Chính sách phát triển công nghiệp phải gắn kết chặt chẽ với chính sách
và giải pháp phát triển các nghành và các lĩnh vực khác, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn
nhau, tạo nên sự phát triển đồng bộ trong đời sống kinh tế, xã hội. Đặc biệt
quan tâm xây dựng quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, giúp đỡ nhau cùng
phát triển giữa công nghiệp và nông nghiệp , thành thị và nông thôn , công
nhân nông dân và trí thức trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá .
17 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2430 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất
I.Đặt vấn đề.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì xã hội loài người là do
thượng đế sáng tạo ra, lịch sử xã hội là do những cá nhân anh hùng kiệt xuất,
những tư tưởng siêu việt quyết định. Chủ nghĩa duy vật lịch sử hoàn toàn bác
bỏ quan điểm duy tâm phản khoa học đó mà cho rằng quy luật của lịch sử xã
hội không phải do của quan của con người tạo ra. Phương thức sản xuất mới là
yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội theo những quy luật nhất định. Đã có
nhiều nhà nghiên cứu bằng thực tế và kinh nghiệm đã đề cập tới vấn đề quan hệ
sản xuất và tư liệu sản xuất.Với bản thân em, là một sinh viên trường đại học
kinh tế quốc dân, kiến thức còn hạn chế, em xin được đề cập tới vấn đề quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay tại việt nam.
Chúng ta đều biết sản xuất vật chất trong mỗi giai đoạn lịch sử được biểu hiện ở
một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con
người làm ra của cải vật chất. Đó là nhân tố quyết định tính chất, kết cấu của xã
hội, quyết định sự vận động phát triển của xã hội. Và chúng ta cũng biết rằng,
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai nhân tố hợp thàà nh phương tt hứcc
ss ảả n xuấấ tt ,, haa ii mặặ tt cc ủaa quáá tt rr ìì nh ss ảả n xuấấ tt .. Quy ll uậậ tt vềề ss ự phù hợp ccủaa quaan hệệ ss ảản
xuấấ tt vớii tt íí nh cchấấ tt vàà tt rr ìì nh độ cc ủaa ll ựcc ll ượng ss ảản xuấấ tt ll àà mộtt quy ll uậậ tt cc hung nhấấ tt
cc ủaa ll ịị cch ss ử xãã hộii ,, quy ll uậậ tt vềề ss ự vậậ n động,, pháá tt tt rr ii ểể n cc ủaa xãã hộii .. Sự vậậ n động vàà
pháá tt tt rr ii ểể n cc ủaa xãã hộii ll àà vấấ n đềề quaan tt rr ọng màà mọii ngườii đềề u quaa n tt ââm.. Do vậậ y đểể
tt hấấ y đượcc ss ự vậậ n động,, pháá tt tt rr ii ểể n cc ủaa xãã hộii cc ầầ n phảả ii nắắm đượcc quy ll uậậ tt vềề ss ự
phù hợp ccủaa quaan hệệ ss ảả n xuấấ tt vớii tt íí nh cchấấ tt vàà tt rr ìì nh độ cc ủaa ll ựcc ll ượng ss ảả n xuấấ tt đểể
tt ừ đó ứng dụng vàà o nềề n kii nh tt ếế xãã hộii ,, tt húcc đẩẩ y nềề n kii nh tt ếế pháá tt tt rr ii ểển,, đổii mớii xãã
hộii .. Xuất phát
từ vai trò quan trọng đó của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
và trình độ của lực lượng sản xuất, em xin được đưa ra một
số một số ý kiến của bản thân mình dựa trên quan niệm của một số nhà triết học
về vấn đề này với hi vọng được hiểu sâu hơn về vấn đề.
II.Giải quyết vấn đề.
1. Quan điểm triết học về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1.1 Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là phạm trù biểu hiện quan hệ giữa con người với
giới tự nhiên .Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của loài người . Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong
quá trình tác động vào giới tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn
tại và phát triển của loài người .
Lực lượng sản xuất gồm nhiều yếu tố hợp thành và chúng có quan hệ
khăng khít với nhau :
-Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra , trước hết là công cụ lao động .
-Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất , thói quen lao động ,
biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất (trí lực và thể lực).
Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong
tư liệu lao động có công cụ lao động và những tư liệu lao động khác cần thiết
cho việc vận chuyển và bảo quản sản phẩm ...
Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có một bộ
phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất .Con người không chỉ tìm ra
trong giới tự nhiên những đối tượng lao động . Sự phát triển của sản xuất có
lien quan đến việc đưa những đối tượng lao động ngày càng mới vào quá trình
sản xuất . Điều đó hoàn toàn có tính quy luật bởi chính những vật liệu mới mở
rộng khả năng sản xuất của con người .
Tư liệu lao động là vật thể hay là phức hợp vật thể mà con người đặt
giữa mình với đối tượng lao động , chúng dẫn truyền sự tác động của con người
vào đối tượng lao động . Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố
vật chất của quá trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất .
Trong tư liệu lao động , công cụ lao động là hệ thống xương cốt và bắp
thịt của sản xuất . Trong quá trình sản xuất công cụ lao động luôn luôn được cải
tiến . Nó là yếu tố động nhất và cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất .Cùng
với sự cải tiến và hoàn thiện công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất của loài
người cũng được phát triển và phong phú thêm, những nghành sản xuất mới
xuất hiện , sự phân công lao động phát triển .
Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao động
là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người , là cơ sở xác định trình
độ phát triển của sản xuất , là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các
thời đại kinh tế .
Đối với những thế hệ mới ,những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại
trở thành điểm xuất phát của sự phát triển tương lai .Vì vậy , những tư liệu đólà
cơ sở sự kế tục của lịch sử .
Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao
động , khi chúng kết hợp với lao động sống . Chính con người với trí tuệ và
kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động và sử dụng nó để thực hiện
sản xuất . Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu nhưng nếu tách khỏi
người lao động thì cũng không thể phát huy được tác dụng , không thể trở thành
lực lượng sản xuất của xã hội . Lênin viết :”Lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn thể nhân loại là công nhân , là người lao động “.
Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng .
Sự hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí thông minh , sự hiểu
biết , kinh nghiệm của con người , đồng thời bản thân những phẩm chất của con
người những kinh nghiệm và thói quen của họ đều phụ thuộc vào tư liệu sản
xuất hiện có , phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng những tư liệu lao động nào. Không
có nền đại công nghiệp thì không thể có người công nhân hiện đại .Sự phụ
thuộc về trình độ , kinh nghiệm , thói quen của người sản xuất vào kĩ thuật sản
xuất là một trong những biểu hiện sự phụ thuộc của nhân tố chủ quan vào nhân
tố khách quan , nhân tố con người sản xuất vào nhân tố vật chất của sản xuất .
Hơn nữa , con người không chỉ sử dụng những công cụ hiện có mà còn sáng
chế ra những tư liệu lao động mới . Những tư liệu lao động này là lực lượng vật
chất của tri thức con người . Những tri thức khoa học , những kinh nghiệm ,
thói quen của con người đều cần thiết để hoàn thiện kĩ thuật , phương pháp sản
xuất. Như vậy , sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu
lao động thích ứng với bản thân con người , với sự phát triển văn hoá , khoa học
,kĩ thuật của họ.
Năng suất lao động xã hội là thước đo trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất . Đồng thời ,xét đến cùng nó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng
lợi của một trật tự xã hội mới.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra bước nhảy
vọt lớn trong lực lượng sản xuất . Vị trí của khoa học trong lực lượng sản xuất
ngày càng tăng . Thực chất của cuộc cách mạng đó là ở chỗ mở ra kỉ nguyên
mới của sản xuất tự động hoá với việc phát triển và ứng dụng điều khiển học và
vô tuyến điện tử . Khoa học trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn
trong kĩ thuật sản xuất tạo ra những nghành sản xuất mới , kết hợp khoa học kĩ
thuật thành một thể thống nhất, đưa đến những phương pháp công nghệ mới
đem lại hiệu quả cao trong sản xuất , phát hiện và đề ra hàng loạt các phương
pháp khai thác các nguồn năng lượng mới , chế tạo những vật liệu mới mà trước
kia loài người chưa biết tới , tạo ra sự thay đổi trong chức năng của người sản
xuất .Con người không còn thao tác trực tiếp trong hệ thống kĩ thuật mà chủ yếu
là sáng tạo và điều khiển quá trình đó một cách tự động , tri thức khoa học trở
thành một tất yếu trong hoạt động của người sản xuất thay cho thói quen và
kinh nghiệm thông thường ; tri thức khoa học được vật chất hoá , được kết tinh
vào mọi nhân tố của lực lượng sản xuất , từ đối tượng lao động , tư liệu lao
động , kĩ thuật , phương pháp công nghệ đến tri thức của con người –“khoa học
học hoá sản xuất “.
Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà thành phần người
cấu thành ;ực lượng sản xuất cũng thay đổi . Người lao động trong lực lượng
sản xuất không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà còn bao gồm cả
kĩ thuật viên , kĩ sư và cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất .
1.2 Quan hệ sản xuất .
Quan hệ sản xuất là phạm trù chỉ mối quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất .
Cũng như lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống
vật chất của xã hôị, nó tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người .
Mác viết :”Trong sự sản xuất ra đời sống của mình, con người ta có
những quan hệ nhất định ,tất yếu không phụ thuộc vào ý muốn của họ. Tức là
những quan hệ sản xuất , những quan hệ ấy phù hợp với một trình độ nhất định
của các lực lượng sản xuất vật chất của họ.”
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế-xã
hội . Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một hình thái
kinh tế – xã hội nhất định .
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây :
-Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất .
-Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý.
-Quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản phẩm lao động .
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau , trong đó quan hệ thứ nhất
có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những quan hệ khác .Bản chất của bất kì
quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ
yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất : sở hữu tư nhân và sở
hữu xã hội .
Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế hiện thực giữa
người với người trong xã hội .
Đương nhiên , để cho tư liệu sản xuất không trở thành “vô chủ”,phải có
chính sách và cơ chế rõ ràng để xác định chủ thể sở hữu và sử dụng đối với
những tư liệu sản xuất nhất định .
Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất ,
quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những
quan hệ này có thể góp phần củng cố quan hệ sở hữu cũng có thể làm biến dạng
quan hệ sở hữu.
Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong
một phương thức sản xuất nhất định . Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị mỗi
hình thái kinh tế – xã hội , và quyết định tính chất , bộ mặt hình thái kinh tế xã
hội ấy . Vì vậy , khi nghiên cứu , xem xét tính chất của một hình thái kinh tế xã
hội nào thì không thể chỉ nhìn ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà
còn phải xét đến tính chất của các quan hệ sản xuất .
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất.
2.1Mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất , chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình
thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người –quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất . Quy luật
này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản voà sự phát triển
của lực lượng sản xuất . Đến lượt mình , quan hệ sản xuất tác động trở lại đối
với lực lượng sản xuất .
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của quá trình sản xuất ra
sản phẩm . Quá trình này phụ thuộc tính chất của tư liêụ sản xuất và lao động
.Lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất
là sử dụng công cụ thủ công và tính chất của lao động là lao động riêng lẻ.
Những công cụ sản xuất như búa ,rìu, cày ,bừa, xa quay sợi...do một người sử
dụng để sản xuất vật dùng,không cần tới lao động tập thể , lực lượng sản xuất
có tính chất cá nhân . Khi máy móc ra đời đòi hỏi phải có nhiều người mới sử
dụng được , để làm ra một sản phẩm cần phải có sự hợp tác của nhiều người.
Mỗi người làm một bộ phận công việc mới hoàn thành được sản phẩm ấy cho
nên lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá .
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao
động , của kĩ thuật , trình độ kinh nghiệm , kĩ năng của người lao động, quy mô
sản xuất , trình độ phân công của lao độnh xã hội... Trình độ lực lượng sản xuất
càng cao thì sự phân công càng tỉ mỉ. Trình độ phát triển của phân công lao
động thể hiện rõ ràng nhất trình độ của các lưc lượng sản xuất .
Quan hệ sản xuất được hình thành ,biến đổi, phát triển do lực lượng sản
xuất quýêt định.
Trong quá trình sản xuất , để lao đông bớt mệt nhọc và đạt hiệu quả cao
hơn , con người luôn luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động va chế
tạo ra những công cụ lao động mới,tinh xảo hơn.Cùng với sự biến đổi và phát
triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kĩ
năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ.Lực lượng sản
xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất . Còn quan hệ sản xuất là
yếu tố tương đối ổn định,có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực
lượng sản xuất.Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn
quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó.Trong mối quan hệ giũa nội dung và
hình thức thì nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc vào nội
dung;nôi dung thay đổi trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo.Tất nhiên,
trong quan hệ với nội dung, hình thức không phải là mặt thụ động, nó cũng tác
động trở lạiđối với việc phát triển của nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất ,quan hệ sản xuất cũng
hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lưc lượng sản
xuất .Sự phù hợp đó là động lực làm cho lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ
.Nhưng lực lượng sản xuất luôn phát triển còn lực lượng sản xuất có xu hướng
tương đối ổn định .Khi lưc lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới
,quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa ,trở thành chướng ngại đối với
sự phát triển của nó,sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương
thức sản xuất .Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến viêc xoá bỏ quan hệ
sản xuất cũ,thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất
,trình độ mới của lực lượng sản xuất,mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển.
Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ,thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới
cũng có nghĩa là sự diệt vong của một quan hệ sản xuất lỗi thời và sự ra đời của
một phương thức mới.Trong xã hội có giai cấp đối kháng,mâu thuẫn giữa quan
hệ sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của các cuộc
đấu tranh giai cấp,đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã
hội.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài người.Sự tác
động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội thấp
lên hình thái kinh tế –xã hội khác cao hơn.
2.2 Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lưc lượng sản
xuất .
Sự hình thành ,biến đổi ,phát triển của quan hệ sản xuất đối với lực
lượng sản xuất .Nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lương sản
xuất dựa vào đó phát triển,nó tác động trở lại đối với lự lượng sản xuất: có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lương sản
xuất phát triển.Ngược lại ,quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất,bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng
sản xuất thì trở thành “xiềng xích trói buộc”,kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất .Song tác dụng đó chỉ là tạm thời,theo tính tất yếu khach quan
,cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất .
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất(thúc đẩy hoặc kìm hãm ) ,vì nó quy định mục đích của sản xuất ,quy
định hệ thống tổ chức,quản lý sản xuất và quản lý xã hội ,quy định phương
thức phân phối phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng .Do đó
,ảnh hưởng đến thái độ của quảng đạt quần chúng lao động-lực lượng sản xuất
chủ yếu của xã hội ;nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc
cải tiến công cụ lao động ,áp dụng nhũng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản
xuất,hợp tác và phân công lao động ...
Tuy nhiên ,không được hiểu một cách đơn giản tính tích cực của quan
hệ sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu .Mỗi kiểu quan hệ sản
xuất là một hệ thống ,một chỉnh thể hữu cơ gồm cả ba mặt :quan hệ sở hữu
,quan hệ quản lý và quan hệ phân phối .Chỉ trong chỉnh thể đó,quan hệ sản xuất
mới trở thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất.
2.3 Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình đọ của lực lượng sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội .Sự
tácđộng của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản
xuất công xã nguyên thuỷ ,chiếm hữu nô lệ, phong kiến ,tư bản chủ nghĩa và
phương thức sản xuất cộng sản tươn lai.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất là quy luật vận động ,phát triển của xã hội qua sự thay
thế kế tiếp nhau từ thấp lên cao của các phương thức sản xuất.Nhưng không
phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua các phương thức sản
xuất mà loài người đã biết đến.Thực tế lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy
,tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể, một số nước có thể bỏ qua một hoặc một số
phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất mới cao hơn.Đó chính là
sự biểu hiện của quy luật chung trong điều kiện cụ thể của mỗi nước.Quy luật
chung chi phối hướng vận động, phát triển của tất cả các nước . Còn hình thức,
bước đi cụ thể lại tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
2.4 ứng dụng
ở nước ta,sau hoà bình lập lại ở miền Bắc năm 1954 và cả nước thống
nhất 1975,chúng ta đã tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
. Và buổi đầu, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,chúng ta đã xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Trong điều kiện
chiến tranh, mô hình đó dần dần bộc lộ những hạn chế của nó và đã dẫn đến
những khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế-xã hội.
Đứng trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
cộng sản Việt Nam đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước.Đổi mới không phải
la thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức cho đúng mục tiêu và
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đó
không phải là bỏ qua những bước đi tất yếu ,hợp quy luật.Chúng ta tiến từng
bước vững chắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:” Bước ngắn bước dài tuỳ
theo hoàn cảnh ,đi bước nào vững vàng,chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần,
không thể làm mau chóng mà phải làm dần dần”
Đảng cộng sản Việt Nam đã định ra đường lối chuyển từ mô hình kế
hoạch hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là phù hợp với đặc
điểm phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta trong điều kiện hiện nay.
Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất trong nước,thúc đẩy quá
trình phân công lao động trong nước và gắn phân công lao động trong nước với
quốc tế và khu vực,thúc đảy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần( Kinh tế tư nhân, kinh tế Nhà
nước,kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế hộ gia đình),mọi công
dân được tự do làm ăn công khai ,hợp pháp và được lựa chọn hình thức phù
hợp với trình độ của mình.Sự tồn tại,phát triển nhiều loại hình sản xuất kinh
doanh là cần thiết khách quan và có tính quy luật.Sự phát triển đan xen sẽ thúc
đẩy được quá trình xã hội hoá sản xuất,sử dụng một cách tối ưu nguồn lực vốn,
lao động, kỹ thuật, khắc phục tình trạng tự cấp tự túc.Trong điều kiện lực lượng
sản xuất nước ta còn yếu thì sự liên kết hợp tác giữa các thành phần là đặc biệt
cần thiết.Lực lượng này nếu được thu hút vào các loại hình liên kết sản xuất
kinh doanh thì sẽ huy động được mọi lực lượng lao động xã hội vào sản xuất
kinh doanh. Tuy nhiên, trong thành phần đa dạng và phức tạp ta chủ trương chú
trọng đặc biệt vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, hạn chế tính tự phát vốn
có cuả kinh tế tư nhân , cá thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý của Nhà
nước về kinh tế.Trên thực tế nước ta hiện nay, ngày càng xuất hiện nhiều doanh
nghiệp liên doanh,công ty cổ phần,tuy nhiên Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ
đạo. Cơ cấu kinh tế đa dạng nhiều thành phần sẽ là động lực thúc đẩy kinh tế
phát triển.Tuy thế điều này đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có chính sách quản
lý thích hợp đối với các thành phần kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam
nhận định:” Nước ta chuyển sang thời kì phát triển mới, thời kì công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,cơ cấu kinh tế hợp
lý,quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất ...”
Từ nay đến năm 2020 , ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp .
Lực lượng sản xuất lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại , phần lớn
lao dộng thủ công được thay thế bằng lao động sủ dụng máy móc, điện khí hoá
cơ bản được thực hiện trong cả nước , năng suất lao dộng xã hội và hiệu quả sản
xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay.GDP tăng từ 8 dến 10 lần so với
năm 1990. Trong cơ cấu kinh tế , tuy nông nghiệp tiếp tục phát triển mạnh ,
song công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỉ trọng rát lớn trong GDP và trong lao
động xã hội .
Khoa học tự nhiên và công nghệ có khả năng nắm bắt và vận dụng được
nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ .Khoa
học xã hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình thái ý
thức xã hội mới . Sự phát triển của khoa học đủ sức cung cấp luận cứ cho việc
hoạch định các chính sách , chiến lược và quy luật phát triển
Về quan hệ sản xuất : chế độ sở hữu , cơ chế quản lý và chế độ phân phối
gắn kết với nhau , phát huy được các nguồn lực , tạo ra động lực mạnh mẽ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế , thực hiện công bằng xã hội .
Kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp
tác xã trở thành nền tảng trong nền kinh tế .Kinh tế cá thể , tiểu chủ , tư bản tư
nhân chiếm tỉ trọng đáng kể .Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác
nhau tồn tại phổ biến.
“Ngày nay , công nghiệp hoá luôn gắn liền với hiện đại hoá , với việc áp
dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại .
Khoa học công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
Nâng coa dân trí bồi dưỡng nhân tài và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá , hiện
đại hoá.”
Đảng ta còn khẳng định:”Nền công nghiệp hoá ,hiện đại hoá tạo nên lực
lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới , thì việc phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp ...
Nền kinh tế nhiều thành phần mà Đảng ta chủ trương là nền kinh tế phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Do đó phải chăm lo đổi mới và phát
triển kinh tế nhà nước thực sự làm ăn có hiệu quả , phát huy tốt vai trò chủ đạo
cùng với kinh tế hợp tác xã phấn đấu dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân...”
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đè cao phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa . Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp , Đảng ta luôn xác
định xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội , thực hiện công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suất thời kì quá độ
.Trong những năm tiến hành công nghiệp hoá trước đây , mặc dù có những sai
lầm thiếu sót , song chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể .Một số
công trình lớn đã được xây dựng và phát huy tác dụng .Chúng ta phải kế thừa
thành tựu của thời kì trước , rút kinh nghiệm từ những sai lầm , thiếu sót để bổ
sung , phát triển nhận thức , đề ra những bước đi, giải pháp thích hợp nhằm
triển khai có hiệu quả hơn sự nghiệp công nghiệo hoá, hiện đại hoá đất nước
trong thời kì đổi mới.
Ngày nay công nghiệp hoá luôn gắn liền với hiện đại hoá Với việc ứng
dụng rộng rãi những thành tựu công nghệ và khoa học tiên tiến của thời đại
.Khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hoá hiện đại hoá
.Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người là
nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong hoàn cảnh mới , chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế
mở , đa phương hoá , đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại , hướng mạnh về
xuất khẩu ,đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất
có hiệu quả, tranh thủ vốn , công nghệ và thị trường quốc tế để tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những kinh nghiệm cho thấy , nếu không tạo lập
được một vị thế độc lập , tự chủ , không có đủ nội lực cần thiết , thì không thể
tham gia hợp tác quốc tế một cách thực sự bình đẳng và có lợi , không thể khai
thác khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài . Vì vậy ,phải xây
dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý ,bảo đảm khả năng giữ vững độc lập tự chủ về
kinh tế ,quóc phòng , an ninh ,chủ động tham gia phân công lao động và hợp tác
quốc tế . Luôn luôn nêu cao phương châm dựa vào nguồn lực trong nước là
chính, đi đối với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, động viên mọi người,
mọi nhà , mọi cấp, mọi ngành cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu
dùng, dành vốn cho đầu tư phát triển.
Trong những năm trước mắt, khả năng vốn còn có hạn, nhu cầu việc làm
rất bức bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế xã hội
chưa thật ổn định, vững chắc. Chúng ta cần tránh sai lầm chủ quan nóng vội,
quá thiên về công nghiệp nặng, ham quy mô lớn. Phải đặc biệt coi trọng công
nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, ra sức phát triển nông lâm nghư nghiệp
các nghành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, các nghành du lịch, dịch vụ, khôi phục, phát triển, từng
bước hiện đại hoá các nghành nghề tiểu thủ công truyền thống, đi đôi với mở
mang những nghành nghề mới.
Cân nhắc, lựa chọn những dự án cũng như thời điểm khởi công các công
trình công nghiệp nặng trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện
về vốn , công nghệ, thị trường , có khả năng phát huy tác dụng nhanh và có hiệu
quả cao .Nâng cấp , cải tạo mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ
tầng kinh tế ở những khâu ách tác nhất đang cản trở sự phát triển .
Xây dựng quy hoạch phát triển tổng thể dài hạn các nghành ,các lĩnh
vực, các địa bàn để có bước đi thích hợp , kết hợp giữa nhu cầu trước mắt và
mục tiêu lâu dài , giữa điểm và diện , giữa kinh tế và quốc phòng , an ninh ,giữa
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ .Phát triển các loại hình doanh nghiệp quy
mô nhỏ và vừa là chính ,với công nghiệp thích hợp, vốn đầu tư ít, tạo ra nhiều
việc làm, thời gian thu hồi vốn nhanh .Chú trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới
trang thiết bị nhằm khai thác có hiệu quả năng lực sản xuất hiện có. Đồng thời
xây dựng hoặc tích cực chuẩn bị để xây dựng mọt số công trình lớn thật sự cần
thiết .
Chính sách phát triển công nghiệp phải gắn kết chặt chẽ với chính sách
và giải pháp phát triển các nghành và các lĩnh vực khác, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn
nhau, tạo nên sự phát triển đồng bộ trong đời sống kinh tế, xã hội. Đặc biệt
quan tâm xây dựng quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, giúp đỡ nhau cùng
phát triển giữa công nghiệp và nông nghiệp , thành thị và nông thôn , công
nhân nông dân và trí thức trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá .
Nếu công nghiệp hoá , hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết
cho chế độ xã hội mới , thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là
để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp .
Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần to lớn giải phóng và
phát triển sức sản xuất đưa đến những thành tựu kinh tế xã hội quan trọng trong
10 năm đổi mới ...
Nền kinh tế nhiều thành phần mà Đảng ta chủ trương là nền kinh tế phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Do đó văn kiện nhấn mạnh sự cần thiết
phải chăm lo đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác , làm cho
kinh tế nhà nước làm ăn có hiệu quả, phát huy tốt vai trò chủ đạo, cùng với kinh
tế hợp tác xã phấn đấu dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những nghành
những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế –xã hội, hệ thống tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm những cơ sở sản xuất về thương mại, dịch vụ quan
trọng , một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến an ninh
quốc phòng.
Đổi mới tổ chức quản lí doanh nghiệp nhà nước, phát huy cao đọ quyền
làm chủ của doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.Thực hiện
tốt cổ phần hoá bộ phậnh doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn .
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và có chính sách ưu đãi, giúp đỡ kinh tế
hợp tầcm nòng cốt là các hợp tác xã phát triển.Phát triển rộng rãi các hình thức
kinh tế tư bản nhà nước, áp dụng nhiều phương thức hợp tác , liên doanh giữa
nhà nước với tư bản trong nước và nước ngoài.Tạo thế và lực cho doanh nghiệp
Việt Nam phát triển tăng khả năng hợp tác và cạnh tranh., thu hút đầu tư nước
ngoài
Giúp đỡ kinh tế cá thể, giải quyết về vốn , khoa học công nghệ, thị
trường...
Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư sản xuất , bảo hộ quyền sở hữu và
lợi ích hợp pháp , hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật...
Đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, không tách rờiviệc xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ
chế thị trường có sự quản lí của nhà nước.
III.Kết luận
Như vậy, phạm trù lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phản ánh mối quan
hệ “song trùng”, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn
nhau, cả hai hợp thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất là quy luật
phổ biến nhất của nhân loại. Lực lượng sản xuất một mặt của phương thức sản
xuất là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quyết
định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao. Quan hệ sản xuất mặt thứ hai của
phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.
Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xoá bỏ và thay thế bằng những kiểu quan
hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn ra đời. Như
vậy, sự xuất hiện sự phát triển hình thái kinh tế xã hội, sự chuyển biến từ hình
thái đó lên hình thái cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất. Vì thế hiểu biết rõ và vận dụng quy luật là điều rất cần thiết. Ơ viêt
nam, để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa thì trong thời kỳ quá
độ này, chúng ta chủ trương một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây
dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
Từ ngày đổi mới,vận dụng đúng quy luật nền kinh tế của chúng ta có
những tăng trưởng rõ rệt. Tỉ lệ GDP theo đầu người tăng, y tế, giáo dục văn hoá
tăng, tỉ lệ thất nghiệp giảm…Điều đó cũng phần nào thể hiện đảng ta đã lãnh
đạo đất nước phát triển theo đúng hướng, hợp quy luật.Vì thế mỗi chúng ta cần
nỗ lực hơn nũa để giữ vững và nâng cao thành quả đã đạt được.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.pdf