Quyền hành pháp ở Việt Nam có một vị trí rất đặc biệt trong cơ cấu quyền lực
của nhà nước, bởi tính thống nhất của quyền lực, với gốc quyền lực thuộc về nhân dân. Vì
vậy Chính phủ - hành pháp ở Việt Nam có mối quan hệ với các chủ thể quyền lực khác
(trong sự phân công phối hợp). Có thể nói đây là nét đặc trưng riêng của hành pháp ở Việt
Nam. Đặc biệt sự phân công phối hợp trong cơ cấu quyền lực này được thực hiện trong
điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền. Đây cũng được coi là đặc trưng của hành pháp ở
Việt Nam.
49 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3536 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực thống nhất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã quy định rõ mối quan hệ giữa cấp trưởng và
cấp phó, giữa các thành viên Chính phủ, giữa Chính phủ và cơ quan Nhà nước ở địa
phương.
* Chính phủ cũng đã tiến hành sắp xếp cơ cấu tổ chức các cơ quan trực thuộc đảm
bảo gọn nhẹ, xác định rõ thẩm quyền cũng như trách nhiệm của mỗi cơ quan từng cấp,
khắc phục sự chồng chéo lẫn nhau. Ví dụ:
-Năm 1986 có 37 Bộ và cơ quan ngang Bộ; 40 cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng,
Tổng số là 77 cơ quan.
- Năm 1992 có 27 Bộ và cơ quan ngang Bộ; 23 cơ quan thuộc Chính phủ. Tổng số
là 50 cơ quan.
- Từ năm 1998 trở lại đây có 23 Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ. Tổng số là 48 cơ
quan .
Như vậy, từ năm 1986 đến 1992 cơ cấu của cơ quan hành chính ở Trung ương đã
giảm được 27 đầu mối, từ năm 1992 đến 1998 đã giảm được 2.
Bên cạnh việc tính giảm đầu mối chúng ta cũng thành lập các Bộ mới trên cơ sở
nghiên cứu, sắp xếp lại. Cụ thể:
- Đã thành lập Bộ kế hoạch và Đầu tư trên cơ sở nhập ủy ban Nhà nước về hợp tác
và đầu tư với ủy ban Khoa học Nhà nước.
- Thành lập Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trên cơ sở 3 bộ: Bộ nông
nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ lâm nghiệp và Bộ thủy lợi.
- Thành lập bộ Công nghiệp trên cơ sở Bộ Năng lượng, Bộ công nghiệp nặng, Bộ
công nghiệp nhẹ.
- Thành lập Bộ Thương mại trên cơ sở Bộ kinh tế đối ngoại, Bộ nội thương và Bộ
vật tư.
Đặc biệt là việc điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức và hoạt động nội bộ của một số bộ để
đáp ứng với điều kiện mới như:
1. Tổng cục thuế được thành lập (theo Nghị định 281-HĐBT ngày 7/8/1990) nhằm
thống nhất công việc thu thuế vào một đầu mối.
2. Thành lập Kho bạc Nhà nước để quản lý Quỹ ngân sách Nhà nước tách khỏi
Ngân hàng Trung ương.
3. Giải thể Tổng cục Đầu tư và phát triển trực thuộc Bộ Tài chính và thành lập mới
hai tổ chức:
- Vụ đầu tư trực thuộc Bộ tài chính.
- Vụ thanh toán vốn đầu tư trực thuộc Kho bạc Nhà nước ở trung ương (Nghị định
145/1999/NĐ-CP).
4. Thành lập Cục Tài chính Doanh nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính, trên cơ sở tổ
chức và biên chế của Tổng cục Quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp có chức
năng giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thống nhất quản lý Nhà nước về tài chính doanh nghiệp
trong cả nước (Nghị định 84/1999/NĐ-CP).
* Hình thành các cơ quan hành chính mới mà trước đây chưa có như: Thành lập ủy
ban chứng khoán Nhà nước, Bảo hiểm xã hội Việt Nam... để quản lý trong những lĩnh vực
mới.
* Bên cạnh việc sắp xếp các cơ quan hành chính ở Trung ương thì có một loại tổ
chức trong một năm gần đây liên tục gia tăng, đó là các tổ chức liên ngành trực thuộc Thủ
tướng Chính phủ. Tính đến cuối năm 1998 số tổ chức này là 103. Đến tháng 6/2000 đã giải
thể và sắp xếp lại được 15 tổ chức. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo rà soát và
sẽ có quyết định giải thể và sắp xếp lại trên 60 tổ chức liên ngành khác.
Bên cạnh việc điều chỉnh cơ cấu, Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ đã có
sự đổi mới về hình thức hội nghị, phương thức chỉ đạo và điều hành của Chính phủ đối với
các vấn đề nóng hổi, nhạy cảm của đất nước, các vấn đề liên quan đến kinh tế, chính trị...
Về quy chế làm việc của Chính phủ trong nhiệm kỳ 1997 - 2002 đã thể hiện nhiều điểm
mới. Theo đó, Chính phủ thường xuyên kiểm điểm, rút kinh nghiệm về công tác chỉ đạo,
điều hành, khắc phục những khuyết điểm trong từng tháng, từng quý...
ở địa phương:
- Thứ nhất về địa giới hành chính
Việc điều chỉnh địa giới hành chính là một trong những nội dung của chương trình
cải cách cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước. Trong những năm qua, để tăng cường hiệu
quả quản lý của Nhà nước đối với địa phương chúng ta đã tiến hành chia tách tỉnh theo
Nghị quyết của Quốc hội; chia tách huyện, xã theo Nghị định của Chính phủ. Năm 1976
trong toàn quốc có 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 287 huyện và tương đương;
5768 xã, phường, thị trấn. Năm 1986 có 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 353
huyện, thị và tương đương. Đến tháng 8/1999 có 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; 615 đơn vị cấp huyện và tương đương; 10457 xã phường, thị trấn.
- Thứ hai về tổ chức hoạt động:
Nhìn chung công cuộc cải cách bộ máy hành chính Nhà nước những năm qua mới
chỉ tập trung thực hiện ở Trung ương, còn chính quyền địa phương chưa tiến hành cải cách
hành chính với tinh thần mạnh dạn, sáng tạo. Những kết quả cải cách bộ máy hành chính
Nhà nước ở địa phương chưa xuất phát từ thực tiễn hoạt động và những đặc thù của địa
phương.
Tuy nhiên, thời gian qua bộ máy hành chính Nhà nước ở địa phương cũng có
những thay đổi đáng kể sau:
- Về cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương từng bước được tinh gọn, sắp xếp
hợp lý hơn. Các Sở, Ban, ngành ở Tỉnh; Phòng, Ban ở huyện là cơ quan chuyên môn của
UBND được tổ chức lại theo hướng giảm dần số lượng.
- Năm 1986 ở cấp tỉnh có từ 30 - 40 đầu mối.
cấp huyện có từ 20 - 25 đầu mối.
- Hiện nay, ở cấp tỉnh có từ 21 - 25 đầu mối.
cấp huyện có từ 10 - 15 đầu mối
Như vậy, số lượng các cơ quan chuyên môn của UBND đã giảm được gần 1/2.
- Về hoạt động: Hiện nay, gần hết UBND các cấp đều đã có nhiều quy chế làm
việc, thường xuyên xem xét bổ sung cho phù hợp nên đã có nhiều tiến bộ trong phân định
thẩm quyền, vai trò chức năng và trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong ủy ban. Các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND đã có những bước chuyển biến trong việc thực hiện
nhiệm vụ của mình .
Như vậy về cơ bản, theo chúng tôi việc cải cách bộ máy hành chính (chủ thể cơ
bản) để thực hiện quyền hành pháp đã đem lại những kết quả nhất định, phần nào đã tăng
cường được hiệu lực và hiệu quả của hành pháp.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về quyền hành pháp, chúng tôi thấy phải có một số giải
pháp cụ thể sau đối với cuộc cải cách bộ máy hành chính ở cả Trung ương và địa phương:
- Đối với các cơ quan hành chính ở Trung ương. Theo quy định của Hiến pháp
1992, luật tổ chức Chính phủ 1992 thì cơ quan hành chính ở Trung ương gồm có Chính
phủ; Bộ; cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thường trực Chính phủ. Về nguyên lý thì đây là
những cơ quan có chức năng hành pháp. Chính phủ là cơ quan có quyền hành pháp chung,
còn Bộ, cơ quan ngang Bộ cũng như cơ quan trực thuộc Chính phủ có quyền hành pháp
riêng ở từng lĩnh vực chuyên môn. Vì vậy việc cải cách cần phải tiến hành những biện
pháp cụ thể sau:
- Xác định rõ mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, giữa Chính phủ với
TANDTC và VKSNDTC; giữa Chính phủ với Chủ tịch nước;
- Tăng cường tính độc lập của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc tổ
chức và thực hiện quyền hành pháp;
- Củng cố và hoàn thiện địa vị pháp lý của Chính phủ theo hướng tăng cường vai
trò của hành pháp (về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động...);
- Xác định, điều chỉnh lại về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, sao cho các cơ quan này thật sự
là những chủ thể có quyền hành pháp "riêng" ở Trung ương;
- Xây dựng rõ chế độ trách nhiệm cá nhân phụ trách với lãnh đạo tập thể trong
Chính phủ cũng như trong mỗi cơ quan Bộ...
- Đối với cơ quan hành chính ở địa phương: Hiện nay cũng theo quy định của Hiến
pháp 1992 thì cơ quan hành chính ở địa phương bao gồm UBND các cấp (3 cấp hành
chính). Thực tế trong nhiều năm qua các cấp hành chính của chúng ta luôn có sự thay đổi
về địa giới hành chính. Sự thay đổi này bên cạnh những mặt tích cực của nó đã kéo theo
nhiều ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của quản lý nhà nước. Vì vậy theo chúng tôi giải
pháp trước tiên đối với cơ quan hành chính ở địa phương là phải có sự hoạch định cụ thể
rõ ràng và ổn định về địa giới hành chính, nhất là đối với cấp tỉnh. Tiếp đến là việc phân
cấp cho chính quyền địa phương. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là một nhà nước đơn
nhất, điều đó không có nghĩa là chính quyền địa phương phụ thuộc hoàn toàn vào trung
ương, mà cần phải có sự áp dụng một trong những nguyên tắc về phân quyền hành chính
hoặc tản quyền hành chính. Có làm được như vậy thì vai trò của chính quyền địa phương
mới thực sự là nơi thực hiện quyền lực của nhân dân. Mặt khác chính quyền địa phương cũng
cần phải xác định lại vai trò, vị trí cũng như mối quan hệ giữa HĐND và UBND, cũng như
các cơ quan chuyên môn của nó...
3.2.1.2. Cải cách về thể chế hành chính
Hiện nay có nhiều khái niệm về thể chế. Ví dụ, theo từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa
học xã hội - 1994 thì thể chế được hiểu là những quy định, luật lệ của chế độ xã hội, buộc
mọi người phải tuân theo. " thể chế là thiết chế toàn bộ cơ cấu xã hội do pháp luật tạo lên"
[ 80 tr 730]. Hoặc theo quan điểm của nhóm nghiên cứu thể chế hành chính, Học viện
hành chính quốc gia thì thể chế là toàn bộ các chuẩn mực, quy tắc có tính hệ thống, điều
chỉnh theo một định hướng các quan hệ xã hội, được hợp thức hóa bằng cách nghi nhận
trong các văn bản nhà nước đem đến tư cách hợp pháp cho Nhà nước, được bảo đảm bằng
quyền lực (công quyền) có hiệu lực của Nhà nước để thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội...
Với hơn 50 năm hình thành và phát triển pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật
hành chính nói riêng luôn được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện để đáp ứng một cách đồng bộ
với xu hướng phát triển của xã hội, nhất là từ một nền kinh tế tập trung, bao cấp chuyển
sang một nền kinh tế phi tập trung, một nền kinh tế thị trường, với một xã hội có xu hướng
dân chủ hóa... Mặt khác để đáp ứng cho sự phát triển của một xã hội với sự đan sen của
nhiều yếu tố như vậy, vậy cộng với tính định hướng CHXH của nhà nước, vì vậy việc sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện về thể chế hành chính đòi hỏi hoạt động xây dựng pháp luật nói
chung, công tác lập quy nói riêng phải xây dựng những thể chế làm sao đảm bảo phát huy
được tính tích cực của các yếu tố đó trong một NHC đang chuyển đổi như ở Việt Nam
hiện nay.
Vấn đề này trong những năm qua đã đạt được ý đồ đó, tuy nhiên còn có những hạn
chế nhất định, song về tính tích cực của nó thì không thể phủ nhận được. Ví dụ như sự ra
đời của Hiến pháp 1992, cũng như hàng các văn bản luật và dưới luật đã ban hành nhất là
từ năm 1986 trở lại đây mà chủ yếu với sự xuất hiện của nhiều thể chế hành chính bên
cạnh những thể chế về kỹ thuật, có lẽ xuất hiện của những cặp "phạm trù" thể chế đó đã
phần nào cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa hành chính và kinh tế nhất là mối quan hệ này
được củng cố ngay trong lòng của nền kinh tế thị trường. Sự gắn bó giữa hành chính và
kinh tế trong nền kinh tế thị trường hiện nay điều đó chứng tỏ những quan điểm trước đây
về hành chính và kinh tế là không có căn cứ. Theo họ hành chính và kinh tế là hai địa hạt
khác nhau nhất là kinh tế trong nền kinh tế thị trường thì điều đó lại càng xa lạ với hành
chính. Vì vậy mà gần đây có quan điểm cho rằng chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường
thì cũng có nghĩa là chất dứt sự can thiệp của hành chính vào kinh tế, theo chúng tôi đó là
những góc nhìn phiến diện, không biện chứng, phi triết học, nhất là đối với nền kinh tế thị
trường của chúng ta lại được phát triển theo định hướng XHCN và có sự quản lý của Nhà
nước. Vì thế vai trò của hành chính trong giai đoạn hiện nay có một ý nghĩa rất lớn trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Có thể nói với sự xuất hiện của nhiều thể chế hành chính trong giai đoạn hiện nay
là một thành tựu mang tính "định khung" cho sự phát triển nền hành chính phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một con số thực tế cho thấy với sự bổ sung, hoàn thiện TCHC trong những năm qua
các ngành, các cấp cũng đã tiến hành rà soát để điều chỉnh hàng nghìn văn bản pháp quy mà
không đảm bảo được tính hợp pháp cũng như tính hợp lý của nó. Ví dụ trong 7059 văn bản
pháp quy thuộc CP và Bộ thì có tới 2014 cần phải được hủy bỏ, 1107 văn bản cần được bổ
sung, sửa đổi; trong đó có số văn bản sai sót chiếm gần 45%. Đối với văn bản của tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trong số 54.806 văn bản thì có tới 9985 văn bản cần được
hủy bỏ và 1276 văn bản cần được bổ sung, sửa đổi.
Về thủ tục hành chính (TTHC), đây được coi là khâu mắt xích yếu nhất của nền
hành chính vì vậy mà để tiến hành CCHC chúng ta đã chọn CCTTHC làm trọng tâm. Trên
cơ sở của NQ 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ cũng như các Nghị quyết của Trung
ương Đảng thì việc tiến hành CCTTHC đã và đang thu được kết quả nhất định, với mô
hình "Một cửa, một dấu".
Việc CCTHHC không những là một trong những biện pháp để tiến hành CCHC
mà thông qua đó làm mềm hóa mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân..., đây cũng còn là
một trong những mục tiêu để mở rộng xu hướng dân chủ hóa hiện nay. Bởi lẽ theo chúng
tôi có thể nói TTHC đó là bước đệm pháp lý cho việc công dân thực hiện có hiệu quả các
quyền và nghĩa vụ của mình. Hiện nay ở nhiều lĩnh vực người dân không thực hiện được
đầy đủ các quyền của mình, thậm chí các quyền và lợi ích hợp pháp của họ còn bị xâm hại
từ phía Nhà nước mà một những nguyên nhân đó là TTHC. Vậy tại sao? Một thực tế cho
thấy các thể chế về TTHC trong thời gian qua không thể hiện đúng vai trò là bước đệm
pháp luật cho người dân thực hiện các quyền của họ mà ngược lại nó đã trở thành lực cản,
bung xung đối với người dân, thậm chí có nhiều thủ tục ngang nhiên xâm hại đến cả về
(nhân quyền và dân quyền) của con người. Vì vậy việc đạt CCTTHC là khâu đột phá đầu
tiên của CCHC theo chúng tôi là hoàn toàn thích đáng. Một con số thực tế như việc loại bỏ
hàng loạt các thủ tục rườm rà, chồng chéo, việc xây dựng thủ tục mới nhằm tạo điều kiện
cho người dân thực hiện có hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật, mặt khác nó còn góp phần vào việc đảm bảo được hiệu lực, hiệu quả của hoạt
động hành chính hiện nay. Ví dụ một số văn bản TTHC mới được ban hành ở các lĩnh vực
như:
- Lĩnh vực kinh doanh có 32 văn bản.
- Xuất nhập cảnh, hải quan có 18 văn bản.
- Khiếu nại, tố cáo có 9 văn bản. Đất đai, nhà ở có 23 văn bản, và trong một số
lĩnh vực khác có 22 văn bản.
Ngoài ra thể chế hành chính còn nhằm vào việc xây dựng, kiện toàn Bộ máy hành
chính theo hướng gọn nhẹ song vẫn đảm bảo được hiệu lực và hiệu quả, cũng như việc tạo
ra cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động công vụ, cho đội ngũ cán bộ công chức hành
chính...
Như vậy về cơ bản một trong những thành tựu của cải các nền hành chính hiện nay
đó là sự hiện diện của những thể chế mà ở đó có đầy đủ những dự kiện cho việc phát triển
một nền hành chính chính quy, hiện đại.
3.2.1.3. Về đội ngũ công chức trong bộ máy hành chính nhà nước
Đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay là lực lượng quyết định cho sự thực hiện
quyền hành pháp hiện nay của bộ máy hành chính nhà nước. Thực tế đã chứng minh rằng:
Để hoạt động có hiệu quả, thì một điều kiện cơ bản đối với mỗi cơ quan, tổ chức là có đội
ngũ cán bộ, công chức hợp lý và có năng lực. Thế nhưng, thực tế việc thực hiện quyền
hành pháp của bộ máy hành chính trong thời gian qua đã chứng tỏ đội ngũ cán bộ, công
chức vẫn còn những tồn tại đã làm ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả hoạt động của cơ quan
hành chính ở trung ương cũng như ở địa phương như tình trạng:
- Đội ngũ cán bộ, công chức chưa hợp lý về cơ cấu, tính chất;
- Một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng cả về chuyên
môn, nghiệp vụ, năng lực thực tiễn lẫn tinh thần phục vụ nhân dân. Họ có biểu hiện vô trách
nhiệm, quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, buôn lậu, thiếu kỷ cương, vô chính phủ; có lối
làm việc thủ công, luộm thuộm, sản xuất nhỏ, manh mún. Những hạn chế này đã thực sự gây
phiền hà cho nhân dân, làm giảm hiệu quả công tác lãnh đạo, làm yếu hiệu lực quản lý, điều
hành kinh tế - xã hội của bộ máy hành chính, đồng thời trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm,
tệ quan liêu, lãng phí có điều kiện phát sinh, phát triển và sự tin cậy, gắn bó của nhân dân
với Nhà nước bị giảm sút.
- Về "công vụ", "công chức" chưa được rõ ràng. Điều đó dẫn đến các quy chế, việc
xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, phương pháp quản lý, cách thi tuyển, đánh giá, quản lý
cán bộ, công chức vẫn là những vấn đề cần phải được nhìn nhận một cách khoa học hơn.
Tuy nhiên trong những năm qua việc đổi mới về công tác cán bộ, công chức chúng
ta cũng đã đạt được những việc đáng kể sau:
- Trước hết đó là việc ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức và các văn bản
hướng dẫn thi hành, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức.
- Đã có bước chuyển biến trong quản lý, sử dụng cán bộ, công chức như đổi mới
và đưa vào nề nếp bước đầu công tác tuyển chọn, đánh giá, thi nâng ngạch, thi đua khen
thưởng, đào tạo bồi dưỡng, đề bạt.
- Chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức đã từng bước được thay đổi tích
cực, đã thiết kế lương theo ngạch, bậc công chức; thông qua nhiều kênh để thực hiện chính
sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ, công chức.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được đẩy mạnh (năm 1998: 15% cán bộ,
công chức Trung ương và 10% cán bộ, công chức địa phương; năm 1999 số lượng này
tăng lên là 20% ở Trung ương và 12% ở địa phương. Nội dung chương trình đào tạo đã có
những cải tiến tập trung vào nâng cao trình độ chính trị, kiến thức quản lý mới và kỹ năng
nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học.
- Đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có ý thức tổ
chức kỷ luật và năng lực làm việc, phong cách làm việc được đổi mới...
Theo chúng tôi, đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn được coi là một yếu tố quyết
định đối với hiệu quả hoạt động hành pháp của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc". "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hoặc kém". Vì thế cải cách bộ máy hành chính, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của
hành pháp điều đó còn được gắn liền với việc thường xuyên nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức "vừa hồng vừa chuyên", giỏi về chuyên môn, vững vàng về chính trị,
phẩm chất đạo đức tốt. Muốn làm được như vậy thì trước hết phải hoàn thiện chế định về
cán bộ công chức (hiện nay pháp lệnh về cán bộ công chức cũng như một số văn bản liên
quan chưa đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu đó, còn nhiều bất cập).
Mặt khác, việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức điều đó còn liên quan đến việc
đấu tranh phòng và chống tội tham nhũng hiện nay trong đội ngũ cán bộ công chức, nhất là
đối với những người có chức vụ quyền hạn. Cần phải cương quyết và mạnh mẽ hơn trong
việc thực hiện các quy định của pháp luật về chống tham nhũng tránh tình trạng "quan thì
xử theo lễ, còn dân thì xử theo tội..."
Trên đây là một số kiến nghị mà chúng tôi mạnh dạn đưa ra, xuất phát từ những
nguyên lý chung cũng như những đòi hỏi của thực tiễn hiện nay trong sự nghiệp đổi mới,
nhằm quan đó thúc đẩy việc cải cách nền hành chính có hiệu quả, trên cơ sở đó hiệu lực và
hiệu quả của quyền hành pháp sẽ được tăng cường với đúng nghĩa là một nhánh của quyền
lực nhà nước.
3.2.2. Tăng cường vai trò hành pháp của nguyên thủ quốc gia
Trong tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam, Nguyên thủ quốc gia thuộc về Chủ tịch
nước. Hiến pháp 1992 quy định: "Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại". Hiến pháp cũng
đã quy định cho Chủ tịch nước hàng loạt những nhiệm vụ và quyền hạn như việc công bố
hiến pháp, luật, pháp lệnh; thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch
Hội đồng quốc phòng và an ninh; đề nghị quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của ủy ban Thường vụ
Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ; căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, hoặc của ủy ban Thường vụ
Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đặc xá,
ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước
hoặc ở từng địa phương;... Chủ tịch nước còn có các quyền như: Bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức phó chánh án, thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, phó viện trưởng, kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Quyết định việc phong hàm cấp sĩ quan cấp cao trong lực
lượng vũ trang nhân dân... (theo Hiến pháp 1992 thì Chủ tịch nước có 12 nhiệm vụ và
quyền hạn cụ thể).
Căn cứ vào những nhiệm vụ và quyền hạn được Hiến pháp quy định, chúng ta thấy
Chủ tịch nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến
cả ba lĩnh vực của quyền lực nhà nước. Vì vậy mà chúng ta có thể nói Chủ tịch nước là
trung tâm của quyền lực. Song một thực tế của pháp luật thực định, cũng như thực tiễn thì
quyền hạn của Chủ tịch nước hiện nay theo chúng tôi thì còn bị hạn chế rất nhiều. Thứ
nhất các quyền mà Chủ tịch nước thực hiện hiện nay, chủ yếu là căn cứ vào các Nghị
quyết của Quốc hội hoặc của ủy ban Thường vụ Quốc hội, vì vậy nó còn mang tính hình
thức. Tiếp đến đó là những quyền của Chủ tịch nước đối với hành pháp còn quá ít và
không thực quyền. Một thực tế cho thấy ở nhiều quốc gia trên thế giới, nếu ở quốc gia nào
mà Nguyên thủ quốc gia nắm được hành pháp, thì quốc gia đó sẽ mạnh. Cũng chính vì thế
mà ở những nước theo chính thể Cộng hòa Tổng thống thì bao giờ Tổng thống cũng là
người nắm toàn quyền về hành pháp. Việc Nguyên thủ quốc gia nghiêng về hành pháp ở
Việt Nam cũng đã từng được quy định trong Hiến pháp (Hiến pháp 1946). Điều thứ 44 quy
định: "Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Phó Chủ tịch nước
và nội các...". Đối với nước ta, là một nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực
thống nhất. Cộng với sự lãnh đạo duy nhất của Đảng. Vì vậy nhân vật trung tâm của quyền
lực cần phải thể hiện được sự tập trung đó. Hiến pháp 1992 đã có những bước tiến bộ hơn
so với Hiến pháp 1959 và 1980, song vẫn chưa vượt được Hiến pháp 1946 khi xác định vị
trí của Nguyên thủ quốc gia. Hiến pháp 1992 đã quy định việc Chủ tịch nước đề nghị ủy
ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh, Nghị quyết, mà nếu vẫn được ủy ban
Thường vụ tán thành thông qua, mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì có quyền trình
Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Việc quy định như vậy theo chúng tôi thì đây là một bước
tiến trong lịch sử lập pháp của Việt Nam. Song về mặt thực tiễn thì điều này rất khó xảy ra.
Trong khi đó chúng ta thấy quyền phủ quyết của Tổng thống đối với các nước Cộng hòa
Tổng thống có một sức mạnh rất lớn lớn đối với lập pháp (quyền Vet tô). Vì vậy theo
chúng tôi cần phải tăng cường quyền hành pháp cho Nguyên thủ quốc gia bằng cách:
Thứ nhất, cần phải xác định một vị trí nhất định cho Chủ tịch nước trong cơ cấu
quyền lực (vị trí này nên nằm trong hành pháp).
Thứ hai, đối với nước ta với nguyên tắc một đảng lãnh đạo vì vậy Chủ tịch nước
nên đồng thời là Chủ tịch Đảng (Tổng bí thư).
3.2.3. Đối với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, cần phải tăng cường tính
độc lập
Hiến pháp 1992 đã quy định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó cũng đã phần nào nêu được tính
độc lập của Chính phủ trong cơ cấu quyền lực hiện nay. Tuy nhiên về mặt luật định việc
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ như hiện nay, thì vẫn chưa thể hiện được
tính độc lập của hành pháp bởi vì hành pháp vẫn bị giàng buộc rất nhiều vào lập pháp. Nếu
như tăng cường được tính độc lập cho Chính phủ, một mặt nó không những tạo điều kiện
chủ động cho hành pháp, mà còn xác định được nghĩa vụ hành pháp của Chính phủ được
rõ hơn. Theo chúng tôi nếu vẫn theo như quy định hiện nay (liên quan đến cả chế định về
lập pháp, xét xử cũng như chế định Chủ tịch nước). Thì cần phải xác định thêm thẩm
quyền hành pháp cho Chính phủ. Vì vậy trong hiến pháp phải xây dựng chế định hành
pháp cho Chính phủ. Điều đó sẽ xác định quyền hành pháp chỉ thuộc về Chính phủ. Còn
đương nhiên trong hoạt động của mình Chính phủ sẽ có những sự giàng buộc nhất định đối
với các nhánh quyền lực khác, nhất là lập pháp. Như trong phần nguyên tắc, chúng tôi có
phân tích đến nguyên tắc quyền lực thống nhất. ở đó chúng tôi có nêu những cấp độ của sự
tập trung thống nhất đó, trong đó có cấp độ tập trung thống nhất quyền lực vào hành pháp
(những quyền lực liên quan đến hành pháp). Chính vì vậy mà việc hiến pháp quy định nhiệm
vụ và quyền hạn cho Chính phủ như hiện nay tại Điều 112 của Hiến pháp, cũng như trong
luật tổ chức Chính phủ 1992 chưa thể nào đáp ứng được điều đó.
Kèm theo chế định Chính phủ là Thủ tướng. Điều 110 Hiến pháp 1992 quy định:
"Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác.
Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là Đại biểu Quốc
hội..."
Với quy định như vậy, đương nhiên chúng ta thấy Thủ tướng Chính phủ là người
đứng đầu Chính phủ (đứng đầu hành pháp).
Hơn 50 năm qua chế định Chính phủ của Nhà nước Việt Nam luôn được thể hiện
trong Hiến pháp, tuy nhiên việc xác định vị trí có khác nhau (vấn đề này đã được đề cập ở
chương II). Vì vậy mà ở đây chúng ta có thể đưa ra một kết luận chung về Chính phủ ở
nước ta như sau:
- Chính phủ hành pháp ở Việt Nam do cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân
thành lập ra, theo Hiến pháp đó là cơ quan quyền lực cao nhất. Vì vậy Chính phủ phải chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan này;
- Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất. Vì vậy Chính phủ có toàn quyền thống nhất điều hành, quản lý mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội...;
- Chính phủ được quyền hành những văn bản pháp quy (văn bản dưới luật);
- Chính phủ được quyền tổ chức và điều hành hành chính, thuộc hệ thống quản lý
của mình từ Trung ương xuống địa phương.
Nhìn chung hoạt động hành pháp của Chính phủ trong thời gian qua đã phần nào
thể hiện vai trò hành pháp của mình, song hiệu quả và hiệu lực chưa cao. Vì vậy theo
chúng tôi đối với Chính phủ cần phải:
- Thứ nhất, cần phải xác định rõ ràng vị trí pháp lý của Chính phủ. Theo chúng tôi
quyền hành pháp thuộc về Chính phủ (Chính phủ là chủ thể duy nhất có quyền hành pháp).
Còn các chủ thể khác chỉ là những chủ thể được thực hiện quyền hành pháp theo quy định
của pháp luật mà thôi. Vì vậy có thể chỉ nên quy định "Chính phủ là cơ quan hành chính
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" là đủ. Bởi vì hiện nay chúng ta
vẫn quan niệm chung giữa hành pháp với hành chính là một (thực ra vấn đề quan niệm như
vậy chúng tôi cũng chưa đồng ý lắm).
- Thứ hai, về thẩm quyền cụ thể của Chính phủ. Việc quy định nhiệm vụ, quyền
hạn cho Chính phủ phải xuất phát từ vai trò, chức năng của hành pháp. Nếu không đi từ
những điểm xuất phát này sẽ dẫn đến tình trạng là Chính phủ làm cả những nhiệm vụ,
quyền hạn của cấp dưới hoặc ngược lại có những nhiệm vụ, quyền hạn nhẽ ra phải thuộc
về Chính phủ song cấp dưới lại thực hiện. Mặt khác có đi từ những điểm xuất phát trên thì
việc phân cấp quản lý mới tiến hành đúng ý nghĩa của nó, cũng như sự phân công, phối
hợp mới đạt được hiệu quả.
- Thứ ba, theo chúng tôi đó là chế định về "nghĩa vụ hành pháp" đối với Chính
phủ. Đây là chế định quan trọng, bởi lẽ nếu như hiện nay chúng ta mới chỉ có quy định
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Theo chúng tôi thì đây vẫn là một chế định
mang tính hình thức, mà cần phải có một chế định mang tính trách nhiệm cao hơn đối với
Chính phủ như chế định "bất tín nhiệm" chẳng hạn.
- Thứ tư, cần phải xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Quốc hội - lập pháp với
Chính phủ - hành pháp cho rõ ràng hơn. Tránh khuynh hướng lập pháp át hành pháp hoặc
ngược lại. Làm được điều này theo chúng tôi cũng cần phải có những bước đổi mới về tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, nhất là hoạt động lập pháp và giám sát của Quốc hội. Ví
dụ cần tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội (hiện nay việc soạn thảo các dự án luật
chủ yếu do Chính phủ thực hiện).
- Trên cơ sở những nội dung lớn như vậy chúng ta sẽ có những quy định cụ thể,
theo hướng xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể thực hiện quyền hành
pháp, từ Thủ tướng đến Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân các
cấp.
3.2.4. Đấu tranh chống tham nhũng
Đi đôi với việc tiếp tục công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước, cũng như
hàng loạt các giải pháp nhằm để nâng cao hiệu quả và hiệu lực của hành pháp. Việc đấu
tranh chống tham nhũng cũng được coi là một giải pháp, (tuy nhiên đây là giải pháp không
có tính tích cực).
Đấu tranh chống tham nhũng hiện nay, đã được Đảng và Nhà nước coi là nhiệm
vụ lớn, không những chỉ để nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước, mà
coi đó là nhiệm vụ lớn "bảo vệ sự sống còn của Đảng, Nhà nước và chế độ ta".
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng IX có nhấn mạnh:
Phải tăng cường tổ chức và cơ chế tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham
nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành, từ
Trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc
biệt là chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính.
Một thực tế cho thấy trong những năm vừa qua, các hành vi vi phạm pháp luật từ
phía cán bộ, công chức, đều diễn ra ở cả ba lĩnh vực của quyền lực, trong đó có không ít
những cán bộ, công chức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong số đó lại có không ít
họ là những cán bộ công chức trong bộ máy hành chính cả ở trung ương, cũng như ở địa
phương. Qua các báo cáo của cơ quan chức năng cho thấy tham nhũng hiện đang là một
quốc nạn, mà cần phải có những biện pháp tích cực hơn, đồng bộ hơn mới hy vọng cuộc
đấu tranh này có hiệu quả.
Vì vậy chúng tôi có một số kiến nghị sau:
- Cần phải có một cuộc sinh hoạt tư tưởng lớn, với quy mô toàn Đảng, toàn dân.
Trên cơ sở đó coi cuộc đấu tranh này là một cuộc "thập tự chính" vào chính lòng tham của
mỗi con người.
- Về cơ chế, chính sách, pháp luật, phải thực sự đồng bộ về mọi mặt. Pháp luật
phải thể chế kịp thời và đúng với đường lối chính sách của Đảng. Nhất là đường lối phát
triển về quản lý và phát triển kinh tế, về tài chính, về tài sản công...
- Tiếp tục loại bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, gây phiền hà cho dân, nhất là
ở những lĩnh vực như sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, đất đai, xây dựng và một số
những lĩnh vực mà người dân thường xuyên thực hiện các quyền và nghĩa vụ (đó là những
mảnh đất dễ xảy ra tham nhũng, sách nhiễu của một số cán bộ công chức hành chính).
- Cần phải đưa ra một cơ chế thanh tra, kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát, để đảm bảo
tính minh bạch, trong sáng, trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước, tài sản công, tài chính
của Đảng, của các đoàn thể xã hội, tài chính trong các doanh nghiệp nhà nước, cũng như
các quỹ từ phía nhân dân, các quỹ tài trợ của các Nhà nước và tổ chức quốc tế, tổ chức phi
Chính phủ, nhất là nguồn kinh phí liên quan đến những dự án lớn.
- Về thể chế chống tham nhũng. Hiện nay chúng ta đã có pháp lệnh chống tham
nhũng . Theo chúng tôi chế định chống tham nhũng phải trở thành một nguyên tắc hiến
định. Trên cơ sở đó Nhà nước phải có luật chống tham nhũng, chứ không chỉ dừng lại ở
hình thức pháp lệnh như hiện nay.
- Cuối cùng là việc xử lý nghiêm minh, đối với cán bộ, công chức có hành vi tham nhũng,
cho dù họ là ai và ở cương vị nào trong tổ chức Đảng, cũng như trong tổ chức nhà nước,
họ ở địa phương hay ở Trung ương.
Kết luận chương 3
Qua sự cần thiết cũng như những giải pháp cần đặt ra cho việc hoàn thiện quyền
hành pháp ở nước ta hiện nay chúng tôi có thể di đến một số kết luạn sau:
1- Quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước ta có một ý nghĩa đặc biệt
trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở việt nam hiện nay. Vì vậy sự cần thiết phải
hoàn thiện cả về phương diện lý luận và thực tiễn về nó được xuất phát từ không những
bản chất của nhà nước mà còn do những đòi hỏi mang tính tất yếu , khách quan của sự vận
động và phát triển của xã hội, cũng như những đòi hỏi mang tính đương đại. Như sự cần
thiết phải hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nhà nuớc nói riêng;
về việc xay dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt nam; củng cố và phát huy dân chủ XHCN;
cũng như đứng truớc những yêu cầu của hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay.
2- Để hoàn thiện quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay theo chúng tôi có một số
phương hướng và giải pháp lớn như cân tiếp tục đẩy mạnh việc cải cách hành chính, gắn
liền với cải cách về lập pháp và tư pháp. Cần xác định rõ quyền hành pháp trong cơ cấu
quyền lực để trên cơ sở đó tăng cường vai trò hành pháp đối với Nguyên thủ quốc gia cũng
như đối với Chính phủ mà đứng đầu là Thủ tướng.
kết luận
Quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực thống nhất ở Việt Nam, là một đề tài đã
được chọn làm luận án tiến sĩ của tác giả. Đây là một đề tài rất mới cả về phương diện lý
luận lẫn thực tiễn, đối với việc nghiên cứu về quyền hành pháp ở Việt Nam. Vì vậy trong
quá trình nghiên cứu ý đồ của tác giả muốn tiếp cận một cách có hệ thống và toàn diện về
quyền hành pháp ở Việt Nam cả về lịch sử và đương đại. Chính vì vậy mà luận án đã đi từ
những nguyên lý chung nhất về quyền hành pháp, để từ đó tìm hiểu về quyền hành pháp
trong cơ cấu quyền lực thống nhất ở Việt Nam. Để từ đó có những giải pháp tích cực nhằm
nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hành pháp. Với toàn bộ ý đồ đó của tác giả, chúng tôi
đưa ra một số kết luận sau:
1. Quyền hành pháp với tư cách là một nhánh của quyền lực nhà nước. Vì vậy nó
có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với mọi Quốc gia, cho dù các quốc gia có áp dụng
học thuyết phân chia quyền lực hay không phân chia quyền lực (quyền lực thống nhất).
Cho dù quốc gia có những chính thể khác nhau, với những hệ thống chính trị khác nhau.
2. Quyền hành pháp, có một chức năng rất đặc biệt. Mà theo tác giả đã mạnh dạn
đưa ra hai nhóm chức năng đó là: Chức năng lập quy và chức năng tổ chức - hành chính.
Trên cơ sở của hai chức năng này để chúng ta thấy được sự khác nhau giữ chức năng của
lập pháp và chức năng của tư pháp. Và cũng trên cơ sở của hai nhóm chức năng này, để
chúng ta làm rõ được chức năng của quyền hành pháp với chức năng của các cơ quan thực
hiện quyền hành pháp.
3. Quyền hành pháp, phải là một quyền năng thuộc về một chủ thể nhất định,
quyền năng này đối với Việt Nam phải thuộc về Chính phủ. Do vậy quyền hành pháp chỉ
có ở cấp Trung ương, đối với nhà nước đơn nhất như Việt Nam. Chính vì vậy mà các chủ
thể quyền lực khác chỉ là những chủ thể thực hiện quyền hành pháp mà thôi.
4. Quyền hành pháp ở Việt Nam có một vị trí rất đặc biệt trong cơ cấu quyền lực
của nhà nước, bởi tính thống nhất của quyền lực, với gốc quyền lực thuộc về nhân dân. Vì
vậy Chính phủ - hành pháp ở Việt Nam có mối quan hệ với các chủ thể quyền lực khác
(trong sự phân công phối hợp). Có thể nói đây là nét đặc trưng riêng của hành pháp ở Việt
Nam. Đặc biệt sự phân công phối hợp trong cơ cấu quyền lực này được thực hiện trong
điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền. Đây cũng được coi là đặc trưng của hành pháp ở
Việt Nam.
5. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc xác định rõ vị trí, chức năng cũng như
vai trò của hành pháp, có một ý nghĩa rất lớn không những chỉ về phương diện lý luận, mà
đặc biệt có ý nghĩa cả về phương diện thực tiễn. Để trên cơ sở đó chúng ta mới hy vọng
đưa ra được những giải pháp vừa có tính lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện quyền
lực nhà nước nói chung, quyền lực pháp nói riêng...
Quyền hành pháp, nếu xét ở một phương diện nào đó, thì có thể nói nó là nền của
quyền lực nhà nước. Kể cả khi mà thuyết phân chia quyền lực chưa ra đời, thì quyền hành
pháp đã trở thành một thứ quyền rất lớn trong tay các bậc Đế Vương (kể cả Đông và Tây).
Cho đến ngày nay qua quá trình phát triển của xã hội loài người, kéo theo cả sự phát triển
của quyền lực, đặc biệt là quyền lực về hành pháp. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có sự
nhận thức lại về bản chất của quyền lực nhà nước, trong đó có quyền hành pháp, nhất là ở
vào giai đoạn hiện nay.
Đứng trước nhu cầu và thực tế đó, luận án đã cố gắng trong quá trình tìm tòi
nghiên cứu của mình, để phần nào đóng góp vào sự nhận thức về lý luận về quyền lực nhà
nước nói chung, lý luận về quyền hành pháp nói riêng, cũng như thực tiễn của việc thực
hiện nó ở Việt Nam, để mạnh dạn có những kiến nghị, với mục đích nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của quyền hành pháp ở Việt Nam. Một thứ quyền lực xuất phát từ nhân dân,
thuộc về nhân dân, như bản chất vốn có của một nhà nước: "Của dân, do dân, vì dân".
danh mục Tài liệu tham khảo
tiếng Việt
1. Vũ Hồng Anh (1999), "Quyền lực nhà nước hay tất cả quyền lực thuộc về nhân dân",
Luật học (6).
2. Vũ Hồng Anh (2001), Tổ chức và hoạt động của Nghị viện ở một số nước trên thế
giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Vũ Hồng Anh (1997), Tổ chức và hoạt động của Chính phủ ở một số nước trên thế
giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Hội Đồng Anh (Nguyễn Khắc Hùng và Lê Thị Vân Hạnh dịch) (1996), Pháp luật và
sự quản lý của Nhà nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Quang Ân (1997), Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị
hành chính 1945 - 1997, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Âu (2000), Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
7. Ban tổ chức Chính phủ, số 6/2000.
8. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ, Chế độ nhân sự các nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1994.
9. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ, Hệ thống công vụ một số nước ASEAN và Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
10. Đỗ Bang (chủ biên) (1997), Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyên giai đoạn 1802 -
1884, Nxb Thuận Hóa.
11. Bộ Tư pháp (1997), "Chuyên đề 10 năm xây dựng thể chế hành chính", Thông tin
khoa học pháp lý.
12. Bộ Tư pháp (1998), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước kiểu mới - nhà nước thực
sự của dân, do dân và vì dân", Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội.
13. Bộ ngoại giao Mỹ (Tạp chí điện tử), Các vấn đề dân chủ - trách nhiệm của chính
quyền, Http:// usembssy.state.gov/Vietnam.
14. Hoàng Chí Bảo (1991), "Khoa học chính trị với sự nghiệp đổi mới", Viện Mác -
Lênin, Hà Nội.
15. Hoàng Chí Bảo (2001), "Bàn thêm về cải cách hành chính ở nước ta hiện nay", Quản
lý nhà nước, (1).
16. Bộ Tư pháp (thông tin khoa học pháp lý) (1997), Chuyên đề mười năm xây dựng thể
chế hành chính, Hà Nội.
17. Bộ Tư pháp (chuyên đề) (1997), "Đấu tranh chống tham nhũng những vấn đề lý luận
và thực tiễn", Thông tin Khoa học pháp luật, Hà Nội.
18. Bộ Tư pháp (chuyên đề) (1992), "Nền công vụ, công chức", Thông tin Khoa học
pháp luật, Hà Nội.
19. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Sự thậ, Hà Nội.
20. C.Mác và Ph.Ăngghen (1989), Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Nzb Sự thật, Hà Nội.
21. Quỳnh Cư - Đỗ Quốc Hùng (1995), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên.
22. Lê Đình Chân (1974), Luật Hiến pháp và các định chế chính trị (cuốn I và II) tủ sách
Đại học Sài Gòn.
23. Nguyễn Đăng Dung (2001), Một số vấn đề về hiến pháp và bộ máy nhà nước, Nxb
Giao thông vận tải, Hà Nội.
24. Nguyễn Đăng Dung (1998), "Học thuyết phân chia quyền lực và sự áp dụng trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở một số nước", Nhà nước và Pháp
luật, (2).
25. Nguyễn Đăng Dung (2001), "Các mô hình Chính phủ", Nghiên cứu lập pháp, (5).
26. Nguyễn Bá Diến (1996), "Tính tất yếu của việc nghiên cứu luật so sánh", Luật học,
(5).
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung
ương khóa VII.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Trần Ngọc Đường (chủ biên) (2000), Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Trần Ngọc Đường (1996), Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo đường lối của Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Luật học (12).
33. Từ Điển "cải cách hành chính và cải cách kinh tế", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2001.
34. Nguyễn Độ (1973), "Luật hành chính", Sài Gòn.
35. Nguyễn Văn động (1997), "Nguyên tắc toàn quyền của nhân dân trong mối quan hệ
giữa nhà nước và công dân dưới CNXH, Luật học, (1).
36. Vũ Đức Đán và Lưu Kiếm Thanh (2000), Tổ chức và hoạt động của bộ máy chính
quyền thành phố trực thuộc Trung ương, Nxb Thống kê.
37. Bùi Xuân Đức (2001), "Hoàn thiện cơ sở pháp lý của tổ chức bộ máy nhà nước", Nhà
nước và pháp luật, (5).
38. Nguyễn Duy Gia (1997), "Tiếp tục cải cách nền hành chính, xây dựng, hoàn thiện nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa", Quản lý nhà nước, (5).
39. Nguyễn Duy Gia (1995), "Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội xây dựng nhà nước theo
định hướng XHCN", Quản lý nhà nước, (10).
40. Vũ Đình Phòng và Lê Duy Hòa (biên soạn) (1999), Những luận thuyết nổi tiếng trên
thế giới, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
41. Hoàng Văn Hảo (1997), "Hiến pháp Việt Nam và vấn đề quyền con người, quyền
công dân", Luật học, (4).
42. Hoàng Văn Hảo (1996), "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt
Nam", Luật học, (3).
43. Hoàng Văn Hảo (1995), "Về nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân", Cộng
sản, (3).
44. Lê Hông Hạnh (1999), "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong soạn thảo văn bản
pháp luật", Luật học, (6).
45. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1997), Một số vấn đề về quyền dân sự và
chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Trần Minh Hương (1999),"Bảo vệ bí mật nhà nước và bảo đảm quyền được thông tin
của nhân dân", Luật học, (1).
47. Trần Minh Hương (1997), "Vài nét về sự phát triển của luật hành chính trên thế giới
trong thế kỷ XX", Luật học, (6).
48. Trần Minh Hương (1998), "Những yêu cầu pháp lý đối với văn bản quản lý", Luật
học, (3).
49. Trần Minh Hương (1997), "Một số vấn đề về cải cách bộ máy hành chính", Luật học,
(4).
50. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ, Nxb Khoa học xã hội.
51. Thang Văn Phúc (2001), Cải cách hành chính nhà nước, thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Trọng Phúc (1996), "50 năm bản hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam
(9/11/1946 - 9/11/1996), Nghiên cứu lịch sử, (6).
53. Proster Weil (Nguyễn Ngọc Bích dịch) (1995), Luật hành chính, Nxb thế giới, Hà
Nội.
54. Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
55. Gustave Peiser (Phòng quan hệ quốc tế Học viện Hành chính quốc gia dịch) (1994),
Luật hành chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
56. Jean JaCques Rousseau (Thanh Đạm dịch) (1992), Khế ước xã hội, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
57. Jeam - Michel de Forges (Nguyễn Diệu Cơ dịch) (1995), Luật hành chính, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
58. Dương Phú Hiệp và Nguyễn Duy Dũng (chủ biên) (1996), "Nền hành chính và cải
cách hành chính của Nhật Bản, Việt Nam và Trung Quốc", Trung tâm Khoa học
và nhân văn Quốc gia, Hà Nội.
59. Học viện Hành chính Quốc gia (1996), Về nền hành chính Nhà nước Việt Nam, Nxb
Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
60. Phan Văn Khải (1997), "Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, có năng
lực, hiệu lực", Quản lý nhà nước, (5).
61. Phan Văn Khải (2001), "Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 và giải pháp
thực hiện cải cách hành chính", Quản lý nhà nước, (1).
62. Phạm Tuấn Khải (1998), Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của thanh tra Nhà nước ở Việt Nam, Nxb Công an nhân dân.
63. Võ Văn Kiệt (1994), "Chính phủ sẽ làm hết sức mình trong cuộc đấu tranh chống các
tệ nạn xã hội, nhất là chống tham nhũng và buôn lậu", Cộng sản, (2).
64. Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2001), ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ
lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Lênin (2001), Lênin toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
66. Maridôn Juarenơ (Nguyễn Văn Hiền, Phạm Thành, Lê Xuân Tiềm dịch) (1996), Sự
đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia.
67. M.AIKYO và T.IN AKO (Hoài Thanh Thanh dịch) (1993), Nghiên cứu hệ thống
pháp luật Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
68. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Anh Tuấn, Phạm Bình, Đặng Khắc Anh,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.
69. Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái (1996), Lịch sử các học thuyết chính trị pháp lý,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
70. đinh Văn Mậu (1995), "Về quyết định hành chính và quyền khiếu kiện đối với quyết
định hành chính", Luật học, (3).
71. Vũ Văn Mẫu (1973), Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử, Quyển 1, tập I, Sài Gòn.
72. Ngân hàng thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
73. Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Văn Mạnh (đồng chủ biên) (2001), 55 năm xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
74. Lê Trọng Ngoan, Ngô Văn Ban, Nguyễn Công Lý (1991), Lược khảo và tra cáu về
Học chế quan chế ở Việt Nam từ 1945 về trước, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
75. Nguyên Nguyên (2001), Việt Nam định hướn XHCN trong thế giới toàn cầu hóa,
Nxb Trẻ.
76. Chu Văn Thành và Hà Quang Ngọc (2001), "Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước ta hiện nay", Cộng sản, (3).
77. Vũ Văn Thái (2001), "Một số quan điểm và giải pháp tiếp tục cải cách kiện toàn hệ
thống bộ máy hành chính nhà nước", Quản lý nhà nước, (2).
78. Lê Minh Tâm (2000), "Quyền hành pháp và chức năng của quyền hành pháp", Luật
học, (6).
79. Lê Minh Tâm (2001), "Về một số điểm mới trong báo cáo chính trị Đại hội đảng IX
và những vấn đề đặt ra đối với luật học", Luật học, (3).
80. Văn Tâm và Nguyễn Văn đạm (chỉnh lý bổ sung) (1977), Từ điển tiếng Việt, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
81. Phan Đăng Thanh - Trương Thị Hòa (1997), Lịch sử các định chế chính trị và pháp
quyền Việt Nam, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
82. Nguyễn Văn Thành - Vũ Trinh - Trần Tựu, Hoàng Việt luật lệ (luật gia Long), Tập 1,
Nxb Văn hóa Thông tin.
83. Thái Vĩnh Thắng (1997), Lịch sử lập hiến Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
84. TháiVĩnh Thắng (1996), "chế định tổng thống hoa kỳ - Hiến pháp và thực tiễn", Luật
học, (5).
85. Thái Vĩnh Thắng (1999), "Tìm hiểu lịch sử lập hiến nước Cộng hòa Pháp", Luật học,
(2).
86. Thái Vĩnh Thắng (1998), "Tổ chức và hoạt động của nghị viện Pháp", Luật học, (3).
87. Thái Vĩnh Thắng (2001), "Một số ý kiến về sửa đổi Hiến pháp 1992", Luật học, (5).
88. Thái Vĩnh Thắng (1995), "Tầm quan trọng của luật so sánh đối với khoa học pháp lý
hiện nay", Luật học, (3).
89. Thái Vĩnh Thăng (2001), "Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan quyền lực nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay", Nhà nước và Pháp luật,
(5).
90. Thông tấn xã Việt Nam (1999), Chính phủ Việt Nam 1945 - 1998, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
91. Lê Minh Thông (2001), "Hoàn thiện thiết chế Chính phủ nhằm đáp ứng các nhu cầu
phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay", Nhà nước và Pháp luật, (5).
92. Vũ Quốc Thông (1968), Pháp chế sử, Tủ sách đại học Sài Gòn.
93. Ngô Đức Tính (chủ biên) (1999), Một số đáng chính trị trên thế giới, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
94. Đoàn Trọng Truyến (chủ biên) (1977), Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị
Quốc gia.
95. Đoàn Trọng Truyến (chủ biên) (1999), So sánh hành chính các nước ASEAN, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
96. Chu Hồng Thanh (1998), "Tư tưởng phân quyền trong thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen
viết "tuyên ngôn của Đảng cộng sản", Luật học, (1).
97. Hoàng Tùng (2001), "Đảng Cộng sản Việt Nam trong thế kỷ XXI", Cộng sản, (3).
98. Đào Trí úc (1997), "Đại hội lần thứ VII của Đảng và những nhiệm vụ phương hướng
của khoa học về nhà nước và pháp luật", Nhà nước và Pháp luật, (2).
99. Trường Đại học luật Hà Nội (2001), Giáo trình luật hành chính, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
100. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình lý luận hành chính, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
101. Trường Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình kỹ thuật xây dựng văn bản, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
102. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình luật Hiến pháp nước ngoài, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
103. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
104. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
105. Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1975.
106. Đào Trí úc (1997), "Tham nhũng nhận diện từ các khía cánh pháp lý và cơ sở pháp lý
mới", Cộng sản, (4).
107. Nguyễn Cửu Việt (1997), "Nhận thức về nguyên tắc tập quyền và vài khía cạnh trong
vấn đề về quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta" Nhà nước và pháp
luật, (2).
108. Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1995), Những vấn đề cơ bản về nhà nước và
pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
109. Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật, (Hội thảo khoa học) (2000), Những luận cứ
khoa học của việc hoàn thiện bộ máy nhà nước CNXH CNVN trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
110. Viện Nghiên cứu Khoa học tổ chức nhà nước (kỷ yếu hội thảo khoa học), Bối cảnh -
môi trường cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, Hà Nội
11/2000.
Tiếng Anh
111. Henry Campbell Black, M.A "Black's Law Dictionary" West
publishing co, 1983.
*************** // ***************
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực thống nhất ở Việt Nam.pdf