Tình hình nợ xấu ở Việt Nam năm 2012 tuy đã trở nên căng thẳng nhưng phần nào hạ nhiệt vào những tháng cuối năm nhờ các biện pháp và quy định kịp thời của chính phủ. Đến thời điểm cuối Quý I năm 2013 như Ngân hành nhà nước thông báo thì nơ xấu còn vào khoảng 6%. Để tiếp tục thực hiện thành công nhiệm vụ này, chúng ta cần phải đảm bảo công cuộc tái cấu trúc được chú trọng hơn nữa (bao gồm cả tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đầu tư công, DNNN), kinh tế vĩ mô được giữ ổn định (tăng trưởng có thể không cao nhưng lạm phát cần phải giữ ở mức thấp và ổn định), thị trường trở nên minh bạch Với quyết tâm cùng với hàng loạt các biện pháp gần đây của chính phủ (giải cứu bất động sản, đề xuất thành lập AMC, giảm lãi suất ), năm 2013 sẽ hứa hẹn là một năm vất vả nhưng đầy triển vọng của công tác xử lý nợ xấu của hệ thông ngân hàng Việt Nam.
53 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2301 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h thu kế hoạch ban đầu. Sang năm 2011, nền kinh tế của đất nước vẫn gặp nhiều khó khăn do diễn biến của các thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường chứng khoán vẫn diễn ra rất phức tạp khiến cho các khoản nợ tồn đọng càng gặp nhiều khó khăn trong việc mua, bán. Trong năm, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã thực hiện được 32 phương án mua, bán nợ, trong đó, 14 phương án hoàn thành vượt chỉ tiêu doanh thu, 8 phương án không có doanh thu và 6 phương án không hoàn thành được kế hoạch, tuy nhiên Công ty đã thực hiện được 4 kế hoạch chưa nằm trong kế hoạch nhưng đã hoàn thành mục tiêu doanh thu kế hoạch đề ra. Năm 2011, sau khi thực hiện chuyển đổi loại hình, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đặt ra kế hoạch doanh thu năm ở mức 203.500 triệu đồng nhưng chỉ thực hiện được 74% kế hoạch và doanh thu từ hoạt động mua, bán nợ chỉ đạt 153.700 triệu đồng. Tuy không đạt được chỉ tiêu kế hoạch nhưng doanh thu từ hoạt động mua, bán nợ năm 2011 vẫn cao hơn năm 2010, tiêu biểu: từ Công ty đường thủy Miền Nam là 4.436 triệu đồng, vượt kế hoạch 121,8%, từ Công ty thủy sản Ari là 40.000 triệu đồng vượt kế hoạch 11.256 triệu đồng.
Tuy nhiên, hoạt động thực hiện chỉ tiêu doanh thu vẫn gặp nhiều khó khăn tại một số DNNN do cơ chế xử lý nợ chưa được Bộ Tài chính hướng dẫn giảm trừ với khoản nợ tồn đọng từ phần chênh lệch giữa giá trị khoản nợ theo sổ sách kế thừa và giá mua nợ để xử lý tồn tại tài chính phần âm của VCSH hoặc DNNN đã có phần hóa nhưng không được xử lý triệt để những tồn tại về tài chính từ thời kỳ DNNN. Qua đó, tỷ lệ thu hồi vốn từ các phương án chỉ đạt 83,2%.
Bảng 5: Bảng thực hiện chỉ tiêu doanh số mua nợ
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Kế hoạch doanh số mua nợ được giao
138.000
71.800
334.974
Thực hiện
78.096
43.800
114.360
Tỷ lệ (%) (Thực hiện/Kế hoạch được giao)
56,6
61
34.14
“Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động mua, bán nợ hàng năm của DATC”
Thực hiện chỉ tiêu doanh số mua nợ theo thỏa thuận
Mặc dù trong thời gian hoạt động, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã hoàn thành rất tốt mục tiêu doanh thu nhưng việc thực hiện chỉ tiêu doanh số mua vào vẫn ở mức thấp. Trong khi kế hoạch về chỉ tiêu doanh số mua vào năm 2009 của công ty là 138.000 triệu đồng thì DATC chỉ thực hiện được 56,6%, trong khi đó, năm 2010, DATC chỉ thực hiện được 43.800 triệu đồng trên mức kế hoạch 71.800 triệu đồng, chỉ đạt 61% kế hoạch năm. Năm 2011, sau khi chuyển thành Công ty TNHH một thành viên, doanh số mua nợ của DATC đạt cao nhất trong các năm, đạt 114.360 triệu đồng, tuy nhiên, so với kế hoạch năm thì chỉ ở mức 34,14%. Chỉ tiêu doanh số mua nợ không đạt được so với kế hoạch do một số đối tác NHTM chuyển đổi cổ phần như Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương có hiện tượng không hợp tác trong việc bán lại các khoản nợ tồn đọng không có khả năng thu hồi, các khoản nợ xấu, thêm vào đó, hoạt động mua khoản nợ tồn đọng của NHPT Việt Nam kéo dài mất nhiều thời gian gây khó khăn cho hoạt động của DATC. Mặt khác, giai đoạn này, hoạt động mua, bán nợ của các NHTM có nhiều thay đổi khi xuất hiện một số đơn vị mua nợ khác dưới hình thức chào giá cạnh tranh hoặc chào bán công khai, hạn chế việc mua, bán nợ của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam, trong giai đoạn này, việc chuyển đổi DATC từ DNNN sang Công ty TNHH một thành viên cũng tạo ra một số thay đổi trong hoạt động và hệ thống quản lý khiến cho doanh thu và doanh số mua nợ chưa đạt được như kế hoạch và tiền năng của công ty.
Thực hiện chỉ tiêu số lượng các khoản nợ đã được mua
Tính trong giai đoạn 2004 - 2011, DATC đã tiếp nhận của 2.345 doanh nghiệp với tổng giá trị tiếp nhận 3.271,034 tỷ đồng (với số nợ tồn đọng là 1.416,225 tỷ đồng). Lũy kế từ năm 2004 đến năm 2011, DATC đã tiến hành phân loại nợ loại trừ của 1.133 doanh nghiệp, với giá trị nợ bàn giao theo sổ sách kế toán là 1.416,225 tỷ đồng, gồm 33,868 khoản nợ được phân làm 2 nhóm nợ sau:
- Nợ nhóm 1: (là những khoản nợ có hồ sơ, khách nợ còn tồn tại theo hồ sơ) gồm 9.906 khoản nợ, với giá trị 611,113 tỷ đồng.
- Nợ nhóm 2: ( là những khoản nợ còn lại không đủ hồ sơ, khách nợ không còn tồn tại, chi phí bị xuất toán, các khoản chi âm quỹ phúc lợi… đuợc loại trừ như khoản nợ không có khả năng thu hồi) gồm 23.962 khoản nợ, với giá trị 805,112 tỷ đồng.
Bảng 6: Tổng hợp các phương án mua, bán nợ tính đến hết quý IV năm 2011
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Giá trị khoản nợ
Giá mua nợ
Thu nợ
Dự kiến hiệu quả
phương án
Mua nợ thỏa thuận
7.088.427
1.926.380
1.825.422
941.640
Mua tài sản
-
76.233
105.646
29.363
Mua nợ theo chỉ định
339.531
335.905
392.536
56.631
Tổng cộng
7.427.958
2.338.518
2.323.624
1.027.634
“Nguồn: Báo cáo tổng kết nhiệm vụ mua, bán nợ quý IV năm 2012 của DATC”
Dựa vào bảng tổng hợp các phương án mua, bán nợ tính đến cuối năm 2011 của DATC, Công ty đã thực hiện các hợp đồng mua, bán nợ theo thỏa thuận với giá trị lên đến hơn 7.000 tỷ đồng với giá mua nợ là 1.926,380 tỷ đồng. Công ty đã thu hồi được 1.825,422 tỷ đồng, đạt tỷ lệ thu hồi gần 95%, các phương án mua, bán nợ theo thỏa thuận dự kiến sẽ còn thu hồi được trong thời gian tới và có thể sẽ đạt 941,640 tỷ đồng sau khi đã trừ đi các khoản chi phí cần thiết của dự án. Một số phương án đang được thực hiện mua nợ tồn đọng như tại Tổng Công ty dâu, tằm Việt Nam, Tổng Công ty đường thủy Việt Nam, một số đơn vị thuộc tập đoàn Vinashin, … đây cũng sẽ là những khách hàng chính của DATC và hi vọng sẽ đem lại hiệu quả như kế hoạch đề ra.
Đến năm 2011, hoạt động mua, bán nợ thực sự đã có sự cạnh tranh do một số công ty mua, bán nợ khác đã được thành lập và đi vào hoạt động một cách chuyên nghiệp và hoàn thiện hơn, tạo điều kiện cho DATC tiếp tục hoàn thiện để có khả năng cạnh tranh.
2.2.1.2. Thực trạng hoạt động mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định
Trước năm 2009, Công ty mua, bán nợ Việt Nam đã thực hiện thành công 6 phương án mua, bán nợ theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ, chỉ với giá mua 335.905 triệu đồng trên tổng giá trị khoản nợ ghi trên sổ sách là 339.531 triệu đồng, thu hồi được 392.536 triệu đồng, đạt tỷ lệ thu hồi 115,6%. Hiệu quả đạt mức 56.631 triệu đồng.
Giai đoạn 2009-2011, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam thực hiện chương trình “Nhà vượt lũ” tại 10 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long do Thủ tướng Chính phủ chỉ định với giá mua nợ 23.868 triệu đồng, lũy kế đến ngày 31/12/2009 đã thu được 814 triệu đồng, tỷ lệ thu nợ đạt mức 3,4% so với giá mua nợ. Tình hình thu nợ với chương trình này, chỉ có 1/15 pháp nhân thanh toán hết số nợ tồn đọng, 5/15 pháp nhân thanh toán nợ nhưng với số tiền thấp hơn tổng nợ rất nhiều, 9/15 pháp nhân còn lại thì chưa có số thu, trong 39 xã chỉ có 3 xã có số thu nhưng tỷ lệ thì rất thấp so với yêu cầu. Chương trình mua nợ chỉ định khoản nợ dự án “Nhà vượt lũ” tại 10 tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long vẫn tiếp tục được thực hiện trong năm 2010, mặc dù DATC đã tổ chức nhiều đợt công tác đối chiếu thu hồi công nợ, tuy nhiên việc thu nợ rất khó khăn và không đạt được hiểu quả mong muốn, khiến cho dự án này phải dừng lại. Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã trình Bộ Tài chính xin ý kiến xử lý theo cơ chế giao khoán nợ chỉ định này cho địa phương hoặc Ngân hàng chính sách xã hội xử lý hoặc chuyển sang bộ phận tiếp nhận xử lý của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam nhưng Bộ đã đề nghị DATC cùng bộ phận mua, bán nợ của công ty tiếp tục đôn đốc thu hồi khoản nợ trên, nhưng cho đến nay việc thu nợ vẫn chưa có tính khả thi, vẫn còn 4 pháp nhân và 32 xã có các hộ dân không có tình hình thu nợ rất kém hoặc không thể thu nợ, tỷ lệ thu hồi rất thấp hơn 10% trên vốn mua nợ tồn đọng theo chỉ định, gây thất thoát cho NSNN. Vì những vướng mắc này nên năm 2011, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam không có thêm phương án mua, bán nợ nào từ Thủ tướng Chính phủ, doanh thu từ việc mua, bán nợ của DATC năm 2011 chỉ từ việc mua, bán nợ theo thỏa thuận.
2.2.2. Thực trạng hoạt động xử lý nợ tồn đọng
2.2.2.1. Thực trạng hoạt động xử lý nợ tồn đọng bằng chuyển nợ thành vốn góp
Bảng 7: Bảng hoạt động đầu tư của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Kế hoạch đầu tư
Triệu đồng
18.540
23.200
55.780
Số nợ chuyển thành vốn góp
Triệu đồng
112.364
45.580
50.072
Tỷ lệ %
%
16.5
50.9
111.4
Số DN tái cơ cấu
DN
2
6
7
“Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động xử lý nợ tồn đọng hàng năm của DATC”
Năm 2009, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã thực hiện chuyển thành công 18.540 triệu đồng nợ tồn đọng thành vốn góp đầu tư (đạt 16.5% kế hoạch), qua đó, thực hiện cơ cấu xong cho 2 doanh nghiệp: Công ty CP cầu 14, Công ty CP khai thác đá 621. Ngoài ra, cuối năm 2009, 2 công ty: Công ty 502 và Công ty 503 đã có Nghị quyết HĐQT phê duyệt phương án giảm trừ trách nhiệm trả nợ, kế hoạch chuyển nợ của 2 đơn vị này lần lượt là 7.200 triệu đồng và 9.000 triệu đồng. Dự kiến sang quý I năm 2010, DATC sẽ chuyển đổi thành công thêm 4 DNNN nữa. Tuy nhiên, chỉ tiêu đầu tư chuyển nợ thành vôn góp vẫn không thực hiện được như kế hoạch đề ra là do vướng mắc chưa có cơ chế về xác định lại giá trị DN, cơ chế thỏa thuận giữa các Bộ, địa phương khiến cho số nợ tồn đọng chuyển thành vốn góp chỉ đạt mức 16,5%.
Năm 2010, DATC đã thực hiện thành công tái cơ cấu của 6 doanh nghiệp, trong đó có 2 DNNN: Công ty xây dựng vật tư và vận tải và Công ty đường thủy II, 4 DNCP: Công ty CP Giao thông Ninh Thuận, Công ty CP XNK và XD Sông Hồng, Công ty CP Sông Hồng 36, Công ty CP Sông Hồng 6. Qua đó, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã hoàn thành việc chuyển đổi 23.200 triệu đồng nợ tồn đọng thành vôn góp đầu tư. Cuối năm 2010, thực hiện hoàn thiện cổ phần cho 2 công ty đã có quyết định thông qua từ năm 2009 là Công ty 502 và Công ty 503, dự kiến đầu năm 2011 hai công ty này sẽ tổ chức Đại hội đồng cổ đông cũng như tiến hành bán đấu giá cổ phần. Một số khó khăn vẫn tồn tại từ năm 2009 khiến cho tỷ lệ nợ tồn đọng thành vốn góp chỉ đạt được 50,9% so với kế hoạch mà ban quản lý đặt ra cho Công ty Mua, bán nợ Việt Nam trong năm 2010.
Biểu 3: Giá trị chuyển nợ tồn đọng thành vốn góp cổ phần của các doanh nghiệp được tái cơ cấu năm 2011
Đơn vị: triệu đồng
“Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động xử lý nợ tồn đọng hàng năm của DATC”
Trong năm 2011, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã thực hiện tái cơ cấu thành công cho 7 DNNN, bao gồm: Công ty Vật tư tổng hợp Lạng Sơn, Công ty 502, Công ty 503, Công ty Cầu 7 Thăng Long, Công ty Xây dưng số 8 Thăng Long, Công ty đường thủy miền Nam, Công ty Công trình giao thông 5. Qua đó, vượt kế hoạch 111,4% trong việc chuyển nợ tồn đọng thành vốn góp cổ phần tương ứng với 55.780 tỷ đồng. Nguyên nhân chính của việc năm 2011 chỉ tiêu chuyển nợ thành vốn góp thực hiện được vượt kế hoạch là do cơ chế xử lý về tồn tại tài chính, định giá doanh nghiệp, cơ chế thỏa thuận với các Bộ, địa phương đã được tháo gỡ, qua đó giải quyết được hầu hết các phương án đã tồn tại từ các năm trước.
2.2.2.2. Thực trạng hoạt động xử lý nợ bằng thu nợ và cho vay bảo lãnh
Sau khi Bộ Tài chính yêu cầu tạm dừng hoạt động cho vay, bảo lãnh và tiến hành thu hồi nợ vay, thanh lý các khoản bảo lãnh, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam phối hợp cùng các chi nhánh tích cực thu hồi các khoản cho vay và thực hiện thanh lý các khoản bảo lãnh vay vốn. Đến cuối năm 2009, thu được một số kết quả:
- Đối với thu hồi tiền cho vay: 11 hợp đồng đã được ký với giá trị giải ngân là 80.728 triệu đồng, trong đó, 5 hợp đồng đã thực hiện xong sau khi kết thúc quý IV năm 2009, giá trị thu hồi đạt 51,75% với giá trị 41.779 triệu đồng. Còn lại, 6 hợp đồng đang thực hiện với giá trị cần phải thu hồi là 38.949 triệu đồng, trong đó, khoản cho vay lớn nhất là cho Tổng Công ty cafe Việt Nam vay 25.500 triệu đồng (đã thu hồi 1.891 triệu đồng trên 27.391 triệu đồng đã cho vay), đây là khoản vay để giúp Công ty cafe Ia Châm trả nợ Ngân hàng nhằm tránh bị phát mại tài sản dẫn đến phá sản. Khoản vay này sẽ được Tổng Công ty cafe Việt Nam chịu trách nhiệm trả nợ cho DATC, tuy nhiên đến nay vẫn chưa thu hồi được toàn bộ.
- Thanh lý các hợp đồng bảo lãnh: đầu năm 2009, DATC đã phát hành 7 văn bản bảo lãnh, giải ngân 26.142 triệu đồng. Đến cuối năm 2009, 6 văn bản đã được thực hiện xong với giá trị 25.774 triệu đồng, đạt 98,6%, còn lại 1 văn bản đang tiếp tục được bảo lãnh với giá trị 368 triệu đồng.
Cuối năm 2009, DATC còn 6 khoản vay và 1 khoản bảo lãnh đối với 6 khách nợ, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam tiếp tục lập kế hoạch thu hồi các khoản này trong thời gian đầu năm 2010 trên cơ sở kết hợp với các chi nhánh của công ty thống nhất các phương án thực hiện.
Năm 2010, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã phối hợp với các chi nhánh tích cực tiếp tục thu hồi các khoản cho vay và thanh lý các khoản vay vốn.
- Hoạt động xử lý các khoản bảo lãnh: kết thúc 7 tháng đầu năm, DATC đã xử lý được khoản bảo lãnh còn lại từ năm 2009.
- Hoạt động xử lý các khoản cho vay: trong năm đã có 11 hợp đồng cho vay được ký với tổng số tiền 80.727 triệu đồng, sau đó, đã thu hồi được 55.890 triệu đồng (bao gồm cả 5.163 triệu đồng tiền lãi), đạt 69,23% tương ứng với 9 hợp đồng được thu hồi. Cuối năm còn 2 hợp đồng chưa kịp thu hồi bao gồm:
+ Tổng Công ty cafe Việt Nam vay 27.391 triệu đồng từ năm 2009, mới chỉ thu hồi được 2.391 triệu đồng, còn lại 25.000 triệu đồng tiền gốc và 4.605 triệu đồng tiền lãi vay.
+ Công ty CP Xây dựng công trình 675 vay 6 tỷ đồng, mới thu hồi được 1,5 tỷ đồng, còn phải thu 4,5 tỷ đồng tiền gốc và 1,5 tỷ tiền lãi.
+ Phải thu 196,8 triệu đồng tiền lãi từ năm 2009 do Công ty Chế biến thực phẩm xuất khẩu Kiên Giang chưa trả kịp.
Năm 2011, Công ty Mua, bán nợ chỉ còn phải thực hiện các hợp đồng cho vay còn tồn đọng. Bao gồm:
- Tổng Công ty cafe Việt Nam vay từ năm 2009 với giá trị khoản vay 27.391 triệu đồng, năm 2011, DATC đã thu hồi được 18.000 triệu đồng, còn lại 7.000 triệu đồng tiền gốc và 6.329 triệu đồng tiền lãi sẽ được thu hồi đầu năm 2012.
- Công ty CP Xây dựng công trình 675 vay 6 tỷ từ năm 2010, đã thu hồi 1,5 tỷ đồng, còn lại 4,5 tỷ đồng tiền gốc và hơn 3 tỷ tiền lãi.
- Tiếp tục tiến hành thu tiền lãi từ năm 2010 do Công ty Chế biến thực phâp xuất Kiên Giang chưa trả.
2.2.2.3. Thực trạng hoạt động xử lý nợ bằng mua nợ để thu nợ tồn đọng
Tính đến thời điểm hiện tại, DATC đã thực hiện 14 phương án mua nợ để thu nợ, trong đó đã hoàn thành 4 phương án với số thu vượt quá số vốn mua nợ. Trong đó, tiêu biểu một số phương án có giá trị lớn mà chưa thu được nợ như: Công ty kỹ thuật diện thông, DATC đã mua nợ tồn đọng năm 2007 với giá mua 10 triệu đồng, giá trị sổ sách khoản nợ là 896 triệu đồng, Công ty cổ phần dịch vụ dầu khí Hải Phòng, công ty đã bán nợ cho DATC năm 2009 với giá trị sổ sách khoản nợ 4.062 triệu đồng với giá 675 triệu đồng, có tài sản đảm bảo giá trị lớn hơn giá mua nợ, Ban quản lý dự án xi măng Sông Gianh, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã mua nợ từ cuối năm 2009 với giá mua 5.523 triệu đồng trên giá trị khoản nợ 6.904 triệu đồng, đây là khoản nợ tồn đọng mà DATC đã mua để giúp Công ty CP Cơ khí 4 và Xây dựng Thăng Long xử lý được một khoản nợ xấu, đồng thời có nguồn tài chính cùng với Tổng Công ty Xây dựng miền Trung tái cơ cấu các đơn vị thành viên.
Bảng 8: Bảng thực hiện chỉ tiêu tỷ lệ thu hồi nợ tồn đọng của DATC năm 2011
(Đơn vị: tỷ đồng)
Hoạt động mua bán nợ
Giá trị sổ sách
Giá vốn mua nợ
Giá trị thu hồi
Tỷ lệ thu hồi
Xử lý nợ thông qua tái cơ cấu DN
6.256,07
1.640,35
1.486,37
90,61%
Mua nợ để thu hồi nợ
832,358
286,033
339,068
118,50%
Tổng cộng
7.088,43
1.926,38
1.825,44
94,75%
Nguồn: Báo cáo “Tổng kế nhiệm vụ công tác năm 2011 của DATC”
Thông qua số liệu thực hiện chỉ tiêu tỷ lệ thu hồi nợ tồn đọng của Công ty năm 2011 dễ dàng nhận thấy tất cả các hoạt động mua bán nợ đều có tỷ lệ thu hồi cao vượt giá vốn mua nợ trừ hoạt động mua bán nợ, xử lý thu hồi nợ thông qua tái cơ cấu doanh nghiệp (giá trị thu hồi chỉ đạt 90,61%). Đây cũng là điều dễ hiểu bởi quá trình tái cơ cấu kéo dài cũng như việc phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp khách nợ, bởi vậy quá trình mua nợ, xử lý thu hồi nợ thông qua tái cơ cấu doanh nghiệp cũng kéo dài. Mua, bán nợ là hoạt động kinh doanh sản xuất chính của DATC, ta có thế thấy Công ty đang hoạt động tương đối tốt khi đa số các hoạt động mua bán nợ đều mang về kết quả khả quan. Bên cạnh đó tỷ lệ thu hồi của Công ty cũng đạt 94,75% cho thấy lượng vốn mà Công ty bị chiếm dụng trong các doanh nghiệp không ảnh hưởng nhiều đến việc quay vòng vốn, tái đầu tư hoạt động của Công ty.
2.3. Đánh giá hoạt động mua, bán và xử lý nợ tồn đọng
2.3.1. Kết quả đạt được
Công ty Mua, bán nợ Việt Nam được thành lập là đơn vị đi đầu trong một ngành nghề kinh doanh khá mới, mặt hàng kinh doanh khá nhạy cảm và đặc biệt, vì thế trong 8 năm đi vào hoạt động và kinh doanh vẫn gặp rất nhiều khó khăn, tuy nhiên, Công ty vẫn cố gắng hoàn thành tốt mục tiêu và nhiệm vụ do Chính phủ và Nhà nước giao góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính doanh nghiệp trong nước. Kết quả đạt được của DATC khá ấn tượng:
Thứ nhất, thông qua hoạt động mua, bán nợ, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã góp phần giúp giảm gánh nặng cho các NHTM trong việc xử lý một khối lượng lớn các khoản nợ tồn đọng từ phía doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, qua đó đã cải thiện được tình hình tài chính của nhiều doanh nghiệp để chuẩn bị cho công tác cổ phần hóa hoặc tái cơ cấu, giảm thiểu rủi ro cho các khoản nợ tồn đọng.
Thứ hai, trong quá trình hoạt động, DATC tuy chưa hoàn thành triệt để trong công tác mua, bán nợ theo kế hoạch hàng năm và tỷ lệ hoàn thành chỉ ở mức có thể chấp nhận được, từ 30-50% nhưng DATC vẫn luôn hoàn thành hoặc vượt kế hoạch doanh thu hàng năm, giúp cho doanh thu từ hoạt động mua, bán nợ luôn chiếm xấp xỉ 50% doanh thu chung của toàn Công ty - đây cũng là hoạt động chính của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam.
Thứ ba, hoạt động mua, bán nợ tồn đọng để xử lý bằng góp vốn cổ phần doanh nghiệp của DATC cũng đạt được những hiệu quả tích cực, đặc biệt một số DNNN trước khi tái cấu trúc thiếu điều kiện cổ phần hóa, phải dừng hoạt động, sản xuất thì nay đã bắt đầu đi vào hoạt động và bắt đầu có doanh thu. Một số phương án đã bắt đầu thu hồi được nợ hoặc đã vượt mức kế hoạch kinh doanh hàng năm như Công ty đường Kon Tum, Công ty Sadico, Công ty Cầu đường 10,… đã thực hiện đúng cam kết trả nợ cho DATC.
Thứ tư, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã thành công trong việc xử lý nợ, trừ nợ tồn đọng bằng việc bán tài sản đảm bảo, bán cổ phiếu, hạch toán chênh lệch nợ, điều này đã làm tăng doanh thu của Công ty.
Thứ năm, thông qua hoạt động mua, bán nợ giúp cơ cấu lại doanh nghiệp, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã gián tiếp góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội, việc làm ở một số vùng, miền trong cả nước. Thực tế qua 8 năm hoạt động, từ việc mua, bán nợ tồn đọng để tái cơ cấu doanh nghiệp, DATC đã giúp ổn định việc làm cho khoảng trên 5000 lao động với thu nhập ổn định, đều đặn
Thứ sáu, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam trong hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp khách nợ đi vào hoạt động giúp cho NSNN có thêm nguồn thu từ thuế, thu từ việc xử lý các khoản nợ tồn đọng được Thủ tướng Chính phủ chỉ định. Ngoài ra, các khoản nợ đóng thuế vào khoảng 170 tỷ đồng, nợ bảo hiểm khoảng 28,5 tỷ đồng, kinh phí cho công đoàn đã phần nào được giải quyết một cách triệt để và thanh toán đầy đủ, các phương án đã dần khẳng định tính khả thi của mình. Hoạt động tái cơ cấu lại DNNN làm ăn thua lỗ, mất vốn hoặc mất khả năng kinh doanh sản xuất khi đem lại hiệu quả sẽ giúp cho Nhà nước tiết kiệm được khá nhiều chi phí dành cho việc xử lý các doanh nghiệp này, nhiều khi là ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề về chính trị, xã hội nếu như các chi phí này là gánh nặng quá lớn của Nhà nước, kèm vào đó, giảm thiểu được những chi phí liên quan đến việc giải quyết các vấn đề về thất nghiệp nếu các doanh nghiệp này kinh doanh thua lỗ và phá sản, gây tổn thất rất lớn cho Ngân sách Nhà nước. Đây là một trong những đóng góp lớn nhất của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam sau 8 năm đi vào hoạt động.
2.3.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Sau 8 năm đi vào hoạt động, mặc dù Công ty Mua, bán nợ gặt hái được nhiều thành công, hoành thành khá tốt nhiệm vụ được giao nhưng đến nay, công ty vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc còn tồn tại.
Thứ nhất, mặc dù DATC luôn đạt hoàn thành mục tiêu doanh thu hàng năm vượt kế hoạch, nhưng nhìn chung, từ năm 2004 đến nay, chưa năm nào công ty có thể hoàn thành nhiệm vụ mua nợ tồn đọng. Kết quả mua nợ hàng năm còn thấp, chỉ đạt trên 30% so với kế hoạch đề ra.
Thứ hai, trong hoạt động xử lý nợ theo phương án góp vốn cổ phần để tái cơ cấu doanh nghiệp, một số doanh nghiệp khách nợ chưa đạt được mục tiêu doanh thu hàng năm cũng như có doanh nghiệp đã phải ngừng hoạt động kinh doanh sản xuất vì thiếu vốn, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn và điều hành doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp từ năm 2007 đến nay vẫn chưa thu hồi được hết số thu từ nợ tồn đọng gây thất thoát cho công ty.
Thứ ba, mặc dù đã thực hiện thành công tái cơ cấu cho nhiều doanh nghiệp nhưng một số phương án được thực hiện vẫn còn rất chậm, gây ra tốn chi phí, thời gian và công sức của đội ngũ nhân viên công ty. Ở điểm này, do thực hiện quy trình về việc tính giá trị lợi thế địa lý của doanh nghiệp, định giá doanh nghiệp theo Quy định hiện hành được thực hiện chưa được hiệu quả, đặc biệt là giá bất động sản trên địa bàn các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…
Thứ tư, mục tiêu của việc hình thành Công ty Mua, bán nợ Việt Nam là tiếp cận các khoản nợ tồn động để xử lý, nhưng việc tiếp cận với một số khoản nợ tồn đọng vẫn có một số hạn chế do phía khách nợ chưa thực sự tin tưởng để tích cực đàm bán nợ tồn đọng, việc này xảy ra ở một số doanh nghiệp và NHTM lớn. Đặc biệt là còn nhiều vướng mắc trong hoạt động mua, bán các khoản nợ tồn đọng của Ngân hàng phát triển Việt Nam gây ra thời gian xử lý vẫn còn rất chậm.
Thứ năm, hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp thông qua việc mua, bán nợ tồn đọng thường là phải xử lý các vấn đề còn tồn tại ở phía khách nợ là doanh nghiệp về việc giảm trừ một số khoản nợ tồn đọng, xử lý các điều kiện để doanh nghiệp đủ điều kiện chuyển đổi, tái cơ cấu.Tuy nhiên, hoạt động diễn ra khá chậm do thực hiện các quy định trong điều lệ, một số lúng túng khi lập kế hoạch cho phương án từ các quy chế tài chính và pháp luật hiện hành vẫn còn tồn tại.
Thứ sáu, trong hoạt động mua nợ để thu nợ, việc xử lý thu nợ tồn đọng tại một số doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn, số tiền còn phải thu tính cả gốc lẫn lãi vẫn ở mức cao, thường cuối năm, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam vẫn còn khoản thu hồi các khoản nợ chiếm tỉ lệ rất cao, có năm tỷ lệ này lên đến 50%.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân bên ngoài công ty
- Hoạt động mua, bán nợ tồn đọng tại Công ty Mua, bán nợ Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế xử lý nợ tồn đọng còn nhiều vướng mắc trong quy định, đặc biệt là việc xác định giá trị doanh nghiệp khách nợ, đặc biệt là việc quy định xác định giá trị bất động sản của doanh nghiệp vẫn chưa được quy định rõ, thông tư 46 được ban hành nhưng vẫn chưa giải quyết được triệt để khó khăn này. Qua đó cho thấy hành lang pháp lý cho các hoạt động mua, bán nợ tồn đọng và xử lý tài chính vẫn chưa đủ mạnh và còn khá nhiều bất cập cần hoàn thiện.
- Chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bất động sản, thị trường chứng khoán thiếu ổn định, nhiều biến động trong thời gian ngắn khiến cho các doanh nghiệp khách nợ gặp khó khăn, làm hạn chế doanh thu của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam.
- Một số Ngân hàng chưa thực sự hợp tác trong quá trình đàm phán để mua, bán nợ tồn đọng, ảnh hưởng đến việc mua nợ tồn đọng kéo dài thời gian như việc mua nợ Ngân hàng Phát triển Việt Nam hoặc Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương.
- Nhà nước vẫn chưa ban hành cụ thể về việc hướng dẫn chế độ thỏa thuận phương án mua, bán nợ liên quan đến việc tái cơ cấu và chuyển đổi chủ sở hữu DNNN đối với các địa phương, một số công ty hạng đặc biệt và tập đoàn kinh tế khiến công việc đàm phán tốn nhiều thời gian, làm chậm tiến độ thực hiện các phương án, tiêu biểu có cơ chế mua, bán nợ đối với các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Vinashin chưa được Tập đoàn này thống nhất nên việc triển khai mua, bán nợ tồn đọng chưa thể có kết quả, cũng như chưa thể thực hiện triệt để).
- Một số doanh nghiệp khách nợ đã được Công ty Mua, bán nợ Việt Nam hoàn thành tái cơ cấu nhưng việc thu hút vốn của các nhà đầu tư vẫn rất chậm do cơ chế chưa xử lý tài chính được vì các doanh nghiệp này không phải là DNNN, các tồn tại về tài chính này vẫn bị phản ánh trong bảng báo cáo tài chính hàng năm. Điều này làm chậm công tác thu nợ của DATC.
Nguyên nhân từ phía công ty
- Cán bộ, chuyên viên của phòng mua, bán nợ tại DATC có lúc chưa đánh giá đuược hết khó khăn của các doanh nghiệp trong việc thực hiện các kế hoạch doanh thu, khiến cho việc xây dựng kế hoạch phương án còn chưa bám sát thực tế.
- Cán bộ công ty chưa thực sự chủ động nghiên cứu sáng tạo các biện pháp trong việc lập phương án mua, bán và xử lý nợ tồn đọng với các doanh nghiệp.
- Một số cán bộ của một số đơn vị trực thuộc công ty chưa thực sự chủ động tích cực trong triển khai thực hiện chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh và nhiệm vụ công tác được giao.
- Quy chế của công ty trong hoạt động mua, bán nợ đã từng bước được sửa đổi nhưng vẫn chưa đồng bộ nên vẫn chưa phù hợp với hoạt động thực tế hiện nay tại DATC.
CHƯƠNG 3
SỰ CẦN THIẾT PHẢI THÀNH LẬP CÔNG TY MUA BÁN NỢ
CẤP QUỐC GIA (VAMC)
3.1. Thực trạng hoạt động vay nợ của nền kinh tế
3.1.1. Thực trạng kinh tế Việt Nam những năm gần đây
Kinh tế Việt Nam luôn đi cùng và gắn liền với tình hình chung của kinh tế thế giới. Năm 2010, tình hình kinh tế vẫn chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, nhưng đã có nhiều chuyển biến mang tính tịch cực, ước tính GDP của Việt Nam tăng 6,7%, kinh tế phục hồi là một nguyên nhân quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đã đạt được những kết quả tích cực. Ước tính tổng đầu tư toàn xã hội năm 2010 đạt 800 nghìn tỷ đồng. Năm 2010 cũng là năm Nhà nước đã đưa ra gói kích cầu đầu tư thông qua việc nới lỏng tín dụng cho các DNNN và các tập đoàn, việc tăng lãi suất cơ bản của NHNN và tăng lãi suất cho vay của các NHTM đã giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn dễ hơn, tuy nhiên một mặt lại làm cho lạm phát trong năm đã tăng cao cùng giá cả hàng hóa. Tốc độ tăng tín dụng tổng quát xung quanh 25%, đạt mức kỳ vọng; chỉ số chứng khoán không mất điểm như các thách thức từng đe dọa từ những năm trước, VN-index vẫn giữ ở mức xung quanh 500 điểm; thị trường bất động sản khá ổn định ở mức không bị trồi, sụt quá lớn; vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 17,2 tỉ USD, vốn giải ngân tăng 10% so với 2009 và đạt mức kỷ lục đã xác lập 11,5 tỉ USD năm 2008; xuất khẩu cũng xác lập con số kỷ lục 71,6 tỉ USD; nhập siêu chỉ còn 17,3% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu; tăng trưởng GDP khá, ở mức 6,78%. Việt Nam vẫn đứng trong số các nước tăng trưởng khá trong khu vực.
Năm 2011 tiếp tục là một năm khó khăn của kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng. Trong bối cảnh lạm phát tăng vọt, đầu tư công tràn lan kém hiệu quả và các "đầu tàu" của nền kinh tế đầu tư ồ ạt ra ngoài ngành, Nghị quyết 11 (ngày 24/2/2011) của Chính phủ được coi như một phát súng lệnh để tổng rà soát và tái cơ cấu lại hoạt động của nền kinh tế, ổn định vĩ mô. Việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, kiềm chế nhập siêu... và đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết 11 đã được thể hiện xuyên suốt trong điều hành vĩ mô của Chính phủ năm 2011. Mặc dù lạm phát vẫn cán mốc trên 18% nhưng những dấu hiệu cải thiện vĩ mô rõ rệt vào thời điểm cuối năm cũng như các định hướng tái cấu trúc kinh tế, cắt giảm lãi suất, thoái vốn ngoài ngành, tăng hiệu quả đầu tư công... đã mở ra triển vọng sáng sủa hơn cho mục tiêu duy trì tăng trưởng 6%. Tuy nhiên, năm 2011 là một năm đầy sóng gió đối với doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Năng lực sản xuất kinh doanh của hàng loạt doanh nghiệp bị suy yếu nghiêm trọng, khả năng tiếp cận vốn bị suy giảm do lãi suất tín dụng trở nên đắt đỏ và nguồn vốn khan hiếm. Ước tính, khoảng trên dưới 50.000 doanh nghiệp đã lâm vào cảnh phá sản. Đáng nói nhất đối với nền kinh tế Việt Nam năm 2011 đó là thị trường bất động sản được chứng kiến việc chào bán giảm giá của nhiều dự án, đặc biệt là đối với phân khúc chung cư cao cấp.
Tóm lại, giai đoạn hiện nay là giai đoạn thực sự khó khăn của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng vì phải chịu dư âm từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới năm 2008, tuy nhiên, kinh tế cũng đang trên đà phục hồi, những tín hiệu tích cực vĩ mô cùng những chính sách điều hành cứng rắn của Chính phủ trong nhiệm kỳ mới đang mở ra kỳ vọng sáng sủa hơn cho những năm tiếp theo dù thách thức là không nhỏ.
3.1.2. Thực trạng vay nợ trong nền kinh tế
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tổng nợ vay tín dụng và phát hành trái phiếu của các tập đoàn, tổng công ty là 286.918 tỷ đồng. Trong đó, các tập đoàn nợ 128.786 tỷ đồng, chiếm gần 10% so với tổng nợ tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Thực tế, tập đoàn càng lớn số nợ càng lớn, ví dụ Tập đoàn Điện lực nợ 66 nghìn 764 tỷ đồng, chiếm 51%; Tập đoàn Dầu khí nợ 21.477 tỷ đồng, chiếm 16% ... Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia tài chính, nợ tín dụng của các tập đoàn lớn chủ yếu là nợ trung và dài hạn phục vụ cho các dự án đầu tư mang tính chiều sâu và kế hoạch phát triển. Như vậy, tổng nợ quá hạn khoảng 4.000 tỷ đồng, chiếm 3,24% tổng dư nợ. Trong đó, nợ có khả năng mất vốn chiếm khoảng 15% tổng nợ quá hạn. Với các tổng công ty trong lĩnh vực xây dựng và nông nghiệp, xuất hiện một số doanh nghiệp có tỷ lệ nợ quá hạn cao, từ 30% đến 60% tổng dư nợ tín dụng; hoặc tổng công ty bảo lãnh vay vốn cho DN thành viên, khi DN thành viên phá sản, kinh doanh thua lỗ, tổng công ty phải dùng vốn nhà nước trả nợ thay, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất, kinh doanh chung.
Trong khi chủ yếu phải vay vốn từ các tổ chức tín dụng thì các tập đoàn, tổng công ty cũng là chủ nợ lớn. Số liệu báo cáo từ các DN cho thấy, tổng nợ phải thu là 185.826 tỷ đồng, chiếm 38% vốn sở hữu và 14,96% tổng tài sản của DN. Trong điều kiện vốn chủ sở hữu không đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh, việc tồn tại những khoản không có khả năng thu hồi dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp, phần lớn vốn "nằm chết". Ví dụ, Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 8, nợ khó đòi lên tới 109 tỷ đồng; nhiều công trình đã kết thúc nhưng chưa quyết toán, tồn số dư nợ tạm ứng tới 54 tỷ đồng. Theo các chuyên gia tài chính, việc quản lý nợ phải thu ở nhiều đơn vị, nhất là các tổng công ty lĩnh vực xây lắp hạn chế, thiếu chặt chẽ nên bị chiếm dụng vốn, phát sinh nợ khó đòi, thậm chí nhiều khoản nợ không xác định được đối tượng, không đầy đủ hồ sơ.
3.1.3. Thực trạng tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng thương mại của Việt Nam
3.1.3.1 Quy mô nợ xấu của hệ thống các TCTD
Kể từ năm 2005, Ngân hàng Nhà nước ban hành nhiều quy định mới về quản trị rủi ro, an toàn hoạt động ngân hàng và quản lý tín dụng, đặc biệt là quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro (DPRR) tiến dần tới các chuẩn mực quốc tế.
Bản chất của nợ xấu ngân hàng là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không hiệu quả, và nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian dài. Nợ xấu hiện nay của các tổ chức tín dụng (TCTD) được tích lũy từ trước đây do môi trường kinh doanh xấu đi kể từ năm 2008, khách hàng vay gặp nhiều khó khăn về tài chính và hoạt động, vì vậy, nợ xấu của hệ thống các TCTD có chiều hướng gia tăng nhanh trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh dư nợ tín dụng không tăng từ đầu năm 2012 trở lại đây cho thấy nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là các khoản tín dụng đã được cấp trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh.
Đến ngày 31/5/2012, nợ xấu theo các TCTD báo cáo là hơn 117 ngàn tỷ đồng, chiếm 4,47% so với tổng dư nợ tín dụng.
Theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đối với gần 1,01 triệu khách hàng vay được chọn mẫu của 57 TCTD của Việt Nam chiếm tới 90,1% tổng dư nợ tín dụng của các TCTD này, đến ngày 31/3/2012 nợ xấu của các TCTD là hơn 202 ngàn tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ cấp tín dụng . Nguyên nhân nợ xấu theo kết quả giám sát cao hơn nợ xấu theo báo cáo của các TCTD tại thời điểm tháng 3/2012 là do:
Thứ nhất, các tiêu chí xác định nợ xấu theo quy định hiện hành có bao gồm tiêu chí định lượng (như: thời gian quá hạn, số lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ,…) và tiêu chí định tính (chấm điểm, xếp hạng khách hàng, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng). Việc bao gồm các tiêu chí định tính và định lượng trong phân loại nợ là phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ hai, một số TCTD không thực hiện đúng quy định về phân loại nợ, ghi nhận nợ xấu thấp hơn thực trạng và quy định để giảm chi phí trích lập DPRR.
Thứ ba, do thiếu thông tin về phân loại nợ của khách hàng tại các TCTD, nên dẫn đến có sự khác nhau về nhóm nợ của 1 khách hàng quan hệ tại nhiều TCTD.
Do các nguyên nhân trên, nợ xấu do TCTD báo cáo thường thấp hơn nợ xấu theo kết quả giám sát TCTD và còn thấp hơn nữa so với nợ xấu theo kết quả thanh tra tại chỗ của NHNN. Kết quả thanh tra tại chỗ vừa qua đối với một số NHTMCP yếu kém thuộc diện phải cơ cấu lại cho thấy nợ xấu thực tế của các TCTD cao hơn nhiều số hiện báo cáo của TCTD.
3.1.3.2 Phân loại nợ khác nhau, kết quả nợ xấu không giống nhau
Mặc dù, quy định hiện hành của Việt Nam về phân loại nợ về cơ bản là phù hợp với nguyên tắc phân loại nợ của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, một số tổ chức quốc tế đánh giá nợ xấu của Việt Nam trên 10% tổng dư nợ tín dụng. Chẳng hạn, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings cho rằng nợ xấu của các TCTD Việt Nam là khoảng 13% tổng dư nợ tín dụng. Các tổ chức quốc tế đưa ra kết quả ước đoán nợ xấu toàn hệ thống TCTD có thể dựa vào hệ thống tiêu chí phân loại nợ riêng có hoặc trên kết quả đánh giá của một số ngân hàng được chọn mẫu hoặc ngoại suy có tính đến xếp loại tín nhiệm quốc gia.
Trên thực tế không có chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ. Việc sử dụng các hệ thống tiêu chí phân loại nợ khác nhau sẽ cho kết quả nợ xấu không giống nhau. Do có sự khác biệt giữa các hệ thống phân loại nợ và trích lập DPRR, vì vậy khi xác định, đo lường, phân tích, đánh giá nợ xấu phải xem xét, hiểu được hệ thống phân loại nợ và trích lập DPRR được sử dụng. Việc so sánh số liệu nợ xấu dựa trên các tiêu chí phân loại nợ khác nhau không có nhiều ý nghĩa và có thể dẫn đến nhận định không hợp lý. Mọi sự so sánh nợ xấu phải bảo đảm tính đồng nhất về hệ thống tiêu chí phân loại nợ. Sự khác nhau về phương pháp phân loại nợ và trích lập DPRR làm cho việc so sánh mức độ yếu kém hay mức độ lành mạnh giữa các ngân hàng hay các hệ thống ngân hàng trở lên khó khăn hơn.
Tình trạng tồn tại nhiều con số về nợ xấu không phải là vấn đề riêng có ở Việt Nam vì những nguyên nhân nói trên. Tuy nhiên, số liệu nợ xấu chính thức của toàn hệ thống ngân hàng do cơ quan quản lý, giám sát ngân hàng công bố và được chấp nhận do được giải thích rõ ràng và pháp luật quy định cụ thể về phương pháp phân loại nợ.
Để các TCTD thực hiện đúng quy định phân loại nợ và báo cáo cho NHNN số liệu nợ xấu chính xác hơn, hiện nay NHNN đang triển khai các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác thanh tra, giám sát hoạt động cấp tín dụng và phát triển mạnh cơ sở dữ liệu chung về khách hàng có quan hệ tín dụng với các TCTD, đồng thời có biện pháp yêu cầu TCTD điều chỉnh số liệu nợ xấu phù hợp với số liệu nợ xấu và bằng chứng qua thanh tra, giám sát.
3.1.3.3 Tỷ lệ nợ xấu Việt Nam thấp hơn một số nước trong khu vực tại thời điểm Chính phủ phải xử lý
So với tổng dư nợ cấp tín dụng cho nền kinh tế Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu hiện nay ở mức 4,47% theo báo cáo của TCTD hay 8,6% theo kết quả giám sát vẫn thấp hơn so với tỷ lệ nợ xấu của một số nước trong khu vực tại thời điểm Chính phủ phải đứng ra xử lý nợ xấu, cụ thể: Hàn Quốc 17% (tháng 3/1998), Thái Lan 47,7% (tháng 5/1999), Malaysia 11,4% (tháng 9/1998), Indonesia trên 50% (năm 1999).
- Một số yếu tố giảm thiểu rủi ro tín dụng cho các TCTD
Mặc dù các TCTD Việt Nam có tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ tín dụng khá lớn (8,6% theo kết quả giám sát) và đang có chiều hướng tăng nhưng vẫn còn thấp hơn so với nhiều nước (Albania: 18,8%; Latvia: 17,5%; Lithuania: 16,4%; Montenegro: 15,5%; Romania: 14,1%; Serbia: 18,8%; Kazakhstan: 30,8%; Tajikistan: 14,9%; Ukraine: 14,7%; Pakistan: 16,2%). Bản chất nợ xấu hiện nay của các TCTD có nhiều yếu tố góp phần làm giảm thiểu tổn thất, cụ thể:
Thứ nhất, đến cuối tháng 5/2012 các TCTD đã trích lập DPRR được 67,3 ngàn tỷ đồng, chiếm 57,18% nợ xấu.
Thứ hai, phần lớn nợ xấu được bảo đảm bằng tài sản, nhờ đó TCTD có thể thu hồi được một phần hoặc toàn bộ khoản nợ xấu từ việc bán/ xử lý tài sản bảo đảm (tuy nhiên việc xử lý tài sản đảm bảo, thu hồi nợ trong thực tiễn là không dễ dàng và cần một thời gian dài).
Tính đến cuối tháng 3/2012, trong tổng nợ xấu của các TCTD có 84,16% được bảo đảm bằng tài sản và 15,84% không được bảo đảm bằng tài sản. Tổng giá trị tài sản bảo đảm bằng 134,8% tổng nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng và an toàn hoạt động tín dụng. Điều quan trọng nhất là nợ xấu phải được phân loại, ghi nhận và trích lập DPRR đầy đủ theo mức độ rủi ro, đồng thời có biện pháp bảo đảm tiền vay (tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh,…). Không nên tuyệt đối hoá tỷ lệ nợ xấu cao hay thấp hoặc chỉ dựa vào mức DPRR đã trích lập trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng và xác định khả năng tổn thất tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu thấp nhưng không được trích lập DPRR đầy đủ và thiếu tài sản bảo đảm thì có thể nguy hiểm hơn là tỷ lệ nợ xấu cao hơn nhưng được trích lập DPRR và có tài sản bảo đảm đầy đủ.
3.1.3.4 Một số nguyên nhân dẫn đến chất lượng tín dụng suy giảm
Nhóm nguyên nhân thuộc môi trường kinh doanh
Kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao và hiện nay là suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước, do đó môi trường kinh doanh và hoạt động ngân hàng gặp nhiều khó khăn làm cho chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Trong giai đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân 26,56% nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng từ năm 2011 chậm lại đáng kể, đặc biệt là 5 tháng đầu năm 2012 dư nợ tín dụng không tăng nhưng nợ xấu tăng tới 45,5% do tình hình kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp suy giảm mạnh.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại từ năm 2011: Năm 2011, tăng trưởng kinh tế 5,89%. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tăng trưởng kinh tế ước chỉ đạt 4,38% so với cùng kỳ năm 2011 (cùng kỳ năm 2011 tăng 5,57%).
- Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng chậm, thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước: Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2011 tăng 6,8% so với năm 2010. Tính chung 06 tháng đầu năm 2012, chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, chỉ bằng 45% mức tăng 6 tháng đầu năm 2011 (9,7%). Giá trị sản xuất xây dựng trong 6 tháng đầu năm 2012 theo giá so sánh năm 1994 chỉ bằng 99,6% so với cùng kỳ năm 2011. Ngành xây dựng gặp nhiều khó khăn do hoạt động đầu tư tăng chậm, thị trường bất động sản trầm lắng kéo dài. Nhiều công trình, dự án xây dựng giãn tiến độ hoặc dừng khởi công làm cho nhu cầu nguyên vật liệu xây dựng không tăng cao, nhiều sản phẩm tiêu thụ khó khăn (như xi măng, sắt thép,…).
- Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp: Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2011 tăng 6,2% so với năm 2010. Trong 5 tháng đầu năm 2012, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước.
- Tiêu dùng cá nhân tăng chậm: Tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ năm 2011 tăng 24,2% so với năm 2010 và chỉ tăng 4,7% nếu loại trừ đi yếu tố giá. Tính chung 06 tháng đầu năm 2012, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng 6,5%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước.
Nhóm nguyên nhân chủ quan
Hầu hết các TCTD theo đuổi chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh trong khi năng lực quản trị rủi ro của TCTD còn nhiều hạn chế và chậm được cải thiện, đặc biệt là các NHTMCP chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị dẫn đến nợ xấu tăng nhanh hơn dư nợ tín dụng. Một bộ phận không nhỏ vốn tín dụng và nhiều TCTD tập trung đầu tư vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, chẳng hạn bất động sản. Khi các lĩnh vực này, đặc biệt là thị trường bất động sản đóng băng và giá bất động sản giảm sâu kéo theo nợ xấu cho vay lĩnh vực này tăng nhanh.
Ngoài ra, công tác thanh tra, giám sát ngân hàng trong một thời gian dài chưa phát huy hiệu quả cao trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm, rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD, nhất là các vi phạm quy định hạn chế cấp tín dụng và đầu tư quá mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.
3.2. Sự cần thiết phải có sự tham gia của các công ty mua bán nợ xấu
Trước tình hình diễn biến nợ xấu của nước ta hiện nay với tỷ lệ nợ xấu đang ở mức 8,6% tương đương là hơn 202 ngàn tỷ đồng. Nhận thức được tính cấp thiết của công tác quản lý nợ, quản lý nguồn tài sản của quốc gia, đòi hỏi chúng ta phải có những chiến lược phù hợp để chuyên môn hóa công tác quản lý nợ, cũng như việc quản lý rủi ro từ hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nước ta ta cần phải đầu tư xây dựng và triển khai các chính sách, hệ thống và quy trình quản lý rủi ro. Để quản lý rủi ro hiệu quả cần thiết lập hệ thống thông tin báo cáo nhằm có được thông tin đầy đủ để định hướng chiến lược cho việc quản lý rủi ro, mức độ chấp nhận rủi ro, đảm bảo nhận diện chính xác, đầy đủ, đo lường, kiểm soát và giám sát các loại rủi ro trong tất cả các hoạt động như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro danh tiếng, rủi ro kinh doanh ngoại hối, rủi ro thanh toán điện tử< Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng về quy mô cũng như dư nợ tín dụng thì việc xử lý nợ đòi hỏi phải có bộ máy chuyên nghiệp hơn, với tính chất hoạt động như một doanh nghiệp nhằm hỗ trợ chính phủ cả về công tác quản lý nợ và khai thác tài sản. Từ những yêu cầu trên có thể nhận định, nhu cầu thành lập Công ty AMC để chuyên môn hóa việc quản lý nợ, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các khoản nợ của các NHTM là thiết yếu. Nói cách khác, việc ra đời Công ty AMC trực thuộc chính phủ là đòi hỏi khách quan đồng thời dựa trên những căn cứ pháp lý do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã ban hành.
Hiện nay, bên cạnh việc tăng cường công tác quản lý nợ và khai thác hiệu quả tài sản của các Ngân hàng thì việc gia tăng các khoản nợ xấu đang là vấn đề quan ngại của các Ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt nam hiện nay đang giải quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Với những biến động của thị trường tài chính Việt Nam kéo theo sự đi xuống của hàng loạt doanh nghiệp thì tỷ lệ nợ xấu (nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo quy định của Ngân hàng Nhà nước) của các NHTM đã chiếm tỷ lệ khá cao, vì vậy việc tăng cường công tác kiểm soát, quản lý một cách hiệu quả, an toàn luôn là mục tiêu hàng đầu của các NHTM.
Để thực hiện công tác xử lý nợ, hiện nay, các NHTM đã thành lập các bộ phận nghiệp vụ tham gia xử lý nợ trực thuộc Hội sở, Ban Pháp chế tuân thủ với nhiệm vụ kết hợp với các Đơn vị kinh doanh trên toàn hệ thống trong việc xử lý, thu hồi nợ. Tuy nhiên, với tình hình các khoản nợ gia tăng trên diện rộng và ngày càng phức tạp thì việc xử lý nợ tồn đọng (nợ xấu) ngày càng cần được chuyên môn hóa.
Tuy nhiên, theo Luật Tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại cổ phần không được trực tiếp kinh doanh bất động sản trong khi việc nhận tài sản bảo đảm bằng bất động sản là hình thức được áp dụng phổ biến. Với giới hạn về khuổn khổ pháp lý, hầu như các ngân hàng, trong đó các NHTM đều khó khăn trong việc khai thác hoa lợi phát sinh cũng như không chủ động xử lý được tài sản bảo đảm, làm lãng phí nguồn lợi lớn và nguồn thu nợ an toàn, hiệu quả. Hệ quả, hàng loạt các khoản nợ đều phải thông qua con đường khởi kiện với sự tốn kém tiền bạc, thời gian và hiệu quả rất thấp.
Việc thành lập Công ty AMC là xu hướng phổ biến của các ngân hàng thương mại. Tính đến thời điểm này, hầu như các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đều có Công ty AMC, nhất là sau khi Quyết định số 1389/2001/QĐ-NHNN ngày 07/11/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về thành lập Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại được ban hành< Thêm vào đó, có một điều rõ ràng là hoạt động của các công ty AMC trong thời gian qua đã góp phần đáng kể trong việc xử lý nợ xấu của các ngân hàng này. Bên cạnh hoạt động xử lý nợ, việc thành lập các công ty AMC đã tạo điều kiện cho các ngân hàng chuyên môn hóa hoạt động quản lý và khai thác hiệu quả các tài sản cố định như nhà đất, kho xưởng, bến bãi< Với mục tiêu phấn đấu mở rộng quy mô địa điểm giao dịch trên toàn quốc thì việc quản lý nợ và khai thác tài sản của các NHTM là một trong những hoạt động rất cấp thiết lúc này. Nhưng với tỷ lệ nợ xấu của các NHTM trong bối cảnh hiện nay đã cao quá mức để các NHTM có thể tự giải quyết, vì vậy việc chính phủ phê duyệt đề án thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia là một vấn đề bức thiết để giải quyết dứt điểm nợ xấu, thanh lọc nền kinh tế giúp đất nước phát triển bền vững trong thời gian tới.
Rõ ràng, để có biện pháp tận thu nợ tồn đọng, hạn chế tối đa tổn thất tài sản và làm lành mạnh hóa tình hình tài chính, việc thành lập Công ty AMC là một nhiệm vụ cấp thiết của chính phủ trong năm 2013.
Kết luận
Tình hình nợ xấu ở Việt Nam năm 2012 tuy đã trở nên căng thẳng nhưng phần nào hạ nhiệt vào những tháng cuối năm nhờ các biện pháp và quy định kịp thời của chính phủ. Đến thời điểm cuối Quý I năm 2013 như Ngân hành nhà nước thông báo thì nơ xấu còn vào khoảng 6%. Để tiếp tục thực hiện thành công nhiệm vụ này, chúng ta cần phải đảm bảo công cuộc tái cấu trúc được chú trọng hơn nữa (bao gồm cả tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đầu tư công, DNNN), kinh tế vĩ mô được giữ ổn định (tăng trưởng có thể không cao nhưng lạm phát cần phải giữ ở mức thấp và ổn định), thị trường trở nên minh bạch… Với quyết tâm cùng với hàng loạt các biện pháp gần đây của chính phủ (giải cứu bất động sản, đề xuất thành lập AMC, giảm lãi suất…), năm 2013 sẽ hứa hẹn là một năm vất vả nhưng đầy triển vọng của công tác xử lý nợ xấu của hệ thông ngân hàng Việt Nam.
Việc thông qua đề án thành lập Công ty mua bán nợ cấp quốc gia (AMC) sẽ giúp nền kinh tế giải quyết dứt điểm nợ xấu còn tồn đọng tại các NHTM trong thời điểm hiện tại, giúp lưu thông một khoản vốn khồng lồ đang nằm im tại các tài sản thế chấp của các khoản nợ xấu đó. Việc này như việc người nông dân dọn quang cỏ hoang hóa trong mảnh vườn của mình, để nâu thì các khoản nợ xấu này càng phình to ra và khi đó giải quyết nó sẽ rất khó khăn và chi phí không hề nhỏ. Tuy hiện tại tỷ lệ nợ xấu của nước ta còn nhỏ hơn rất nhiều các nước khác ở cùng thời điểm phải tiến hành thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia để giải quyết nợ xấu nhưng việc giải quyết tận gốc khi khối u còn nhỏ là một giải pháp tốt nhất, giúp nền kinh tế phát triển thịnh vượng trong tương lai.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp.
Quyết đinh số 1683/QĐ-BTC về ban hành quy chế quản lý tài chính tạm thời của Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp.
Thông tư số 33/2010/TT-BTC về ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp.
Quyết định số 2157/QĐ-BTC về việc sửa đổi bổ sung Quyết định 1683/QĐ-BTC.
Thông tư 79/2011/TT-BTC về Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên mua bán nợ Việt Nam do Bộ Tài chính ban hành.
Quyết định 08/QĐ-MBN về ban hành quy trình mua và xử lý nợ tồn đọng.
Báo cáo tổng kết nhiệm vụ công tác năm 2011 và phương hướng, mục tiêu, giải pháp chủ yếu thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2012 của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam.
Báo cáo kết quả kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh và thẩm định báo cáo tài chính của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam năm 2009.
Báo cáo tóm tắt 5 năm hoạt động của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam.
Báo cáo kết quả công tác mua, bán nợ và kết quả mua, bán nợ các năm 2009, 2010, 2011 của phòng mua, bán nợ Công ty Mua, bán nợ Việt Nam.
PGS. TS. Lưu Thị Hương (chủ biên), 2005, Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
PGS.TS Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống Kê.
Website: www.wikipedia.org
www.datc.com.vn
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
DATC: Công ty Mua, bán nợ Việt Nam
TC: Tài chính
TCDN: Tài chính doanh nghiệp
DN: Doanh nghiệp
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
DNTW: Doanh nghiệp Trung ương
CP: Cổ phần
CTCP: Công ty cổ phần
NSNN: Ngân sách Nhà nước
TW: Trung ương
NH: Ngân hàng
NHTM: Ngân hàng Thương mại
NHPT: Ngân hàng Phát triển
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
SXTM: Sản xuất Thương mại
XD: Xây dựng
BTC: Bộ Tài chính
HĐQT: Hội đồng quản trị
XNK: Xuất nhập khẩu
UBND: Ủy ban nhân dân
DT: Doanh thu
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Bảng 1 : 11 phương án đã được DATC hoàn thiện tái cơ cấu (giai đoạn 2004-2008) 21
Bảng 2: Bảng doanh thu, lợi nhuận của công ty giai đoạn 2004-2008 22
Bảng 3: Bảng doanh thu, lợi nhuận của công ty giai đoạn 2009 - 2011 24
Bảng 4: Bảng thực hiện chỉ tiêu doanh thu hoạt động mua, bán nợ 26
Bảng 5: Bảng thực hiện chỉ tiêu doanh số mua nợ 27
Bảng 6: Tổng hợp các phương án mua, bán nợ tính đến hết quý IV năm 2011 29
Bảng 7: Bảng hoạt động đầu tư của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam 30
Bảng 8: Bảng thực hiện chỉ tiêu tỷ lệ thu hồi nợ tồn đọng của DATC năm 2011 34
Biểu 1: Lợi nhuận và nộp NSNN của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam 23
Biểu 2: Lợi nhuận Công ty Mua, bán nợ Việt Nam sau 8 năm hoạt động 25
Biểu 3: Giá trị chuyển nợ tồn đọng thành vốn góp cổ phần của các doanh nghiệp được tái cơ cấu năm 2011 31
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_an_da_sua_cua_tien_1951(1).doc