Tranh truyện thiếu nhi Việt Nam đã có thời kì phát triển khá lâu, từ
trước cách mạng tháng 8 cho đến nay đã có cả một kho tàng đồ sộ của nhiều
nhà xuất bản và họa sĩ. Từ những tiền đề minh họa mang nội dung lịch sử,
châm biếm tranh đến nay truyện thiếu nhi đã có nền tảng vững chắc ở tạo
hình và nội dung.
Minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam, họa sĩ biểu đạt đề tài nội
dung bằng ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình, bên cạnh phản ánh chủ đề, tranh
truyện phản ánh những tư tưởng thẩm mỹ của họa sĩ trong đó.
Sự chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt
Nam là rất đa dạng, các họa sĩ ở các giai đoạn từ 1995 đến 2015, khai thác
và biểu đạt các hình thức tạo hình khác nhau ở hình tượng nhân vật, không
gian, màu sắc. Đó là sự đổi mới không ngừng tạo hình trong mối thống
nhất giữa quan niệm thời đại và ý tưởng nghệ thuật
94 trang |
Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 2542 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự chuyển biến về tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi ở Việt Nam từ 1995 đến 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đôi chỗ lắng xuống mà khỏe khoắn, tươi
vui. Trong khuôn hình, ta đều nhận thấy đâu là chính – phụ nhờ vào điểm
34
nhấn màu. Những năm 1995, chất liệu màu của các họa sĩ vẫn thường vẽ là
màu nước và màu sáp. Vì thế, màu sắc trong tranh truyện minh họa thiếu
nhi còn có thể tả chất với độ loang dung dị, mờ ảo của màu nướchoặc khô
sáp, khỏe khoắn của màu sáp. Về sau, sự hỗ trợ đắc lực về máy móc và in
ấn đã tạo ra những biến chuyển trong bảng màu minh họa tranh truyện
thiếu nhi. Màu sắc được thể hiện đa sắc, rực rỡ mà khi vẽ tay hoặc dùng
màu tự nhiên không có được. Cùng với kỹ thuật tô màu bằng tay và bằng
máy cũng tạo nên các hiệu ứng màu khác biệt ở minh họa tranh truyện.
Với thể loại đơn sắc và nhị nguyên, những năm 1995 được coi là
đỉnh cao rực rỡ của tranh truyện thiếu nhị. Các tác phẩm của họa sĩ như Tạ
Thúc Bình, Mai Long, Ngô Mạnh Lân, Tạ Huy Long phần lớn in trên
giấy chất liệu xấu và dùng màu nước hoặc màu sáp để tô màu nhưng vẫn
thu hút được rất đông độc giả. Trong tác phẩm “Hai ông tiến sĩ” của Ngô
Mạnh Lân sáng tác năm 1998 [H9], ở đây, tác giả sử dụng toàn bộ cuốn
sách là gam màu nâu vàng chủ yếu và kết hợp chúng bổ túc với các màu
xám, xanh coban để làm nổi bật nhân vật. Màu sắc trong tranh chỉ sử dụng
những màu đơn sắc, theo từng mảng màu đặt cạnh nhau và tạo nên không
gian viễn cận. Về sau, cùng với sự kết hợp của công nghệ máy móc và in
ấn, màu sắc trong tranh sử dụng nhiều màu mới, có độ chuyển sắc để tạo
khung cảnh mang tính thời gian và không gian. Trong tác phẩm “Dũng sĩ
Đam Dông” của Tạ Huy Long [H10] đã cho thấy điều này. Tuy sử dụng
gam màu nóng xuyên suốt tác phẩm này, nhưng với việc thể hiện nhiều sắc
độ trên cùng một màu đã tạo nên được trạng thái sự giận dữ của ngọn lửa,
dòng chảy của nước, đặc biệt, yếu tố gợi tả không gian và thời gian qua tín
hiệu của độ chuyển màu đã tạo nên chiều sâu của không gian. Càng về sau,
cùng với sự thay đổi lứa họa sĩ mới và thay đổi về in ấn minh họa tranh
truyện đã sử dụng nhiều màu hơn, đa sắc hơn. Mỗi họa sĩ thể hiện với một
phong cách riêng. Các họa sĩ như Lê Minh Hải, Lý Thu Hà, Phạm Huy
35
Thông đã sử dụng phối hợp nhiều màu trên một nhân vật, tạo hình ảnh bắt
mắt hơn. Tuy nhiên ở tác phẩm “Cây tre trăm đốt” của Phạm Ngọc Tuấn
năm 2015 [H11] , màu sắc được sử dụng theo các mảng lớn, tương phản
đậm nhạt rõ rệt. Đôi lúc có sự xuất hiện những mảng màu chuyển sắc nhẹ
nhàng ở không gian xung quanh nhân vật.
2.3. Sự chuyển biến về bố cục và không gian trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995 – 2015
2.3.1. Sự chuyển biến về bố cục
Trong minh họa tranh truyện thiếu nhi, ngoài yếu tố là lời văn, lời
kể thì điều quan trọng không kém là bố cục của mỗi trang truyện. Bố cục
ảnh hưởng tới mạnh kể, diễn biến câu chuyện. Đôi khi, chỉ cần nhìn hình
ảnh mà ta có thể đoán được nội dung câu chuyện.
Bố cục là một thuật ngữ được xem như là một biểu hiện tương quan
giữa các yếu tố hình thức với nhau để tạo nên một vẻ đẹp hài hòa, nhịp
điệu cho tác phẩm. Khi xét đến bố cục của minh họa tranh truyện trước
tiên ta cần xét tới cốt truyện. Trong minh họa tranh truyện thiếu nhi cốt
truyện thường theo quy trình: thắt nút – phát triển - cao trào và mở nút.
Sự tương đồng của truyện tranh so với những hình thức tự sự khác đã cho
thấy tinh văn học sâu sắc của thể loại truyện tranh. Hơn hết, do quy luật
tiếp nhân trực quan chi phối đa phần người tiếp nhận là độc giả nhỏ tuổi,
nên truyện tranh bắt buộc phải đề cao tính sự kiện, tôn vinh tính cao trào
và chú ý đến mở nút thật ấn tượng.
Để giải quyết vấn đề này, bố cục trong minh họa tranh truyện vừa
phải có tính bao quát vừa tạo nên tình tiết phù hợp với nội dung. Những
năm 1995, các họa sĩ Nguyễn Bích, Mai Long, Ngô Mạnh Lân được coi là
những họa sĩ gạo cội vẽ minh họa tranh truyện với số lượng tác phẩm đồ sộ
như Thánh Gióng, Thạch SanhBố cục trong tranh thường xây dựng bằng
những mảng lớn nhưng lại sâu sắc, mượt mà. Lúc này, trong một trang hình
36
chỉ thuần nhất mô tả một nội dung có chủ đề và có bố cục một trang minh
họa sẽ tương tự một bức tranh hoàn chỉnh. Có các mảng chính phụ, không
gian theo xa gần, phần nội dung chữ thường được để phía dưới, bên trên
hoặc bên cạnh tranh. Chỉ cần nhìn tranh là có thể đoán được nội dung câu
chuyện mà không cần chữ. Sau này, bố cục trong minh họa tranh truyện
ngày càng linh hoạt hơn, một trang truyện sẽ không bó hẹp trong một
khung hình nhất định, bố cục đa dạng từ thể thức đồng hiện, hoặc hình vẽ
chạy quanh chữ viếtTuy vậy khi bỏ chữ đi thì hình vẽ trở lên khó hiểu
hoặc vô nghĩa.
Cụ thể trong loạt các tác phẩm từ năm 1995 như “Ai mua hành tôi”
[H12], “Cây Khế” [H13] của Nguyễn Bích, “Âu Cơ và Lạc Long Quân”
của Mai Long [H14], “Cây tre trăm đốt” của Ngô Mạnh Lân [H15]
Trong đó, bố cục mỗi trang hình liên hoàn tạo thành một nội dung nhất
quán cho câu chuyện. Không gian được vẽ theo luật xa gần được thể hiện
bằng những đường nét có hướng, độ đậm nhạt của màu sắc. Bố cục này
tiêu biểu và xuyên suốt trong các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi
từ 1995 nay.
Những năm về sau, bố cục trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
được thay đổi đa dạng, vừa kế thừa bố cục truyền thống, vừa tìm ra bố cục
lạ, cắt cúp táo bạo. Tranh minh họa đã không còn đững độc lập với phần
chữ mà được kết hợp hài hòa, bổ trợ lẫn nhau để tạo nên một tổng thể hoàn
chỉnh trong mỗi trang truyện. Các ấn phẩm về sau này cũng sử dụng rất đa
dạng và linh hoạt các loại bố cục trong một truyện chứ không thường
xuyên sử dụng lối vẽ tranh liên hoàn như trước.
Bên cạnh đó, cùng với sự ảnh hưởng của truyện tranh nước ngoài
một số tác phẩm tranh truyện hiện đại đã cho thấy sự chuyển biến trong
cách tư duy và sắp xếp bố cục mới. Trong các minh họa “Chàng học trò có
chí” [H17]của Vũ Duy Nghĩa, hình ảnh trong mỗi trang được biểu hiện đa
37
dạng về không gian và bố cục. Nhân vật có lúc được đặt trong không gian
thật, có lúc được đặt trong không gian ước lệ. Trong “Đeo nhạc cho mèo”
[H24] của Bút chì, họa sĩ mô tả hai phân cảnh cùng lúc theo kiểu không
gian cắt lớp, đồng hiện. Nhóm nhân vật chuột xuất hiện cùng lúc trên mặt
đất và trong lòng đất với hai chiều hướng đối lập, đối xứng nhau qua một
hộp thoại chữ để tạo nên hiệu quả truyền tải hai việc liên tiếp xảy ra. Hay ở
một trang khác [H16], những hình đầu chuột với các hình dáng, động thái
nhìn từ dưới nhìn lên được xếp tròn chạy xung quanh đoạn văn để gợi nên
không gian tề tựu, họp hành. Lối sử dụng bố cục này mang hơi hướng ảnh
hưởng của truyện tranh Nhật Bản.
Bên cạnh đó, ngoài sự ảnh hưởng của nghệ thuật Manga thì minh họa
tranh truyện thiếu nhi Việt Nam những năm gần đây cũng cho thấy sự ảnh
hưởng của nhiếp ảnh. Trong đó, tỉ lệ nhân vật và khung tranh thường cân
xứng, không gian được trình bày theo dụng ý nghệ thuật, góc nhìn đa điểm
hơn. Trong tác phẩm “Sự tích dưa hấu” của Thái Mỹ Phương [H18] cũng
cho thấy sự khai thác góc nhìn bố cục mới. Ngoài những bố cục thông
thường, tác giả còn khai thác thêm bố cục được nhìn từ trên cao xuống.
Cảnh vật được nhỏ bé, tạo nên một không gian mênh mông cho khung
cảnh. Với lối bố cục này, Thái Mỹ Phương đã truyền tải thành công đến
người đọc khung cảnh biển rộng lớn trong câu chuyện. Điểm nhìn không
gian trong tranh truyện cho chứa đầy hàm ý và xúc cảm.
Qua đó, có thể thấy, sự biến chuyển trong cách sử dụng bố cục từ
1995 đến 2015 qua các tác phẩm một cách rõ rệt. Bố cục được khai thác đa
góc nhìn qua các giai đoạn chuyển biến từ bố cục cổ điển đến bố cục cắt
cúp, mang hơi hướng hiện đại.
2.3.2. Sự chuyển biến về không gian
Nói đến không gian hội họa, người ta không chỉ chú ý đến cảm giác
ba chiều trên mặt phẳng mà con quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả diễn đạt
38
không gian đó như thế nào về chiều sâu, độ nổi, đặc điểm của mỗi sự vật
như hình, chất, màu sắc Hiệu quả không gian vừa là điểm xuất phát vừa
là đích đến trong việc sáng tác hội họa.
Không gian được mô tả trong truyện tranh thường được quy định bởi
tính chất của không gian xa gần, trời mây, cây cỏ, hoa lá trong thực tế mà
không phải chỉ bằng sáng tối đậm nhạt, màu sắc để mô tả, tái hiện không
gian cụ thể. Tuy nhiên, không gian trong minh hoa không chỉ thể hiện
trường nhìn quang học thuần túy của con người, mà nó còn thể hiện cái
nhìn về tâm lý và thẩm mỹ. Vì vậy, không gian trong minh họa tranh
truyện được biến chuyển liên tục để phù hợp với thẩm mỹ và lý tưởng của
tác giả.
Xét về mặt hình thức của minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam
giai đoạn 1995 – 2015, quy luật phối cảnh viễn cận rất được chú trọng sử
dụng trong tác phẩm như họa sĩ Văn Minh, Mai Long, Tạ Huy Long.
Chính nhờ cách phối cảnh này mà tranh truyện đã có sự khác biệt đối
với tranh truyện hiện đại. Phối cảnh sáng tối cũng hết sức được chú trọng,
có thể dùng các mảng đậm nhạt, sáng tối hoặc dùng màu sắc để biểu hiện
nên tính chất không gian.
Giai đoạn sau 1995 không gian trong tranh thường sử dụng là không
gian cảm giác gợi cho người xem sự liên tưởng về một thế giới hiện thực,
với chiều sâu, sự hiện hiện của các nhân vật theo thứ tự trước sau. Càng về
sau, bên cạnh việc vẫn tiếp tục sử dụng không gian cảm giác thì ở một số
tác phẩm minh họa tranh truyện không gian không còn theo quy luật của
không gian cảm giác mà thay vào đó là không gian ý niệm. Nhân vật trung
tâm được phóng to, nền không gian không còn tả thực nữa mà bị lược bỏ.
Không gian được tạo nên từ các mảng lớn. Đến năm 2010, không gian
trong minh họa tranh truyện thiếu nhi lại sử dụng không gian phối hợp
mang tổng hòa đặc điểm của hai loại không gian trên. Từ sự đa dạng trong
39
lối biểu hiện không gian qua các giai đoạn đã tạo nên đặc điểm về biến
chuyển không gian trong minh họa tranh truyện thiếu nhi.
Trong các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi sau năm 1995,
để gợi cho người xem sự liên tưởng về một thế giới hiện thực, không gian
cảm giác bao gồm một điểm nhìn và một điểm tụ hay một đường chân trời
để tạo cảm giác về không gian thực. Hoặc dùng phương hướng của đường
nét để biểu hiện chiều sâu không gian theo kiểu thấu thị tuyến tính, đồng
thời cũng có thể dùng màu sắc đậm nhạt sáng tối để phân biệt thấu thị theo
quy luật xa nhạt, gần đậm. Hình thức không gian này được sử dụng nhiều
như trong tác phẩm: Âu Cơ và Lạc Long Quân của Mai Long, Chàng Dăm
Bri của Phạm Ngọc Tuấn,
Bức minh họa truyện: “Con cóc là cậu ông trời” của họa sĩ Tạ Thúc
Bình [H19] thể hiện cảnh sinh hoạt của những con ếch, con cóc trong hồ.
Các nhân vật ếch cóc được bố cục thành một hình tam giác hướng đỉnh tam
giác vào phía trên nhằm vừa nhấn mạnh hình tượng con cóc vừa để tạo nên
chiều sâu không gian. Bức tranh sử dụng đường thẳng để phân chia hồ
nước và chân trời phía xa tạo nên tách bạch cho không gian trong tranh.
Bên cạnh đó, một kiểu không gian được các họa sĩ gạo cội sử dụng
nhiều từ 1990 đến 1995 là không gian được gợi thông qua chất liệu giấy
điệp. Tranh lấy hình để gợi ý, con người và cảnh vật được cách điệu, vẽ
màu phẳng, bố cục cô đọng hình vẽ theo tỉ lệ thuận mắt kết hợp với những
nét vay bổng để tạo ra hiệu quả độc đáo riêng. Tiêu biểu là tác phẩm “Hai
ông tiến sĩ” của Ngô Mạnh Lân [H20]. Trong đó, mảng phẳng lớn màu
được sử dụng, xen kẽ là các mảng mang tính chi tiết. Mà sắc chủ yếu là
màu xám, đỏ, xanh, hồng, những màu đơn sắc giống với bảng màu cảu
tranh dân gian.
Về sau, các họa sĩ lược bỏ đi việc miêu tả không gian theo chiều sâu
mà tập trung mô tả nhân vật chính và sử dụng không gian theo ý niệm.
40
Không gian ý niệm thường mang yếu tố ám thị và chỉ tiếp nhận bằng suy
tưởng hay nường tượng. Trong không gian thường để phẳng, nhân vật
chính sẽ được thể hiện to, rõ ràng nhất. Hình tượng trong tranh đã được
tinh lọc thông qua phản ánh chủ quan của người nghệ sĩ. Không gian ý
niệm được biểu hiện trong các tác phẩm như: “Cây khế” của Đinh Thanh
Liêm [H21] Đặc biệt, trong minh họa tranh truyện “Thánh Gióng” của
Nguyễn Quang Vinh [H22], hình thể được cách điệu toàn bộ bằng những
hình khối hình học, không gian để phẳng. Tuy vậy, tác phẩm vẫn tạo nên
chiều sâu về ý thức không gian.
Trong những năm gần đây, xu hướng sử dụng không gian kết hợp
để tạo nên nhiều góc độ, ví dụ trong truyện “Ai mua hành tôi” của Tạ Lan
Hạnh [H23] đã thể hiện đã diễn tả những sự việc xảy ra đồng thời bằng
không gian phối hợp. Trong tranh, họa sĩ thể hiện hai lớp nhân vật, một
lớp phía trên và một lớp phía dưới. Khác với không gian ý niệm, ở đây
các nhân vật trên mặt tranh đều có độ lớn bằng nhau do họa sĩ sử dụng
cùng lúc nhiều điểm nhìn khác nhau. Nếu như trong không gian cảm giác,
khi diễn tả một khung cảnh như vậy thì điểm tụ đường chân trời sẽ hiển
thị rõ rệt, nhưng trong không gian phối hợp, họ sẽ sử dụng nhiều điểm
nhìn khác nhau, tạo nên các nhóm nhân vật vẫn giữ được hình dáng như
nhau khi ở xa gần. Điều này tạo nên các góc nhìn đồng thời mà không bị
tách rời trong cùng một không gian.
Ngoài ra, không gian kết hợp còn được biểu hiện dưới phương thức
tổ chức không gian thể hiện cảnh vật bị che khuất bởi vật thể mà bình
thường mắt không nhìn thấy. Loại không gian này thường miêu tả một
không gian bị cắt lớp tạo nên sự kết hợp giữa không gian hiện thực và
không gian ảo. Như tác phẩm “Đeo nhạc cho mèo” [H24] của Bút Chì biểu
hiện những hoạt động bên trong lòng đất của đàn chuột. Ở đây, họa sĩ đã
thể hiện sinh động được bối cảnh đường hầm của lũ chuột với một đường
41
ống nằm ngang. Thủ pháp tổ chức không gian này cho phép họa sĩ đồng
thời có thể mô tả được hai trạng thái đối ngược nhau.
Bên cạnh đó, tranh truyện ngày nay đang phát triển theo hướng khai
thác và nâng cao không gian nội tâm nhân vật mà bỏ qua không gian thực
tại của tác phẩm. Trong rất nhiều truyện tranh, bao bọc xung quanh nhân
vật chỉ là những biểu tượng có tính chất ước lệ về không gian nội tâm. Như
trong tác phẩm “Bánh chưng bánh dày” của Nguyễn Quốc Hiệu [H25].
Trong đó không gian nội tâm đặc đặc tả bằng những đường sọc dọc phản
chiếu trên khuôn mặt nhân vật chàng Liêu từ ô cửa cho thấy cảm xúc trăn
trở, suy nghĩ, bị bó buộc trong khuôn phép của nhân vật.
Sự chuyển biến từ không gian hiện thực đến không gian nội tâm đã
cho thấy sự thay đổi về tư tưởng thẩm mỹ của thời đại trong minh họa
tranh truyện thiếu nhi.
2.4. Sự chuyển biến về chất liệu và kĩ thuật sáng tác.
Đối với nghệ thuật thì chất liệu thể hiện không bao giờ là có giới
hạn. Để xây dựng những tác phẩm từ hình ảnh và từ ngữ thành những câu
chuyện thì những vật liệu gần gũi nhất với họa sĩ là bút và giấy. Ngoài ra,
còn có thêm nhiều chất liệu khác cũng dùng để hỗ trợ, thể hiện một tác
phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi như các chất liệu màu hay trong
thời đại hiện nay, các phần mềm hỗ trợ vẽ máy tính cũng trở nên thông
dụng trong việc sáng tác.
Giai đoạn 1995, khi tranh truyện chỉ sử dụng kỹ thuật thủ công là vẽ
tay và đem đến nhà in bởi công nghệ lúc đó còn hạn chế chất liệu phổ biến
trong việc minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam được các họa sĩ sử
dụng nhiều là các loại màu nước và màu khô (màu sáp). Hiện nay, với nhu
cầu sống được tăng cao nên đòi hỏi thưởng thức những tác phẩm chất
lượng. Điều kiện công nghệ cho phép họa sĩ có thể sáng tạo thỏa mái và tận
42
dụng tối đa hiệu qua của các chất liệu sáng tác khi kết hợp chúng với nhau
trên cùng một sản phẩm.
Vì vậy, chất liệu sáng tác chi phối kĩ thuật sáng tác. Có thể nói rằng
chất liệu và kỹ thuật sáng tác minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam
luôn song hành với nhau.
Trong tác phẩm “Cây khế” do Nguyễn Bích vẽ năm 1996 [H26], tác
giả đã sử dụng màu nước. Có thể thấy được các đặc điểm của chất liệu màu
nước như tạo các lớp màu trong, các lớp màu lan tỏa, hòa quyện vào nhau
tạo nên độ trong trẻo và sâu hơn cho ra độ chuyển màu và sự ngẫu nhiên
của bút pháp gây hiệu ứng mờ ảo, bay bổng.
Bên cạnh đó, chất liệu màu khô cũng cũng mang những sắc thái, biểu
đạt riêng. Như trong tác phẩm khác của Nguyễn Bích là “Ai mua hành tôi”
– 1995 [H27] đã cho thấy hiệu quả riêng của chất liệu này. Chất liệu này
làm cho nét, hình có tính khô ráp, khỏe khoắn. Chất liệu màu sáp khi sử
dụng để lại các vệt ganh của màu làm nên chất cảm cho chất liệu.
Về sau, khi công nghệ tiên tiến hơn các chất liệu trên thường sử dụng
để tạo bản thô của minh họa tranh truyện, sau đó tác phẩm lại được thực
hiện ở máy tính để lên màu và chuốt lại hình và nét. Màu sắc trên máy
ngày càng đa dạng và sử dụng tương đối thuận tiện. Bên cạnh đó, công cụ
máy cũng có những hiệu ứng thị giác có sẵn tạo cho người vẽ nhiều hình
thức biểu đạt cao hơn. Công cụ in ấn và đồ họa được sử dụng một cách
sáng tạo chưa từng thấy. Truyện được vẽ trên máy, để quá trình vẽ được
nhanh gọn hơn, họa sĩ đã vẽ riêng từng bộ phận, từng hình ở nhiều tư thế
và góc nhìn khác nhau. Khi cần đến nhân vật ở tư thế, góc độ nào chỉ cần
lấy các mảnh ghép hình tương ứng và ghép lại. Đặc điểm của thể loại sáng
tác này là nhanh gọn, chính xác, không tốn công nhưng nhược điểm là đơn
điệu về hình thể và thiếu biểu cảm. Như trong một số tác phẩm “Cây tre
trăm đốt” – 2000, của họa sĩ Phương Hoa [H28] đã sử dụng kết hợp giữa
43
hai kĩ thuật vẽ tay và máy móc. Tác phẩm vừa cho thấy việc sử dụng mảng
màu lớn và độ chuyển màu ở không gian bằng máy tạo nên hiệu ứng thị
giác bắt mắt hơn. Tuy vậy, việc sa đà quá nhiều vào công cụ máy móc cũng
khiến cho các minh họa tranh truyện trở lên khô cứng và dần mất đi tính
nghệ thuật ban đầu. Trong tác phẩm “Cây tre trăm đốt” của Phạm Ngọc
Tuấn [H11] đã cho thấy điều này. Việc sử dụng máy móc hoàn toàn từ
khâu vẽ hình và tô màu theo mảng màu không tạo nên sự khúc triết cho
khối hình mà trái lại minh họa bị đều ở các mảng, hình khối căn chỉnh đều,
có chăng chỉ thay đổi to nhỏ mà hình không đổi, bị lặp lại nhiều lần gây
nên sự nhàm chán. Điều này cũng là một hạn chế lớn của việc minh họa
tranh truyện hiện nay.
Tiểu kết
Chương 2 nghiên cứu về sự chuyển biến về hình thể, màu sắc, bố cục
và không gian đó là những yếu tố tạo hình trong minh họa tranh truyện
thiếu nhi, thông qua đó tác giả thể hiện được những quan điểm riêng,
những nhận thức, tư tưởng của mình khi sử dụng kết hợp hiệu quả những
yếu tố này. Bên cạnh đó, nghiên cứu thêm về biến chuyển chất liệu và kỹ
thuật sáng tác. Từ đó làm nên những giai đoạn biến chuyển khác nhau ở
các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995 đến 2015.
Sự chuyển biến của nghệ thuật minh họa tranh truyện qua tạo hình ở
các thời kì từ 1995 đến 2015 đã làm nên đa dạng về cách thức thể hiện của
các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam. Qua những phần
phân tích trên cho thấy, để thành công trong xây dựng tạo hình trong minh
họa tranh truyện thiếu nhi cần có sự đầu tư của họa sĩ trong nhiều vấn đề từ
hình thể, đường nét, màu sắc, bố cục, không gian Do đó, ngôn ngữ tạo
hình đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện các ý tưởng họa sĩ. Phân
tích các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam cho thấy từ
họa sĩ Nguyễn Bích, Ngô Mạnh Lân, Tạ Thúc Bình đã sử dụng ngôn ngữ
44
tạo hình mang tính dân gian, cô đọng, hiện thực càng về sau các lứa họa sĩ
minh họa tranh truyện mới và cùng với máy móc đã tạo nên dòng trào lưu
minh họa mới mang tính hiện đại khiến chuyển biến minh họa tranh truyện
thiếu nhi từ hình thể, bố cục, không gian, ánh sáng
Qua các tác phẩm minh họa tranh truyện đã thể hiện được dòng chảy
trào lưu nghệ thuật minh họa và sự phát triển, kết thừa các yếu tố tạo hình
làm nên tác phẩm có chiều sâu về không gian, sự kịch tính trong nội tâm
nhân vật mang dáng dấp của đời sống hiện thực. Hình ảnh nhân vật kiểu
thức hóa dần biến mất nhường chỗ cho sự nghiên cứu chuẩn mực trong cơ
thể người trên tranh.
45
Chương 3
THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ
CỦA SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ TẠO HÌNH
TRONG MINH HỌA TRANH TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM
TỪ 1995 – 2015
3.1. Những thành công của chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi giai đoạn 1995 – 2015
3.1.1. Sự phong phú về tạo hình
Việt Nam sau giải phóng miền Nam thống nhất đến nay đã trải qua
rất nhiều biến động về những thay đổi về mặt kinh tế, xã hội, vật chất và
môi trường. Kể từ sau chính sách mở cửa năm 1995, đất nước hòa nhập vào
xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế thị trường đòi hỏi tính cạnh tranh cao. Khi
tiếp xúc với kĩ thuật hiện đại và sự phổ biến của internet, thẩm mỹ hiện đại
đã bắt đầu được chú ý nhiều trong các ngành nghề mỹ thuật ứng dụng.
Trong lĩnh vực minh họa tranh truyện thiếu nhi ngày càng chú trọng và đòi
hỏi tính thẩm mỹ và hợp thời trong khâu thiết kế, trình bày đã tạo nên sự
phong phú trong tạo hình minh họa tranh truyện thiếu nhi.
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu một số tác phẩm minh họa tranh
truyện thiếu nhi Việt Nam giai đoạn từ 1995 đến 2015, phân tích các yếu tố
tạo hình từ góc độ mỹ thuật học ở trên, ta có thể thấy được các sự phong
phú trong các cách biểu hiện ngôn ngữ tạo hình trong việc thể hiện minh
họa tranh truyện.
Phong phú về tạo hình hình thể nhân vật
Trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam, yếu tố hình thể của
nhân vật chính là ngôn ngữ cơ thể của nhân vật là yếu tố quan trọng hàng
đầu cần chú ý trong khâu tạo hình bởi tính điển hình và thẩm mỹ của nhân
vật sẽ quyết định ý thức của người xem, giúp ngừơi xem định hình được
46
nội dung trong một tác phẩm, từ đó hiểu được ý nghĩa của tác phẩm đó.
Những yếu tố hình thể kết hợp với các yếu tố tạo hình khác sẽ tạo nên hiệu
quả về tạo hình tổng thể của tác phẩm.
Tạo hình trong minh hoạ tranh truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995
đến 2015 đã cho thấy những biến chuyển hình thể nhân vật là liên tục.
Thông qua hình thể, họa sĩ biểu hiện được các yếu tố thẩm mỹ và tính thời
đại và tính cá nhân trong đó. Vì vậy, mỗi họa sĩ phải chọn cho mình
phương pháp xây dựng hình thể riêng. Từ đó tạo nên tính đa dạng phong
phú trong hình thể nhân vật.
Hình thể nhân vật trong các minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt
Nam cho thấy sự am hiểu và sử dụng nhuần nguyễn khi xây dựng nhân vật.
Sự khác biệt về giới tính cũng thể hiện rất rõ với cách thể hiện hình thể.
Với nhân vật nam giới việc mô tả tạo hình, các họa sĩ sẽ nhấn mạnh chiều
ngang, sử dụng các nét đậm để thể hiện sự cứng rắn đặc trưng giới tính.
Với nhân vật nữ, tạo hình thường sử dụng những đường cong, nét thanh để
tạo nên vẻ mềm mại, nữ tính. Nhìn chung là như vậy, nhưng tùy vào phong
cách hình thể mà các họa sĩ ứng biến ra tạo hình chung, diễn đạt nhân vật
theo phong cách của mình mà không mất đi cá tính và thần thái của nhân
vật. Bên cạnh đó, việc biểu cảm thần thái qua ngôn ngữ hình thể cũng được
các họa sĩ nghiên cứu và tìm tòi phong phú. Ngôn ngữ cơ thể được thay đổi
khá đa dạng, liên tục từ cử chỉ, điệu bộ để phù hợp với tính cách nhân vật
đã thay đổi các lứa họa sĩ phản ánh theo nhiều cách khác nhau. Từ đó làm
nên sự phong phú trong tạo hình nhân vật trong minh họa tranh truyện
thiếu nhi Việt Nam.
Trong hình thể nhân vật, yếu tố nét là một là yếu tố cơ bản để tạo nên
hình thể. Trong đó đường nét được người nghệ sĩ vẽ tranh vận dụng theo
cách riêng mình, sẽ tạo nên hiệu quả thị giác và ấn tượng chuyển động về
không gian và thời gian trên bề mặt tranh khác nhau. Trong các minh họa
47
tranh truyện giai đoạn đầu, hình và nét được đầu tư công phu để diễn tả
hình và không gian. Hình thể nhân vật sẽ sử dụng nét và các hình để tạo
nên sắc độ đậm và trung gian trong trang minh họa. Đôi khi, có những họa
sĩ lại chỉ sử dụng nét và mảng đậm mà không dùng đến độ trung gian. Điều
này cho thấy được sử phong phú trong cách vận dụng hình khối, đường nét
để tạo nên hiệu quả thị giác cho hình thể. Điển hình như trong tác phẩm
“Sát thát” của Nguyễn Bích, cách sử dụng nét tinh tế và các mảng đậm, hay
trong tác phẩm của họa sĩ Tạ Huy Long, các đường nét mềm mại để định
hình và nhấn khối cho nhân vật. Từ đó tạo nên sự phong phú trong việc
diễn tả hình thể nhân vật trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam.
Phong phú trong cách sử dụng màu sắc
Bên cạnh sự phong phú về mặt tạo hình nhân vật, sự thay đổi khuynh
hướng sử dụng màu sắc trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam đã
tạo nên nhiều sự đột phá mới mẻ. Trong giai đoạn 1995, các minh họa
tranh truyện vẫn sử dụng màu nước và màu bột theo các mảng và sử dụng
các bút pháp cá nhân họa sĩ để tạo nên độ rung cảm riêng cho chất liệu.
Càng về sau, cùng với sự phát triển của công nghệ in ấn và kĩ thuật vi tính
đã dẫn tới sự đa dạng từ cách thể hiện màu sắc đến sắc độ màu. Nhiều kĩ
thuật thể hiện màu với phong cách đa dạng đã tạo nên một thế giới truyện
lung linh màu sắc. Mỗi họa sĩ đều có cách sử lý chất liệu và sử dụng màu
riêng, bên cạnh đó, việc sử dụng máy móc sau khi vẽ tay hoặc tô màu hoàn
toàn trên máy cũng là một phương thức mới mẻ trong việc thể hiện màu.
Yếu tố màu sắc và hình thể có mối quan hệ tương hỗ nhất định. Màu
sắc có khả năng hoàn thiện cho khối, và đem lại cho hình thể sự đa dạng về
biểu diễn chất, làm phong phú bề mặt hình thể. Trong minh họa tranh
truyện những năm 1995, màu sắc luôn sử dụng sắc tươi nguyên, và ít màu
tạo nên hiệu quả mạnh mẽ về thị giác còn trong minh họa tranh truyện hiện
48
đại, màu sắc khi sử dụng thường nhẹ, màu sắc trong in ấn phong phú, nhiều
sắc độ và hài hòa trong minh họa tranh truyện thiếu nhi hiện đại. Từ đó làm
nên sự phong phú về màu sắc trong tạo hình minh họa tranh truyện thiếu
nhi Việt Nam.
Trong tạo hình minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam, các họa sĩ
luôn có những phong cách cá nhân của riêng mình sẽ biểu thị màu sắc theo
lối riêng và trong mỗi tình huống cốt truyện cụ thể mà họa sĩ sử dụng màu
sắc linh hoạt theo các tông màu đậm nhạt, nóng lạnh, hòa sắc để tạo nên
hiệu quả cho minh họa tranh truyện. Vì vậy, tính cá nhân trong việc thể
hiện màu sắc cũng tạo nên sự chuyển biến và phong phú trong việc tư duy
và sử dụng màu sắc.
Phong phú trong lối thể hiện không gian
Tranh truyện là truyện bằng tranh: vẽ có tính chất gần giống với hoạt
hình, vì thế trong minh họa tranh truyện sẽ có rất nhiều diễn biến hành
động liên tục được tạo như một cuốn phim. Bằng cách vẽ mô tả cho người
xem những đặc trưng không gian diễn biến theo thời gian, các họa sĩ minh
họa đã xây dựng thành công và phong phú trong lối thể hiện yếu tố không
gian trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam.
Thông qua sự nghiên cứu về các chuyển biến về không gian trong tạo
hình minh họa tranh truyện thiếu nhi từ 1995 đến 2015 đã cho thấy được cụ
thể những chuyển biến về các hình thái không gian chính được sử dụng
trong minh họa tranh truyện thiếu nhi thường là: không gian cảm giác,
không gian ý niệm và không gian phối hợp tổng hợp. Tuy vậy phương thức
để diễn tả tạo hình ba loại không gian trên được các họa sĩ minh họa và sử
dụng một cách linh hoạt và rất phong phú. Mỗi loại không gian đều có
những tác dụng khác biệt, ảnh hưởng đến cảm xúc và thị giác người xem
tạo nên hiệu quả phong phú về mặt thẩm mỹ cho tác phẩm.
49
Phong phú trong chất liệu và kĩ thuật sáng tác
Đối với nghệ thuật thì chất liệu thể hiện thì không bao giờ có giới
hạn. Để xây dựng những tác phẩm minh họa tranh truyện thì việc chú ý đến
chất liệu biểu đạt hình thức minh họa cũng là một trong những công cụ hỗ
trợ tạo nên thành công cho minh họa tranh truyện.
Từ những năm 1995 đến 2015, các họa sĩ đã làm việc với nhiều chất
liệu vẽ minh họa khác nhau. Ngay từ ban đầu, chất liệu giấy, màu chỉ là
những chất liệu màu nước, màu bột thông thường, tuy vậy, hiệu quả tạo
chất trên mỗi chất liệu đã tạo nên phong cách khác nhau trong minh họa
của các họa sĩ. Đến nay, khi công cụ hộ trợ ngày càng tiên tiến và hiện đại,
chất liệu màu vi tính đã trở thành công cụ đắc lực cho lứa họa sĩ trẻ. Từ đó
tạo nên những phong phú trong cách biểu đạt chất liệu theo phong cách và
kĩ thuật sáng tác của họa sĩ.
Những năm 1995, lứa họa sĩ nòng cốt như Nguyễn Bích, Mai Long,
Ngô Mạnh Lân đã hiệu quả thị giác khi sử dụng các loại màu nước và
màu bột. Trong đó, họa sĩ nổi bật là Mai Long, Ngô Mạnh Lân, Tạ Huy
Long đã thành công với chất liệu màu nước. Chất liệu này cho độ chuyển
màu và sự ngẫu nhiên của bút pháp trong việc sử dụng màu loãng, khiến
tạo hình trong tranh truyện có hiệu quả mờ ảo, bay bổng. Đặc điểm tạo
được các lớp màu chồng xếp lên nhau mà vẫn có độ trong trẻo và mang
tính biểu đạt cao. Màu bột lại cho ra hiệu quả khỏe khoắn và độ xốp của
mảng mang sắc thái biểu đạt riêng cho họa sĩ Nguyễn Bích, Tạ Thúc
BìnhTuy vậy, cùng sử dụng một chất liệu nhưng các họa sĩ lại có lối diễn
đạt tạo hình khác nhau. Hiện nay, các chất liệu trên thường chỉ sử dụng để
tạo nên bản thô của tác phẩm minh họa tranh truyện và được hoàn thiện
trên máy. Màu sắc đa dạng kết hợp với phong cách thẩm mỹ của các họa sĩ
minh họa tranh truyện hiện đại cũng cho thấy sự phong phú về chất liệu và kĩ
50
thuật. Từ đó cho thấy sự phong phú trong việc sử dụng chất liệu và kĩ thuật
sáng tác trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995 đến 2015.
3.1.2. Sự đa dạng về phong cách
Thể loại minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam những năm 1995
phần nhiều lựa chọn lối bố cục với một khuôn hình chiếm toàn bộ trang
truyên, trong mỗi ô hình đó, cảnh trang trí, con người được sắp xếp như
một bức tranh cổ điển. Càng về sau các họa sĩ trẻ càng linh hoạt trong cách
sắp xếp và sử dụng không gian, bố cục. Từ đó tạo nên những đa dạng về
phong cách minh họa trong tranh truyện.
Sự đa dạng phong cách từ 1995 đến 2015 quy chung lại bao gồm
phong cách tả thực và phong cách trang trí nhưng ở mỗi giai đoạn, mỗi họa
sĩ lại có cách sử dụng ngôn ngữ tạo hình khác nhau và tạo nên thành công
khác biệt.
Những năm 1995, các họa sĩ tên tuổi như Tạ Thúc Bình, Ngô Mạnh
Lân, Mai Long với bút pháp thiên về tả thực và sử dụng sáng tạo yếu tố tạo
hình dân gian vào trong các minh họa tranh truyện. Cùng lúc đó, họa sĩ
Nguyễn Bích lại đi theo thiên hướng phong cách tạo hình mang tính trang
trí, tượng trưng. Trong mỗi khuôn hình, các họa sĩ lại tìm tòi các góc nhìn,
gia giảm về bối cảnh, không gian theo phong cách cá nhân mình. Càng về
sau, các lứa họa sĩ trẻ hơn lại thiên về lối cách điệu, sử dụng các yếu tố tạo
hình phương Tây như Tạ Huy Long, Phạm Huy Thông, Lý Thu Hà , Thái
Mỹ Phương, Lê Bích Khoa Minh họa tranh truyện hiện đại cũng cho
thấy những phong cách khác nhau và sự tư duy tìm tòi lối vẽ khác như: Tạ
Lan Hạnh, Phạm Ngọc Tuấn, Phan Anh, Qua đó cho thấy, ở mỗi giai
đoạn, các họa sĩ tuy theo xu hướng thẩm mỹ tạo hình riêng nhưng vẫn
khẳng định được phong cách cá nhân qua các tác phẩm minh họa của mình.
51
3.1.3. Sự cởi mở trong tư duy sáng tác
Hiện nay, tranh truyện ở Việt Nam dù đã trải qua các quá trình hình
thành và phát triển không ngừng nghệ thuật tạo hình nhưng quá trình này
vẫn còn tiếp tục. Qua các giai đoạn, truyện tranh thiếu nhi dần hoàn thiện
về cốt truyện và nội dung nhằm phù hợp với nhu cầu giải trí đương đại đòi
hỏi họa sĩ cần năng động, sáng tạo hơn nữa trong việc biểu đạt hình ảnh
mới. Đồng thời, nhằm duy trì và phát triển cộng đồng minh họa trong và
ngoài nước, đã có rất nhiều cuộc thi giành cho sáng tác minh họa ra đời. Để
khẳng định mình, các họa sĩ cần phải tìm cho mình một phong cách riêng.
Phong cách tạo hình trong sáng tác của các họa sĩ trẻ cũng nhờ đó mà
trường thành hơn, dần tạo được nền tảng riêng.
Những năm gần đây, lối tạo hình dân gian, dân tộc Việt dần cho thấy
sức hút trong minh họa tranh truyện thiếu nhi. Hàng loạt các minh họa
tranh truyện thiếu nhi của Nhã Nam ra đời và được công chúng đón nhận
bởi tạo hình các nhân vật thuần Việt hơn từ trang phục, thần thái cho thấy
sự thoát khỏi ảnh hưởng của lối tạo hình tranh truyện nước ngoài.
Cùng với việc tìm kiếm học hỏi từ nhiều nguồn tư liệu nước ngoài,
các họa sĩ trẻ không bị gò bó mình trong cách diễn tả và biểu đạt tạo hình
theo đúng quy luật không gian thực, hay tạo hình thực nữa. Họ đã tự sáng
tạo ra trong cách nghĩ khi đặt bố cục, tạo hình cũng cố gắng để tìm ra cái
mới khác trước để tạo được phong cách riêng.
3.2. Những hạn chế của sự chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi ở Việt Nam từ 1995 – 2015
3.2.1. Hạn chế về mặt tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi ở Việt
Nam từ 1995 - 2015
Qua sự phân tích và khảo sát tạo hình trong minh họa tranh truyện
thiếu nhi Việt Nam từ 1995 đến 2015 cho thấy, ngoài những thành công về
tạo hình thì đằng sau đó vẫn còn những hạn chế sau:
52
Trong giai đoạn từ 1995 đến 2015, các minh họa tranh truyện thiếu
nhi Việt Nam việc xuất hiện và tồn tại quan niệm tạo hình phải phù hợp với
lứa tuổi, đòi hỏi các họa sĩ phải luôn tìm tòi cái mới và đi theo xu hướng
thị trường được ưa thích. Để có thể khắc họa nên một tạo hình nhân vật
trong tranh truyện, người họa sĩ không chỉ vẽ với vốn hiểu biết về cuộc
sống, về hội họa mà với cả những hiểu biết chung về văn học, âm nhạc và
nhiều lĩnh vực khác. Vì vậy, sự trang bị về tri thức của người họa sĩ nói
chung và họa sĩ vẽ tranh truyện nói riêng cần toàn diện. Trong những năm
gần đây, minh họa tranh truyện thiếu nhi là mảng nghệ thuật được quan
tâm rất nhiều. Với sự ảnh hưởng của các dòng trào lưu truyện tranh thế
giới, minh họa tranh truyện thiếu nhi hiện đại, rất nhiều họa sĩ dần sa đà
vào lối tạo hình manga như chân tay kéo dài, đầu to, mắt to để áp dụng
vào sáng tác hình ảnh các nhân vật trong truyện của mình. Vì vậy dẫn đến
sự giống nhau về mặt tạo hình, các nhân vật nam, nữ trong tranh hầu như
không cho thấy những đặc điểm riêng về giới tính, tính cách, đồng thời, do
sử dụng ngôn ngữ tạo hình giống nhau khiến các họa sĩ trẻ rất khó khăn
trong việc khẳng định phong cách cá nhân.
Bên cạnh đó, việc sử dụng yếu tố tạo hình tạo hình không gian cũng
cho thấy điểm hạn chế . Giai đoạn những năm 1995, các họa sĩ nòng cốt
luôn sử dụng phối cảnh tuyến tính, mọi vật được vẽ theo lối nhìn thẳng
chính diện, khiến cho sự vật chỉ được nhìn từ một hướng nhìn cố định, bối
cảnh tranh minh họa luôn được các họa sĩ vẽ ở một góc nhìn cố định tạo
nên sự khô cứng, và không khái quát được toàn cảnh. Ở các giai đoạn sau,
việc sử dụng phối cảnh theo trực quan của người họa sĩ thường thay thế
cho những công thức có hệ thống nhằm tạo ra chiều sâu trong tranh. Cũng
tạo nên bước chuyển biến mới về không gian, nhưng nhìn chung vẫn mô tả
không gian theo một thể thức cố định, Những năm gần đây, các họa sĩ trẻ
53
đã khắc phục được tình trạng này, họ đã cho thấy sự mô tả đa dạng từ mọi
góc nhìn đến nhân vật như từ trên xuống, từ dưới lên, từ ngoài vào trong.
Trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam thường đi theo
tuyến kể truyện thông thường, tịnh tiến theo thời gian, đến nay vẫn chưa có
nhiều tác phẩm đổi mới ở cách dẫn truyện. Cách dẫn truyện theo một mô
típ cố định từ: Mở đầu, nút thắt, cao trào và cuối cùng là mở nút. Vì vậy,
cách vận dụng tạo hình vào biểu cảm trong các tuyến nhân vật là giống
nhau và lặp lại theo đúng một trình tự, một mô típ kể chuyện. Do đó, tranh
truyện thiếu nhi mất đi sự kịch tính và thu hút.
3.2.2. Hạn chế về biểu hiện tính dân tộc trong minh họa tranh truyện thiếu
nhi ở Việt Nam từ 1995 - 2015
Tranh truyện thiếu nhi Việt Nam là một thể loại mang đến cho lứa
tuổi nhí giá trị và kiến thức văn hóa, lịch sử đời sống một cách nhanh
chóng và ấn tượng. Minh họa tranh truyện thiếu nhi ở Việt Nam là một
trong những phương tiện cụ thể hóa vấn đề văn hóa dân tộc bằng hình ảnh,
màu sắc làm khơi dậy những tìm tòi và ham mê hiểu biết của các em.
Tranh truyện mang lại nhiều giá trị tư duy liên tưởng qua các cốt truyện
thuần Việt. Tuy vậy, tranh truyện thiếu nhi Việt Nam ngay từ ban đầu đã
thừa kế trên văn hóa nghệ thuật minh họa nước ngoài. Cụ thể, sau chiến
tranh, minh họa tranh truyện được các họa sĩ ở hai miền Nam Bắc hình
thành các dòng trào lưu minh họa khác nhau. Ở miền Bắc, do chịu ảnh
hưởng của văn hóa Trung Quốc, cùng với đó, các họa sĩ đã nghiên cứu
những tạo hình trong tranh liên họa của minh họa truyện nổi tiếng của
Trung Quốc như Tây du kí, Tam quốc để lấy làm hình mẫu cho những
minh họa của mình. Còn ở miền Nam, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật tranh
truyện comics phương Tây, do đó hình tượng nhân vật mang tính động
nhiều hơn.
54
Những năm gần đây, sự thâm nhập của nghệ thuật Manga đã trải
khắp ngóc ngách trong văn hóa đọc truyện ở Việt Nam. Vì vậy, lối tạo hình
manga đã tạo nên những ảnh hưởng nhất định đến thẩm mỹ tạo hình nhân
vật của họa sĩ. Trong một số tranh truyện minh họa thiếu nhi từ năm 1995
đến 2015 sự ảnh hưởng của tạo hình manga cho các nhân vật khá rõ rệt. Cơ
thể người có tỉ lệ khá dài, khuôn mặt và biểu cảm nhân vật tương đối giống
nhau và thường được phân biệt qua quần áo, tóc... Ví dụ như truyện “Sự
tích trầu cau” (2014) của Hoàng Khắc Huyên [H29] Đây là một hạn chế
lớn trong việc biểu hiện tính dân tộc trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
ở Việt Nam từ 1995 – 2015.
Tiểu kết
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về tạo hình minh họa tranh
truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995 đến 2015, ta thấy được sự sáng tạo và
những bước chuyển mới từ ngôn ngữ tạo hình, phong cách và tư tưởng
trong nghệ thuật tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam.
Sự chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh truyện đã cho thấy
những sự biểu cảm tuyệt vời qua bút pháp, phong cách của các họa sĩ minh
họa ở Việt Nam từ 1995 đến 2015. Cùng một chủ đề, câu chuyện trong mỗi
thời kì sự biểu đạt của mỗi họa sĩ đều có cách thể hiện khác khau. Tạo hình
trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam được khai thác ở nhiều góc
cạnh qua phong cách, bút pháp, chất liệu của mỗi tác giả làm nên những tác
phẩm minh họa sinh động và giàu tính nghệ thuật. Thông qua các tạo hình
trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam đã lột tả được tiến trình
phát triển nghệ thuật minh họa tranh truyện ở nước ta. Hơn hết, ở cùng một
thể loại truyện cổ tích nhưng mỗi tác phẩm đều mang trong mình những nét
đặc trưng riêng của từng thời kì, giai đoạn nghệ thuật. Đó là sự đột phá và
chuyển biến trong phong cách biểu hiện của các tác giả
55
Tạo hình minh họa đã cho thấy những sự tìm tòi, những biểu cảm,
chắt lọc ngôn ngữ tạo hình của các họa sĩ. Tạo hình trong minh họa tranh
truyện được các họa sĩ khai thác ở nhiều góc cạnh qua đề tài, phong cách,
bút pháp của mỗi tác giả làm nên những tác phẩm thành công. Thông qua
chủ đề lột tả được tinh thần của nội dung cốt truyện và tính dân tộc.
56
KẾT LUẬN
Tranh truyện thiếu nhi Việt Nam đã có thời kì phát triển khá lâu, từ
trước cách mạng tháng 8 cho đến nay đã có cả một kho tàng đồ sộ của nhiều
nhà xuất bản và họa sĩ. Từ những tiền đề minh họa mang nội dung lịch sử,
châm biếm tranh đến nay truyện thiếu nhi đã có nền tảng vững chắc ở tạo
hình và nội dung.
Minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam, họa sĩ biểu đạt đề tài nội
dung bằng ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình, bên cạnh phản ánh chủ đề, tranh
truyện phản ánh những tư tưởng thẩm mỹ của họa sĩ trong đó.
Sự chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt
Nam là rất đa dạng, các họa sĩ ở các giai đoạn từ 1995 đến 2015, khai thác
và biểu đạt các hình thức tạo hình khác nhau ở hình tượng nhân vật, không
gian, màu sắc. Đó là sự đổi mới không ngừng tạo hình trong mối thống
nhất giữa quan niệm thời đại và ý tưởng nghệ thuật.
Chuyển biến tạo hình từ bố cục, hình thể, đường nét, diễn tả chất,
không gian và trong các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi ở Việt
Nam đã cho thấy những nét đặc trưng nghệ thuật minh họa tiêu biểu ở mỗi
thời kì được thể hiện rõ trong những yếu tố tạo hình gắn với mô típ cụ thể,
bắt buộc. Qua sự chuyển biến tạo hình nhận thấy những nhận thức mới về
sự thay đổi của hình thể, không gian, màu sắc qua các giai đoạn. Càng về
sau việc miêu tả nội tâm, tâm trạng của các nhân vật trong các tác phẩm
được chú trọng tạo sự kịch tính cho nhân vật chính.
Sự ý thức về bố cục, sắp xếp hình mảng càng được làm rõ và chú
trọng theo quy tắc, hệ thống phối cảnh, tỉ lệ cân đối ở giai đoạn đầu những
năm 1995. Càng về sau, bố cục càng đa dạng và không tuân theo thể thức
hướng nhìn, bố cục nhất định. Hình tượng nhân vật trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi không chỉ đơn thuần là đối tượng để tả kể sinh động,
57
truyền đạt nội dung, hơn hết hình tượng còn là hình mẫu mang tư tưởng
của họa sĩ.
Ngoài sự chuyển biến về nghệ thuật tạo hình, các tác phẩm minh họa
tranh truyện thiếu nhi cho thấy những nét chuyển biến về tư tưởng thẩm
mỹ của xã hội qua các tác phẩm.
Tóm lại, chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
Việt Nam từ 1995 đến 2015 đã đánh dấu bước chuyển tiếp và kế thừa giữa
các nền nghệ thuật từ trước kháng chiến đến nay. Đóng góp một phần lớn
cho phát triển nghệ thuật tranh truyện Việt Nam nói riêng và nền công
nghiệp minh họa nói chung. Đó là giá trị được lưu truyền mà chúng ta tôn
vinh, gìn giữ.
58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước:
1. Gia Bảo (2010), Vẽ truyện tranh hoạt hình – Mỹ thuật căn bản và nâng
cao, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
2. Nguyễn Bích (1996), Ai mua hành tôi, Nxb Kim Đồng
3. Nguyễn Bích (1998), Cây khế, Nxb Kim Đồng
4. Tạ Thúc Bình (1995), Con cóc là cậu ông trời, Nxb Kim Đồng
5. Bút Chì (2010) Đeo nhạc cho mèo, Nxb Mỹ Thuật
6. Lê Bá Dũng (2009), Đại cương mỹ thuật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
7. Lý Thu Hà (2005), Ngưu lang chức nữ, Nxb Mỹ thuật
8. Tạ Lan Hạnh (2011), Ai mua hành tôi, Nxb Mỹ Thuật
9. Nguyễn Quốc Hiệu(2010), Sự tích bánh chưng bánh dày, Nxb Mỹ Thuật
10. Hội đồng từ điển (1994) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa Học Xã Hội
11. Nguyễn Quang Huy (2014), Thẩm mỹ tạo hình trong tranh truyện hiện đại
Việt Nam giai đoạn 2000 đến nay, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Đại học
mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
12. Hoàng Khắc Huyên (2014), Sự tích trầu cau, Nxb Mỹ Thuật
13. Vũ Lan Hương (2005), “Họa sĩ truyện tranh trẻ, lúng túng tìm lối đi”, Báo
Khoa học và Đời sống, Tr.12, Hà Nội.
14. Katawu Kaji (2011), Vẽ truyện tranh phong cách Nhật Bản – Nhân vật
hành động và bối cảnh câu chuyện, Nxb Thời đại, tp. Hồ Chí Minh.
15. Đỗ Văn Khang (1985), Mỹ học đại cương, Nxb QGHN.
16. Nguyễn Hữu Khoa (1997), Họa sĩ với hướng tìm mới cho tranh truyện
thiếu nhi, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học mỹ thuật Việt Nam, Hà
Nội.
17. Minh Kiên(2010), Âu Cơ Lạc Long Quân, Nxb Mỹ thuật
18. Trần Tiểu Lâm (2001), Giáo trình Mỹ thuật học. Nxb Mỹ thuật
59
19. Ngô Mạnh Lân (1997), Âu Cơ và Lạc Long Quân, Nxb Kim Đồng
20. Ngô Mạnh Lân (1997), Trê cóc, Nxb Kim Đồng
21. Ngô Mạnh Lân (1998), Hai ông tiến sĩ, Nxb Kim Đồng
22. Ngô Mạnh Lân (1998), Cây tre trăm đốt, Nxb Kim Đồng
23. Đinh Thanh Liêm (2005), Cây khế, Nxb Mỹ thuật
24. Mai Long (1996), Âu Cơ Lạc Long Quân, Nxb Kim Đồng
25. Mai Long (2001), Âu Cơ và Lạc Long Quân, Nxb Kim Đồng
26. Tạ Huy Long (1995), Dũng sĩ Đam Dông , Nxb Kim Đồng
27. Lê Thanh Lộc (1997), Từ điển Mỹ thuật, Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội.
28. Vương Hoành Lực (2012), Nguyên lý hội hoa đen trắng, Nxb Mỹ thuật
29. Nguyễn Duy Nhiếp (2000), Những suy nghĩ và cảm nhân xem tranh truyện
của họa sĩ Tạ Thúc Bình, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Đại học mỹ thuật
Việt Nam, Hà Nội.
30. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2012), Từ điển mỹ thuật phổ thông, Nxb Mỹ
thuật
31. Vũ Duy Nghĩa (2000), Chàng học trò có chí, Nxb Mỹ thuật
32. Hoàng Phê (1989), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb trẻ
33. Hạ Thị Lan Phi (2007), “Sự du nhập và ảnh hưởng của Manga ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Nghiên Cứu Đông Bắc Á, số 2, Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
34. Lê Quang (2016), Tạo hình nhân vật điển hình trong truyện tranh lịch sử
Việt Nam nhà xuất bản Kim Đồng, giai đoạn 1990 – 2015, Luận văn thạc
sỹ, Đại học mỹ thuật Việt Nam.
35. Nguyễn Quân (2005), Con mắt nhìn cái đẹp, Nxb Mỹ thuật
36. Lê Văn Sửu (2011), “Truyện tranh Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm Manga
Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu mỹ thuật, số 2, Viện Mỹ Thuật, Trường
Đại Học Mỹ Thuật Việt Nam, Hà Nội.
37. Nguyễn Quang Vinh (2005), Thánh Gióng, Nxb Đồng Nai
60
38. Viện Ngôn ngữ học (2013), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
39. Phạm Ngọc Tuấn (2005),Chàng Đăm Bri, Nxb Kim Đồng
40. Phạm Tùng, Lê Trang (2015), Tấm cám , Nxb Đồng Nai
41. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1975) Từ điển tiếng
Việt phổ thông A – C, tập 1, Nxb Khoa học xã hội
42. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995) Từ điển bách
khoa Việt Nam 1 A- Đ, NXB Từ điển Bách khoa
43. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995) Từ điển bách
khoa Việt Nam 2 E – M, NXB Từ điển Bách khoa
44. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995) Từ điển bách
khoa Việt Nam 3 N – S, NXB Từ điển Bách khoa
45. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995) Từ điển bách
khoa Việt Nam 4 T – Z, NXB Từ điển Bách khoa
46. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
Tài liệu nước ngoài:
47. Bernard Duc (1992) L’Art de la composition et du cadrage : peinture,
photographie, bandes dessinées, publicité, Fleurus, Paris.
48. Otto Ocvirk; Robert Stinson; Philip Wigg; Robert Bone; David Cayton
(1985) Art Fundamentals: Theory and Practice, McGraw-Hill Education -
Europe.
49. Uri Shulevitz (1985) Writing with Pictures: How to Write and Illustrate
Children's Books. Nxb Watson-Guptill, New York.
Tài liệu internet:
50. Công ty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam (2017). Tài liệu tham
khảo “Sách tranh dành cho thiếu nhi”, <
tham-khao-sach-tranh-danh-cho-thieu-nhi>
61
51. Tô Chiêm (2012). 55 năm làm mỹ thuật trên sách thiếu nhi,
<
tren-sach-thieu-nhi-2134957.html >, xem 16/6/2012.
52. Tô Chiêm (2014). Tranh truyện Việt Nam: Bỏ ngỏ đến bao giờ?
<
bao-gio-711340.tpo>, xem 16/2014
53. Monika Zagrobelna (2015) 10 Basic Mistakes in Digital Painting and How
to Fix Them < https://design.tutsplus.com/articles/10-basic-mistakes-in-
digital-painting-and-how-to-fix-them--cms-23730>
54. Nguyễn Đức Sơn (2010). Đặc trưng của mỹ thuật đa phương tiện,
<
/6/2491.html>, xem 21/6/2010.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN PHƯƠNG THU
SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ TẠO HÌNH
TRONG MINH HỌA TRANH TRUYỆN THIẾU NHI Ở VIỆT NAM
TỪ 1995 ĐẾN 2015
PHẦN PHỤ LỤC
Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60 21 01 02
Khóa: 18 (2015 – 2017)
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Nguyễn Nghĩa Phương
Hà Nội – 2017
62
PHẦN PHỤ LỤC
[H1] Mai Long,“Âu Cơ Lạc Long Quân”, 1996
Nguồn: Nxb Kim Đồng
63
[H2] Phạm Ngọc Tuấn,“Chàng Đăm Bri”, 2005
Nguồn: Nxb Kim Đồng
64
[H3] Minh Kiên“Âu Cơ Lạc Long Quân”,2010
Nguồn: Nxb Mỹ thuật
65
[H4] Nguyễn Quốc Hiệu,“Sự tích bánh chưng bánh dày”,2010
Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam
66
[H5] Ngô Mạnh Lân, “Trê cóc”, 1997
Nguồn: Nxb Kim Đồng
67
[H6]Nguyễn Bích,“Ai mua hành tôi” , 1996
Nguồn: Nxb Kim Đồng
68
[H7] Lý Thu Hà,“Ngưu lang chức nữ” , 2005
Nguồn: Nxb Mỹ thuật
69
[H8]Phạm Tùng, Lê Trang, “Tấm cám” , 2015
Nguồn: Nxb Đồng Nai
70
[H9]Ngô Mạnh Lân,“Hai ông tiến sĩ” , 1998
Nguồn: Nxb Kim Đồng
71
[H10] Tạ Huy Long ,“Dũng sĩ Đam Dông” ,1995
Nguồn: Nxb Kim Đồng
72
[H11] Phạm Ngọc Tuấn, “Cây tre trăm đốt” , 2015,
Nguồn: Nxb Mỹ thuậv
73
[H12] Nguyễn Bích,“Ai mua hành tôi” ,1996
Nguồn: Nxb Kim Đồng
74
[H13] Nguyễn Bích, “Cây Khế” của , 1998
Nguồn: Nxb Kim Đồng
75
[H14] Mai Long, “Âu Cơ và Lạc Long Quân”, 2001
Nguồn: Nxb Kim Đồng
76
[H15] Ngô Mạnh Lân,“Cây tre trăm đốt”, 1998
Nguồn: Nxb Kim Đồng
77
[H16] Bút Chì,“Đeo nhạc cho mèo” , 2010
Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam
78
[H17]Vũ Duy Nghĩa,“Chàng học trò có chí”, 2000
Nguồn: Nxb Kim Đồng
79
[H18] Thái Mỹ Phương, Sự tích dưa hấu (2011)
Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam
80
[H19]Tạ Thúc Bình, “Con cóc là cậu ông trời” , 1995
Nguồn: Nxb Kim Đồng
81
[H20] Ngô Mạnh Lân, “Hai ông tiến sĩ” , 1998
Nguồn: Nxb Kim Đồng
82
[H21] Đinh Thanh Liêm, “Cây khế” , 2005
Nguồn: Nxb Mỹ thuật
83
[H22] Nguyễn Quang Vinh, “Thánh Gióng”, 2005
Nguồn: Nxb Giáo Dục
84
[H23] Tạ Lan Hạnh, “Ai mua hành tôi” , 2011
Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam
85
[H24] Bút Chì,“Đeo nhạc cho mèo” , 2010
Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam
86
[H25] Nguyễn Quốc Hiệu,“Bánh chưng bánh dày”, 2010
Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam
87
[H26] Nguyễn Bích, “Cây khế”, 1996
Nguồn: Nxb Kim Đồng
88
[H27] Nguyễn Bích, “Ai mua hành tôi”, 1995
Nguồn: Nxb Kim Đồng
89
[H28]Phương Hoa, “Cây tre trăm đốt” , 2000
Nguồn: Nxb Giáo Dục
90
[H29] Hoàng Khắc Huyên, “Sự tích trầu cau”, 2014
Nguồn: Nxb Mỹ Thuật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_chuyen_bien_ve_tao_hinh_trong_minh_hoa_tranh_truyen_thieu_nhi_o_viet_nam_tu_1995_den_2015_4337_20.pdf