Luận văn Sự biến đổi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Phật giáo đã đến với dân tộc ta đã hơn 2500 năm nay, trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam đã trải qua nhiều biến đổi thịnh - suy, thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc. Phật giáo đã từng vươn lên chiếm lĩnh vị trí tư tưởng ở các triều đại Đinh, Lê. Phật giáo, với sự hưng thịnh đạt tới đỉnh cao dưới thời Lý, Trần, đã từng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, được xem là quốc giáo dưới thời kỳ này. Phật giáo đã ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống tinh thần của nhân dân ta trên nhiều lĩnh vực như đạo đức, lối sống, văn hóa. Kể từ khi du nhập, Phật giáo đã hòa đồng với tín ngưỡng, phong tục tập quán của của người Việt, đã trở thành Phật giáo Việt Nam với bản sắc riêng. Một trong những nét sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam là điểm tương đồng với tín ngưỡng bản địa. Phật giáo hóa tín ngưỡng cùng với tín ngưỡng hóa Phật giáo để mang đặc điểm riêng của Phật giáo Việt Nam. Đây là sự tổng hợp, chắt lọc những tư tưởng tinh túy của các tông phái Phật giáo kết hợp hài hòa với văn minh bản địa tạo thành tư tưởng vừa từ - bi - hỷ -xả vừa kết hợp với truyền thống văn hóa, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng. trong quá trình dựng nước và giữ nước của con người Việt Nam.

pdf92 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2443 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự biến đổi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chỉ còn riêng của sinh hoạt Phật giáo mà đã trở thành đại lễ của đông đảo quần chúng nhân dân. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến lối sống của người Việt Nam còn được biểu hiện qua các phong tục tập quán trong các đám tang: có nhà sư mặc áo cà sa, là sự thể hiện pháp lực của nhà Phật xua đuổi tà ma, có các vãi đi cầu kinh để dẫn vong hồn về nơi yên nghỉ. Rồi sau đó là lễ cúng cầu siêu... nhà chùa vẫn là điểm tựa cho linh hồn người chết được siêu thoát. Ngày nay, khi đất nước đã có sự đổi mới, nền kinh tế thị trường đang được xác lập thì quan niệm về lối sống cũng có biến đổi nhiều. Lối sống của nhà sư cũng thực dụng. Mặc dù vậy, ngôi chùa vẫn là nơi ẩn chứa sự thiêng liêng của niềm tin nhân quả, là nơi con người có thể tìm thấy con đường cứu khổ, cứu nạn, đem lại sự an nhàn tĩnh lặng cho những con người có cuộc sống rủi ro, cho những số phận ngang trái như thiên tai, hậu quả của chiến tranh... mà không tìm được lối ra trong cuộc sống. Về văn hóa Nói đến ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo, đến văn hóa của con người Việt Nam là vấn đề khá phong phú, ở đây tác giả chỉ xin đề cập đến một khía cạnh sinh hoạt văn hóa của người dân Việt Nam trong các ngôi chùa. Người dân Việt Nam từ bao đời nay đã rất quen thuộc với những ngôi chùa, những hoạt động lên chùa lễ Phật đã trở thành sinh hoạt tinh thần của văn hóa người Việt với sự hưởng ứng của đông đảo mọi người trong xã hội. Ngôi chùa là giá trị văn hóa rất gần gũi thân thương của con người Việt Nam, góp phần tô điểm cho nhiều làng quê Việt Nam. Hình ảnh ngôi chùa, cây đa, bến nước, sân đình đã không thể tách rời trong ký ức của mỗi người dân khi xa quê. Hoạt động lên chùa lễ Phật giúp cho con người tìm đến những phút giây thư thái, hướng tới cái chân, thiện, mỹ, làm vơi đi những nhọc nhằn lo toan của cuộc sống thường nhật. Chúng ta có thể khẳng định, việc lên chùa lễ Phật là sinh hoạt văn hóa mang bản sắc dân tộc, qua đó giúp con người hướng tới điều thiện vốn là nét đẹp của văn hóa truyền thống. Chùa không chỉ là nơi thỏa mãn niềm tin tôn giáo của con người mà có thể nói đây còn là địa điểm để thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của họ. Chùa được xây dựng ở những nơi có phong cảnh đẹp, sơn thủy hữu tình, hòa mình vào thiên nhiên, tô đẹp cho thiên nhiên nhưng lại mang dáng vẻ rất trầm mặc và thanh thoát như một tiên cảnh ẩn hiện dưới những bóng cây mát mẻ, lưng dựa vào núi, mặt hướng ra sông hoặc nằm nơi đầu làng. Ngày nay chùa vẫn là nơi sinh hoạt văn hóa của đông đảo quần chúng nhân dân, biểu hiện là đến rằm tháng bảy - ngày hội Vu Lan mọi người dân Việt Nam đều cầu nguyện cho người chết được siêu thoát, ngày mồng tám tháng tư lễ hội Phật Đản, lễ hội Chùa Hương với hát chèo đò gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian... Như vậy, tín ngưỡng Phật giáo với sinh hoạt văn hóa của con người Việt Nam trở thành những giá trị văn hóa trong đời sống tinh thần của dân tộc. Lễ hội chùa chứa đựng những nội dung văn hóa nhất định trong di sản văn hóa của chúng ta. Ngày nay những giá trị ấy vẫn góp phần làm đẹp cho cuộc sống của con người trong xã hội. Song trước sự biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội, ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam, trong đó có sinh hoạt văn hóa của người dân tại các ngôi chùa cũng thay đổi rất nhiều. Những nét đẹp trong giá trị văn hóa đã bị thị trường hóa, từ thiện, từ tâm để tu bổ sửa chữa lại chùa là việc làm hết sức cần thiết cho những niềm tin nhân quả và bảo tồn một trong những di sản văn hóa dân tộc, nhưng cũng cần có sự phê phán việc lợi dụng những hành vi trên để trục lợi làm giảm uy tín của nhà chùa vốn là nơi linh thiêng, thanh tịnh. Do tác động của cơ chế thị trường đã khiến sinh hoạt văn hóa của các nhà chùa có sự biến đổi, nhiều tín đồ, người lên chùa đã quá sa đà vào việc lễ bái dẫn đến hiện tượng mê tín, dị đoan gây nhiều lãng phí về mặt tiền bạc, thời gian. Trên thực tế đã xuất hiện danh nghĩa khôi phục văn hóa Phật giáo để bày ra lễ hội tốn kém, những hiện tượng mê tín, dị đoan nhờ đó mà phát triển. Nơi sinh hoạt văn hóa trước đây của nhiều người dân Việt Nam nay đã biến thành chợ trời của sự cúng bái. Có kẻ mượn danh Phật tiến hành các hành vi mê tín, dị đoan: bùa ngải, lên đồng, gọi hồn... thực chất là lợi dụng lòng mê muội của người dân, những người này lên chùa cầu mong Đức Phật che chở, phù hộ cho họ được may mắn có nhiều tài lộc, quan niệm nhân sinh của người tín đồ cũng có nhiều biến đổi để thích ứng với thời đại mới. Trong điều kiện mới những ngôi chùa khó giữa được dáng vẻ như xưa. Hiện nay những danh thắng ấy như một xã hội thu nhỏ có cả nhà ăn, quán trọ, cửa hàng với không khí sôi động ồn ào, náo nhiệt của thị trường. Cuộc sống của con người trong xã hội rất đa dạng, có nhiều uẩn khúc, hiện nay chưa có một lý thuyết nào có thể giải thích thỏa mãn. Đạo Phật với sinh hoạt văn hóa của nó vẫn có cơ sở để tồn tại và rõ ràng Phật giáo không phải là con đường cứu khổ duy nhất cho con người. 2.2.2. Xu hướng biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo Là một trong những hình thái của ý thức xã hội, ý thức tôn giáo trong đó có Phật giáo chịu sự quy định của kinh tế - xã hội đất nước. Trước thực tế nước ta hiện nay, sự phát triển kinh tế đang diễn ra một cách mau lẹ, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội trở nên nhanh chóng… đã làm tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu hướng "đồng hành với dân tộc", sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống phúc âm giữa lòng dân tộc". Không nằm ngoài quy luật chung đó, ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo cũng biến đổi theo xu hướng ngày càng thoáng hơn, thực dụng hơn, thực tế hơn. Trước xu thế toàn cầu hóa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng Phật giáo Việt Nam từng bước hòa nhập vào các diễn biến của thế giới và đất nước. Phật giáo biến đổi theo sự biến đổi của cơ sở kinh tế, thích ứng với xã hội đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như các tôn giáo khác, Phật giáo hướng con người đến cái thiện, diệt trừ cái ác, mang tính nhân văn, loại bỏ cái lạc hậu, tiếp nhận và chọn lọc những yếu tố mới trong đời sống tôn giáo, phát huy những yếu tố truyền thống lành mạnh, vì vậy đã hấp dẫn lôi kéo nhiều người trong xã hội với tôn chỉ, mục đích cứu khổ cho con người. Đây cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng số lượng các tín đồ và hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong đó có Phật giáo ở Việt Nam. ảnh hưởng của việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với những mặt trái của nó đã xô đẩy nhiều người tìm đến với tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng. Trong những năm gần đây số lượng người đến chùa ngày càng nhiều gồm đủ mọi thành phần: Người già, người trẻ, trí thức, nhà buôn, công chức… với những lý do và mục đích riêng. Song về cơ bản, chúng ta có thể nhận thấy, việc đi chùa của những người này là nhằm mục đích cầu xin điều gì đó. Bên cạnh đó, cũng có người đi chùa đơn giản là để lấy lại sự thoải mái, thư giãn trong tâm hồn. Cũng không ít người đi chùa là vì sùng mộ Phật, nhưng lại rất cảnh giác với việc thương mại hóa chùa chiền, buôn thần, bán thánh... để kiếm tiền. Qua đây chứng tỏ rằng, sự giác ngộ, trình độ nhận thức, sự hiểu biết về tín ngưỡng Phật giáo của nhân dân ta đã được nâng lên. Cùng với xã hội loài người, thực tiễn xã hội Việt Nam đang vận động biến đổi từng ngày, từng giờ kéo theo đó là ý thức xã hội trong đó có ý thức tôn giáo, Phật giáo cũng biến đổi cho phù hợp. Hiện nay Phật giáo đang có sự điều chỉnh thay đổi về nhiều mặt, kể cả giới luật … để phù hợp với xu hướng biến đổi của kinh tế - xã hội đất nước. Theo thời gian, trình độ dân trí, trạng thái tình cảm, quan niệm đạo đức, văn hóa, lối sống (ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo) của các tín đồ phật tử cũng thay đổi. Nhiều điều mà trước đây họ thực hiện, thì ngày nay không được chấp nhận cũng là điều dễ hiểu. Các giới luật cũng được giải thích một cách nhẹ nhàng. Ví dụ như đối với giới đầu tiên trong giới luật xưa bắt đầu bằng câu cấm sát sinh, thì trong một số tài liệu Phật học ngày nay đã nêu nội dung giới này như sau: "ý thức được những khổ đau do sát hại gây ra, con xin theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài"… làm người nghe cảm thấy dễ chấp nhận hơn. Về giới luật "cấm sát sinh", Phật giáo đã thấy được phần nào hạn chế của nó là khó thực hiện trong đời sống nên Hòa thượng Thích Thánh Nghiêm nói: "Không được tự mình sát sinh còn nếu mua thịt cá về nhà thì không có hại gì" [22, tr. 34]. Hoặc về giới thứ năm "không uống rượu" cũng được giải thích mở rộng như: "không dùng các chất ma túy, không tiêu thụ những sản phẩm độc hại như: sách báo, âm nhạc, phim ảnh... có nội dung không lành mạnh". Những sự thay đổi như vậy đã làm giảm bớt tính khắt khe của giới luật và nhằm mở rộng ảnh hưởng của nó trong xã hội, để dễ dàng thu hút đông đảo người đến với đạo Phật hơn. Trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam có lúc thịnh, suy, nhưng luôn luôn đi cùng dân tộc, gắn bó với đất nước. Trong quá trình lịch sử của mình, Phật giáo Việt Nam đã có nhiều biến đổi thích ứng với phong tục, tập quán, hoàn cảnh xã hội của con người Việt Nam, góp phần làm nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Hiện nay, công cuộc đổi đã đem lại sự biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó đáng chú ý là sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đã góp phần làm nên những thành tựu quan trọng về kinh tế, kéo theo sự chuyển biến tích cực về chính trị, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, mặt trái kinh tế thị trường cũng là nguyên nhân của nhiều hiện tượng tiêu cực đối với đời sống xã hội. Tồn tại với tính cách là một những hình thái ý thức xã hội, Phật giáo Việt Nam có sự biến đổi đáng kể để thích ứng với thực tiễn của đất nước. Nhiều vị chức sắc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã nhận thấy sự cần thiết phải thích ứng với tình hình mới của thời đại. Những hoạt động từ thiện, từ bi của Phật giáo là những nét đẹp trong xã hội nhất là khi nền kinh tế thị trường với mặt trái của nó đã đưa một số người đến với chủ nghĩa cá nhân. Điều này được họ quan tâm chú ý nhằm mở rộng ảnh hưởng của Phật giáo, mà trước hết là nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Thực tế những năm gần đây cho thấy, không khí sinh hoạt Phật giáo sôi nổi hơn rất nhiều so với trước. Có hiện tượng này là do Phật giáo thỏa mãn được một số nhu cầu của con người trong điều kiện hiện nay. Từ việc đào tạo tăng ni trong cả nước, các hoạt động Phật pháp ngày càng mở rộng về quy mô lẫn tổ chức và nội dung, đẩy mạnh các hoạt động thu hút tín đồ v.v... Biểu hiện rõ nét của điều đó là việc người dân lên chùa dâng hương lễ Phật ngày một nhiều, tệ cúng bái thờ tự nhiều lúc, nhiều nơi phát triển tràn lan v.v... Hiện nay ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam đã có những nét khác trước. Sự biến đổi ảnh hưởng của Phật giáo và nhân sinh quan của Phật giáo nói riêng là vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay. Phật giáo, với nhiều ưu thế trong việc truyền bá ảnh hưởng của mình thông qua hệ thống nhà chùa, các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng có tính chất rộng rãi v.v... Nhiều ngôi chùa, nhất là những ngôi chùa lớn ngày càng thu hút nhiều tầng lớp dân cư không chỉ thuần túy là sinh hoạt văn hóa tinh thần như trước, mà còn nảy sinh nhiều biểu hiện vượt quá khuôn khổ cho phép của hoạt động tôn giáo. Bên cạnh việc sinh hoạt của Phật giáo góp phần trong việc bảo tồn, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống cũng như củng cố, tôn tạo những giá trị đời sống tinh thần, thì sự biến đổi nhân sinh quan Phật giáo cũng làm nảy nhiều vấn đề phức tạp xung quanh hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay. ở một số địa phương, chẳng hạn ở Huế, việc xây dựng, tập hợp lực lượng quần chúng của Phật giáo đã mở rộng sang nhiều hình thức mới. Nhiều tổ chức Phật giáo như hội Đoàn thanh niên Phật tử, Gia đình Phật tử v.v... ra đời, tích cực mở rộng ảnh hưởng. Những hoạt động này được kết hợp với nhiều hoạt động xã hội đã tạo ưu thế trong việc thu hút các tín đồ và cạnh tranh ảnh hưởng đối với các tôn giáo khác. Sự phát triển mạnh của những hoạt động truyền bá trên đây cũng gây nên nhiều hiện tượng phức tạp không chỉ đối với xã hội mà ngay cả trong nội bộ giáo hội Phật giáo. Đây đó xảy ra mâu thuẫn, chia rẽ bè phái gây mất đoàn kết nội bộ ảnh hưởng đến trật tự chung, tạo ra kẽ hở cho các thế lực phản động lợi dụng phục vụ cho âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, phá hoại công cuộc đổi mới của đất nước. Hiện nay, xu hướng biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo nhằm phát huy ảnh hưởng của đạo Phật, cộng với mặt trái của cơ chế thị trường, nhất là xu hướng chạy theo đồng tiền, sự phân hóa giàu nghèo, sa sút đạo đức đã tạo điều kiện cho việc nảy sinh tâm lý tín ngưỡng và cả mê tín dị đoan phát sinh, phát triển mạnh. Điều đó ảnh hưởng rất lớn không chỉ đối với sinh hoạt của Phật giáo, mà còn ảnh hưởng tới hoạt động xã hội và đời sống sinh hoạt của nhiều gia đình người Việt Nam. Sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đã thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng thế tục hóa của Phật giáo. Biểu hiện rõ nét của xu hướng này là sự tham gia vào những hoạt động xã hội có tính chất nhập thế. Chẳng hạn như sự tham gia của nhiều vị giáo chức cũng như các tín đồ vào các công tác giáo dục, y tế, các hoạt động cứu trợ, từ thiện... đã góp phần cùng xã hội làm giảm bớt những nỗi khổ, bất hạnh của nhiều người do thiên tai hay những rủi do đem lại. Chính những hoạt động xã hội mang đậm tính nhân đạo đã góp phần giảm bớt tính chất thần thánh, làm cho hoạt động của Phật giáo không xa lánh với cuộc sống đời thường, gần gũi với người dân. Nhiều người tín đồ từ chủ trương xuất thế xa lánh cuộc sống trần tục chuyển sang nhập thế, quay về với cuộc sống hiện thực ở đời. Xu hướng thế tục hóa của Phật giáo một mặt thúc đẩy các tín đồ gắn liền, không thoát ly công cuộc đổi mới của đất nước, mặt khác giúp họ nhận rõ hơn nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân đối với đất nước, đối với dân tộc. Bên cạnh các hoạt động tôn giáo, các tín đồ Phật tử phải chăm lo công việc đời thường, làm theo lẽ đời, theo phương châm đạo pháp - dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính việc hướng tới đời sống thế tục, tận tâm với lợi ích thế tục lại của người Phật tử thúc đẩy xu hướng thế tục hóa sẽ đem lại nhiều cơ hội cho Phật giáo mở rộng ảnh hưởng của mình trong quần chúng nhân dân. Trước thời kỳ đổi mới, nhà chùa duy trì sự tồn tại và phát triển của mình chủ yếu bằng việc thu nhập dựa vào việc canh tác trên ruộng đất của nhà chùa, thì trong điều kiện kinh tế thị trường với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hóa đã làm đời sống kinh tế của đất nước có bước chuyển biến mạnh mẽ, đời sống của các tầng lớp dân cư trong đó có các phật tử và tín đồ Phật giáo được nâng lên và cải thiện một bước rõ rệt. Trong bối cảnh kinh tế thị trường, sinh hoạt của nhà chùa, khó giữ được dáng vẻ như xưa. Với việc mở rộng và phát triển giáo hội, đội ngũ tăng ni, chức sắc và các tín đồ ngày càng đông v.v... Để có thể duy trì và phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các tầng lớp dân cư, hoạt động của nhà chùa buộc phải có những thay đổi trên nhiều lĩnh vực để thích ứng với tình hình mới, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Tính chất kinh doanh đã len lỏi vào trong nhiều hoạt động của nhà chùa. Nhiều chùa sẵn sàng đáp ứng và thực hiện những yêu cầu của tín đồ như làm lễ giải oan, cầu siêu... cũng là hai bên cùng có lợi: các tín đồ phật tử thỏa mãn nhu cầu tâm linh, còn về phía nhà chùa cũng tăng thêm thu nhập. Phần lớn số lượng tiền dùng cho việc tu bổ, sửa chữa chùa là do những tín đồ, những người lên chùa cung tiến, những người này quan niệm: nếu cung tiến vào chùa nhiều tiền sẽ được Phật phù hộ cho nhiều tài lộc trong cuộc sống. 2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo ở nước ta hiện nay 2.3.1. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh tế thị trường, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh Chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích phát triển sản xuất xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân lao động. Đây cũng là điều kiện tốt để phát triển con người một cách toàn diện trên các mặt Đức - Trí - Thể - Mỹ. Với sức mạnh vật chất, hoạt động vật chất, cải tạo hiện thực, chúng ta mới hy vọng khắc phục dần được những biểu hiện tiêu cực của Phật giáo đang chi phối tâm lý, cách suy nghĩ, lối sống của một phận không nhỏ của quần chúng nhân dân. Đức Phật cũng xác định rằng: Tình trạng nghèo khổ là một trong những nguyên nhân của sự bạo hành trong xã hội. Vì vậy, để phát huy những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở đất nước ta hiện nay, thì giải pháp quan trọng đó là sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Đảng ta xác định: "Kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế không chỉ tồn tại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà còn tồn tại trong cả chủ nghĩa xã hội" [7, tr. 97]. Đó là nền kinh tế trong đó việc tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc phát triển văn hóa xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo cùng kinh tế tập thể trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân. Nhà nước phải thực sự của dân, do dân và vì dân. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh tế thị trường là chúng ta đã thực hiện mục tiêu cao cả thiêng liêng bất di bất dịch của nhân dân ta. Như Đảng ta nhiều lần chỉ rõ: "Xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc". Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối cách mạng nước ta. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Cũng có thể diễn đạt mục tiêu ấy trong giai đoạn hiện nay là: "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung bao cấp, nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Chúng ta đang phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích phát triển sản xuất xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân. Qua đó phát huy ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo vì muốn thay đổi đời sống tinh thần thì phải thay đổi điều kiện kinh tế. Chỉ khi nào cuộc sống của con người không còn đói nghèo và trong xã hội không còn áp bức bất công khi đó thì cõi niết bàn cũng giảm bớt sự hấp dẫn. Xóa bỏ đói nghèo, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân là loại trừ nguồn gốc nảy sinh nhu cầu tôn giáo, đẩy lùi ước mơ ở thiên đường bên kia, tạo lập thiên đường của con người ở chính thế giới thực tại này. Sự phát triển không ngừng về kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa sẽ quyết định sự mất dần ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo nói chung, nhân sinh quan Phật giáo nói riêng. Vì vậy, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất của đồng bào, chăm lo cuộc sống cho họ là trách nhiệm của công tác tôn giáo, để bên cạnh niềm tin tôn giáo là niềm tin có cơ sở thực tế vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Phát triển kinh tế đất nước, hạn chế phân hóa giàu nghèo trong xã hội sẽ hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo. Kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện cho văn hóa, xã hội tiến bộ, góp phần nâng cao trình độ nhận thức của nhân dân. Điều đó sẽ dần dần hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo nói chung của Phật giáo mà trước hết là nhân sinh quan Phật giáo nói riêng trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Sự phát triển không ngừng về kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện mọi quan hệ xã hội, phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa… sẽ góp phần giải quyết nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như của Phật giáo ở nước ta. Đây là điều kiện tiên quyết để phát huy tốt những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo, lấy đạo pháp phục vụ dân tộc, xóa bỏ những hoạt động mê tín dị đoan, góp phần ổn định chính trị xã hội, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Việc phát huy những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam sẽ có tác động tích cực trở lại, góp phần thực hiện tốt đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bởi theo lý luận chủ nghĩa Mác là ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Vì vậy cần có cơ chế, chính sách phát huy nội lực của nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng mạnh mẽ, rộng khắp và thường xuyên tham gia phát triển văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh, bảo vệ nền văn hóa dân tộc cũng như bồi đắp cá tính con người Việt Nam. 2.3.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo, tổ chức phật tử trong đời sống kinh tế - xã hội Sự tồn tại và phát triển của tôn giáo nói chung và Phật giáo ở nước ta hiện nay đã cho thấy, Phật giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Phật giáo vẫn tồn tại và ảnh hưởng đến đời sống tinh thần con người Việt Nam với cả những mặt tích cực và mặt tiêu cực. Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo - đặc biệt nhân sinh quan Phật giáo, là yêu cầu khách quan trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Cùng với những giải pháp khác thì việc phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo trong đời sống kinh tế - xã hội là điều kiện để thực hiện thắng lợi yêu cầu khách quan trên đây. Thực tế ở nước ta trong mấy năm gần đây đã xuất hiện những giáo phái mới (Thanh Hải Vô Thượng Sư, Long Thọ Bồ Tát, Long Hoa Di Lặc…), những hoạt động mê tín dị đoan diễn ra khắp nơi, trong mọi lứa tuổi và trong mọi tầng lớp dân cư. Thực trạng này đòi hỏi công tác quản lý tôn giáo của Đảng, Nhà nước phải được tăng cường hơn nữa. Trong đó việc tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, xây dựng phát huy vai trò các tổ chức tôn giáo là việc làm bức thiết. Để phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo sẽ giúp Phật giáo phát triển đúng hướng, phù hợp với đời sống hiện đại; thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chú trọng giải quyết những lợi ích thiết thân kể cả quyền tự do tín ngưỡng của các Phật tử. Qua đó đã giúp đỡ đồng bào nâng cao trình độ về mọi mặt có nhiều đóng góp tích cực và lớn lao vào sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tư tưởng đại đoàn kết các dân tộc, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra ngay từ khi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã trở thành chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, thực chất là sự tôn trọng quần chúng nhân dân và đời sống tâm linh của họ. Trong cổ vũ động viên cũng như trong chỉ đạo thực tiễn phong trào cách mạng Hồ Chủ tịch và Đảng ta luôn quan tâm đến niềm tin tôn giáo của đồng bào theo đạo. Hồ Chủ Tịch mong muốn mỗi giáo dân vừa là người chân chính yêu nước, vừa là chân chính tín đồ. Quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, quyền bình đẳng giữa các tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước được biểu hiện trên nhiều khía cạnh. Đại biểu của các tín đồ tôn giáo, trong đó có giới tăng ni, phật tử có mặt trong thành phần quốc hội, tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Giới tăng ni, phật tử đang là bộ phận hữu cơ trong khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó chứng tỏ Phật giáo ngày càng gắn bó với dân tộc. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo góp phần đảm bảo cơ cấu trong các tổ chức Phật giáo đưa hoạt động của giáo hội Phật giáo đi đúng hướng, không trái với mục tiêu của Đảng và Nhà nước, duy trì sự ổn định xã hội, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc để cùng nhau xây dựng, phát triển đất nước trong công cuộc đổi mới toàn diện. Nhà nước căn cứ vào luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tín đồ và các tổ chức Phật giáo, đồng thời tạo điều kiện cho tổ chức này gìn giữ và phát triển các giá trị văn hóa đạo đức truyền thống, từ đó phát huy những mặt tích cực của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống xã hội. Trong việc phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong các hoạt động của Phật giáo thì các vị chức sắc, lãnh đạo giáo hội, giáo đoàn có vai trò rất lớn. Họ có ảnh hưởng rất lớn trong việc ngăn chặn kịp thời các hành vi vượt ra khỏi khuôn khổ của giáo luật cũng như luật pháp của số tín đồ lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng để gây rối làm mất an ninh, trật tự xã hội, ngăn chặn thế lực phản động bên ngoài, lợi dụng Phật giáo trong chiến lược diễn biến hòa bình. Mặt khác, các vị chức sắc, nhà tu hành cũng phải tuân theo nghĩa vụ của người công dân. Họ cũng bị pháp luật xử lý nếu tham gia các hoạt động gây rối, gây mất trật tự ổn định xã hội, chống phá sự nghiệp đổi mới, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc. Công việc này đòi hỏi chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều người, nhiều cấp, nhiều ngành, của cả hệ thống chính trị. Trong công tác quản lý các hoạt động tôn giáo, chúng ta phải hết sức cẩn trọng để tránh có sự hiểu lầm, không để kẻ xấu lợi dụng và bảo vệ sự vững chắc khối đại đoàn dân tộc. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo, Đảng và Nhà nước vẫn xác định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, ở một mức độ nhất định nó vẫn phát huy tác dụng và hướng dẫn hoạt động của con người. Trong tình hình hiện nay, trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta phải biết đánh giá, phát huy những giá trị tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong giai đoạn hiện nay, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống xã hội. Quá trình hội nhập với các quốc gia trong khu vực và thế giới đã mở ra cho đất nước nhiều điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng và đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, quá trình đó cũng đặt dân tộc ta đứng trước nhiều thách thức mới. Đảng và nhà nước ta đã động viên toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước bằng ý chí tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các nước trên thế giới. Các chính sách về tôn giáo mà Đảng ta đưa ra nhằm phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, phát nhân tố con người, vì con người... phải động viên được khoảng mười triệu tín đồ Phật tử cố kết trong hàng ngũ của toàn dân theo tinh thần đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu để cùng nhau xây dựng và phát triển đất nước. Trong xã hội ta hiện nay, giới tăng ni, phật tử và những người có cảm tình với Phật giáo chiếm số lượng khá đông. Đây là lực lượng xã hội to lớn có thể phát huy năng lực sáng tạo trong lao động sản xuất cũng như trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại đại đoàn kết dân tộc, chống chế độ. Vì vậy, việc đoàn kết những người có tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng quần chúng nhân dân quanh Đảng nhằm góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi là việc làm rất cần thiết và cấp bách. Trong không khí hòa bình, cả nước đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi các tín đồ, nhà tu hành, các vị chức sắc phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Họ không chỉ dừng lại ở việc tổ chức và hành đạo theo tín ngưỡng mà còn phải vì sự nghiệp chung của dân tộc, hòa mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế họ không thể tách rời khỏi các hoạt động chung của xã hội, trong đó có việc thực hiện tốt các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phải gắn đạo với đời. Hiện nay trong thành phần đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân dân các cấp bao gồm cả các đại biểu đại diện cho các tôn giáo, trong đó có Phật giáo. Điều này thể hiện một cách nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng. Giới tăng ni, phật tử Việt Nam hiện đang thực sự là bộ phận hữu cơ trong khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để cùng nhau xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay, trong các hoạt động truyền bá Phật pháp, thì việc đào tạo các tăng ni, phật tử cũng rất được chú trọng. Điều này đã tạo điều kiện để cho các tín đồ Phật giáo được tiếp xúc nghiên cứu, nắm vững nâng cao hiểu biết của mình về kiến thức Phật giáo. Trên cơ sở đó, các Phật tử sẽ phân biệt được tín ngưỡng Phật giáo với tín ngưỡng của các tôn giáo khác. Nếu làm tốt điều này, sẽ hạn chế việc các tín đồ bị lôi cuốn vào các hoạt động mê tín dị đoan, mà nhiều người lợi dụng dưới danh nghĩa hoạt động để tiến hành, đang được coi là vấn đề bức xúc trong xã hội. Việc hiểu và nắm chắc giáo lý đạo Phật, các tín đồ sẽ là bộ lọc giúp cho người Phật tử tự giác, không dễ bị mua chuộc, lôi kéo hay vô tình vi phạm đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về tôn giáo. Để phát huy tốt vai trò của các tổ chức phật tử, chúng ta cần phải thực hiện tốt đường lối, chủ trương và các chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Trong đó, có việc loại trừ mọi mặc cảm thành kiến trong đồng bào cố đạo, không có đạo, tăng cường khối đoàn kết trong cộng đồng dân cư, đồng thời tạo ra các điều kiện để người tu hành có thể tham gia tốt hơn vào công tác quốc kế dân sinh. Đảng và Nhà nước cần tạo ra những điều kiện để giới tăng ni, phật tử được tham gia vào hoạt động lao động sản xuất, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động văn hóa tư tưởng. Thông qua những hoạt động ấy đã gắn họ vào hoạt động thực tiễn cùng với các tầng lớp nhân dân khác trong cả nước để họ hiểu hơn về cuộc sống thực tại, khơi dậy ở họ tình yêu quê hương, làm chủ đất nước để ra sức đóng góp sức lực của mình trong công cuộc đổi mới của đất nước. Hiện nay chúng ta thấy có những cơ sở sản xuất, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi... là do những tu sĩ và phật tử đảm nhiệm. Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích động viên và tạo điều kiện thực hiện theo quy định của pháp luật cho các cá nhân tín đồ, các vị chức sắc, nhà tu hành tham gia việc xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục với tư cách là công dân. Sự hi sinh hết mình, tận tụy cứu khổ cho mọi người đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều người dân Việt Nam. Đó là những tấm gương sáng cho mọi người để cùng nhau phát huy tinh thần tương thân tương ái trong xã hội. ở nước ta hiện nay, việc phát huy những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo thông qua việc thực hiện tốt trách nhiệm nghĩa vụ của người tín đồ trên cương vị của người công dân trong giới tăng ni, phật tử. Một điểm nữa cần chú ý, đó là Nhà nước quan tâm, chú ý, tạo điều kiện, có kế hoạch giúp đỡ về đời sống của người tu hành, nhất là đối với những tăng ni già yếu, đời sống của họ gặp khó khăn... theo truyền thống "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng" của con người Việt Nam. Trong các biện pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong các hoạt động của Phật giáo, thì việc gây dựng dư luận phê phán mạnh mẽ các hủ tục mê tín dị đoan v.v... trong quần chúng nhân dân cũng là điều cần thiết, không kém phần hiệu quả. Cần vạch mặt những kẻ buôn thần, bán thánh. Toàn Đảng, toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác không để kẻ xấu lợi dụng, bảo vệ sự trong sạch của lòng tin đúng với ý nghĩa tâm linh. Làm tròn nhiệm vụ của người công dân cũng như của Phật tử. Đạo với đời toàn vẹn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2.3.3 Đấu tranh chống những hiện tượng lợi dụng Phật giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của nước ta Công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay đã làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội. Kinh tế đang trên đà phát triển mạnh, đời sống tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện nâng cao. Hiện nay việc mở cửa, giao lưu và hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới đã mở ra cho đất nước ta nhiều cơ hội và thời cơ mới cho sự phát triển, nhưng cũng đưa lại không ít nguy cơ và thách thức mới. Các tôn giáo nước ta chịu ảnh hưởng lớn hơn, mạnh hơn từ phía bên ngoài. Một trong số đó là nguy cơ "diễn biến hòa bình", trong đó có vấn đề lợi dụng hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và Phật giáo nói riêng để hòng phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây rối, tạo cớ can thiệp, chống phá sự nghiệp đổi mới, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta. Đấu tranh chống các hiện tượng lợi dụng, xuyên tạc hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng Phật giáo là yêu cầu bức thiết đối với việc chống lại nguy cơ diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta tiến lên giành những thành tựu to lớn hơn. Muốn vậy chúng ta phải không ngừng nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt cho quần chúng nhân dân. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải được thực hiện thường xuyên lâu dài, mà trọng tâm là công tác giáo dục và đào tạo của nước ta. Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ sự cần thiết phải tạo ra được bước chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo: "Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" [7, tr. 108]. Phát triển giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao trình độ nhận thức khoa học cho nhân dân là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của cả xã hội, của mỗi gia đình và mỗi công dân, sự cần thiết phải có sự phối hợp tốt giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập. Cần phải chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao. Thực tế những năm qua cho thấy, công tác giáo dục thế giới quan duy vật của chúng ta còn có những hạn chế nhất định, chưa đạt được kết quả như mong muốn. Chúng ta phải xác định nhiệm vụ này rất phức tạp và khó khăn, nhất là trong điều kiện hiện nay khi chủ nghĩa xã hội thế giới đang lâm vào thoái trào. Chính vì vậy mà việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ nhận thực khoa học và chủ nghĩa vô thần cho quần chúng nhân dân là rất quan trọng. Vấn đề giáo dục tri thức tôn giáo trong nhà trường có ý nghĩa hết sức lớn lao. Qua đó đã giúp con người nhìn nhận, có thái độ đúng đắn với tôn giáo, thấy được cái tiến bộ cũng như cái hạn chế của nó. Trong điều kiện hiện nay, để công tác giáo dục thế giới quan duy vật có hiệu quả thiết thực thì cần phải có sự đổi mới và nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học nói chung, trong đó có các môn học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, cần sử dụng tổng hợp các hình thức, phương tiện giáo dục khác nhau như thông qua phát thanh, truyền hình, sách báo, học tập qua mạng v.v... cùng với đa dạng hóa loại hình đào tạo sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng đào tạo. Để nâng cao từng bước chất lượng dạy và học các môn học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thì trước tiên chúng ta phải không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên trong hệ thống nhà trường của cả nước. Muốn vậy, Nhà nước phải có chính sách động viên, khuyến khích đội ngũ giảng viên học tập nâng cao trình độ, tạo điều kiện cho họ được đi tham quan thực tế để tích lũy kinh nghiệm phục vụ cho hoạt động giảng dạy. Bên cạnh đó, cần phải tạo ra không khí học tập tích cực, lôi cuốn sinh viên vào quá trình học tập tích cực và chủ động. Trong vài năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động thi Ôlympíc các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhiều hoạt động khác nhằm khuyến khích động viên hơn nữa sinh viên đi vào tìm hiểu, nghiên cứu sâu rộng các môn học này. Qua đó sẽ góp phần trang bị thế giới quan duy vật, bản lĩnh chính trị cho thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước ngăn chặn và đẩy lùi những ảnh hưởng tiêu cực trong xã hội nói chung và của hoạt động Phật giáo nói riêng. Khi con người đã được trang bị thế giới quan duy vật, phương pháp luận biện chứng, nhận thức được những điều kiện và tiền đề để giải phóng thực sự con người thoát khỏi sự áp bức về mọi mặt, hướng tới sự phát triển một cách toàn diện, thì họ sẽ có khả năng phân biệt những hoạt động tín ngưỡng Phật giáo lành mạnh với việc lợi dụng chính sách tự do tôn giáo của Đảng và Nhà nước, đội lốt hoạt động tôn giáo nhằm chống phá cách mạng nước ta. Từ đó họ sẽ góp phần vào việc ngăn chặn những hoạt động sai trái nói trên, có khả năng chống lại ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, Phật giáo. Cùng với việc nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt cho quần chúng nhân dân, đồng thời chúng ta cần nghiêm khắc trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để truyền đạo trái phép, chống Đảng, chia rẽ tôn giáo này với tôn giáo khác, chia rẽ đồng bào có đạo và không có đạo, làm tổn hại đến lợi ích của tổ quốc, của chế độ chủ nghĩa xã hội. Một mặt, Đảng, Nhà nước chủ trương nâng cao dân trí, chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân giúp họ tìm thấy thiên đường ở cuộc sống thực tại; mặt khác, Đảng cũng chủ trương: "Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia" [7, tr. 128]. Chủ trương đó sẽ từng bước được Đảng và Nhà nước ta cụ thể hóa và hoàn thiện thông qua hệ thống luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo theo tinh thần của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: "Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo" [7, tr. 128]. kết luận Phật giáo đã đến với dân tộc ta đã hơn 2500 năm nay, trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam đã trải qua nhiều biến đổi thịnh - suy, thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc. Phật giáo đã từng vươn lên chiếm lĩnh vị trí tư tưởng ở các triều đại Đinh, Lê. Phật giáo, với sự hưng thịnh đạt tới đỉnh cao dưới thời Lý, Trần, đã từng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, được xem là quốc giáo dưới thời kỳ này. Phật giáo đã ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống tinh thần của nhân dân ta trên nhiều lĩnh vực như đạo đức, lối sống, văn hóa... Kể từ khi du nhập, Phật giáo đã hòa đồng với tín ngưỡng, phong tục tập quán của của người Việt, đã trở thành Phật giáo Việt Nam với bản sắc riêng. Một trong những nét sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam là điểm tương đồng với tín ngưỡng bản địa. Phật giáo hóa tín ngưỡng cùng với tín ngưỡng hóa Phật giáo để mang đặc điểm riêng của Phật giáo Việt Nam. Đây là sự tổng hợp, chắt lọc những tư tưởng tinh túy của các tông phái Phật giáo kết hợp hài hòa với văn minh bản địa tạo thành tư tưởng vừa từ - bi - hỷ - xả vừa kết hợp với truyền thống văn hóa, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng... trong quá trình dựng nước và giữ nước của con người Việt Nam. Phật giáo đã gắn bó với tâm lý truyền thống của dân tộc, đi vào đời sống của nhân dân và truyền qua các thế hệ, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người dân Việt Nam, góp phần tạo nên bản sắc, cốt cách văn hóa của dân tộc ta. Hiện nay, Phật giáo là tôn giáo lớn nhất ở nước ta. Phật giáo đứng vững và có sức sống lâu bền trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Sự tồn tại và phát triển lâu dài của Phật giáo với tính cách là một trong những thành tố của cấu trúc văn hóa dân tộc, những tư tưởng triết lý của Phật giáo, đặc biệt nhân sinh quan của nó có giá trị nhân sinh sâu sắc như giàu lòng vị tha, yêu thương và yêu chuộng hòa bình... Giáo lý nhà Phật có nguồn gốc từ cuộc sống khổ đau của con người trong xã hội ấn Độ cổ đại, từ ước nguyện lớn lao muốn mang lại cho chúng sinh cuộc sống an vui hạnh phúc thực sự, thoát khỏi bể khổ trầm luân. Những quan niệm triết lý nhân sinh của Phật giáo là sự hội tụ, kết tinh của những yếu tố nhân bản, thể hiện sự thông cảm, thương xót vô hạn của Đức Phật, yêu thương chúng sinh, thắm thiết tình người và đặc biệt đã khơi dậy nguồn sức mạnh trong con người... đã góp phần tạo dựng, bồi đắp nên những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của con người Việt Nam. Những quan niệm về nhân sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đến đời sống xã hội Việt Nam. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân sinh quan Phật giáo chịu sự quy định và biến đối cùng với tồn tại xã hội, mà trước hết là sự biến đổi của kinh tế-xã hội, của đất nước và của thời đại. Hiện nay, trong bối cảnh mới Phật giáo đã có sự cải biến, đổi mới cả về giáo lý, lễ nghi và biện pháp hoằng pháp hóa đạo để thích nghi với hoàn cảnh mới, điều kiện mới. Sự biến đổi đó dẫn tới nhiều hệ quả khác nhau, trong đó có sự biến đổi rõ nét của sự ảnh hưởng của nhân sinh quan đối với các tín đồ Phật giáo. Hiện nay, sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo diễn ra ở cả hai chiều trái ngược nhau. Một mặt, sự biến đổi đó diễn ra theo chiều hướng tích cực. Đó là xu hướng đạo gắn với đời, việc tu tập của người tín đồ không xa lánh trần tục, không thoát ly sự nghiệp đổi mới của đất nước, người tín đồ ngoài việc lo hành đạo còn phải thực hiện tốt trách nhiệm và nghĩa vụ của người công dân v.v... Mặt khác, trong xu hướng nhập thế, cũng nảy sinh không ít hiện tượng một số người lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng và nhà nước, vô tình hay hữu ý tiếp tay cho các thế lực thù địch ở bên ngoài có những hành vi gây rối, chia rẽ âm mưu phá hoại khối đoàn kết dân tộc, cản trở công cuộc xây dựng và phát triển đất nước v.v... Điều đó đòi hỏi chúng ta là phải tìm ra các giải pháp để phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế và đẩy lùi ảnh hưởng tiêu cực mà sự biến đổi nhân sinh quan Phật giáo gây ra. Trên cơ sở nắm vững nội dung nguyên lý cơ bản của Phật giáo để phát huy những giá trị của nó trong đời sống xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiện nay, đa số các tín đồ, tăng ni và các vị chức sắc có nhiều đóng góp tích cực cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, với chủ trương đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đã được Đảng, Nhà nước nhân dân ghi nhận và đánh giá cao. Thời đại ngày nay, sự biến đổi mạnh mẽ của khoa học - công nghệ đã đưa loài người bước vào nền văn minh tin học. ở nước ta sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những mặt trái của nó, quá trình mở cửa hội nhập quốc tế v.v... đã có tác động rất lớn đối với các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Vì vậy, trong công tác tôn giáo, nói riêng đối với Phật giáo, chúng ta phải có thái độ khách quan, khoa học nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo để xây dựng nền văn hóa tiến bộ. Để công tác tôn giáo đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội cũng như của mỗi người. Trước hết, chúng ta phải không ngừng học tập nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực công tác, quán triệt, vận dụng đúng đắn và sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo ở địa phương, ngành mình công tác. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ, Nxb Thông tin, Hà Nội. 3. Minh Chi (2001), "Về xu thế thế tục hóa và dân tộc hóa", Nghiên cứu tôn giáo, (3). 4. Doãn Chính (chủ biên) (2003), Kinh văn của các trường phái triết học ấn Độ, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 5. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Đại học quốc gia Hà Nội, Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Quán triệt vận dụng Nghị quyết Đại hội IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Giáo trình triết học Mác - Lênin (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 11. Nguyễn Hùng Hậu (1996), Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 12. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 13. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 14. Bùi Biên Hòa (1998), Đạo Phật và thế gian, Nxb Hà Nội. 15. Mai Xuân Hợi (1996), Thế giới quan, nhân sinh quan đạo Phật và sự ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam, Luận văn cử nhân, Trường Đại học Khoa học Xã hội, Hà Nội. 16. Thanh Hương (1949), Trí - Tuệ - Phật, Tân Việt ấn hành, Hà Nội. 17. Trần Khang và Lê Cự Lộc (dịch), (2001), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin, Bàn về tôn giáo và chủ nghĩa vô thần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Vũ Ngọc Khánh (1986), Phật giáo và văn hóa dân gian Việt Nam - Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội. 19. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, II, Nxb Văn học, Hà Nội. 20. C. Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 21. Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội. 22. Thích Thánh Nghiêm (1991), Học Phật quần nghi, Phân viện Nghiên cứu Phật học, Hà Nội. 23. Tâm Nguyên (dịch) (1973), Khuyên phát tâm bồ đề, Hương Sen ấn tống Phật lịch 2517. 24. Phân viện Nghiên cứu Phật học, Phật giáo và văn hóa dân tộc, Thư viện Phật học xuất bản. 25. Phòng thông tin tư liệu, Ban Tôn giáo Chính phủ, Một số tôn giáo ở 26. Việt Nam. 27. Lê Văn Quán (1998), "Bước đầu tìm hiểu giá trị nhân sinh của Phật giáo", Nghiên cứu Phật học, (2). 28. Thích Trí Quang (dịch) (1973), Kinh di giáo, Hương Sen ấn tống Phật lịch 2517. 29. Thích Trí Quảng (1999), Lược giải kinh Pháp Hoa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 30. Phạm Văn Sinh (1995), Về vai trò của Phật giáo ở Việt Nam (qua triều đại nhà Lý), Luận án tiến sĩ triết học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. 31. Nguyễn Đức Sự (chủ biên), (2001), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, bàn về tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 32. Thích Chơn Thiện, (1999), Phật học khái luận, Nxb Thành phố Hồ 33. Chí Minh. 34. Hoàng Thơ (2002), "Đạo đức Phật giáo với kinh tế thị trường", Triết học, (7). 35. Nguyễn Tài Thư (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 36. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 37. Nguyễn Tài Thư (1996), Phật giáo Việt Nam, những vấn đề đặt ra hiện nay, tôn giáo tín ngưỡng hiện nay - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, Thông tin chuyên đề, Hà Nội. 38. Nguyễn Tài Thư (1997), "Cơ sở tín ngưỡng Phật giáo của người Việt Nam hiện nay", Thông tin lý luận. 39. Trần Văn Trình (1999), "Tìm hiểu những khía cạnh xã hội của tình hình phát triển Phật giáo Hà Nội thời kỳ đổi mới", Nghiên cứu Phật học, (2). 40. Trần Văn Trình (1999), "Tìm hiểu vấn đề đặc trưng của Phật giáo trong quá trình hội nhập với văn hóa Việt Nam", Nghiên cứu Phật học, (6). 41. Lê Hữu Tuấn (1998), ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 42. Vũ Minh Tuyên (2000), Điều kiện tồn tại của Phật giáo Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 43. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (1996), Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội hiện nay. 44. Nguyễn Hữu Vui (1995), "Cắt nghĩa hiện tượng gia tăng của tôn giáo hiện nay", Đại học Quốc gia Hà Nội, (1). 45. Trần Quốc Vượng (1990), Phật giáo và văn học Việt Nam, Phật giáo và văn hóa dân tộc, Thư viện Phật học. 46. Phạm Thị Xê (1996), ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo trong lối sống của người Huế hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 47. Hoàng Tâm Xuyên (1999), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. Walpola Rahula (1999), Lời giáo huấn của Phật đà, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf32_3644.pdf
Luận văn liên quan