Thực tế cho thấy, không phải bao giờ sự biến đổi của quan hệ sản xuất cũng tuân
theo quy luật kinh tế khách quan. Đã có thời kỳ, chúng ta đã dùng chính trị áp đặt cho
kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất mới không phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất như vậy đã dẫn tới kìm hãm sản xuất, đẩy nước
ta lâm vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế - xã hội, buộc chúng ta phải đổi mới. Thực
chất của đổi mới là điều chỉnh lại quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
102 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2453 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, tổ chức kinh doanh lớn. Chính vì vậy, cần có một cơ quan trung
ương chuyên trách công tác này.
Các cơ quan này thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các mặt định hướng
kế hoạch phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân, thực hiện đăng ký kinh doanh, bảo
đảm các điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của doanh nghiệp, hướng dẫn chỉ đạo các
doanh nghiệp này hoạt động theo pháp luật.
Việc hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư bản tư nhân cần
được tiến hành với sự hoàn thiện cơ sở pháp lý, hoàn thiện chức năng quản lý hoạt động
của các cơ quan kế hoạch - đầu tư, thuế, ngân hàng.
Đối với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là một bộ phận của thành phần kinh tế
có vốn dầu tư của nước ngoài:
Phát triển quan hệ sản xuất đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước
ngoài là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược thu hút vốn đầu tư của
nước ngoài vào Việt Nam. Hoàn thiện quan hệ sản xuất đối với kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài phải tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam, và tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài phát triển sản
xuất kinh doanh, qua đó tạo sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, nhằm đẩy mạnh việc thu
hút vốn đầu tư từ nước ngoài trong những năm tới.
Một là, trong những năm tới việc đẩy mạnh phát triển loại hình quan hệ sản xuất
thuộc kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài cần tập trung vào những vấn đề trọng tâm
sau:
Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư 100% vốn vào tất cả các lĩnh
vực mà pháp luật Việt Nam không cấm, trong đó khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực mà
doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Cần khuyến khích với 100% vốn nước ngoài trong phân phối các nguồn lực và
trong phân phối kết quả sản xuất kinh doanh như:
Ưu đãi về mặt bằng sản xuất: cho thuê mặt bằng với quy mô diện tích phù hợp với
yêu cầu đầu tư và với giá thuê đất không cao hơn mức ưu đãi thuế đất của các nước
trong khu vực.
Ưu đãi về phân phối các nguồn lực: cần có sự chuẩn bị lực lượng lao động có tay
nghề cần thiết để cung cấp cho các doanh nghiệp có vồn đầu tư nước ngoài thông qua tổ
chức tốt việc đào tạo lao động kỹ thuật.
Hai là, đơn giản hóa hơn nữa thủ tục cấp phép đầu tư và việc kiểm tra hoạt động
của doanh nghiệp.
Khâu cấp phép đầu tư nước ngoài vào Việt Nam những năm gần đây đã được quan
tâm nhiều, nói chung các quy định về cấp phép đầu tư đã thuận lợi nhiều cho đầu tư
nước ngoài. Tuy nhiên trong tổ chức thực hiện cần bảo đảm đúng thời hạn cấp phép đầu
tư cho các nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của nhà nước. Việc kiểm tra hoạt động
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần tiếp tục được cải tiến sao cho các
doanh nghiệp nước ngoài không phải mất nhiều thời gian để tiếp các đoàn kiểm tra của
các cơ quan chức năng.
Tăng cường sự giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện
nội dung kinh doanh được cấp phép của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tăng cường sự giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc chấp hành luật pháp, bảo vệ môi trường,
quan hệ lao động, nghĩa vụ thuế...
Ba là, Giải quyết quan hệ chủ – thợ, xây dựng quan hệ chủ thợ tốt trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Việc giải quyết quan hệ chủ - thợ, xây dựng quan hệ chủ thợ phải dựa trên cơ sở
tuân thủ luật pháp Việt Nam, đặc biệt là bộ luật lao động và những điều khoản cam kết
giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Mặt khác, để giải quyết quan hệ chủ - thợ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, cần xây dựng tổ chức công đoàn và tăng cường vai trò các tổ chức công
đoàn ở các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này.
* Đối với loại hình quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa
Mặc dù chế độ phong kiến không còn tồn tại ở nước ta, nhưng cơ sở kinh tế của
các phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại. Vì vậy, quan hệ sản
xuất tiền tư bản chủ ở nước ta tồn tại là một tất yếu khách quan.
Loại hình quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ cũng chiếm một bộ phận không nhỏ ở
nước ta. Do đó, để tiến tới mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh" thì Đảng, Nhà nước phải có chính sách giúp đỡ loại hình kinh tế này phát triển lớn
mạnh để quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Loại hình quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ ở nước ta được chia làm hai bộ phận
là: kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp.
* Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Thành phần kinh tế này chiếm số lượng lớn lao động của xã hội. Hiện nay ở nước
ta có khoảng 12 triệu hộ nông dân kinh doanh cá thể và hàng vạn hộ kinh doanh ngoài
nông nghiệp. Bởi vậy, để đẩy nhanh nền kinh tế của nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, chúng ta phải có chính sách để thúc đẩy loại hình quan hệ sản xuất này phát triển
lớn mạnh. Trong những năm tới, Đảng - Nhà nước cần có những chính sách để hỗ trợ
kinh tế cá thể tiểu chủ phát triển.
Thứ nhất, Nhà nước cần có chính sách giúp đỡ về đào tạo nhân lực cho thành phần
kinh tế này.
Bởi lẽ, phần lớn lao động trong thành phần kinh tế này ít được đào tạo, chủ yếu là
lao động thủ công, trình độ văn hóa, kỹ năng thấp chỉ có 0,5 số lao động là có trình độ
đại học, cao đẳng. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: lực lượng hàng đầu của toàn thể
nhân loại là người công nhân và người lao động. Chính vì vậy, khi trình độ của người
lao động mà thấp thì dẫn tới trình độ của lực lượng sản xuất thấp làm cho năng suất lao
động thấp. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần thành lập các trung tâm dạy nghề,
mở các lớp ngắn và dài hạn để đào tạo đội ngũ lao động cho thành phần kinh tế này,
nhằm nâng cao trình độ của họ.
Thứ hai, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về vốn để giúp đỡ thành phần kinh tế
này phát triển.
Để mở rộng sản xuất kinh doanh thì trước hết phải có vốn, nhưng đa số những
người cá thể, tiểu chủ là sản xuất nhỏ, vốn ít. Trong khi đó, điều kiện để đáp ứng được
vay vốn của ngân hàng là khó khăn do phải thế chấp tài sản... Do vậy, Đảng và Nhà nước
cần có chính sách cho vay ưu đãi với thành phần kinh tế này, để họ có thể vay được vốn
ngân hàng, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, thành phần kinh tế này thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Đây là một trở ngại lớn với kinh tế cá thể, tiểu chủ. Do vậy, Đảng và Nhà nước
cần có chính sách giúp thành phần kinh tế này có được đầu ra cho sản phẩm, chẳng hạn:
thành lập các nhà máy chế biến nông sản để tiêu thụ sản phẩm cho các hộ nông dân cá
thể, hoặc giúp họ chuyển đổi về cơ cấu cây trồng để có sản phẩm phù hợp với nhu cầu
của thị trường.
* Đối với bộ phận sản xuất tự cung tự cấp ở một số dân tộc ít người ở vùng núi
cao, vùng sâu vùng xa.
Thành phần kinh tế này tuy chiếm số lượng ít nhưng lại rất quan trọng bởi vì nó
góp phần to lớn vào xoá đói giảm nghèo ở nước ta. Trong những năm tới Đảng, Nhà
nước cần có giải pháp thúc đẩy quan hệ sản xuất này phát triển và đi tới xóa bỏ loại hình
quan hệ sản xuất này ở Việt Nam.
Để phát triển và đi tới xóa bỏ loại hình quan hệ sản xuất này cần phải:
Một là, Nhà nước cần tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng cho vùng cao, vùng sâu
vùng xa để tạo điều kiện cho các xã nghèo, hộ nghèo giao lưu về kinh tế chấm dứt sự
cách biệt với các vùng khác của nền kinh tế và giúp họ chuyển dịch cơ cấu kinh tế vật
nuôi, cây trồng, tăng cường giao lưu hàng hóa.
Hai là, Các tỉnh chủ động hỗ trợ đất, tư liệu sản xuất cho các đồng bào ít người,
gắn việc thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo với ổn định cuộc sống an ninh và xã
hội. Đảng - Nhà nước hỗ trợ họ về nhà ở, đất ở, giúp họ chuyển đổi phát triển sản xuất
từ du canh du cư sang định canh định cư.
Ba là, Các tỉnh cần chỉ đạo xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo ở các vùng đặc
thù: bảo đảm thực hiện có hiệu quả bền vững phù hợp với điều kiện cụ thể của các địa
phương như: mô hình liên kết công ty với người nghèo, hộ nghèo và phát triển vùng
nguyên liệu, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, tạo việc làm, tăng thu nhập.
Bốn là, Đảng, Nhà nước cần có chính sách tăng cường cán bộ trẻ, trí thức tình
nguyện về công tác tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ít người để giúp họ sản xuất,
truyền dạy kinh nghiệm, kỹ năng mới mới cho người nghèo.
Đẩy mạnh phát triển loại hình kinh tế quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, nhất
là kinh tế tự cung, tự cấp, là nhằm làm cho xã hội phát triển bền vững, vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.
Cùng với sự đẩy mạh phát triển từng loại hình quan hệ sản xuất, chúng ta phải
phát triển sự đan xen, hỗn hợp giữa các koại hình quan hệ sản xuất. Do đặc điểm của
nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là tồn tại nhiều mảng, nhiều bộ phận của chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, hình thức kinh tế đan xen hỗn hợp tồn tại là một tất
yếu, nó làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đây
cũng là một xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay.
Để phát triển kinh tế hỗn hợp cần phải:
- Tăng cường sự liên kết, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài. Sự liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
một biện pháp quan trọng nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vào nước ta. Đây
cũng chính là biện pháp để nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế giới, thực
hiện sự phân công, hợp tác giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, quốc tế hoá hiện nay thì sự liên kết liện doanh giữa kinh tế
nhà nước với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giúp chúng ta tiếp cận với khoa học,
công nghệ của thế giới, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý trong sản xuát kinh doanh
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó, chúng ta phải cho
phép nước người đầu tư vào tất cả các ngành, các lĩnh vực mà pháp luật không cấm, hướng
mạnh vào xuất khẩu nhằm nâng dần năng lực nội sinh của nền kinh tế. Mặt khác, phải tăng
cường huy động vốn của các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao tỉ lệ vốn góp của phía
Việt Nam trong các xí nghiệp liên doanh.
-Tăng cường sự liên kết liên doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư
nhân trong nước. Đây là một giải pháp quan trọng để phát triển kinh tế hỗn hợp. Phát
triển liên kết, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước là
một giải pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước ở nhữg doanh nghiệp mà nhà nước
không cần giữ 100% vốn. Để tạo điều kiện cho loại hình liên doanh này phát triển Nhà
nước cần có cơ chế chính sách để đa dạng hoá các hình thức liên kết liên doanh.
- Đặc biệt cần phát triển các dự án liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với
kinh tế tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài có qui mô vừa và nhỏ, đồng thời coi
trọng những dự án ở những ngành mũi nhọn. Bởi lẽ, nước ta có nguồn lao động dồi dào
nhất là lao động phổ thông. Sử dụng nhiều lao động vừa là phát huy lợi thế so sánh, vừa
tạo công ăn việc làm nhằm giải quyết một vấn đề bức xúc của xã hội. Do vậy, cần
khuyến khích các dự án liên doanh sử dụng nhiều lao động bằng cách phát triển các dự
án vừa và nhỏ. Bên cạnh đó công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có những ngành
mũi nhọn với những bước nhảy vọt về khoa học công nghệ. Vì vậy, đồng thời với việc
ưu tiên các dự án có qui mô vừa và nhỏ sử dụng nhiều lao động, cần phải coi trọng một
số dự án có qui mô lớn, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của khoa học công
nghệ.
Thực hiện sự liên kết liên doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân
trong và ngoài nước chính là phát triển kinh tế tư bản nhà nước. Theo Lênin đó là bắc
những nhịp cầu nho nhỏ để đi tới chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, để đẩy mạnh phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, phải đẩy
mạnh phát triển từng loại hình quan hệ sản xuất và phát triển sự đan xen giữa các loại
hình quan hệ sản xuất, đồng thời quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải vươn lên giữ
vai trò chủ đạo nhằm định hướng xã hội chủ nghĩa cho các loại hình quan hệ sản xuất
khác.
2.2.2. Tiếp tục đổi mới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo kinh
tế nhà nước từng bước giữ vai trò chủ đạo, vùng với kinh tế tập thể dần dần trở
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân
Từ khi đổi mới đến nay, chúng ta thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần với sự đa dạng hóa các loại hình quan hệ sản xuất, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải
vươn lên giữ vai trò chủ đạo, chi phối các loại hình quan hệ sản xuất khác ở nước ta. Tuy
nhiên, vai trò chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không có nghĩa là chiếm số
lượng tuyệt đối, phát triển tràn lan mà vai trò chủ đạo đó phải được thể hiện bằng sức mạnh
kinh tế và tính hiệu quả của nó.
Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định vai trò của kinh tế Nhà nước
như sau:
Thứ nhất, kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng
vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế,
doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng về tiến bộ khoa học,
công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành
pháp luật [20, tr.96].
Theo tinh thần của đại hội lần thứ IX của Đảng thì vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước thể hiện trước hết là hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước phải có hiệu quả
cao hơn các loại hình quan hệ sản xuất khác, làm tấm gương cho các loại hình quan hệ
sản xuất khác ở nước ta. "Đi đầu ứng dụng về về toàn bộ khoa học - công nghệ nêu
gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật".
Thứ hai, Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước không nhất thiết phải chiếm số
lượng lớn, có mặt ở tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, mà vai trò đó được
thể hiện doanh nghiệp nhà nước chỉ cần phải nắm giữ những ngành, lĩnh vực trọng yếu,
lĩnh vực liên quan tới quốc phòng an ninh để từ đó Nhà nước có thể thực hiện được sự
điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế.
Những năm vừa qua, kinh tế nhà nước đã đạt được những thành tựu quan trọng
như: giữ vai trò chủ đạo chiếm khoảng 40% GDP của đất nước, nắm giữ những ngành,
lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế. Bên cạnh đó kinh tế nhà nước còn bộc lộ những
mặt yếu kém. Đó chính là hiệu quả của kinh tế Nhà nước chưa cao, theo số liệu thống
kê: "Năm 1998 chỉ có 40% doanh nghiệp nhà nước thực sự có hiệu quả, 20% doanh
nghiệp nhà nước bị thua lỗ liên tục 40% còn lại khi lỗ khi lãi".[65, tr.19].
Chính vì vậy, việc chúng ta phát triển có hiệu quả doanh nghiệp nhà nước để kinh
tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là một vấn đề quan trọng nhằm định hướng xã hội chủ
nghĩa đối với nền kinh tế.
Nhà nước có nhiều chủ trương chính sách để nâng cao hiệu quả của kinh tế Nhà
nước. Với nhiều chủ trương chính sách sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước
như: giao, bán, khoán, cho thuê, giải thể doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước.
Nhờ đó số lượng các doanh nghiệp nhà nước đã giảm đáng kể: từ chỗ là sản phẩm
của quá trình quốc doanh hóa với 12000 doanh nghiệp, đến nay doanh nghiệp nhà nước chỉ
còn lại 4296 doanh nghiệp, mặc dù vậy hiệu quả lại tăng lên. Tuy nhiên, việc sắp sếp đổi
mới doanh nghiệp nhà nước còn chưa đáp ứng được yêu cầu, tiến trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước còn chậm.
Trong những năm tới, để phát triển có hiệu quả doanh nghiệp nhà nước chúng ta
cần phải tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế của Nhà nước theo chúng tôi cần
các giải pháp sau:
Một là, Cần đẩy mạnh tiến trình tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước.
Để phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước thì vấn để là phải phân loại được các
doanh nghiệp nhà nước cần giữ 100% vốn, các doanh nghiệp không nhất thiết phải duy
trì 100% vốn. Với các doanh nghiệp không nhất thiết phải duy trì 100% vốn nhà nước
thì có thể cho cổ phần hóa, còn các doanh nghiệp nhà nước không thuộc những ngành
lĩnh vực quan trọng, làm ăn thua lỗ kéo dài có thể cho: giao, bán, khoán, cho thuê, sát
nhập, thậm chí giải thể, phá sản các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài... đặc
biệt, nhà nước cần phân định doanh nghiệp nhà nước làm hai loại:
Doanh nghiệp nhà nước thực hiện chức năng công ích và doanh nghiệp nhà nước
làm chức năng sản xuất kinh doanh. Với doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích thì
không cần đề cao quá mức hiệu quả sản xuất kinh doanh, mà cần dựa vào hiệu quả phục vụ
về xã hội. Với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần dựa vào hiệu quả sản xuất kinh doanh
để đánh giá, theo cơ chế thị trường.
Mặt khác, phải đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước bằng việc củng cố
tăng cường vai trò của các ban đổi mới, quản lý doanh nghiệp, bố trí cán bộ chuyên
trách am hiểu về tình hình tài chính, công tác cổ phần, lựa chọn đúng các doanh nghiệp
nhà nước cần cổ phần hóa vào thời điểm thích hợp.
Làm tốt công tác tư tưởng tuyên truyền giải thích trong nhân dân những chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp để nhân dân thông
suốt, cải cách các thủ tục rườm rà trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Hai là, Tạo ra một môi trường sản xuất kinh doanh, một sân chơi bình đẳng giữa
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Để nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước cần tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu đối với doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, trong các doanh nghiệp nhà
nước vẫn còn tồn tại cơ chế "xin - cho" về cấp vốn đầu tư. Đây là một trong những
nguyên nhân gây ra tham nhũng, tham ô của cán bộ doanh nghiệp nhà nước và làm cho
doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Vì vậy cần phải xóa bỏ cơ chế "xin - cho"
hiện nay thay bằng cơ chế đầu tư vốn Nhà nước để bảo đảm hiệu quả kinh tế cao. Mặt
khác chúng ta cần phải xóa bỏ chế độ bao cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước (khi
lỗ thì nhà nước bù) thực hiện bảo hộ có điều kiện và có thời hạn nhằm nâng hiệu quả
của các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, Nhà nước vẫn bao cấp cho các doanh nghiệp
nhà nước về: mặt bằng sản xuất kinh doanh, vốn trong ngân hàng, hoàn nợ, xóa nợ,
khoanh nợ.... do đó tạo ra sự ỷ lại của các doanh nghiệp vào nhà nước. Để nâng cao tính
chủ động, sáng tạo của các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước cần phải thực hiện sự bao
cấp trên bằng một thời hạn nhất định. Ngoài ra thì phải đối xử bình đẳng như các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.
Ba là, Tăng cường quản lý các doanh nghiệp nhà nước
Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động doanh nghiệp nhà nước như: có các
chế định rõ ràng về tổ chức hoạt động, chế định tài chính, chế định về quyền sử dụng
đất, sử dụng lao động tại các doanh nghiệp. Nhà nước cần xác định rõ hơn tư cách pháp
lý, quyền và nghĩa vụ của hội đồng quản trị và người điều hành doanh nghiệp. Tuy
nhiên, Nhà nước nên giảm bớt sự can thiệp trực tiếp không cần thiết của mình đối với
hoạt động kinh doanh với doanh nghiệp để trao quyền tự chủ kinh doanh phát huy tính
năng động sáng tạo của các doanh nghiệp. Giảm bớt các thủ tục hành chính phiền hà
gây trở ngại cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Bốn là, Cần phải đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước có
năng lực phẩm chất đạo đức.
Một trong những giải pháp để nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước
là tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, một
bộ phận cán bộ nhà nước thoái hóa, biến chất, yếu kém về năng lực, đây là nguyên nhân
làm cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy, các cán bộ khoa học -
kỹ thuật, cán bộ kinh doanh, công nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước cũng cần
được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, hiểu biết pháp luật,
đổi mới về tư duy kinh doanh, kịp thời nắm bắt nhu cầu của thị trường, nắm vững được
các tri thức kinh tế thị trường hiện đại.
Công tác giáo dục lý tưởng cho đội ngũ cán bộ là điều cần thiết cần được tăng
cường để tạo ra đội ngũ cán bộ không chỉ có năng lực mà còn có lý tưởng cao đẹp, có
hoài bão, có phẩm chất chính trị vững vàng vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Có như
vậy chúng ta mới tạo dựng được đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài phục vụ trong các
doanh nghiệp nhà nước, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất
nước, cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước.
Tóm lại, để nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước cần phải có những giải
pháp tổng hợp, đồng bộ và sự nỗ lực của các cấp các ngành, các doanh nghiệp. Nâng
cao hiệu quả kinh tế nhà nước là nhằm bảo đảm phát huy vai trò chủ đạo, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã có vai trò quan trọng trong công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế hợp tác xã càng trở nên cần thiết đối với
những người lao động và những người sản xuất nhỏ. Đảng và Nhà nước xác định: kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của
nền kinh tế quốc dân.
Để phát triển kinh tế tập thể trong những năm tới cần phải:
Một là, Nâng cao trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh trong các hợp tác
xã.
Hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã phụ thuộc rất
nhiều vào đội ngũ cán bộ quản lý. Hiện nay, vấn đề nổi cộm của kinh tế hợp tác xã là
trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của đội ngũ cán bộ quản lý còn yếu, ở
nhiều địa phương có tới 50% hoặc trên 50% cán bộ trong ban quản lý hợp tác xã làm ăn
kém hiệu quả, nhất là trong các ngành công nghiệp tiểu, thủ công nghiệp, thương mại,
dịch vụ. Do vậy nâng cao trình độ tổ chức quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý ở các hợp
tác xã là một yêu cầu cấp thiết để phát triển hợp tác xã.
Để nâng cao trình độ tổ chức quản lý của đội ngũ cán bộ hợp tác xã cần có các
hình thức và nội dung đào tạo phong phú với các trình độ đào tạo khác nhau phù hợp
với công việc quản lý và điều kiện tham gia đào tạo của các hợp tác xã. Cần chú trọng
đào tạo các cán bộ chủ chốt của các hợp tác xã, bảo đảm cho bộ phận này có trình độ
năng lực quản lý để điều hành hoạt động của các hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường.
Hai là, đổi mới nhận thức về kinh tế tập thể.
Về nhận thức, trước hết phải làm cho mỗi cán bộ quản lý nhà nước ở các địa
phương thấm nhuần nguyên tắc cơ bản của kinh tế tập thể là nguyên tắc tự nguyện. Đây
là nguyên tắc quan trọng nhất của kinh tế tập thể, bưởi vì nếu không có sự tự nguyện thì
không thể có sự hợp tác, do đó Lênin đã coi đây là nguyên tắc số một của kinh tế tập
thể.
Cần thống nhất trong nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể
không chỉ bao gồm các hợp tác xã mà còn có nhiều hình thức đa dạng như: các tổ, nhóm
hợp tác, các hợp tác xã, các hiệp hội theo ngành nghề... Hình thức của kinh tế tập thể rất
đa dạng, phong phú nó phụ thuộc vào từng điều kiện kinh tế cụ thể của các đơn vị, việc
lựa chọn các hình thức của kinh tế tập thể phải căn cứ vào điều kiện sản xuất kinh doanh
của từng đơn vị. Nếu hình thức lựa chọn không phù hợp sẽ làm cho quá trình sản xuất
kinh doanh các đơn vị rơi vào trì trệ. Do đó, các cấp chính quyền địa phương cần nhận
thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí vai trò của các hình thức kinh tế tập thể, không nên chỉ
bó hẹp ở hình thức các hợp tác xã. Trên cơ sở đó các cấp chính quyền cần hướng dẫn để
những người lao động, người sản xuất tự lựa chọn hình thức phù hợp với họ, tránh sự áp
đặt trong chuyển đổi các hợp tác xã.
Ba là, Phát triển các hợp tác xã cổ phần trong một số ngành, một số lĩnh vực của
kinh tế tập thể.
Theo luật hợp tác xã, các xã viên phải góp vốn khi tham ra vào hợp tác xã, về lợi
ích các xã viên được “Hưởng lãi theo vốn góp, công sức đóng góp của xã viên”. Luật
hợp tác xã cũng quy định “ xã viên hợp tác xã có quyền tham ra quản lý, kiểm tra, giám
sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết”. Các quy định của hợp tác xã
nói chung là phù hợp với kinh tế hợp tác. Tuy nhiên, trong điều kiện của kinh tế thị
trường, thực tế cho thấy ở một số ngành, một số lĩnh vực đòi hỏi vốn khá lớn thì hợp tác
xã mới hoạt động có hiệu quả. Để đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của
hợp tác xã, trong nhiều trường hợp vốn của các xã viên là có hạn và khác nhau, khi vốn
góp như nhau thì biểu quyết ngang nhau là hợp lý, song khi vốn góp có sự khác biệt thì
quyền biểu quyết ngang nhau sẽ dẫn tới sự kìm hãm việc huy động vốn của các xã viên
hợp tác xã và hạn chế việc huy động sức mạnh của các xã viên. Do vậy, trong các ngành
các lĩnh vực mà hoạt động sản xuất kinh doanh cần có sự huy động vốn với quy mô khá
lớn, vốn góp của các xã viên có sự khác biệt thì cần phát triển hình thức hợp tác xã cổ
phần, dựa trên sự kết hợp quan hệ đối nhân và quan hệ đối vốn. Có như vậy chúng ta
mới mở rộng các hình thức hợp tác và thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển.
Tóm lại, để quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phát triển có hiệu quả, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân, nhằm mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải tiếp tục đổi mới, phát triển có
hiệu quả quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, để loại hình quan hệ sản xuất này giữ được
vị trí chủ đạo, chi phối các loại hình quan hệ sản xuất khác.
2.2.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật tạo môi trường pháp lý phù
hợp nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của các chủ thể kinh tế trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Để phát huy được tính năng động, sáng tạo của các chủ thể trong sản xuất kinh
doanh và làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả, đúng định hướng, thì vai trò của
nhân tố chính trị là rất quan trọng. Bởi lẽ nhân tố chính trị có sự tác động trở lại kinh tế
rất mạnh mẽ, nó có thể làm cho kinh tế phát triển nhanh, có hiệu quả nếu nó phản ánh
đúng quy luật kinh tế khách quan, ngược lại thì kìm hãm kinh tế phát triển.
ở nước ta Đảng, Nhà nước là những lực lượng lãnh đạo quản lý xã hội. Những lực
lượng này có thể nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế chuyển chúng thành đường
lối, chính sách, pháp luật, kế hoạch.... để tổ chức thực hiện, đưa vào cuộc sống nhằm
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Đảng và Nhà nước cũng là những thành tố cơ bản của hệ thống chính trị, của kiến
trúc thượng tầng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước chính là
tăng cường sự tác động của chính trị xã hội đối với nền kinh tế, nhằm mục đích định
hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế. Mặt khác, sự phát triển của kinh tế thị
trường buộc Đảng phải tự đổi mới, chỉnh đốn, đổi mới phương thức lãnh đạo, cách thức
tổ chức quản lý cho phù hợp với yêu cầu, quản lý của kinh tế thị trường.
Thực chất của quá trình đổi mới kinh tế vừa qua ở nước ta là thừa nhận sự phụ
thuộc của các thành phần kinh tế, của sự tồn tại đa dạng hóa các loại hình quan hệ sản
xuất, thừa nhận quan hệ hàng hóa - tiền tệ và cơ chế thị trường.
Do đó, vai trò của Nhà nước ta với kinh tế cũng có sự thay đổi căn bản. Đó là quá
trình chuyển Nhà nước từ độc quyền sang quan hệ giữa Nhà nước với thị trường. Nếu
trước đây Nhà nước là chủ thể của chế độ sở hữu thì hiện nay đang giữ vai trò chủ đạo
của hệ thống đa sở hữu. Nếu trước đây trực tiếp sản xuất kinh doanh thì nay là thiết kế
luật chơi hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh.
Từ khi đổi mới đến nay, sự quản lý của Nhà nước đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Tuy nhiên, quản lý của nhà nước với nền kinh tế còn nhiều yếu kém, hiệu lực
quản lý thấp. Hệ thống luật pháp, chính sách chưa đồng bộ, chưa nhất quán, kỷ cương
luật pháp chưa nghiêm. Công tác tài chính, giá cả, quy hoạch quản lý đất đai... còn
nhiều yếu kém, bất cập, thủ tục hành chính còn rườm rà. Do đó, việc nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước với nền kinh tế ở Việt Nam, nhằm phát huy được tính tự
chủ sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh là một yêu cầu cấp bách. Để thực hiện
yêu cầu này cần phải có các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế.
Hệ thống luật kinh tế là một công cụ quản lý vĩ mô quan trọng của nhà nước, chức
năng của các hệ thống luật kinh tế là tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các chủ
thể kinh tế và điều chỉnh vi mô của chủ thể kinh tế.
Trong thời gian vừa qua, Nhà nước đã ban hành nhiều bộ luật, pháp lệnh để đáp
ứng yêu cầu đổi mới kinh tế. Hệ thống luật pháp đã góp phần tích cực vào việc hình
thành cơ chế kinh tế mới theo hướng giảm dần sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào
hoạt động của các doanh nghiệp, các chủ thể kinh tế, đồng thời bảo đảm sự bình đẳng
giữa các loại hình quan hệ sản xuất, tăng cường quyền tự chủ của mỗi doanh nghiệp,
mỗi chủ thể kinh tế.
Tuy nhiên, luật pháp kinh tế còn nhiều bất cập còn ảnh hưởng tới hoạt động sản
xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế như:
Luật pháp kinh tế chưa đồng bộ, một số quan hệ kinh tế giữa các chủ thể, các doanh
nghiệp nảy sinh trong sản xuất kinh doanh chưa có văn bản pháp quy để điều chỉnh như:
chưa có luật cạnh tranh, luật chống độc quyền, hoạt động quảng cáo được điều chỉnh bằng
các nghị định cần được thể hiện bằng văn bản luật.
Luật pháp về hợp đồng kinh tế còn có điểm bất hợp lý nên kém tính khả thi gây
thiệt thòi cho các doanh nghiệp.
Cơ chế kiểm soát, điều hành xử lý vi phạm của Nhà nước đối với nền kinh tế thiếu
đồng bộ.
Việc thực thi luật pháp còn thiếu nghiêm minh dẫn tới hiện tượng vi phạm pháp
luật khá phổ biến, vi phạm luật bảo vệ môi trường, chế độ tài chính, quan hệ lao động.
Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp kinh tế trong những năm tới gồm biện pháp
sau:
Ban hành bổ sung những văn bản pháp quy để điều chỉnh các quan hệ kinh tế luật
cạnh tranh, chống độc quyền, luật chứng khoán...
Sửa đổi, bổ sung những điều khoản cần thiết để hoàn thiện những văn bản đã ban
hành còn có những nội dung bất cập không phù hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tăng cường tính nghiêm minh trong việc thực thi luật pháp. Đây là yếu tố cơ bản
bảo đảm luật kinh tế hoàn thành chức năng của nó, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm
quyền bình đẳng và phát huy tối đa các tiềm năng, nguồn lực của các thành phần kinh
tế, các loại hình quan hệ sản xuất ở Việt Nam.
Chính sách kinh tế vĩ mô là công cụ quản lý vĩ mô chủ yếu của Nhà nước. Thông
qua các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ tác động tới lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế
tạo động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế hoạt động theo định hướng của nhà nước.
Phần lớn các chính sách kinh tế vĩ mô có liên quan tới các thành phần kinh tế, các loại
hình quan hệ sản xuất trong đó có những chính sách liên quan trực tiếp và tác động
mạnh mẽ tới hoạt động của các chủ thể kinh tế như: chính sách tài chính, chính sách
thuế, chính sách ưu đãi, chính sách đầu tư...
Những năm đổi mới vừa qua, chính sách kinh tế vĩ mô đã có những đổi mới căn
bản tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc phát huy các tiềm năng và nguồn lực của các
chủ thể kinh tế, góp phần quyết định vào việc giải phóng sức sản xuất ở nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chính sách kinh tế vĩ mô còn có
những vấn đề tồn tại, chậm được đổi mới chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
kinh tế như:
Chính sách đất đai: Trong khi các doanh nghiệp nhà nước được giao đất ổn định
lâu dài để sản xuất kinh doanh, thì các loại hình kinh tế khác như tư bản tư nhân, cá thể
không được giao đất để sử dụng như vậy.
Chính sách tín dụng: Trong khi các doanh nghiệp nhà nước được vay vốn không
cần thế chấp, thì các doanh nghiệp thuộc các loại hình kinh tế khác lại không có điều
kiện như vậy.
Về chính sách thuế: doanh nghiệp nhà nước được ưu tiên hơn các loại hình doanh
nghiệp khác như: được hoãn nợ, dãn nợ, khoan nợ....
Những bất bình đẳng giữa các loại hình quan hệ sản xuất, các chủ thể kinh tế trong
các chính sách kinh tế vĩ mô đã tác động mạnh mẽ tới tâm lý lòng tin của các chủ doanh
nghiệp tư nhân làm cho họ chưa thực sự yên tâm đầu tư kinh doanh làm ăn lâu dài.
Để phát triển các loại hình quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế trong những
năm tới phải tiếp tục đổi mới hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô theo phương
hướng sau:
Khắc phục sự bất bình đẳng giữa các loại hình kinh tế để các chủ thể kinh tế yên
tâm đầu tư kinh doanh.
Tạo động lực kinh tế mạnh mẽ hơn nữa nhằm thúc đẩy các chủ thể thuộc các loại
hình kinh tế phát huy tối đa tiềm năng nguồn lực của mình để phát triển sản xuất kinh
doanh.
Trên cơ sở bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh
tế cần áp dụng các chính sách tự do cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh giữa các
doanh nghiệp.
Thực hiện tốt chính sách kinh tế vĩ mô sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Thứ ba, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Để phát huy vai trò của các chủ thể kinh tế trong sản xuất kinh doanh, nhà nước
cần: Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố cấu thành thị trường bao gồm: thị trường hàng
hóa, dịch vụ, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, bất động sản...
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh
tranh và tiếp tục phát triển. Thông qua chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chính sách phù
hợp nhằm sử dụng hiệu quả các lực lượng vật chất của nhà nước để định hướng phát
triển kinh tế - xã hội, mặt khác Nhà nước cần tăng cường kiểm tra, giám sát để chống
các tệ buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại, tham nhũng, lãng phí... tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, công khai của các chủ thể kinh tế. Tuy nhiên, cần phải
định rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh
doanh, để từ đó thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.
Việc hình thành đồng bộ cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo môi
trường kinh tế tốt là động lực cho các chủ thể kinh tế phát huy hiệu quả.
Thứ tư, đẩy mạnh cải cách hành chính:
Thời gian qua, Việt Nam đã tiến hành một bước cải cách hành chính. Tuy nhiên,
hiệu quả của cải cách còn chưa cao, đã gây cản trở cho các chủ thể sản xuất kinh
doanh. Đại hội toàn quốc lần IX đã khẳng định:
Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết hiệu quả thấp. Tổ
chức bộ máy nhà nước cồng kềnh trùng lặp chức năng vì nhiều tầng nấc
trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không ít trường hợp trên và
dưới, Trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây khó khăn
cho việc phát triển kinh tế - xã hội và làm giảm động lực phát triển [20,
tr.77].
Vì vậy, trong những năm tới phải đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm nâng cao
năng lực quản lý của nhà nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong
sản xuất kinh doanh theo hướng:
- Cải cách tổ chức bộ máy các cấp từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh
gọn, có hiệu lực, hiệu quả, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh.
- Cải cách thủ tục hành chính theo hướng thống nhất công khai, minh bạch, đơn
giản, kiên quyết xóa bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, sách nhiễu cho nhân dân
và các doanh nghiệp.
- Thực hiện cải cách hành chính là nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước
trong sạch, vững mạnh có hiệu lực, hiệu quả theo hướng xây dựng một nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam.
Việc hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật nhằm tạo ra môi trường pháp lý;
thúc đẩy thuận lợi cho các chủ thể kinh tế vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau là để
phát huy hiệu quả, sức sáng tạo của các chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh
doanh, đồng thời góp phần điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Kết luận
Nghiên cứu sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất giúp chúng ta tìm ra sự
không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đồng thời nắm bắt được xu
hướng vận động biến đổi của nó, để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp, nhằm xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thực tế cho thấy, không phải bao giờ sự biến đổi của quan hệ sản xuất cũng tuân
theo quy luật kinh tế khách quan. Đã có thời kỳ, chúng ta đã dùng chính trị áp đặt cho
kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất mới không phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất như vậy đã dẫn tới kìm hãm sản xuất, đẩy nước
ta lâm vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế - xã hội, buộc chúng ta phải đổi mới. Thực
chất của đổi mới là điều chỉnh lại quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, quốc tế hoá hiện nay, lực lượng sản xuất ở nước ta
đang phát triển nhanh, lại chịu ảnh hưởng của điều kiện quốc tế. Do đó, chúng ta phải
tiếp tục đẩy mạnh phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, nhưng để đưa kết
cấu kinh tế ấy phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải đổi mới
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm sao cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
cùng với kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời,
phải tạo điều kiện cho các loại hình quan hệ sản xuất khác phát triển nhằm đưa nước ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Qua nghiên cứu sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay giúp chúng ta
hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác –
Lênin và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể nước ta vì mục tiêu:” dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Vũ Đình ánh (2004), "Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.53-60.
2. Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp (2004), "Tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước 2004-2005",
Tạp chí Kinh tế và dự báo, (3), tr.1-3.
3. Lê Xuân Bá (2002), "Kinh tế tư nhân bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế nước ta", Tạp chí Cộng sản, (22), tr.41-45.
4. Vũ Đình Bách (1998), Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Vũ Đình Bách (2004), Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Đức Bách (1998), Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
7. Trần Ngọc Bút (2002), "Phát triển làng nghề thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (1), tr.9-10.
8. Trần Thị Minh Châu (2005), "Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (7), tr.25-27.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, lý luận
và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Trần Văn Chử (2003), "Cổ phần hóa - đổi mới doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, (299), tr.33-37.
11. Nguyễn Sinh Cúc (2004), "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn", Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.20-26.
12. Tô Xuân Dân (2003), "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta",
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (297), tháng 2-2003, tr.3-16.
13. Phạm Bảo Dương (2004), "Phát triển các hợp tác xã ở Việt Nam, phân tích vi mô
từ giác độ nông hộ", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (11), tr.8-10.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành
Trung ương khóa 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần 7 Ban Chấp hành Trung
ương khóa 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Lao động Việt Nam (1968), Văn kiện của Đảng và đường lối phát triển nông
nghiệp ở miền Bắc nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
24. Nguyễn Bích Đạt (2004), "Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam: kết quả và giải pháp
thúc đẩy", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (7), tr.3-5.
25. Trần Kim Đồng (2004), "Để kinh tế tư nhân ngày càng phát huy tiềm năng và lợi
thế so sánh", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (6), tr.9-10.
26. Trần Đức (1991), Sở hữu và cây đời, Nxb Sự thật, Hà Nội.
27. Nguyễn Tĩnh Gia (1987), Biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tình hình và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ khoa học Triết học, Học viện
Nguyễn ái Quốc, Hà Nội.
28. Lê Thanh Hà (2002), Sự biến đổi của quan hệ sở hữu trong nông nghiệp dưới tác
động của lực lượng sản xuất thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam hiện nay, Luận văn tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
29. Lương Đình Hải (2005), "Xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện
nay", Tạp trí Triết học, (3), tr.5-10.
30. Lưu Tiền Hải (2003), "Đầu tư trực tiếp nước ngoài, thực trạng và triển vọng", Tạp
chí Con số và sự kiện, (5), tr.24-26.
31. Lưu Tiền Hải (2004), "Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí
Con số và sự kiện, (5), tr.6-8.
32. Hoàng Xuân Hòa (2004), "Xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía bắc", Tạp
chí Kinh tế và dự báo, (11), tr.34-35.
33. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình triết học chủ nghĩa
duy vật lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Hội đồng Trung ương (2000), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Mạnh Hùng (2005), "Vai trò của kinh tế tập thể và việc hoàn thiện bộ máy
quản lý nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (7), tr.20-22.
36. Hồ Xuân Hùng (2004), "Thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng về nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (8), tr.18-22.
37. Nguyễn Ngọc Huyền (2003), "Về đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (3), tr.11-12.
38. Bùi Chí Kiên (1996), Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng, Luận văn
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
39. Lae Hang Woo (2002), "Một số kiến nghị về đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, tháng 10-2002, tr.27-36.
40. Hoàng Thị Ngọc Lan (2004), "Đổi mới về phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh
Hà Tây", Tạp chí lý luận chính trị, (3), tr.30-35.
41. Chử Văn Lâm (1992), Hợp tác hóa nông nghiệp Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
42. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
43. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
44. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
45. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
46. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
47. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
48. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
49. Võ Đại Lược (1997), Đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
50. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Ngô Quang Minh (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp
nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Lê Hữu Nghĩa (2003), "Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam", Tạp chí Cộng sản, (3), tr.13-17.
60. Lê Hữu Nghĩa (2004), "Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện
nay; thực trạng và giải pháp", Tạp chí Cộng sản, (6), tr.31-37.
61. Vũ Hữu Ngoạn (2001), "Chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng", Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.3-7.
62. Nguyễn Văn Ngọc (2000), Quan hệ biện chứng giữa các loại hình sở hữu trong
nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
63. Vũ Văn Phúc (2004), "Sở hữu nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Lý luận
chính trị, (3), tr.11-19.
64. Lương Xuân Quỳ (2001), Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay: lý luận,
thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Lương Xuân Quỳ (2002), Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa
và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
66. Tô Huy Rứa (2002), "Doanh nghiệp nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Cộng
sản, (2), tr.31-38.
67. Tô Huy Rứa (2004), "Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế thị trường trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (6),
tr.13-17.
68. Samuel son (2002), Kinh tế học, tập 1, tập 2, Nxb Thống kê, Hà Nội.
69. Vũ Hồng Sơn (2000), Xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình
thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
70. Nguyễn Ngọc Sơn (205), "Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vị thế
quan trọng ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (4), tr.25-30.
71. Đàm Thái Sơn (2004), "Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: một vài
suy nghĩ", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (5), tr.13-17.
72. Lưu Văn Sùng (1996), Lý luận về hợp tác - kinh nghiệm lịch sử và sự vận dụng ở
nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
73. Tạp chí con số và sự kiện (2005), "Kinh tế Việt Nam 60 năm xây dựng và phát triển",
(8), tr.1-7.
74. Đào Văn Tập (1990), 45 năm kinh tế Việt Nam 1945-1990, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
75. Đoàn Duy Thành (2001), Vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Hà Huy Thành (2002), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân: lý luận
và chính sách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Phan Hữu Thắng (2002), "Tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (2). tr.11-13.
78. Lê Thế Thịnh (2005), "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Khoa học
chính trị, ( 5), tr.43-47.
79. Nguyễn Văn Thức (2004), Sở hữu: lý luận và vận dụng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
80. Văn Tạo (1990), Phương thức sản xuất châu á, lý luận Mác - Lênin và thực tiễn ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Phí Thị Thu Trang (2002), "Để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (6), tr.21-22.
82. Nguyễn Phú Trọng (2003), "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quan
niệm và giải pháp phát triển", Tạp chí Cộng sản, (31), tháng 11-2003, tr.3-
12.
83. Đào Duy Tùng (1994), Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Đỗ Thế Tùng (2004), "Lý luận của Lênin về các thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông", Tạp chí Lý luận chính trị,
(4), tr.11-15
85. Lê Xuân Tùng (1989), Các thành phần kinh tế và cách mạng quan hệ sản xuất,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
86. Vũ Huy Từ (1992), Đổi mới kinh tế quốc doanh, Nxb Sự thật, Hà Nội.
87. Lê Thị Anh Vân (2002), "thực trạng nông nghiệp nông thôn hiện nay", Tạp chí
Kinh tế và dự báo, (4), tr.5-10.
88. Hồ Văn Vĩnh (2003), "Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (21), tr.15-18.
89. Vũ Văn Viên (2005), "Cổ phần hóa - một phương tiện quan trọng để thực hiện sự
đa dạng hóa các hình thức sở hữu", Tạp chí Triết học, (3), tr.21-26.
90. Hồ Trọng Viện (2003), "Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (15), tr.25-28.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.pdf