhằm hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn đạt
mức tăng trƣởng cao. Trong khi chú trọng thúc đẩy sản xuất những mặt hàng chủ lực có
khối lƣợng và giá trị xuất khẩu lớn, cần phát triển các mặt hàng nhỏ, lẻ khác. Thực tế
năm qua các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã tạo ra hàng nghìn tỷ đồng sản phẩm; chỉ riêng
hàng trăm mặt hàng xuất khẩu có giá trị nhỏ của năm 2006 đã thu đƣợc hơn 6 tỷ USD,
tăng gần 50% so với năm trƣớc.
Phát triển mạnh và bền vững công nghiệp nông thôn không chỉ là một nhiệm vụ
trung tâm đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn mà còn là biện pháp quan
trọng chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm giữ vững thị
trƣờng trong nƣớc và xuất khẩu.
Gắn liền với hoạt động sản xuất, từng ngành hàng chủ lực cũng phải chăm lo củng
cố xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm hợp lý. Khai thác thị trƣờng trong nƣớc. Tăng
cƣờng xúc tiến thƣơng mại và chú trọng phát triển thị trƣờng xuất khẩu truyền thống, thị
trƣờng tiềm năng… tăng cƣờng vai trò của các hiệp hội ngành hàng.
94
Ba là, đẩy mạnh hoạt động đầu tƣ xây dựng các công trình công nghiệp để nâng
cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Đầu tƣ cho công nghiệp phụ trợ để nâng
cao tỷ lệ sử dụng nguyên, vật liệu trong nƣớc. Khuyến khích mở rộng các quan hệ liên
kết hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trong
vùng. Đầu tƣ vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và mở rộng hình thức liên kết
“bốn nhà”. Triển khai thực hiện có hiệu quả các nguồn vốn của Nhà nƣớc cần có giải
pháp quản lý chặt chẽ các nguồn vốn này theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đẩy mạnh thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào các dự án quy mô lớn, các dự
án công nghệ cao. Đối với đầu tƣ trong nƣớc, phải tạo mọi điều kiện và khuyến khích
mạnh mẽ các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tƣ kinh doanh, phát triển mạnh các doanh
nghiệp nhỏ và vừa trên khắp các địa bàn.
Đối với các khu công nghiệp, tiếp tục thực hiện các dự án đầu tƣ xây dựng cơ sở
hạ tầng, đáp ứng nhu cầu về mặt bằng sản xuất cho các nhà đầu tƣ; khuyến khích các
doanh nghiệp đang hoạt động bổ sung vốn đầu tƣ mở rộng và đầu tƣ chiều sâu để nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tƣ
nhanh chóng thực hiện dự án, sớm đƣa các doanh nghiệp đi vào hoạt động và tạo thêm
năng lực sản xuất mới trong năm.
Tập trung đầu tƣ và đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình trọng điểm, dự án
lớn, kể cả triển khai công tác chuẩn bị đầu tƣ xây dựng công trình trọng điểm cho những
năm sau.
Bốn là, tăng cƣờng hoạt động khoa học, công nghệ và đào tạo. Đẩy mạnh quá
trình đổi mới công nghệ toàn ngành đạt từ 15 đến 20%/năm; chú trọng phát triển và thu
hút công nghệ cao. Cùng với nhiệm vụ, giải pháp chung của toàn ngành, đối với từng
ngành hàng, nhất là những ngành chủ lực (các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn)
nhất thiết phải xác lập chƣơng trình ứng dụng khoa học công nghệ tiến bộ phù hợp với
mục tiêu chiến lƣợc phát triển của ngành, nhằm vào những hƣớng ƣu tiên nâng cao trình
độ áp dụng công nghệ cao, đổi mới công nghệ, tự động hóa sản xuất, áp dụng vật liệu
mới… để tăng nhanh năng lực sản xuất, nâng cao chất lƣợng sản phẩm, tiết kiệm nguyên
vật liệu, giảm chi phí sản xuất, hoàn thiện công tác quản trị, điều hành sản xuất….
Đi đôi với quá trình đổi mới công nghệ, cần xúc tiến thực hiện kế hoạch đào tạo
mới, đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, ngƣời lao động để nâng cao chất lƣợng nguồn
95
nhân lực, đáp ứng đủ nhu cầu cả về số lƣợng lao động cơ cấu ngành nghề, trình độ kỹ
thuật và tác phong công nghiệp cho công nhân trong các doanh nghiệp. Xây dựng hệ
thống trƣờng lớp đào tạo nghề với nhiều loại hình thích hợp (trƣờng chuyên nghiệp,
trƣờng cạnh doanh nghiệp hoặc trƣờng trong Khu công nghiệp, trƣờng liên kết giữa tổ
chức đào tạo và doanh nghiệp); tăng thêm đầu tƣ cơ sở vật chất đào tạo nghề kể cả thu
hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
3.2.1.10. Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, giữ vững chủ quyền quốc gia và định
hƣớng của sự phát triển
Tiền đề quan trọng và có ý nghĩa quyết định để thực hiện thắng lợi các chủ trƣơng
và giải pháp nêu trên là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ,
giữ vững chủ quyền quốc gia và định hƣớng của sự phát triển. Nâng cao nhận thức của
mọi tầng lớp xã hội về bản chất và nội dung của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới. Tạo ra
sự thống nhất trong nhận thức, thống nhất đánh giá, thống nhất hành động. Trên cơ sở đó
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, truyền thống yêu nƣớc và cách mạng,
ý chí tự lực tự cƣờng của mọi ngƣời Việt Nam nhằm tận dụng cơ hội, vƣợt qua thách
thức đƣa nền kinh tế nƣớc Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với doanh nghiệp Việt Nam
Nhƣ trên đã nói, chủ thể của tiến trình hội nhập và cạnh tranh là nhà nƣớc và
doanh nghiệp. Trong đó doanh nghiệp trực tiếp cạnh tranh với doanh nghiệp nƣớc ngoài
trên thị trƣờng trong và ngoài nƣớc. Có thể thấy rõ 4 điểm yếu của doanh nghiệp nƣớc
Việt Nam: số lƣợng doanh nghiệp ít; quy mô nhỏ, thiếu vốn; công nghệ sản xuất kinh
doanh nhìn chung lạc hậu; khả năng quản trị doanh nghiệp còn yếu kém. Những hạn chế
này có nguyên nhân khách quan của một nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp,
đang trong quá trình chuyển đổi. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải nhận thức
đƣợc các hạn chế yếu kém đó, có kế hoạch, giải pháp để khắc phục các yếu kém đó
nhằm tìm cho mình chỗ đứng vững chắc trong thƣơng trƣờng.
3.2.2.1. Triển khai thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp
Các đề án tái cơ cấu các doanh nghiệp vẫn đang đƣợc triển khai và thực hiện khá
rộng ở Việt Nam. Các mô hình Công ty mẹ-công ty con, mô hình tập đoàn không còn là
96
mới mẻ nữa. Các doanh nghiệp đã sẵn sàng đón nhận cuộc chơi bình đẳng giữa tất cả các
doanh nghiệp trong một xu thế hội nhập mới. Tuy nhiên, sự chuẩn bị cho cuộc chơi này
còn chƣa thật chủ động ở tất cả các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp định hƣớng,
dự báo đƣợc xu thế của thời cuộc và bắt đầu thay đổi từ nhiều năm nay, nhƣng có những
doanh nghiệp gần đây nhƣ là thờ ơ với thời cuộc và cũng có những doanh nghiệp nhận rõ
thời cuộc nhƣng không đủ khả năng để đối mặt với sự thử thách này. Vì thế để đẩy mạnh
quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp một cách sâu rộng và đồng bộ, các doanh nghiệp Việt
Nam cần phải:
Thứ nhất, tổ chức mời đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm phổ biến những quan
điểm về tái cơ cấu, tái lập doanh nghiệp đến các thành viên trong công ty để toàn bộ cán
bộ công ty thấy đƣợc sự cần thiết của quá trình này. Đồng thời quán triệt về nhận thức và
hành động trong các đơn vị thành viên để việc triển khai đề án tái cơ cấu thực sự đúng
trọng tâm, lộ trình và đạt hiệu quả. Kiên quyết áp dụng khi nhận thấy doanh nghiệp đã
hội tụ đầy đủ các điều kiện để thực hiện.
Thứ hai, cần đào tạo và trang bị cho đội ngũ lao động những kiến thức cần thiết
đẻ có khả năng thích ứng với mô hình mới, với những vấn đề mới sau khi tái cơ cấu
doanh nghiệp. Việc tái cơ cấu doanh nghiệp có ảnh hƣởng rất lớn đến ngƣời lao động.
Quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp bao gồm tái cơ cấu tổ chức và quản lý, tái cơ cấu tài
sản, tái cơ cấu sản phẩm, thị trƣờng, tái cơ cấu lao động…cho nên dù muốn hay không
muốn thì ngƣời lao động sẽ bị tác động rất mạnh. Để tránh cho ngƣời lao động có những
cứ “sốc” khi bị thuyên chuyển hoặc cắt giảm do quá trình tái cơ cấu lại tổ chức, thì
doanh nghiệp nên có sự chủ động trong vấn đề này, cụ thể:
Cung cấp cho ngƣời lao động những thông tin cần thiết liên quan đến lợi ích,
nghĩa vụ và trách nhiệm của họ để ngƣời lao động có kế hoạch chủ động trong
công việc của mình.
Trang bị cho ngƣời lao động những kiến thức cần thiết để có thể tiếp cận với
vị trí mới, với công việc mới sau khi tái cơ cấu doanh nghiệp.
Thứ ba, cần có định hƣớng xác định đúng thời điểm tái cơ cấu một cách hợp lý,
tránh quá sớm hoặc quá muộn. Thời cơ là một yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp
trong bất kỳ tình huống nào. Do vậy, doanh nghiệp nên phân tích đánh giá nội bộ để thấy
97
chu kỳ hoạt động, cũng nhƣ sự thay đổi của môi trƣờng kinh doanh và từ đó xác định
thời điểm và quyết định tái cơ cấu hợp lý nhất.
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp là một hƣớng tiếp cận
chuyển đổi doanh nghiệp mang tính thực tiễn rất cao. Nó có thể áp dụng cho các doanh
nghiệp từ yếu đến mạnh, có thể áp dụng từ tái cơ cấu từng phần đến tái cơ cấu toàn bộ.
3.2.2.2. Tăng cƣờng sự hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp
Thực tiễn cạnh tranh và yêu cầu tham gia vào quá trình phân công lao động quốc
tế, trở thành bộ phận của chuỗi giá trị toàn cầu sẽ cho phép và buộc các doanh nghiệp
Việt Nam phải mở rộng và tăng cƣờng các quan hệ hợp tác, gắn kết kinh tế ngày càng
sâu, rộng, chặt chẽ và toàn diện hơn. Các quan hệ kinh doanh theo mạng sẽ rất phát triển
và ngày càng trở nên phức tạp, với sự tham gia đồng thời của tất cả các doanh nghiệp với
đủ loại hình, quy mô, tính chất và trình độ phát triển khác nhau, ngày càng mang tính
liên cấp, liên ngành, ... trong sự tuân thủ các luật chơi và tiêu chuẩn chất lƣợng đồng
nhất. Mỗi doanh nghiệp sẽ vừa có sự chuyên môn hoá sâu trong sản xuất - kinh doanh,
vừa có sự năng động cao, sẵn sàng điều chỉnh, thay đổi đa dạng hoá các mẫu mã, sản
phẩm, lĩnh vực sản xuất kinh doanh trƣớc những biến động nhanh chóng của thị trƣờng
và đơn đặt hàng của đối tác.
Phải tăng cƣờng liên kết hợp tác theo chiều dọc và chiều ngang; xác lập quan hệ
bạn hàng và nhanh chóng hình thành hệ thống phân phối. Cần nhận thức rằng cạnh tranh
và hợp tác luôn song hành trong hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trƣởng.
Các tập đoàn tƣ bản tuy cạnh tranh với nhau gay gắt nhƣng cũng sẵn sàng hợp tác vì lợi
ích của chính họ. Doanh nghiệp của Việt Nam quy mô nhỏ, vốn ít càng cần phải tăng
cƣờng liên kết và hợp tác. Điều quan trọng là năng lực và bản lĩnh của ngƣời quản trị
doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải chọn cho đƣợc những ngƣời quản trị doanh
nghiệp có bản lĩnh và năng lực thực sự. Kinh doanh là nghề chấp nhận mạo hiểm. Chấp
nhận mạo hiểm hoàn toàn khác với làm liều. Chấp nhận mạo hiểm trên cơ sở thu thập và
xử lý đầy đủ thông tin, và dự kiến trƣớc những diễn biến của thị trƣờng. Phải tính đến rủi
ro có thể xảy ra và nếu xảy ra rủi ro thì thiệt hại sẽ đƣợc giới hạn và có khả năng khắc
phục. Làm đƣợc nhƣ vậy hiệu quả kinh doanh sẽ đƣợc bảo đảm, và trên cơ sở hiệu quả
kinh doanh mà tăng khả năng tích tụ vốn và huy động vốn trên thị trƣờng chứng khoán.
98
Kinh nghiệm cho thấy, có rất nhiều phƣơng thức liên kết, liên doanh hết sức
phong phú: giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau, giữa các doanh nghiệp nhỏ và
vừa với doanh nghiệp lớn, giữa doanh nghiệp trong nƣớc với doanh nghiệp có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài, kể cả các tập đoàn lớn, các công ty xuyên quốc gia,... Liên kết để hỗ trợ
nhau trong từng khâu của quá trình kinh doanh; cũng có thể liên kết để tăng quy mô
doanh nghiệp, hình thành những tập đoàn kinh tế lớn đủ sức đƣa doanh nghiệp, doanh
nhân Việt Nam ra thế giới. Liên kết trong khâu sản xuất là rất quan trọng, nhƣ giúp nhau
đổi mới công nghệ, trao đổi kỹ năng quản trị doanh nghiệp, giúp nhau tiền vốn ... song
việc liên kết trong cung ứng vật tƣ, nguyên liệu, trong tiêu thụ sản phẩm hàng hóa,...
cũng rất cần đƣợc quan tâm, vì chính những khâu này cũng giúp tăng thêm giá trị của
hàng hóa, và đây cũng là những khâu mà lâu nay doanh nghiệp nƣớc ta ít chú ý thực hiện
3.2.2.3. Củng cố cơ chế hoạt động của các hiệp hội ngành hàng
Trong thời gian qua, Việt Nam cũng đã thành lập đƣợc rất nhiều những hiệp hội
ngành hàng của các doanh nghiệp nhƣ hiệp hội dệt may, sắt thép, cà phê, than, cá ba
sa… Tuy nhiên so với mục đích thành lập, nhìn chung các hiệp hội này hoạt động chƣa
có hiệu quả, chƣa đƣa ra đƣợc các chính sách, chiến lƣợc thống nhất cho các doanh
nghiệp trong cùng ngành hàng nhằm bảo vệ quyền lợi cho chính các doanh nghiệp của
mình đồng thời tránh đƣợc sự cạnh tranh không lành mạnh với “ngƣời cùng một nhà”.
Vì thế, cần phải kiện toàn tổ chức và cơ chế hoạt động của các hiệp hội ngành
hàng, bảo đảm hiệp hội thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan nhà nƣớc,
hỗ trợ có hiệu quả cho doanh nghiệp trong việc phát triển thị trƣờng, xúc tiến thƣơng
mại, đào tạo nguồn nhân lực. Nâng cao trách nhiệm và đổi mới phƣơng thức hoạt động
của các cơ quan xúc tiến thƣơng mại, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nƣớc ngoài trong
việc hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trƣờng, thiết lập quan hệ bạn hàng, đẩy mạnh xuất
khẩu, phát triển du lịch và thu hút đầu tƣ.
Sau khi gia nhập WTO các tổ chức đoàn thể, hiệp hội ngành nghề của doanh
nghiệp cũng cần phải có sự phát triển, mở rộng quy mô, tính chất để trở nên có tính "mở"
hơn, mang tính thị trƣờng hơn, bao quát và thu hút ngày càng rộng rãi hơn các doanh
nghiệp hội viên, không phân biệt nguồn gốc sở hữu, loại hình tổ chức và tính chất ngành
nghề, địa phƣơng. Sự hợp tác, phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp sẽ ngày càng
99
tăng và củng cố trong kinh tế, đồng thời mở rộng dần sang lĩnh vực xây dựng chính sách,
cải thiện môi trƣờng đầu tƣ và cả các lĩnh vực chính trị - xã hội khác khác.
3.2.2.4. Các doanh nghiệp cần nâng cao khả năng cạnh tranh
Một là, từng doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế so sánh đã có và tạo ra lợi thế so
sánh mới cho mình. Ðể nâng cao khả năng cạnh tranh, ngoài những lợi thế về tài nguyên
thiên nhiên và vị trí địa lý là những yếu tố thuộc về lợi thế so sánh do thiên nhiên ban
tặng cho mỗi nƣớc, mà các doanh nghiệp đƣợc sử dụng; nƣớc ta còn có một yếu tố đƣợc
coi là lợi thế so sánh quan trọng. Ðó là giá công lao động rẻ so với nhiều nƣớc trong khu
vực và nhất là so với các thành viên phát triển. Tiền công lao động ở nƣớc ta giá chỉ
bằng một nửa của họ, thậm chí có ngành còn thấp hơn, trƣớc mắt chúng ta có thể tận
dụng cao nhất khả năng này trong cạnh tranh với các doanh nghiệp thành viên WTO
khác. Mặt khác, trong những năm tới, lao động kỹ thuật trình độ cao mới là loại lao động
mà "nền kinh tế tri thức cần đến". Do vậy, đông và rẻ không còn là lợi thế cho lực lƣợng
lao động của ta. Cần phải tự tạo ra lợi thế so sánh mới, lợi thế mới này mỗi doanh
nghiệp phải tự tìm và tạo ra cho mình từ chính những nguồn lực của mình.
Hai là, biết kết hợp tự mình nâng cao khả năng cạnh tranh và hợp tác với các
doanh nghiệp khác trong hệ thống. Các doanh nghiệp cần hiểu rằng để có thể thắng trong
cạnh tranh, để nâng cao năng lực cạnh tranh phải chọn cách cạnh tranh cho mình, thay vì
mạnh ai nấy làm. Mỗi doanh nghiệp đều phải nỗ lực tiến nhanh hơn đồng đội, đó là yêu
cầu của cạnh tranh; nhƣng đồng thời cũng sẵn sàng hợp tác với đồng đội vào lúc cần
thiết do yêu cầu của hợp tác cạnh tranh. Làm đƣợc điều đó, chúng ta sẽ tận dụng đƣợc cả
hai ƣu điểm của cạnh tranh và hợp tác. Cạnh tranh để có đƣợc sản phẩm tốt nhất và giá
hạ nhất (điều kiện sống còn của doanh nghiệp), hợp tác để hỗ trợ các doanh nghiệp trong
và ngoài hệ thống đều cùng phát triển (điều kiện sống còn của hệ thống doanh nghiệp).
Ba là, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ thƣơng mại. Để
hàng hoá và dịch vụ có sức cạnh tranh cao ở thị trƣờng WTO, đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tập trung đổi mới công nghệ, tăng cƣờng các biện pháp quản lý để đạt mục tiêu chất
lƣợng cao, giá thành hạ và tƣơng đối ổ định. Phải nâng cao nhận thức của mọi thành viên
trong từng doanh nghiệp, không chỉ từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý mà ngay cả đội ngũ
ngƣời lao động về ý nghĩa sống còn của việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm và nâng cao chất lƣợng sản phẩm.
100
Khơi dậy khả năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của từng cá nhân và tập thể nhằm tìm
cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên liệu, chi phí quản lý doanh
nghiệp... Ngoài ra, từng thành viên trong doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản
lý và đội ngũ lao động trực tiếp làm ra sản phẩm cần tự trau dồi, nâng cao trình độ
chuyên môn, trình độ tay nghề.
Với hiện trạng công nghệ và thiết bị sản xuất lạc hậu nhƣ hiện nay của các doanh
nghiệp Việt Nam đã dẫn tới tình trạng định mức tiêu hao về chi phí nguyên vật liệu lớn
và phát sinh thêm nhiều chi phí cho sửa chữa, bảo dƣỡng. Do đó, trƣớc mắt cần đẩy
mạnh đầu tƣ và thay thế một số loại thiết bị, máy móc sản xuất đã quá lạc hậu, cho năng
suất thấp và tiêu hao nhiều năng lƣợng. Tuy nhiên, trong điều kiện nhiều doanh nghiệp
còn thiếu vốn, tiềm lực tài chính chƣa đủ mạnh để đầu tƣ đồng bộ công nghệ và thiết bị
thì các doanh nghiệp này cần chủ động trong việc liên kết và hợp tác kinh doanh với
nhau. Sự hợp tác liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau sẽ giúp các
doanh nghiệp giảm thiểu những khó khăn về tài chính, công nghệ, vốn, thị trƣờng... và
đẩy mạnh nội lực phát triển cho doanh nghiệp.
Bốn là, các doanh nghiệp phải xác định đƣợc chiến lƣợc mặt hàng và chiến lƣợc
thị trƣờng đúng đắn. Các doanh nghiệp cần chọn những sản phẩm có thế mạnh, không
ngừng cải tiến nâng cao chất lƣợng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu tiêu
dùng ngày càng đa dạng và nâng cao của xã hội. Khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc
gia trong lựa chọn sản phẩm kinh doanh, hiện đại hóa khâu thiết kế sản phẩm, lựa chọn
hệ thống quản lý chất lƣợng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao
chiến lƣợc sản phẩm.
Doanh nghiệp cần quan tâm đến chiến lƣợc thích ứng hóa sản phẩm nhằm thoả
mãn đến mức cao nhất nhu cầu thị trƣờng. Trong chiến lƣợc kinh doanh, doanh nghiệp
còn phải tính đến việc phát triển các sản phẩm mới, phải xem xét thái độ đối với sản
phẩm của ngƣời tiêu dùng để kịp thời đƣa ra các giải pháp cần thiết. Doanh nghiệp cần
quán triệt sâu sắc việc coi trọng chiến lƣợc sản phẩm gắn với việc đổi mới sản phẩm, gắn
với chiến lƣợc nhãn hiệu và các chiến lƣợc dịch vụ gắn với sản phẩm.
Sản phẩm phải đảm bảo thích nghi và đáp ứng nhu cầu thị trƣờng về chất lƣợng,
kiểu dáng, mẫu mã và bao gói. Sự thích ứng của sản phẩm với một thị trƣờng phụ thuộc
vào 2 yếu tố cơ bản: mức độ chấp nhận ngƣời tiêu dùng cuối cùng và mức độ sẵn sàng
101
chấp nhận của các nhà sản xuất, của các khách hàng trung gian (nhà bán buôn, nhà bán
lẻ).
Năm là, tăng cƣờng công tác nghiên cứu thị trƣờng. Nghiên cứu thị trƣờng là
công việc cần thiết đầu tiên đối vời bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh.
Một doanh nghiệp không thể khai thác hết tiềm năng của mình cũng nhƣ không thể thoả
mãn đƣợc tất cả các nhu cầu của khách hàng nếu không có đƣợc đầy đủ các thông tin
chính xác về thị trƣờng. Thông qua việc nghiên cứu thị trƣờng, doanh nghiệp sẽ nắm
đƣợc những thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp
đang kinh doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phƣơng án chiến lƣợc và biện pháp
cụ thể đƣợc thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Quá trình nghiên cứu thị trƣờng là quá
trình thu thập thông tin, số liệu về thị trƣờng kinh doanh, phân tích so sánh số liệu đó và
rút ra kết luận, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp đối với các doanh nghiệp. Để công tác
nghiên cứu thị trƣờng đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp cần kết hợp cả hai phƣơng
pháp nghiên cứu tại bàn và phƣơng pháp nghiên cứu tại hiện trƣờng.
Doanh nghiệp nên tiến hành nghiên cứu thị trƣờng theo trình tự sau: xác định mục
tiêu nghiên cứu thị trƣờng, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu thị trƣờng, xác
định và lựa chọn phƣơng pháp nghiên cứu, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, thực hiện,
điều chỉnh kế hoạch và viết báo cáo.
Sáu là, hoàn thiện chiến lƣợc phân phối và tổ chức bán hàng. Nhiệm vụ phát triển
hệ thống kênh phân phối cần đƣợc xác lập và điều khiển bởi cấp quản lý cao nhất của
doanh nghiệp. Kênh phân phối cần đƣợc đầu tƣ về vật chất tiền bạc và nhân lực tƣơng
xứng với mục tiêu mà nó phải theo đuổi. Muốn vậy phải tiến hành phân tích toàn diện
các yếu tố nội tại của Công ty, các yếu tố thuộc về trung gian phân phối, thị trƣờng
khách hàng và các yếu tố khác thuộc môi trƣờng vĩ mô của kinh doanh. Cần kiên quyết
loại trừ những cách thức tổ chức và quản lý kênh đã quá lạc hậu và lỗi thời.
Sau khi thiết kế đƣợc một cơ cấu kênh phân phối tối ƣu, các doanh nghiệp phải
biến các mô hình này thành hiện thực, nghĩa là phát triển mạng lƣới phân phối và thực
hiện các biện pháp để điều khiển, quản lý nó. Trong quá trình phát triển mạng lƣới, tuyển
chọn, thu hút các thành viên kênh cũng nhƣ quá trình quản lý kênh, các doanh nghiệp
không chỉ đơn thuần đầu tƣ tiền bạc mà phải có những kế sách khôn ngoan kiên trì, mềm
dẻo, khai thác những khía cạnh văn hóa, tập quán truyền thống của ngƣời Việt Nam.
102
Tăng cƣờng công tác quảng cáo, xúc tiến bán hàng và các loại dịch vụ để kích
thích sức mua của thị trƣờng. Quảng cáo và tuyên truyền trong truyền tin và xúc tiến hỗn
hợp phải hƣớng đồng thời tới ba mục tiêu là: thông tin, thuyết phục và gợi nhớ. Tƣ tƣởng
chủ đạo của các thông điệp đƣa ra phải dựa vào nguồn gốc sản phẩm, gây chú ý đến điều
gì đó của sản phẩm đối với khách hàng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần quảng cáo
uy tín của doanh nghiệp và tính nổi trội của các dịch vụ đi theo.
3.2.2.5. Nâng cao chất lƣợng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực
Doanh nghiệp cần nâng cao chất lƣợng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực theo
hƣớng chuyên nghiệp hoá và công nghiệp hoá nhằm nâng cao năng suất lao động, qua đó
gián tiếp giảm chi phí hoạt động, có chính sách cụ thể về đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và
thƣờng xuyên đào tạo lại nguồn nhân lực; nhanh chóng tiếp cận và tiếp thu, áp dụng
những kỹ năng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp ở các nƣớc
phát triển.
Có những chính sách đãi ngộ cao về lƣơng bổng, tiền thƣởng hoặc đề bạt chức vụ
cho những nhân viên giỏi. Nhân viên giỏi là một trong những nhân tố quyết định chất
lƣợng của công việc, quyết định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Giữ nhân
viên giỏi là một vũ khí cạnh tranh đầy uy lực, đặc biệt là đối với các ngành công nghệ
cao và dịch vụ. Tầm quan trọng của việc giữ đƣợc các nhân viên giỏi đã đƣợc kiểm
chứng rõ ràng ở các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Tuy nhiên, đối với các
doanh nghiệp, tổ chức của Việt Nam thì điều này vẫn hoàn toàn mới. Vì vậy, tuyển dụng
và giữ nhân viên giỏi ở lại làm việc cho công ty là một trong những chiến lƣợc dài hạn,
đúng đắn đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp, hợp lý hoá quy trình sản xuất kinh doanh
nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động. Tăng cƣờng triển khai các hệ thống
quản lý sản xuất kinh doanh nhằm giảm rủi ro, giảm tỷ lệ sản phẩm kém chất lƣợng, tiết
kiệm chi phí; khi thác hiệu quả những tiện ích của công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng
dụng thƣơng mại điện tử, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cần đẩy
mạnh mối liên kết giữa ngƣời sản xuất-cung cấp nguyên, vật liệu đầu vào với doanh
nghiệp và các cơ quan nghiên cứu khoa học, nhằm tổ chức hiệu quả chuỗi cung ứng từ
khâu sản xuất nguyên, vật liệu đầu vào đến khâu tổ chức sản xuất hiệu quả, góp phần
103
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2.2.6. Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý
Để đổi mới, hoàn thiện hay lựa chọn mô hình tổ chức quản lý kinh doanh thích
hợp, hoàn thiện kỹ năng quản lý hiện đại của đội ngũ lãnh đạo, quản trị trong các doanh
nghiệp, cần phải thực hiện các biện pháp sau:
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức kinh
doanh của doanh nghiệp, cần có sự phân biệt tƣơng đối về tính chất, công việc của các
bộ phận, tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tập trung đầu tƣ chuyên
sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp một cách nhịp nhàng.
Điều chỉnh hợp lý tầm, hạn quản trị phù hợp với yêu cầu của đội ngũ cán bộ quản
lý trong doanh nghiệp với xây dựng mạng lƣới thông tin, xác định các quyết định đƣa ra
một cách chính xác, hiệu quả.
Đảm bảo thông tin trong nội bộ doanh nghiệp, đây là điều kiện quyết định sự tồn
tại của bất cứ một tổ chức nào. Đảm bảo thông tin thông suốt làm cho mọi thành viên
hiểu rõ đƣợc mục đích của tổ chức, có thể đạt đƣợc sự thống nhất giữa mục đích cá nhân
và mục đích của tập thể.
Để đảm bảo cho việc tổ chức truyền đạt thông tin đáp ứng những yêu cầu của
công tác quản lý, các doanh nghiệp cần trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, sử dụng các
phƣơng tiện truyền tin tiên tiến nhƣ sử dụng mạng máy vi tính. Cần giảm bớt việc sử
dụng các phƣơng tiện nhƣ văn bản, thƣ tín, các cuộc họp để truyền tin.
Duy trì và phát triển mối quan hệ ngang giữa các bộ phận trong tổ chức. Lãnh đạo
doanh nghiệp cần quan tâm đến vấn đề duy trì và phát triển mối quan hệ ngang giữa các
bộ phận trong doanh nghiệp, để hoạt động của các bộ phận này phối hợp ăn ý với nhau
nhằm thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp.
3.2.2.7. Xây dựng thƣơng hiệu vững mạnh
Thƣơng hiệu là một tài sản quý giá mà không phải doanh nghiệp Việt Nam nào
cũng nhận thức đƣợc. Vừa qua do không có thƣơng hiệu mà sản phẩm của nhiều công ty
Việt Nam khi xuất ra nƣớc ngoài đã phải chịu nhiều bất lợi nhƣ giá thấp hoặc phải bán
nhờ thƣơng hiệu của một hãng nƣớc ngoài nào đó. Do vậy, đầu tƣ xây dựng thƣơng hiệu
104
vững mạnh là việc làm cần thiết và cực kỳ quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt
Nam
Một là, doanh nghiệp phải phát triển sáng tạo nhãn hiệu. Các doanh nghiệp cần
trao việc hoạch định chiến lƣợc và sáng tạo nhãn hiệu cho các chuyên gia nhằm mục
đích là biến mình thành ngƣời thẩm định, sử dụng các dịch vụ tƣ vấn nhƣ: tƣ vấn sáng
tạo phát triển nhãn hiệu, tƣ vấn về pháp lý, tƣ vấn kinh doanh và hoạch định chiến lƣợc,
tƣ vấn về quảng cáo và truyền thông, giám sát các nhà cung cấp dịch vụ tƣ vấn. Việc sử
dụng dịch vụ này sẽ đƣa lại những điều tốt hơn cho doanh nghiệp.
Hai là, xây dựng thƣơng hiệu phải khơi dậy cảm xúc của khách hàng. Để xây
dựng một thƣơng hiệu đƣợc khách hàng tin cậy thì doanh nghiệp cần phải hiểu rõ ngƣời
khách hàng của mình hơn ai hết,và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm
cho mọi hoạt động.
Ba là, doanh nghiệp phải coi thƣơng hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Để
làm đƣợc điều này, trƣớc tiên phải mở rộng thƣơng hiệu bằng cách sử dụng thƣơng hiệu
đã thành danh của sản phẩm này cho một loại sản phẩm khác có chung kỹ năng, hoặc tạo
ra một sản phẩm mới bổ sung cho sản phẩm đã có để làm tăng sự hài lòng và mức độ
cảm nhận của khách hàng mục tiêu với sản phẩm đó.
Bốn là, nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Các doanh nghiệp
cũng cần nhận thức rằng mình là chủ thể trong các quan hệ về sở hữu trí tuệ. Các nhãn
hiệu, kiểu dáng hàng hóa xuất khẩu là tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, việc đăng ký sở
hữu công nghiệp, đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của thƣơng hiệu tại các thị trƣờng mà doanh nghiệp có chiến lƣợc đầu tƣ kinh
doanh là rất cần thiết.
105
KẾT LUẬN
Nhìn chung tác động của việc cắt giảm thuế quan theo cam kết với WTO đối với
nhóm các sản phẩm công nghiệp lớn hơn đối với các nhóm hàng nông nghiệp do năng
lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp còn thấp. Nhóm sản phẩm dệt may, giày dép
thuộc lại có năng lực cạnh tranh khá nhất trong các ngành công nghiệp, những với sự
chênh lệch giữa mức thuế bảo hộ MFN 40%-50% so với mức thuế tự do thƣơng mại khu
vực ở mức 0-5% sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh khá lớn. Tác động có tính nghiêm trọng hơn
về cơ cấu sản xuất và hiệu quả đầu tƣ sẽ thuộc về ngành giấy, xi măng, thép phân bón.
Tuy nhiên, với chiến lƣợc lấy xuất khẩu làm động lực phát triển nền kinh tế thì việc gia
nhập WTO đƣợc xem là động lực thứ hai để tăng cƣờng cải cách và tăng trƣởng kinh tế.
Để đảm bảo quá trình hội nhập kinh tế thành công và tự do thƣơng mại hàng hóa,
đồng thời thúc đẩy đƣợc nền kinh tế phát triển từ những lợi thế của riêng mình, Việt
Nam cần xác định cụ thể và tập trung vào một số mặt hàng có khả năng đầu tƣ và phát
triển ngang tầm với khu vực và quốc tế trong vòng 10 năm. Bất kỳ sự đầu tƣ dàn trải
trong phạm vi rộng sẽ đều không thể đáp ứng kịp thời với lộ trình giảm thuế đang diễn ra
hàng năm và trong phạm vi không quá 10 năm.
Chính vì vậy, việc tiến hành nghiên cứu và tìm ra các giải pháp thúc đẩy phát
triển nền kinh tế Việt Nam, thực hiện đúng lộ trình các cam kết của Việt Nam khi gia
nhập WTO là một việc hết sức quan trọng, làm tiền đề vững chắc trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Luận văn đã đi sâu nghiên cứu, tập trung giải quyết và hoàn thành các mục tiêu cơ
bản đặt ra:
Một là, phân tích rõ các quy định, quan điểm về thuế của WTO với mục đích tự
do hoá thƣơng mại toàn cầu. Đây là cơ sở để Việt Nam đƣa ra đƣợc những chính sách,
quyết sách phù hợp tránh tình trạng đi ngƣợc lại với quan điểm của WTO và cam kết của
Việt Nam.
Hai là, hệ thống một cách khoa học và cụ thể các cam kết chính thức của Việt
Nam khi gia nhập WTO nói chung và đặc biệt là các cam kết thuế quan. Trên cơ sở đó,
luận văn đã có những đánh giá cụ thể các tác động của cam kết của Việt Nam đối với
nền kinh tế từ chính phủ tới doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng, từ các ngành kinh tế công
106
nghiệp, thƣơng mại đầu tƣ đến ngành nông nghiệp và lĩnh vực đầu tƣ. Sau đó tổng hợp
tình hình phát triển kinh tế những tháng đầu sau khi gia nhập WTO và tình hình thực
hiện cắt giảm thuế quan của Việt Nam theo lộ trình đã cam kết, qua đó có thể thấy đƣợc
một phần tác động của việc thực hiện các cam kết của Việt Nam tới sự phát triển của nền
kinh tế trong tƣơng lai gần.
Ba là, đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia
của Việt Nam nói chung và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nói riêng
khi thực hiện cắt giảm thuế quan theo lộ trình.
Với tâm huyết là một công dân của Việt Nam, muốn đóng góp một chút công sức
nhỏ bé của mình cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nƣớc, tác giả đã cố gắng nghiên cứu
để hoàn thành luận văn trên. Do điều kiện công tác, thời gian nghiên cứu hạn chế, kiến
thức chuyên môn về lĩnh vực thuế quan, tầm nhìn vĩ mô còn nhiều hạn chế nên luận văn
khó tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Tác giả rất mong nhận đƣợc những ý kiến
đóng góp quý báu của các nhà khoa học, các chuyên gia để luận văn đƣợc hoàn thiện
hơn, có ý nghĩa thiết thực hơn trong việc áp dụng vào thực tế.
107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Báo điện tử Vietnamnet (2007), Thực hiện cam kết WTO: Những mặt hàng
đầu tiên giảm giá. Trang web điện tử
666318/.
2. Báo điện tử Tin nhanh Việt Nam (2006), Công bố toàn văn cam kết WTO.
Trang web
11/3B9F0224/.
3. Bộ Công nghiệp (2006), Cam kết về thuế khi vào WTO: Cắt giảm ngay những
mặt hàng thuế suất cao 20% - 30%. Trang web điện tử của Bộ Công nghiệp
4. Bộ Công nghiệp (2006), Cơ chế kiểm điểm chính sách thƣơng mại của WTO
và các cam kết của Việt Nam. Trang web điện tử của Bộ Công nghiệp
5. Bộ Công nghiệp (2006), Tác động của gia nhập WTO đối với phát triển kinh
tế Việt Nam. Trang web điện tử của Bộ Công nghiệp
BForum/detail.asp?Cat=12&id=1491
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2006), Đánh giá quốc tế về kinh tế Việt Nam năm
2005. trang web Bộ kế hoạch và Đầu tƣ
aspx?lang=4&ma_tinvan=10086.
7. Bộ Tài chính (2006), Cắt giảm thuế nhập khẩu có ảnh hưởng đến thu ngân
sách?. Trang web điện tử của Bộ Tài chính
aspx? tabid =612&ItemID=38934.
8. Bộ Tài chính (2006), Không đáng ngại khi cắt giảm thuế nhập khẩu. Trang
web điện tử của Bộ Tài chính
=612&ItemID=39640.
9. Bộ Tài chính (2006), Gia nhập WTO: Thuế sẽ cắt giảm như thế nào? Trang
Web điện tử của Bộ Tài chính
=612&ItemID=36711.
108
10. Bộ Tài chính (2006), Văn kiện và biểu thuế gia nhập WTO của Việt Nam. Nhà
xuất bản Tài chính. Hà Nội.
11. Cổng Thông tin Kinh tế Việt Nam (2006), Nâng cao chất lượng dịch vụ để
hội nhập WTO, Trang Web
distid=133&lang=vi-VN.
12. Diễn đàn doanh nghiệp (2006), Gia nhập WTO: Thách thức với nông nghiệp
và đói nghèo ở Việt Nam. Trang web
Detail.aspx?distid=101&lang=vi-VN.
13. Nguyễn Tấn Dũng (2007), Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, cơ hội –
thách thức và hành động của chúng ta. Trang web:
Vietnam/Kinh-doanh/Duong-vao-WTO/2006/11/3B9F0266/
14. Quốc Đạt (2005), Giải đáp các vấn đề về thủ tục gia nhập WTO. Nhà xuất
bản Thế giới. Hà Nội
15. Cao Duy Hạ (2007), Một số giải pháp để các doanh nghiệp nước ta vượt qua
thách thức. Trang web báo Nhân dân
tinbai/?top=38&sub=151&article=88169.
16. John H. Jackson. (2001) (Phạm Viêm Phƣơng và Huỳnh VănThanh dịch). Hệ
thống thương mại thế giới - Luật và chính sách về các quan hệ kinh tế quốc
tế. Nhà xuất bản Thanh niên
17. Bảo Khánh (2007), Các doanh nghiệp Việt Nam với vấn đề bảo hộ sở hữu
công nghiệp trong thương mại quốc tế. Tạp chí Cộng sản điện tử, số 123.
18. Võ Đại Lƣợc (2006), Trung Quốc sau khi gia nhập WTO: Thành công và
thách thức. Nhà xuất bản Thế giới. Hà Nội.
19. Bùi Xuân Lƣu (2006), Bảo hộ hợp lý sản xuất và mậu dịch nông sản trong
quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Trang Web của Bộ Thƣơng mại
at.asp
20. Ngọc Minh (2007), Kinh tế Việt Nam sau hai tháng gia nhập WTO. Trang
web
21. Nguyễn Minh (2007), Công nghiệp năm 2007 với những giải pháp nâng cao
tốc độ tăng trưởng và phát triển bền vững. Viện Kinh tế TP Hồ Chí Minh,
109
&id=4042.
22. Nguyễn Bá Ngọc (2005), WTO thuận lợi và thách thức cho các doanh nghiệp
Việt Nam. Nhà xuất bản Lao động – xã hội. Hà Nội.
23. Nhà xuất bản Lao động – xã hội (2006), Thời cơ và thách thức khi gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Hà Nội.
24. Nhà xuất bản Lao động – xã hội (2006), Những quy định về WTO (tập 1-2).
Hà Nội.
25. Bùi Hữu Sơn, Nguyễn Hoài Sơn, Ngô Viết Sơn, Nguyễn Duy Lợi (2004), Các
vấn đề chính về cắt giảm thuế quan trong hội nhập khu vực và đàm phán gia
nhập WTO của Việt Nam. Chƣơng trình hỗ trợ Chính sách thƣơng mại đa
biên, Bộ Thƣơng mại. Hà Nội
26. Bùi Tất Thắng (2006), WTO Thường thức. Nhà xuất bản từ điển bách khoa.
Hà Nội.
27. Nguyễn Vĩnh Thanh (2005), Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
KinhDoanh-QTDN/Doanh-Nghiep/Nang-cao-nang-luc-canh-tranh-DN-VN/
28. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia (2006), Nông nghiệp
hội nhập WTO: nhiều cơ hội nhưng cũng lắm thách thức. Trang web
29. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia (2006), Ngành nông
nghiệp được gì khi vào WTO? Trang web
Default.aspx?mod=News&cat=73&nid=2018
30. Uỷ ban quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế (2006), Sẽ được mua hàng Tết
giá rẻ nhờ giảm thuế. Trang web
31. Uỷ ban quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế (2005), Tác động của các Hiệp
định WTO đối với các nước đang phát triển. Trang web
32. Nguyễn Quốc Vọng (2005), Những thách thức mới của nông nghiệp Việt
Nam. Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh,
hochiminhcity.gov.vn/xemtin.asp?idcha=3253&cap=3&id=3279.
110
Tiếng Anh
1. World Trade Organization. (2007).
Trade _Organization.
LỜI CẢM ƠN CỦA TÁC GIẢ
Nghiên cứu các cam kết của Việt Nam, đặc biệt là các cam kết về thuế quan khi
gia nhập WTO và lộ trình thực hiện các cam kết đó đang là vấn đề mang tính thời sự.
Việc nghiên cứu một cách chi tiết, khoa học sẽ giúp cho người trong cuộc (Nhà nước,
doanh nghiệp và người tiêu dùng) có được sự chủ động cần thiết trong sân chơi của
WTO, có thể thấy trước được các tác động tích cực, tiêu cực trong quá trình thực hiện
các cam kết nhằm đưa ra được các giải pháp phù hợp và hiệu quả.
Luận văn được viết dựa trên việc nghiên cứu tài liệu, sách, các bài viết, các
nguồn tin trên internet của các tác giả trong và ngoài nước, qua đó tổng hợp các thông
tin, các số liệu để trình bày một cách hệ thống, khoa học các cam kết của Việt Nam, các
tác động của nó và đồng thời đưa ra những nhận định chủ quan về các cam kết đó.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, những kiến thức đóng góp
quý báu của Thầy giáo hướng dẫn PGS. TS. Vũ Sỹ Tuấn trong quá trình nghiên cứu và
viết luận văn.
Tuy nhiên, do kiến thức chuyên môn về lĩnh vực thuế quan, về kinh tế vĩ mô còn
nhiều hạn chế nên nhiều vấn đề trong luận văn vẫn chưa được đề cập một thấu đáo và
chi tiết. Tác giả, với tinh thần cầu thị, xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp của
các nhà khoa học, các chuyên gia và bạn đọc để luận văn được hoàn thiện hơn và có ý
nghĩa thiết thực trong việc áp dụng vào thực tế.
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2007
TÁC GIẢ
Lưu Xuân Mậu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3103_7109.pdf