- Xây dựng đúng và sát thực tiễn các định hướng phát triển chính sách vĩ
mô các tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý Nhà nước đối với Tổng công ty.
Có như vậy mới thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp (Tổng
công ty) bằng các công cụ, chính sách của chính phủ, của Nhà nước.
- Hướng dẫn cụ thể, đúng đắn cho các doanh nghiệp (Tổng công ty)
trong quá trình thực hiện nhằm phát huy được sức sống và sức chiến đấu của
chính sách tiêu chuẩn, định mức, chế độ trong thực tiễn, chính sách, chế độ là
quy định cụ thể hành lang pháp lý theo nghị quyết của Đảng của Quốc hội và
pháp luật.
30 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự cần thiết phải xây dựng các tổng công ty thực sự trở thành các tập đoàn kinh tế lớn mạnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh phần kinh tế khác trong từng ngành hàng, lĩnh vực cụ thể. Nhờ đó,
Nhà nước có thể hướng nền kinh tế đó theo chiến lược đã chọn. Các DNNN là
lực lượng vật chất để Nhà nước ta thực hiện sử định hướng XHCN. Muốn xây
dựng chủ nghĩa xấ hội, nhất thiết Bộ phận sở hữu này phải được củng cố, phát
triển, phải được xem vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Không có các nhân tố kinh tế xã hội chủ nghĩa đủ sức liên kết,
dẫ dắt các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo của CNXH, chắc chắn sẽ
không thể có được CNXH. Đặc biệt, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thì
điều đó là tất yếu. Nếu hệ thống các DNNN không được củng cố, lớn mạnh,
không đủ sức mạnh vật chất để trụ vững trong cạnh tranh, Nhà nước XHCN
sẽ không thể có lực lượng vật chất để điều tiết hoạt động của nền kinh tế đi
theo định hướng XHCN.
4
Để đảm bảo cho các DNNN đủ làm đối tượng với các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác, chúng ta đang xucs tiến xây dựng các tập
đoàn kinh doanh mạnh của Nhà nước mà bước đầu là việc thành lập các Tổng
công ty 91 (Quyết định 91/Ttg) và 90 (Quyết định 90/Ttg) việc thành lập các
Tổng công ty này nhằm tập trung vốn, kỹ thuật để tăng cường sức cạnh tranh,
tự vươn lên giành vị trí chi phối ngành hàng hoặc một số ngành hàng, trở
thành xương sống của nền kinh tế. Các Tổng công ty Nhà nước hiện nay
chiếm khoảng 80% sản lượng và vốn của khu vực DNNN, có khả năng chi
phối toàn Bộ nền kinh tế. Việt Nam.
2. Thành lập các Tổng công ty Nhà nước là một biện pháp để sắp
xếp lại các DNNN.
Nhằm khắc phục sự dàn trải và nâng cao hiệu quả hoạt động của các
DNNN, thời gian qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách sắp xếp lại
DNNN. Đặc biệt, ngày 7/3/1994, thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số
s90/Ttg và 91 Ttg thành lập 18 - Tổng công ty có quy mô quốc gia và 73
Tổng công ty có quy mô nhỏ hơn. Gọi tắt là các Tổng công ty 91,90. Theo các
quyết định này thì tất cả các Tổng công ty (được thành lập trước đó) không đủ
điều kiện về vốn, tài sản phải hạ cấp. Hiện nay, các Tổng công ty Nhà nước
này thu hút gần 1100 DNNN là thành viên hạch toán độc lập hoặc phụ thuộc,
chiếm khoảng 30% tổng số DNNN đang hoạt động và khoảng 70% doanh
nghiệp do trung ương quản lý. Tính đến cuối năm 1999, cả nước có
5.925DNNN, mặc dù số lượng DNNN giảm gần 50% so với năm 1989 song
DNNN vẫn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
3. Thí điểm thành lập các Tổng công ty Nhà nước theo hướng hình
thành và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh là một chủ trương đúng
đắn của Nhà nước ta.
Các Tổng công ty hiện nay về cơ bản là doanh nghiệp 100% vốn Nhà
nước, vận hành theo cơ chế “công ty mẹ”, “công ty con”. Đây chính là bước
khởi đầu cho việc hành thành cáctập đoàn kinh tế lớn, kinh doanh đa ngành,
có hiệu quả và sức cạnh tranh cao. Tại hội nghị sơ kết mô hình Tổng công ty
5
Nhà nước, nhìn chung, lãnh đạo các Tổng công ty đều tán thành ý kiến thí
điểm mô hình “công ty mẹ, công ty con”. Tổng giám đốc Tổng công ty dệt
may, ông Bùi Xuân Khu nói: “công ty mẹ - công ty con là mô hình rất linh
hoạt và hoạt động theo dạng tập đoàn lớn. Mô hình này sẽ đem lại hiệu quả và
sự hợp tác cao hơn trong công việc”. Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Thuỷ sản
Việt Nam cho biết: “ công ty mẹ- công ty con là mô hình tập đoàn kinh tế có
quy mô lớn về vốn, lao động, doanh thu và thị trường. áp dụng mô hình này,
Tổng công ty Thủy sản Việt Nam sẽ có phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh
đa ngành, đa nghề, nhiều lĩnh vực. Công ty mẹ sở hữu số lượng vốn lớn, giữ
cổ phần chi phối trong công ty con. Bên cạnh các tổ chức sản xuất, kinh
doanh còn các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm...”.
Để nâng cao sức cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng
công ty tiến tới xây dựng một số Tổng công ty đạt được các yêu cầu cơ bản
của một tập đoàn kinh tế, trước hết phải tổng kết, đánh giá lại để thấy sẽ mặt
mạnh mặt yếu của từng Tổng công ty, thứ hai là có biện pháp, danh sách tăng
cường, củng cố các Tổng công ty, thứ ba là lựa chọn các Tổng công ty Nhà
nước quan trọng hoạt động có hiệu quả để xây dựng thành lập tập đoàn kinh
tế mạnh.
II. TỔNG KẾT LẠI MÔ HÌNH TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC
1. Mô hình tổ chức Tổng công ty Nhà nước
Hiện nay, các Tổng công ty Nhà nước được tổ chức theo quyết định số
90/ Ttg và 91/Ttg ngày 7/3/1994 của thủ tướng Chính phủ gọi tắt là Tổng
công ty 90 và Tổng công ty 91. Các Tổng công ty này vận hành theo cơ chế
“công ty mẹ” và “công ty con”; tổ chức gồm: Hội đồng quản trị (HĐQT);
Tổng giám đốc (TGĐ), Ban kiểm soát; các đơn vị thành viên.
Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91 được phân biệt dựa trên quy mô v
ốn pháp định, số lượng doanh nghiệp thành viên; cấp có thẩm quyền quyết
định thành lập, phê chuẩn điều lệ và bổ nhiệm nhân sự Bộ máy của Tổng
công ty.
6
Việc lựa chọn mô hình Tổng công ty như trên, lúc đầu, sự hoạt động có
thể chưa có hiệu quả so với mô hình doanh nghiệp hoạt động độc lập thành
lập theo quyết định 338; song, cái được lớn là giảm đáng kể số lượng doanh
nghiệp trực thuộc Bộ quản lý ngành hay cấp hành chính địa phương cũng như
giảm số lượng doanh nghiệp không cần thiết, tiếp tục duy trì qua sắp xếp lại
khi đưa vào Tổng công ty. Cái được lớn và cơ bản tạo cho Bộ và cấp hành
chính địa phương thực hiện đúng đắn chức năng quản lý Nhà nước đáp ứng
yều cấp thiết việc nâng cao hiệu quả và hiệu lực hoạt động của Bộ máy quản
lý hành chính hiện nay.
2. Các kết quả bước đầu.
Hiên nay, cả nước có 17 Tổng công ty 91, 74 Tổng công ty 90. Các Tổng
công ty này đã dung nạp gần 1100 DNNN làm thành viên, tương đương 70%
số DNNN đo trung ương quản lý; chiếm s80% tổng số vốn và giá trị sản
lượng của DNNN. Do đó, các Tổng công ty Nhà nước không những chi phối
cơ bản khu vực DNNN mà còn chi phối cả nền kinh tế. Kết quả bước đầu như
sau:
* Các Tổng công ty Nhà nước đã đi vào ổn định, khắc phục khó khăn,
vươn lên đạt kết quả đáng kể về sản xuất, kinh doanh.
Hầu hết các Tổng công ty đều đạt mức tăng trưởng được giao về tổng
sản lượng sản xuất, tổng doanh thu, nộp ngân sách, lãi, lỗ, thu nhập bình quân
người lao động, kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu và một số chỉ tiêu quan trọng
khác đầu tăng trưởng qua các năm. Có một số Tổng công ty ngày càng lớn
mạnh, có thêm lực phát triển, hoạt động có hiệu quả, ổn định, vững chắc; như
Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông, Tổng công ty dầu khí, Tổng công ty
Than, Tổng công ty điện lực, Tổng công ty Hàng Không, Tổng công ty Xi
măng, Tổng công ty Thuốc lá, Tổng công ty Rượu bia, nước giải khát, Tổng
công ty Xăng dầu.
Các Tổng công ty này không chỉ đạt được các chỉ tiêu hiện tăng trưởng
mà thị phần của ngành ngày càng được mở rộng, tỷ lệ huy động năng lực sản
xuất cao.
7
* Các Tổng công ty ngày càng thể hiện được sức mạnh kinh tế và kinh
doanh, khẳng định vai trò, tác dụng của nó trên thực tế đối với hầu hết các
ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng của nền kinh tế nước ta.
Các Tổng công ty có sức mạnh cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh và
thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước. Một số loại sản phẩm của một số
ngành kinh tế do các Tổng công ty sản xuất đã và đang có vị trí đứng ở thị
trường nước ngoài, tạo khả năng tự cân đối được kim ngạch xuất nhập khẩu
nhhư ngành Rượu - bia - nước giải khát, thuốc lá, Than, May mặc, Dầu khí.
Nhìn chung các Tổng công ty có khả năng và thực lực để thực hiện các
nhiệm vụ và chiến lược phát triển ngành do Chính phủ giao. Các Tổng công
ty 91 v à 90 đã được tổ chức và hoạt động ở tất cả các ngành kinh tế - kỹ thuật
quan trọng của đất nước. Do tiềm hợp vê số lượng các doanh nghiệp thành
viên và nguồn lực tích tụ, tập trung vốn, vào động, khoa học công nghệ, trình
độ tổ chức quản lý, nên các Tổng công ty đã có vai trò chủ đạo và chi phối cả
trong sản xuất và thị trường đối với các ngành kinh atế. Đối với một số ngành
kinh tế lớn, vai trò tác dụng của Tổng công ty ở chỗ tạo lập được trật tự trong
sản xuất và thị trường tiêu thụ thông qua cơ chế thống nhất quản lý và điều
hành toàn Tổng công ty và trực tiếp ký hợp đồng vơí các hộ tiêu thụ lớn, ổn
định, lâu dài. Điểm hình nhất là Tổng công ty Than, Tổng công ty Điện lực
trong quản lý thống nhất các đầu mối tiêu thụ. Còn hầu hết các Tổng công ty
đều quản lý thống nhất được các đầu mối thị trường xuất nhập khẩu.
* Đa ngành, đa lĩnh vực trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó
có ngành chủ đạo mang tên của Tổng công ty.
Thực tế hoạt động đã khẳng định được hướng hoạt động kinh doanh đa
ngành, đa lĩnh vực của các Tổng công ty là đúng đắn, nâng cao được hiệu quả
và vị trí của mỗi Tổng công ty trong cơ chế kinh tế thị trường đa thành phần
với mở cửa với thị trường bên ngoài, thích ứng được với các tình huống
chuyển đổi của nền kinh tế. Kinh nghiệm và thực tế hiện nay cho thấy đa
dạng hoá hoạt động theo đa ngành, đa lĩnh vực có ngành kinh tế chủ lực là
thiết thực, đem lại hiệu quả cao đối với các Tổng công ty.
8
3. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động sản xuất của Tổng công ty.
Qua gần 6 năm hoạt động, bên cạnh những thành tích đạt được, mô hình
Tổng công ty Nhà nước cũng đã Bộc lộ một số mặt còn yếu kém.
3.1. Về tổ chức và các mối quan hệ, chức năng phân cấp hoạt động.
3.1.1. Vai trò của Hội đồng quản trị
Theo điều lệ mẫu Tổng công ty, cơ cấu và Bộ máy của mô hình Tổng
công ty mới gồm có: HĐQT, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và Bộ máy giúp
việc. Tổng công ty được quản lý bởi HĐQT và được điều hành bởi Tổng
giám đốc. Nhưng trong thực tế thời gian qua, vai trò của HĐQT trong các
Tổng công ty hầu như rất mờ nhạt. Có một số Tổng công ty đã hoạt động vài
năm rồi mà vẫn chưa đủ số lượng thành viên HĐQT. Cá biệt, có Tổng công ty
cho tới tận đầu năm 1999 mới có chủ tịch HĐQT. Theo báo cáo của ban đổi
mới quản lý doanh nghiệp trung ương thì “Qua thực tế hoạt động cho thấy
một số thành viên HĐQT không đủ năng lực dù thiếu am hiểu chuyên môn
quản lý, chưa gắn bó với hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty”.
Và chức danh Chủ tịch HĐQT cũng gây nhiều tranh cãi trong giới doanh
nghiệp. Nhiều người cho rằng, Chủ tịch HĐQT là một chức danh “hữu danh
vô thực, là nơi để giải quyết chính sách” cho các cán Bộ đã quá tuổi nhưng
chưa về hưu... Phát biểu tại hội nghị tổng kết mô hình Tổng công ty, hầu hết ý
kiến của các đại biểu đều cho rằng, thời gian qua HĐQT đã không khẳng định
được vị trí của mình trong Tổng công ty. Điều đó một phần do cơ chế, chính
sách chưa rõ ràng, nhưng phần chủ yếu vẫn là cán Bộ thành viên của HĐQT
không đủ năng lực để đảm nhận nhiệm vụ mới mẻ này, đặc biệt là chức danh
HĐQT.
3.1.2. Mối quan hệ giữa HĐQT và ban Tổng giám đốc.
Cho đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc trong các quyết định về quyền
đại diện chủ sở hữu tài sản Nhà nước trong DNNN, vai trò và trách nhiệm của
Chủ tịch HĐQT chưa được xác định rõ nên đôi khi vẫn chưa có sự phối hợp
nhịp nhàng giữa HĐQT và ban TGĐ. Cùng một số vốn được giao nhưng cả
9
Chủ tịch HĐQT và TGĐ đều phải ký nhận. Như vậy, trách nhiệm thì tập thể
nhưng người điều hành chỉ là Tổng giám đốc. HĐQT tuy có trách nhiệm giám
sát nhưng vốn của các DNNN lại không thuộc quyền sở hữu của mình. Do đó,
trách nhiệm và quyền hạn của HĐQT cũng bị giới hạn. Hiện nay, giám đốc
của các doanh nghiệp thành viên chủ lực hầu hết chưa tham gia HĐQT của
Tổng công ty vì muốn tách chức năng quản lý và chức năng điều hành, nhưng
thực tế hai chức năng này gắn bó tới hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty.
Có nơi HĐQT trong khi chưa thực hiện tốt chức năng. Chủ yếu như xây dựng
chiến lược, quyết định dự án đầu tư, lựa chọn cán bộ nhưng lại sa vào lĩnh
vực điều hành của Tổng giám đốc. Có nơi Tổng giám đốc quyết định các vấn
đề thuộc quyền hạn của chủ tịch HĐQT. Lại có nơi chủ tịch HĐQT lại bao
biện công việc điều hành của giám đốc. Thực tế hiện nay cho thấy, nơi nào uy
tín và trình độ của chủ tịch HĐQT cao hơn thì thường can thiệp vào hoạt động
kinh doanh, lấn quyền của giám đốc, biến HĐQT thành cơ quan chủ quản của
doanh nghiệp. Ngược lại, nơi nào trình độ và uy tín của Tổng giám đốc cao
hơn thì vai trò của HĐQT trở lên mờ nhạt. Sở dĩ có tình trạng trên là vì quyền
hạn và trách nhiệm ở đây được phân công không xuất phát từ lợi ích kinh tế
mà hoàn toàn xuất phát từ năng lực quản lý hành chính.
3.2. Mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên và giữa
các đơn vị thành viên với nhau.
* Sự dính kết “hữu cơ” giữa các doanh nghiệp thành viên với Tổng công
ty chưa thực sự tồn tại; động lực xây dựng Tổng công ty đối với các đơn vị
thành viên bị thả nổi, không phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn Tổng
công ty.
Sau khi tham gia vào Tổng công ty, các DNNN thành viên hầu như hạch
toán độc lập. Họ phải tự “xoay sở”, tự lo công ăn việc làm, tự lo lỗ, lãi, các
Tổng công ty gần như không có vai trò gì. Đặc biệt sau khi Chính phủ ban
hành nghị định số 44/1998/NĐ - CP (ngày 29/6/98) và việc chuyển DNNN
thành Công ty cổ phần, một số doanh nghiệp trong các Tổng công ty Nhà
nước đã được thí điểm tiến hành cổ phần hoá. Điều đó có nghĩa là các doanh
10
nghiệp này đã tách hoàn toàn khỏi sự kiểm soát của Tổng công ty và hoạt
động theo một luật mới: luật công ty.
Theo số liệu điều tra ở TPHCM và Hà Nội thì chỉ có khoảng 13% các
doanh nghiệp (mà đa phần là nhỏ hay hoạt động chưa có hiệu quả) là cần có
Tổng công ty. Điều này cho thấy mô hình Tổng công ty chỉ có một phần tác
dụng với một số doanh nghiệp chưa khẳng định được trên thị trường và một
số các doanh nghiệp đặc thù. Còn phần lớn các doanh nghiệp khác thì mô
hình Tổng công ty là không cần thiết và không ít doanh nghiệp đang mong
muốn “độc lập” với cả Tổng công ty.
Điều này cho thấy, sự điều hành của Tổng công ty với các công ty thành
viên chưa đem lại hiệu quả cao, chưa hội tụ được các anh tài từ các công ty về
với Tổng công ty. Hiện tại có không ít ý kiến đề nghị trực tiếp hoặc gián tiếp
xem xét lại mô hình tổ chức Tổng công ty và điều lệ hoạt động của nó.
Ngoài ra, chính tư tưởng độc lập theo nghị định 388/HĐBT đã làm một
số đơn vị thành viên của các Tổng công ty không liên kết được với nhau,
hoạt động rời rạc, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn Tổng công
ty. Thậm chí các doanh nghiệp thành viên còn cạnh tranh lẫn nhau, gây thiệt
hại đến lợi ích của Nhà nước.
* Khác với các tập đoàn kinh tế của nước ngoài, mối quan hệ giữa “công
ty mẹ” và “công ty con” là mối quan hệ mang tính hữu cơ chặt chẽ, “công ty
mẹ” chi phối hoạt động của công ty con bằng các quan hệ tài chính, thị
trường, ở các Tổng công ty của Việt Nam, mối quan hệ này chỉ mang tính
“hành chính”, “cơ học”. Tổng công ty điều hành hoạt động của các doanh
nghiệp thành viên bằng các quyết định, bằng các ràng buộc về quyền lợi và
nghĩa vụ của doanh nghiệp với Tổng công ty. Điều này phản ánh một thực
trạng là, nếu Tổng công ty thực hiện vai trò của mình thì vô hình chung nó đã
biến mình thành cấp chủ quản cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp thành viên.
Sở dĩ có mâu thuẫn trên là vì các Tổng công ty Nhà nước được thành lập
chủ yếu bằng con đường hành chính tổ chức chứ không áp dụng những yếu tố
của kinh tế thị trường. Theo cách thức này, các DNNN trong cùng một ngành
11
được gom góp lại và được tham gia vào một tổ chức gọi là Tổng công ty Nhà
nước. Có những DNNN tham gia vào Tổng công ty không phải là tự nguyện
mà bị gò ép, họ thậm chí không có quyền quyết định vận mệnh của chính
mình. Tất cả những điều này đã không tạo ra được sự gắn kết cần thiết giữa
các đơn vị thành viên với Tổng công ty và do đó không phát huy được sức
mạnh tổng hợp của Tổng công ty.
3.3. Thiếu sự phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng về quản lý Nhà nước
và thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN giữa chính phủ với
Bộ quản lý ngành, Bộ chức năng và UBND cấp tỉnh, cấp huyện nên mối quan
hệ giữa Tổng công ty với các cơ quan quản lý Nhà nước rất phức tạp, có quá
nhiều đầu mối, trách nhiệm giải quyết công việc không rõ ràng và khó xác
định trách nhiệm khi xảy ra hậu quả.
Hiện tại đại diện quyền sở hữu Nhà nước được dàn trải ở nhiều cơ quan
đại diện làm nảy sinh nhiều vấn đề phiền hà cho doanh nghiệp, tạo ra nhiều sơ
hở trong cơ chế quản lý vốn và tài chính của doanh nghiệp mà hậu quả khó
lường hết cho cả các cơ quan quản lý Nhà nước lẫn doanh nghiệp.
3.4. Qua thực tế hoạt động có một số Tổng công ty đang đòi hỏi phải có
giải pháp tổ chức sắp xếp lại như: Tổng công ty đá quý và vàng (Tổng công ty
91), Tổng công ty cơ khí năng lượng và mỏ (Tổng công ty 90).
3.5. Tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và nghiêm trọng.
Tổng công ty Nhà nước tuy được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để
phát triển nhưng tình hình cũng không sáng sủa hơn. Năm 1998, vốn Nhà
nước bình quân của Tổng công ty 91 là 3661 tỉ đồng (260 triệu USD). Nhưng
trong số 17 Tổng công ty 91 có tới 14 Tổng công ty (82%) có mức vốn Nhà
nước dưới mức vốn bình quân, trong đó 6 Tổng công ty (35%) có mức vốn
Nhà nước dưới 1000 tỉ đồng. Điều đó có nghĩa là chỉ có 3 Tổng công ty 91 có
vốn Nhà nước là lớn.
Đối với Tổng công ty 90, tình hìnhh vốn còn đáng buồn hơn. Hơn 20%
số Tổng công ty 90 vốn Nhà nước chỉ có dưới 100 tỉ đồng, trong đó ở 13
12
Tổng công ty vốn từ ngân sách cấp cho mỗi Tổng công ty chỉ được dưới 40 tỉ
đồng.
Với quy mô vốn nhỏ hẹp như vậy, e rằng các Tổng công ty khó mà thực
hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của mình.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CẦN LÀM ĐỂ CỦNG CỐ VÀ PHÁT
TRIỂN CÁC TỔNG CÔNG TY.
1. Chấn chỉnh Bộ máy tổ chức của HĐQT và xử lý lại mối quan hệ
giữa chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc.
* Hội đồng quản trị cần được chấn chỉnh cả về cơ cấu tổ chức và chất
lượng hoạt động. Bài kết luận hội nghị sơ kết mô hình Tổng công ty của Phó
Thủ tướng Ngô Xuân Lộc nêu rõ “chuẩn bị tốt về mặt nhân lực. Nâng cao
chất lượng hoạt động của HĐQT để đủ sức gánh vác nhiệm vụ. Chủ tịch
HĐQT và các thành viên của HĐQT phải là những người thuộc lĩnh vực hoạt
động của Tổng công ty, có kiến thức chuyên môn sâu rộng, am hiểu nội tình
của doanh nghiệp mà mình đang quản lý. Tham gia vào HĐQT có một số các
giám đốc của các công ty đầu đàn của Tổng công ty. Tổng giám đốc Tổng
công ty Dệt - May Việt Nam Bùi Xuân Khu nói: “Mô hình HĐQT cần hết sức
gọn nhẹ. Thành viên HĐQT phải là những người giỏi chuyên môn, am hiểu
ngành nghề thì mới có thể xây dựng các chiến lược, chính sách đúng đắn. Bên
cạnh đó có thể lập hội đồng cố vấn để giúp đỡ cho HĐQT.
Theo ý kiến của Thủ tướng chính phủ và của ban đổi mới quản lý doanh
nghiệp trung ương thì trong thời gian tới nên thí điểm mô hình chủ tịch
HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty. Một số Tổng công ty đồng tình
với giải pháp này. “Việc chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty là
hoàn toàn đúng” ông chủ tịch HĐQT Tổng công ty xây dựng số 1 nói. Nhưng
cũng có ý kiến cho rằng, chủ tịch HĐQT không nên kiêm nhiệm Tổng giám
đốc. Tổng giám đốc Tổng công ty điện lực Việt Nam Hoàng Trung Hải đề
nghị: “HĐQT nên chỉ có một số ít thành viên chuyên trách như: chủ tịch và
trưởng ban kiểm soát, còn các thành viên khác nên kiêm nhiệm. Chủ nhiệm
HĐQT phải là người quản lý có nhiều kinh nghiệm, năng động, có khả năng
13
quản lý, đã kinh qua công tác lãnh đạo doanh nghiệp ít nhất 3 năm. Tổng
giám đốc không nhất thiết là thành viên HĐQT và do HĐQT chọn và đề cử để
chính phủ phê chuẩn. Đối với DNNN, chủ tịch HĐQT không nên kiêm nhiệm
Tổng giám đốc để thực hiện được các chức năng khác nhau mà không bị
chồng chéo và công tác giám sát được tốt hơn”. Tổng giám đốc Tổng công ty
hàng không cũng nói: “Đối với Tổng công ty hàng không Việt Nam đề nghị
không áp dụng mô hình chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm Tổng giám đốc để tránh
sự lẫn lộn giữa đại diện sở hữu Nhà nước và người điều hành trong Tổng
công ty”.
* Xét cả về phương diện pháp lý và trên thực tế, thì vị trí, chức năng,
nhiệm vụ và quyền lực giữa HĐQT và Tổng giám đốc vẫn chưa đủ rõ ràng
nên người ta cảm thấy Tổng công ty là một cơ thể có “hai đầu” vừa HĐQT
vừa Tổng giám đốc mà quyền lực của HĐQT thì cao nhất trên phương diện
quản lý, còn Tổng giám đốc quyền lực cao nhất trên phương diện điều hành.
Thật ra thì khó có thể tách bạch giữa quản lý và điều hành, vì có quản lý nào
lại không có điều hành và có điều hành nào lại không có quản lý? cho nên để
xử lý mối quan hệ giữa chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc Tổng công ty, cần
phân biệt rõ chức năng của HĐQT và nhiệm vụ của ban Tổng giám đốc trong
từng lĩnh vực cụ thể: xác định, định hướng chiến lược phát triển, quản lý vốn,
sử dụng lao động, quản lý dự án đầu tư, quản lý bổ nhiệm cán Bộ... Nghiên
cưua phương thức giao vốn cho HĐQT và HĐQT giao lại vốn cho Tổng giám
đốc và các doanh nghiệp thành viên. Triển khai việc HĐQT tuyển chọn Tổng
giám đốc và ký hợp đồng theo quy định và sự hướng dẫn của chính phủ. Ký
hợp đồng là để xác định rõ cơ sở pháp lý về chức trách và quyền hạn của
Tổng giám đốc trong việc quản lý điều hành Tổng công ty theo đúng hợp
đồng. Mặt khác để khắc phục tình hình Tổng công ty có hai cơ quan đứng đầu
gây khó khăn, chồng chéo, sự phân định không rõ ràng giữa HĐQT và Tổng
giám đốc như hiện nay. Bên cạnh đó, chính phủ cũng sẽ khẩn trương nghiên
cứu thí điểm giải pháp tập trung quyền lực vào một chức danh là chủ tịch
HĐQT kiêm Tổng giám đốc ở một số Tổng công ty.
14
2. Xử lý mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên và
giữa các đơn vị thành viên với nhau.
Cần phải tạo ra các liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp trong Tổng
công ty. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp này cần phải được phân công
chuyên môn hoá trong sản xuất, cần hợp tác với nhau về công nghệ hoặc hỗ
trợ nhau về vốn. Công ty có thể liên kết dưới dạng công ty mẹ, công ty con
trong đó công ty mẹ quản lý công ty con chủ yếu là quản lý vốn. Công ty mẹ
yêu cầu các công ty con phải làm ra lợi nhuận và đồng thời quản lý công ty
con về phương hướng sản xuất theo hướng chuyên môn hoá để có sự phối hợp
đồng Bộ giữa các doanh nghiệp chứ không điều hành và thu phụ phí như các
Tổng công ty Nhà nước hiện nay. Về mặt kinh doanh, công ty mẹ, công ty
con là bình đẳng, quan hệ với nhau trên cơ sở hợp đồng kinh tế, hai bên đều
có lợi không ép buộc nhau. Việc quản lý và chỉ đạo công ty con hoạt động
cho đúng phương hướng đã định là do hội đồng quản trị của công ty mẹ chỉ
đạo.
Ngoài ra có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên của
Tổng công ty với điều kiện Nhà nước nắm cổ phần chi phối và Tổng công ty
được uỷ quyền đại diện nắm giữ. Như vậy, các doanh nghiệp đã cổ phần hoá
vẫn nằm trong thành phần Tổng công ty trên cơ sở ràng buộc bằng mối quan
hệ tài chính, quan hệ khai thác thị trường. Tổng công ty được tập trung nguồn
vốn khấu hao cơ bản, lãi sau thuế, vốn thu được qua quá trình cổ phần hoá
doanh nghiệp thành viên và thực hiện việc điều hoà vốn trong quá trình sản
xuất kinh doanh của toàn Tổng công ty.
3. Hoàn chỉnh đồng bộ cơ sở pháp lý quy định về quản lý Nhà nước,
thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN nói chung và các
Tổng công ty 90, 91 nói riêng.
15
Phương hướng và nội dung quan trọng về sự quản lý Nhà nước, thực
hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN là:
- Thực hiện sự phân công, phân cấp quản lý Nhà nước đối với DNNN về
nội dung, phạm vi, mức độ với cấp chính phủ, cấp Bộ, cấp UBND tỉnh,
huyện.
- Phân công, phân cấp và uỷ quyền thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà
nước đối với DNNN cần quy định: trách nhiệm, quyền hạn cụ thể của Bộ tài
chính trong việc quản lý vốn và tài sản của Nhà nước tại DNNN. Phạm vi,
mức độ trách nhiệm, quyền hạn của Bộ quản lý ngành hay UBND cấp tỉnh,
huyện. Mối quan hệ giữa Bộ Tài chính và Bộ quản lý ngành (hay UBND các
cấp) trong việc phối hợp thực hiện các chức năng trên. HĐQT được uỷ quyền
thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN thế nào?
Ở đây cũng cần quy định rõ các Tổng công ty 91 và 90 đều không có
khái niệm trực thuộc Thủ tướng chính phủ và về nguyên tắc Tổng công ty nào
cũng đều thuộc sự quản lý Nhà nước của Bộ quản lý ngành kinh tế, kỹ thuật
tương ứng. Từ đó, chính phủ sớm ban hành một nghị định về quản lý Nhà
nước và thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN.
4. Cần tiếp tục sắp xếp lại cơ cấu tổ chức các Tổng công ty và cơ cấu
các đơn vị thành viên.
a. Về cơ cấu Tổng công ty 91 và 90.
Qua thực tế gần 6 năm tổ chức và hoạt động của các Tổng công ty 91 và
90 đã cho thấy cần phải có sự đánh giá và sắp xếp lại cơ cấu tổ chức các Tổng
công ty theo vai trò, vị trí quan trọng của các ngành kinh tế và thực lực hoạt
động kinh doanh của các Tổng công ty. Ví dụ: Bộ công nghiệp đã có đề án
trình Thủ tướng chính phủ cho hợp nhất Tổng công ty Đá quý và Vàng (Tổng
công ty 91) và Tổng công ty khoáng sản (Tổng công ty 90); sáp nhập Tổng
công ty cơ khí năng lượng và mỏ (Tổng công ty 90) vào Tổng công ty Than
(Tổng công ty 91)... Các Bộ, ngành và địa phương cần thiết có sự đánh giá và
16
sắp xếp lại cơ cấu các Tổng công ty 91 và 90 để hoạt động có thực lực và hiệu
quả, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.
b. Về cơ cấu lại các đơn vị thành viên.
Hướng chủ yếu cơ cấu lại các đơn vị thành viên trong Tổng công ty là:
chuyển từ cách sắp xếp “hành chính” sang cách sắp xếp theo “quy hoạch”;
chuyển từ chỗ coi trọng “giảm đầu mối” là chính sang mục tiêu hiệu quả - từ
tính tất yếu của quá trình kinh tế để đưa các doanh nghiệp vào cơ cấu đơn vị
thành viên của Tổng công ty.
Để tổ chức lại các đơn vị thành viên Tổng công ty cần dựa trên cơ sở
đánh giá và phân loại doanh nghiệpt hành viên, cần quán triệt nguyên tắc
thống nhất quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ với quan điểm xây dựng
các Tổng công ty mạnh.
5. Mở rộng các kênh huy động vốn.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư của các Tổng công
ty rất lớn, Tổng công ty không thể trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước và
cũng không thể đợi đến khi Tổng công ty tích tụ đủ vốn mới đầu tư, do đó
Tổng công ty phải tìm cách huy động vốn từ các nguồn khác. Cổ phần hoá
các DNNN là một biện pháp huy động vốn quan trọng đang được Nhà nước ta
đẩy mạnh tiến hành. Thực hiện cổ phần hoá, các doanh nghiệp có thể thu hút
được vốn từ bên trong (cán Bộ công nhân viên trong doanh nghiệp) và bên
ngoài doanh nghiệp. Đây là những nguồn lực rất lớn cần được triệt để khai
thác, sử dụng. Ngoài ra còn có các kênh huy động vốn khác: vay ngân hàng,
phát hành trái phiếu, liên doanh, liên kết...
IV. PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP XÂY DỰNG CÁC TỔNG CÔNG TY
THÀNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ LỚN MẠNH.
Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của việc phát triển bền vững nền kinh tế
Việt Nam đối với các Tổng công ty trong thời kỳ mới, các Tổng công ty cần
tổ chức thực hiện đầy đủ Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 4 (khoá
VIII) và nghị quyết của quốc hội khoá X kỳ họp thứ 2 về đổi mới DNNN.
17
“ Tổng kết mô hình Tổng công ty Nhà nước, trên cơ sở đó có phương án
xây dựng các Tổng công ty thực sự trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, có
hiệu quả và sức cạnh tranh cao, thực sự là xương sống của nền kinh tế.
Tập đoàn kinh tế mạnh của Việt Nam, theo các chuyên gia kinh tế, phải
do chính phủ quản lý và đạt được các tiêu chuẩn sau đây:
- Có quy mô sản xuất kinh doanh lớn, sản xuất kinh doanh một ngành
hàng, một nhóm ngành hàng hoặc nhiều ngành hàng có quan hệ chặt chẽ với
nhau, có vị trí quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nước
ta. Đó là những ngành then chốt, mũi nhọn, trọng điểm, là xương sống của
nền kinh tế quốc dân trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.
- Có công nghệ, phương tiện và phương pháp kinh doanh, quản lý hiện
đại để đạt năng suất lao động cao, chất lượng hàng hoá tốt, giá thành sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ rẻ, đứng vững và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường
trong nước, khu vực và quốc tế. Đạt được chữ tín với khách hàng, có thị
trường tiêu thụ ổn định và rộng lớn trong nước, trong khu vực và quốc tế. Có
đội ngũ lao động, đặc biệt là đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, có nhiều
chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực công nghệ, sản xuất kinh doanh và
quản lý. Đội ngũ lao động này phải tương đối đồng Bộ về cơ cấu trình độ,
ngành nghề đủ sức giải quyết có chất lượng và hiệu quả toàn Bộ hoạt động
sản xuất kinh doanh của tập đoàn kinh doanh.
- Có đủ vốn sản xuất kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ được giao từ các
nguồn vốn Nhà nước, vốn vay ngân hàng trong nước và nước ngoài, vốn đầu
tư nước ngoài, vốn tự có của tập đoàn kinh doanh, vốn vay của cán Bộ công
nhân viên trong tập đoàn kinh tế và vốn huy động trong nhân dân... Hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh đạt được hệ số cao hơn các Tổng công ty, bảo toàn
và phát triển được vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Có giá trị sản lượng hàng hoá và hàng hoá XNK đạt tỉ trọng cao và lớn
hơn Tổng công ty cùng ngành nghề có quy mô lớn. Đạt lợi nhuận, hiệu quả
cao, nộp tích luỹ lớn cho Nhà nước và đủ khả năng đảm bảo sự tồn tại và phát
18
triển của tập đoàn kinh doanh. Chấp hành nghiêm túc pháp luật, chính sách,
chế độ của Nhà nước quy định đối với tập đoàn kinh doanh.
Phát huy đầy đủ vai trò chủ đạo của một tổ chức kinh tế Nhà nước trên
những mặt chủ yếu: mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển và
bình đẳng trong cạnh tranh, phát triển quan hệ hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ
các thành phần kinh tế khác phát triển, có thực lực kinh tế mạnh và quyết định
những cân đối chủ yếu của nền kinh tế; tạo nền tảng xây dựng chế độ xã hội
mới, chế độ XHCN ở Việt Nam.
Muốn vậy, các Tổng công ty phải phấn đấu thực hiện tốt những phương
hướng và biện pháp cơ bản sau:
1. Xây dựng đúng đắn chiến lược kinh doanh và phát triển của Tổng
công ty và công ty thành viên.
Xây dựng chiến lược kinh doanh và phát triển Tổng công ty là khâu đầu
tiên rất cần thiết và cơ bản. Chiến lược kinh doanh và phát triển công ty phải
căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, chiến lược phát triển kinh
doanh, căn cứ vào nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ; căn cứ vào
khả năng hiện tại và tương lai của Tổng công ty. Dựa vào các căn cứ đó, Tổng
công ty quyết định đúng đắn ba vấn đề cơ bản là: sản xuất kinh doanh mặt
hàng, chất lượng và quy mô theo yêu cầu của thị trường; Hai là lựa chọn các
đầu vào: nguyên vật liệu, công nghệ, phương pháp, phương tiện, nguồn nhân
lực, nguồn vốn phù hợp với quyết định sản xuất kinh doanh; Ba là sản xuất
kinh doanh dịch vụ cho ai, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ ở thị trường nào, thu
nhập và lợi nhuận phải được phân phối hợp lý giữa Nhà nước, Tổng công ty
và các đơn vị thành viên, người lao động trong đó phải ưu tiên đúng mức cho
lao động quản lý, điều hành, đầu ngành, lao động lành nghề. Chiến lược kinh
doanh và phát triển Tổng công ty phải đồng Bộ theo lĩnh vực chủ yếu: sản
xuất - kỹ thuật - tài chính - kinh doanh. Trong đó đặc biệt quan tâm đến chiến
lược sản phẩm, chiến lược đổi mới công nghệ, đầu tư, xuất nhập khẩu. Căn cứ
vào chiến lược kinh doanh và phát triển của Tổng công ty, các công ty thành
viên xây dựng đúng đắn chiến lược kinh doanh và phát triển của mình. Chỉ
19
khi có chiến lược kinh doanh và phát triển đúng đắn, Tổng công ty và công ty
thành viên mới có căn cứ để chủ động tiến hành, chuẩn bị tốt nhất, thuận lợi
nhất những điều kiện trong sản xuất kinh doanh và phát triển có hiệu quả.
2. Tổ chức lại cơ cấu sản xuất kinh doanh và cơ cấu quản lý phù hợp
với chiến lược kinh doanh và phát triển Tổng công ty đã xác định:
Trên cơ sở tổng kết mô hình Tổng công ty đã được thành lập trong
những năm qua, Nhà nước cần tiến hành tổ chức lại mô hình của Tổng công
ty, chuyên ngành, nhóm ngành, đa ngành và theo chức năng: kinh doanh,
công ích vừa công ích vừa kinh doanh. Nhà nước cần rà soát để xác định rõ
hơn, cụ thể hơn vai trò, vị trí, nhiệm vụ chủ yếu của từng loại mô hình Tổng
công ty. Căn cứ vào chiến lược kinh doanh và phát triển của từng công ty, cần
tiến hành tổ chức lại cơ cấu sản xuất kinh doanh và cơ cấu quản lý một cách
hợp lý theo hướng.
a. Tổ chức lại một cách hợp lý, đồng Bộ hơn quá trình sản xuất - kinh
doanh của Tổng công ty. Muốn vậy cần xác định đúng quy mô sản xuất kinh
doanh và phục vụ của từng Tổng công ty, quyết định đúng số lượng và quy
mô các công ty thành viên. Cần thiết để thực hiện đồng Bộ, có hiệu quả các
khâu của quá trình kinh doanh: tìm kiếm nhu cầu thị trường và sản phẩm hàng
hoá dịch vụ của Tổng công ty; chuẩn bị đồng Bộ các yéu tố đầu vào của quá
trình kinh doanh; sản xuất hàng hoá và dịch vụ; tổ chức tiêu thụ hàng hoá và
dịch vụ để được thu tiền về; chuẩn bị cho quá trình kinh doanh tiếp tục của
Tổng công ty.
Khi xác định lại cơ cấu sản xuất kinh doanh cần quyết định rõ ràng
những công ty thành viên sẽ được cổ phần hoá, liên doanh với các nhà đầu tư
nước ngoài và trong nước. Tổng công ty nắm giữ những công ty thành viên
chủ lực như công ty mẹ, công ty tài chính, xuất nhập khẩu v.v...
20
b. Tổ chức lại cơ cấu quản lý có hiệu lực, chuyên trác. Đối với các Tổng
công ty có công ty thành viên là công ty Nhà nước. Công ty được cổ phần
hoá, công ty tham gia vào các liên doanh cần thành lập Hội đồng quản trị.
HĐQT thực hiện chức năng quản lý, bảo toàn và phát triển vốn trong đa hình
thức sở hữu của Tổng công ty (sở hữu vốn Nhà nước 100%, sở hữu vốn Nhà
nước tham gia vào liên doanh, vào công ty cổ phần). Mô hình tổ chức HĐQT
còn cần thiết đối với các Tổng công ty Nhà nước chuyên ngành, có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vai trò quan trọng trong ngành, tỉnh
toàn thành phố. HĐQT lựa chọn Tổng giám đốc điều hành, các đại diện tham
gia HĐQT trong các liên doanh, công ty cổ phần. Để giúp HĐQT quản lý, cần
xây dựng cơ quan văn phòng thường trực đủ mạnh bao gồm một số chuyên
gia đầu ngành về lĩnh vực sản xuất - kinh doanh - kỹ thuật - tài chính - tiền tệ
- đầu tư.
Để giúp TGĐ điều hành thực hiện nghị quyết HĐQT cần thành lập Bộ
máy điều hành của Tổng công ty hoạt động có hiệu lực, thành lập các cơ quan
chức năng, tham mưu, phù hợp chuyên nhưng tinh như viện nghiên cứu và
ứng dụng; trung tâm đào tạo, bồi dưỡng, các cơ quan quản lý và phục vụ theo
lĩnh vực và theo quá trình kinh doanh sản xuất, kinh doanh - kỹ thuật - tài
chính - tiền tệ - đâu tư - tiêu thụ v.v... cơ cấu và quy mô của cơ quan điều
hành phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu phát triển của Tổng công ty.
3. Xác định đúng đắn định hướng đầu tư phát triển và đổi mới công
nghệ chủ lực của Tổng công ty.
Căn cứ vào định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chiến lược kinh
doanh và phát triển Tổng công ty, từng công ty thành viên, cần xây dựng
chiến lược, kế hoạch dài hạn đúng đắn về đầu tư phát triển và đổi mới công
nghệ.
Các Tổng công ty phải quản lý những hoạt động chủ yếu về sản xuất
kinh doanh của Tổng công ty và quản lý các công ty thành viên: vì vậy các
Tổng công ty phải xác định đúng phương hướng phát triển và phương hướng
đầu tư đổi mới công nghệ cho phù hợp.
21
Nhu cầu phát triển của toàn Bộ Tổng công ty đòi hỏi trước hết phải đầu
tư cho sản xuất - kinh doanh và quản lý, đặc biệt là công nghệ, phương tiện,
phương pháp sản xuất - kinh doanh và quản lý, đầu tư cho đào tạo và bồi
dưỡng cho công nhân lành nghề, cán Bộ công nghệ đầu ngành, cán Bộ quản
lý chủ chốt các cấp trong Tổng công ty, đầu tư cho quá trình phát triển thị
trường tiêu thụ và xuất nhập khẩu. Trong phương hướng đầu tư được xác định
cần luôn luôn đảm bảo tính đồng Bộ giữa các mặt quan trọng sau đây:
- Gắn chặt việc sản xuất hàng hoá, dịch vụ của Tổng công ty với phát
triển thị trường tiêu thụ trong nước và nước ngoài. Một số hàng hoá và dịch
vụ cung lớn hơn cầu, không tiêu thụ được, gây ứ đọng vốn như hiện nay là
một minh chứng của mâu thuẫn giữa thị trường và sản xuất chưa được một số
Tổng công ty giải quyết tốt.
- Gắn chặt việc phát triển quy mô sản xuất kinh doanh và nâng cao chất
lượng hàng hoá của Tổng công ty với sự phát triển các nguồn vốn sản xuất
kinh doanh hiện có. Thực trạng về nguồn vốn hiện nay của Tổng công ty cho
thấy nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển rất lớn, nhưng mức độ đáp ứng còn
thấp, thiếu vốn là tình trạng phổ biến và nghiêm trọng. Đây là mâu thuẫn mà
Tổng công ty và Nhà nước chưa giải quyết được .
- Gắn chặt đổi mới công nghệ, phương tiện và phương pháp sản xuất
kinh doanh quản lý tiên tiến hiện đại với đội ngũ lao động nhất là lao động
lành nghề vận hành và cán Bộ quản lý công nghệ mới. Nhưng có thể nói tình
trạng nhập công nghệ lạc hậu vẫn còn tiếp diễn, đội ngũ lao động vận hành và
quản lý công nghệ mới. Hiện đại chưa đáp ứng được, nên hiệu quả sử dụng
thấp. Trong việc xây dựng và thực hiện phương hướng đầu tư đổi mới công
nghệ các Tổng công ty cần quản lý những công nghệ chủ lực và xây dựng
mới, đồng thời hướng dẫn và kiểm tra việc đổi mới công nghệ của các công ty
thành viên, đặc biệt là đầu tư chiều sâu.
4. Tổng công ty thực hiện tốt chức năng quản lý thống nhất các hoạt
động xuất nhập khẩu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ:
Muốn vậy các Tổng công ty phải tiến hành các hoạt động chủ yếu sau:
22
a. Tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của Tổng
công ty, xây dựng chiến lược và kế hoạch XNK, đặc biệt là xác định quy mô
mặt hàng, chất lượng và giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu. Có như vậy mới có
cơ sở bảo đảm sự thống nhất trong quản lý xuất nhập khẩu của Tổng công ty.
b. Tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch xuất nhập khẩu của Tổng
công ty. Muốn vậy cần tổ chức Bộ máy cần thiết, thích hợp như công ty xuất
nhập hoặc phòng quản lý xuất nhập khẩu và quy định trách nhiệm cụ thể của
Bộ máy các hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Phân công tác cho công
ty thành viên tham gia thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty.
Quy định hợp lý lợi ích về hoạt động xuất nhập khẩu giữa Tổng công ty và
các công ty thành viên.
c. Chỉ huy thống nhất phối hợp chặt chẽ các hoạt động xuất nhập khẩu
trong Tổng công ty, bảo đảm cho hoạt động thuận lợi, mang lại hiệu quả cao.
Tiến hành kiểm tra và điều chỉnh kịp thời những bất hợp lý trong quá trình
thực hiện các hoạt động xuất nhập khâủ.
d. Có biện pháp khuyến khích đúng mức để thúc đẩy sản xuất các mặt
hàng xuất khẩu với quy mô lớn, đạt kim ngạch xuất khẩu cao, lợi nhuận tăng
của các công ty thành viên và Tổng công ty. Cần khuyến khích cả về tinh
thần và vật chất đúng mức căn cứ vào kết quả mà người lao động và các tổ
chức trong Tổng công ty đã thực hiện và đóng góp, đặc biệt là khuyến khích
vật chất.
5. Quản lý chặt chẽ thống nhất có hiệu quả hoạt động tài chính của
Tổng công ty.
Muốn vậy cần giải quyết các vấn đề sau:
a. Chủ động có biện pháp huy động nhiều nguồn vốn cho phát triển: vốn
Nhà nước, vốn nước ngoài, vốn vay trong nước và nước ngoài, vốn vay cán
Bộ và nhân dân. Điều hoà và phân phối nguồn và tài sản cho các công ty
thành viên thực hiện kế hoạch phát triển kinh doanh, bảo đảm phát triển đồng
Bộ trong Tổng công ty, hỗ trợ giúp đỡ các công ty thành viên có khó khăn.
23
b. Thực hiện các biện pháp sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả các
nguồn vốn để bảo toàn và phát triển vốn. Tăng nhanh vòng quay vốn, tăng lợi
nhuận trên một đồng vốn là cơ sở vững chắc để nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn vốn, bảo toàn và phát triển vốn. Muốn vậy, phải quản lý các định
mức, tiêu chuẩn về sử dụng vốn và tài sản; tiết kiệm và chống lãng phí, tham
ô tài sản, tiền vốn trong từng khâu, từng lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh
doanh và quản lý.
c. Từng bước thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh thống nhất của toàn
Bộ Tổng công ty. Tập đoàn kinh tế được xác định là một tổ chức kinh doanh
thì nó phải là một tổ chức hạch toán kinh tế độc lập còn các công ty thành
viên hạch toán phụ thuộc. Nhưng trong quá trình kinh doanh, các Tổng công
ty cần có cơ chế uỷ quyền cho các công ty thành viên được thực hiện một số
quyền hạn nhất định, về tài chính. Có như vậy mới vừa bảo đảm tính tập trung
thống nhất, vừa phát huy tính chủ động trong kinh doanh của các công ty
thành viên.
6. Phối hợp đồng bộ và nâng cao hiệu lực hoạt động của hội đồng
quản trị, cơ quan Tổng giám đốc và ban kiểm soát.
Hội đồng quản trị của Tổng công ty, đứng đầu là chủ tịch Hội đồng quản
trị là cơ quan quản trị, là đại diện chủ sở hữu trực tiếp, chịu trách nhiệm trước
Nhà nước về bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước. HĐQT xây dựng cơ
quan Tổng giám đốc, chọn cử Tổng giám đốc Tổng công ty để cơ quan cấp
trên bổ nhiệm. Tổng giám đốc điều hành toàn Bộ hoạt động sản xuất kinh
doanh của Tổng giám đốc công ty theo nghị quyết của HĐQT.
Ban kiểm soát là cơ quan độc lập chịu trách nhiệm kiểm soát toàn Bộ
hoạt động của Tổng công ty theo nghị quyết của HĐQT và chính sách của
Nhà nước. Như vậy, ba cơ quan này có chức năng rõ ràng, nhưng có quan hệ
chặt chẽ với nhau cùng thực hiện một mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của Tổng công ty. Nhưng các cơ quan của Tổng công ty:
HĐQT, cơ quan Tổng giám đốc, ban kiểm soát có quan hệ chặt chẽ với nhau,
thúc đẩy nhau phát triển. HĐQT đứng đầu là chủ tịch HĐQT phải tạo môi
24
trường thuận lợi cho cơ quan Tổng giám đốc điều hành, đứng đầu là Tổng
giám đốc. Cơ quan Tổng giám đốc, đứng đầu là Tổng giám đốc phải tạo điều
kiện thuận lợi cho ban kiểm soát hoạt động có hiệu lực, ban kiểm soát sớm
phát hiện giúp đỡ HĐQT, cơ quan Tổng giám đốc Tổng công ty hoạt động
theo đúng pháp luật, theo cơ chế chính sách của Nhà nước. Các cơ quan này
đều phải đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng cùng cấp như Đảng uỷ, ban
cán sự Đảng của Tổng công ty. HĐQT cơ quan điều hành cần chủ động tạo
điều kiện phối hợp chặt chẽ với tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh cùng cấp để thực hiện mục tiêu kinh doanh và phát triển của
Tổng công ty.
7. Phát triển và quản lý chặt chẽ các nguồn lực của Nhà nước trong
các doanh nghiệp liên doanh và công ty cổ phần.
Chuyển dịch cơ cấu sở hữu của DNNN, của các Tổng công ty theo
hướng chuyển một Bộ phận DNNN thành công ty cổ phần góp vốn vào liên
doanh với nước ngoài tại Việt Nam và các thành phần kinh tế khác là đúng
đắn và rất cần thiết. Nhưng thực tế cho thấy số vốn Nhà nước trong công ty cổ
phần và liên doanh không phát triển được, thậm chí tỉ trọng vốn giảm và mất
vốn. Nguyên nhân có thể bao gồm nhiều mặt, nhưng trong đó có việc quản lý
nguồn vốn và nguồn nhân lực trong công ty cổ phần và liên doanh chưa chặt
chẽ, thậm chí còn buông lỏng. Nhà nước chưa quy định cho cơ quan nào quản
lý đầy đủ nguồn vốn này. Vì vậy, cần thực hiện các biện pháp sau:
a. Nâng cao trách nhiệm trong việc phát triển nguồn lực của nguồn nhân
lực đặc biệt là đội ngũ cán Bộ chủ chốt đại diện cho Nhà nước hoạt động
trong công ty cổ phần và liên doanh để có các hình thức khen thưởng về tinh
thần và vật chất. Cần quy định rõ trách nhiệm vật chất và tinh thần của họ đối
với nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn, phát triển nguồn lực của Nhà nước.
b. Giao cho các Tổng công ty và cơ quan quản lý vốn tài sản của Nhà
nước quản lý chặt chẽ nguồn vốn và tài sản, nguồn nhân lực đặc biệt là người
đại diện của Nhà nước trong công ty cổ phần và liên doanh với các thành
phần kinh tế khác. Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra, kiểm soát về kinh tê - tài
25
chính của các công ty cổ phần và liên doanh với các thành phần kinh tế khác,
hạn chế, khắc phục tình trạng trong liên doanh với nước ngoài có công ty mẹ
đã chuyển dịch giá, nâng giá đầu vào để làm cho liên doanh bị lỗ “giả” để nhà
đầu tư lãi “thật”, phía Việt Nam lỗ “thật”.
c. Xây dựng đúng đắn quy hoạch ngành, kết hợp với lãnh thổ để tạo điều
kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong nước liên doanh với các
Tổng công ty Nhà nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, trong nước
liên doanh với các Tổng công ty Nhà nước, yêu cầu các nhà đầu tư nước
ngoài thực hiện nghiêm túc các cam kết về xuất khẩu hàng hoá. Cần thực hiện
các biện pháp cần thiết khi bên nước ngoài không thực hiện cam kết trong
giấy phép. Có như vậy mới đảm bảo thực hiện trật tự kinh tế trong liên doanh
và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra gây tổn thất cho Nhà nước.
8. Bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các Bộ, Tỉnh,
Thành phố trong việc quản lý Nhà nước đối với các Tổng công ty.
Sự phối hợp chặt chẽ và đồng Bộ giữa các Bộ, tỉnh, thành phố trong việc
quản lý Nhà nước đối với các Tổng công ty là đòi hỏi rất cấp bách và quan
trọng, nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi, thông thoáng cho các Tổng công
ty phát triển có hiệu quả, hạn chế và khắc phục tình trạng gây phiền hà, ách
tắc.
Muốn vậy cần giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
a. Đưa các Tổng công ty 90,91 về cho các Bộ, tỉnh, thành phố quản lý
trực tiếp. Bộ chuyên ngành, tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm trước chính phủ
về quản lý Nhà nước đối với các Tổng công ty, đặc biệt là xây dựng định
hướng chiến lược kế hoạch phát triển, đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo cán
Bộ. Các Bộ quản lý Nhà nước theo chức năng của mình, cần quy định quy chế
quản lý Nhà nước về lĩnh vực mà Bộ phụ trách đối với Tổng công ty biết
thực hiện. Có những vấn đề liên ngành thì chính phủ uỷ quyền cho một Bộ
tổng hợp chủ trì để phối hợp các Bộ liên quan để giải quyết như là các Bộ kế
hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, văn phòng Chính phủ, Bộ Thương mại, Ngân
hàng Nhà nước và Tổng cục hải quan...
26
b. Cán Bộ quản lý Nhà nước cần quan tâm đến các hoạt động sau đây.
- Xây dựng đúng và sát thực tiễn các định hướng phát triển chính sách vĩ
mô các tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý Nhà nước đối với Tổng công ty.
Có như vậy mới thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp (Tổng
công ty) bằng các công cụ, chính sách của chính phủ, của Nhà nước.
- Hướng dẫn cụ thể, đúng đắn cho các doanh nghiệp (Tổng công ty)
trong quá trình thực hiện nhằm phát huy được sức sống và sức chiến đấu của
chính sách tiêu chuẩn, định mức, chế độ trong thực tiễn, chính sách, chế độ là
quy định cụ thể hành lang pháp lý theo nghị quyết của Đảng của Quốc hội và
pháp luật.
- Thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm tra và thanh tra, việc thanh tra kinh
tế tài chính đối với Tổng công ty hoặc doanh nghiệp thành viên không quá
một lần trong năm, thanh tra phải có kết luận đúng, rõ ràng. Trường hợp đã
phát hiện có đủ căn cứ là vi phạm pháp luật thì các cơ quan có thẩm quyền
quyết định thanh tra đột xuất theo quyết định của chính phủ.
27
KẾT LUẬN
Để tiến tới thành lập các tập đoàn kinh doanh mạnh, ổn định, vững chắc,
trong năm 1999 - 2000, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương đã đặt
mục tiêu là tập trung nghiên cứu sửa đổi luật doanh nghiệp, luật phá sản, luật
khuyến khích đầu tư trong nước và các Nghị định 39/CP và Điều lệ mẫu tổ
chức hoạt động của Tổng công ty Nhà nước, 50/CP về thành lập tổ chức lại,
giải thể các DNNN 59/CP về ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán
kinh doanh đối với DNNN 56/CP về DNNN hoạt động công ích; 92/CP về
việc sửa đổi bổ sung một số điều của Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban
hành kèm theo Nghị định 42/CP, 93/CP về việc sửa đổi bổ sung một số điều
của quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 43/CP.
Những biện pháp này sẽ góp phần đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ
chức hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước.
28
MỤC LỤC
Trang
Đặt vấn đề 1
I/ Sự cần thiết phải xây dựng các tổng công ty thực sự trở thành
các tập đoàn kinh tế lớn mạnh
2
1. Các Tổng công ty Nhà nước có quy mô lớn (Tổng công ty 91,
90) là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
2
2. Thành lập các Tổng công ty Nhà nước là một biện pháp để sắp
xếp lại các DNNN
3
3. Thí điểm thành lập các Tổng công ty Nhà nước theo hướng hình
thành và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh là một chủ trương
đúng đắn của Nhà nước ta
3
II/ Tổng kết lại mô hình Tổng công ty Nhà nước 4
1. Mô hình tổ chức Tổng công ty Nhà nước 4
2. Các kết quả bước đầu 5
3. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động sản xuất của Tổng công ty 7
III/ Phương hướng và giải pháp cần làm để củng cố và phát
triển các Tổng công ty
11
1. Chấn chỉnh bộ mấy tổ chức của HĐQT và xử lý lại mối quan hệ
giữa chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc
11
2. Xử lý mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên
và giữa các đơn vị thành viên với nhau
13
3. Hoàn chỉnh đồng bộ cơ sở pháp lý quy định về quản lý Nhà
nước, thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN nói
chung và các Tổng công ty 90, 91 nói riêng.
13
29
4. Cần tiếp tục sắp xếp lại cơ cấu tổ chức các Tổng công ty và cơ
cấu các đơn vị thành viên
14
5. Mở rộng các kênh huy động vốn 15
IV/ Phương hướng, biện pháp xây dựng các Tổng công ty thành
các tập đoàn kinh tế lớn mạnh
15
1. Xây dựng đúng đắn chiến lược kinh doanh và phát triển của
Tổng công ty và công ty thành viên
17
2. Tổ chức lại cơ cấu sản xuất kinh doanh và cơ cấu quản lý phù
hợp với chiến lược kinh doanh và phát triển Tổng công ty đã xác
định
18
3. Xác định đúng đắn định hướng đầu tư phát triển và đổi mới
công nghệ chủ lực của Tổng công ty
19
4. Tổng công ty thực hiện tốt chức năng quản lý thống nhất các
hoạt động xuất nhập khẩu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ
20
5. Quản lý chặt chẽ thống nhất có hiệu quả hoạt động tài chính của
Tổng công ty
21
6. Phối hợp đồng bộ và nâng cao hiệu lực hoạt động của hội đồng
quản trị, cơ quan Tổng giám đốc và ban kiểm soát
22
7. Phát triển và quản lý chặt chẽ các nguồn lực của Nhà nước trong
các doanh nghiệp liên doanh và công ty cổ phần
23
8. Bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các Bộ, Tỉnh,
Thành phố trong việc quản lý Nhà nước đối với các Tổng công ty
24
Kết luận 26
30
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_hinh_tong_cty_nn_3302.pdf