Qua những phần nghiên cứu ởtrên chúng ta đã hiểu rõ được phần nào về
hiện trạng hoạt động mua lại và sáp nhập trên thế giới nói chung và ởViệt Nam
nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay, M&As phát triển theo xu hướng gia tăng và
là hình thức đầu tư được ưa chuộng chủ y ếu tại các nước phát triển, tuy vậy
những năm gần đây hoạt động M&A cũng đã bước đầu gia tăng tại các nước
đang phát triển như là một hình thức đầu tư FDI. Với các điều kiện hiện có của
Việt Nam luồng vốn FDI vào nước ta vẫn tăng đều. Đây là một dấu hiệu đáng
mừng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước ta. Tuy nhiên trong khi Ấn Độ,
Trung Quốc đang nổi lên như những trung tâm thu hút vốn đầu tư nước ngoài
lớn nhất hiện nay thì Việt Nam càng cần phải nỗ lực cố gắng hơn nữa.
64 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2941 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tác động của M&A xuyên quốc gia & Bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của nhiều khả năng trong đó có các khả năng tiềm
tàng chủ đạo. Các tiềm năng chủ đạo đó chính là :
1. Thống nhất lại thành một bộ kĩ năng kĩ thuật và quản lý.
2. Khó đạt được bằng kinh nghiệm so với các khả năng khác
3. Đóng góp đáng kể vào việc tạo nên lợi ích cho khách hàng
4. Có thể áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh doanh của công ty
(Haspeslagh and Jemison, 1991)
2. Những yếu tố tác động xấu tới doanh nghiệp dẫn tới sự thất bại của
M&A
Như đã đề cập ở trên, hoạt động M&A đem lại rất nhiều lợi ích cho các
doanh nghiệp như cắt giảm chi phí, tiếp cận thị trường mới, bành trướng thế lực
toàn cầu, tiếp nhận nguồn nhân lực tài năng, các công nghệ kỹ thuật mới, hiện
đại… Tuy nhiên, M&A cũng có những mặt trái của nó, và đôi khi những yếu tố
đó ảnh hưởng nặng nề, làm cho các doanh nghiệp lại gặp khó khăn sau quá trình
mua lại và sát nhập. Có nhiều yếu tố có thể dẫn tới những thất bại của các vụ
M&A. Trong đó, có lẽ những yếu tố tác động mạnh mẽ nhất có lẽ đến từ những
con người bên trong các tổ chức. Điều đó bao gồm:
a. Sự yếu kém trong khâu thông tin liên lạc
Trong một cuộc khảo sát về vai trò của nguồn nhân lực đối với các doanh
nghiệp có sự mua lại và sáp nhập, hơn 70% trong số 413 nhà quản lý nhân sự
cho biết sự thiếu trao đổi thông tin giữa các nhân viên trong doanh nghiệp là vấn
đề nghiêm trọng hàng đầu và cần phải được giải quyết trước tiên ở các doanh
nghiệp.
Khâu liên lạc yếu kém giữa những con người ở mọi cấp độ bên trong một
tổ chức và giữa những người ở hai tổ chức tiến hành sáp nhập là một trong
những nguyên nhân chính dẫn tới những thất bại của các tổ chức sau khi được
Trang 36
sáp nhập. Những nhà quản lý cấp trung và các nhân viên cấp dưới không được
thông báo về hoạt động mua lại và sáp nhập. Cuộc thăm dò cho thấy, dưới 30%
các công ty thông báo cho các nhà quản lý cấp trung và nhân viên cấp dưới
những thông tin về hoạt động M&A. Vì vậy mà có nhiều trường hợp các nhà
quản lý đọc được thông tin về hoạt động M&A liên quan tới tổ chức của mình là
trên báo chí chứ không phải những nhà quản lý cấp trên của họ.
Trong đó, nhiều trường hợp các nhà quản trị cấp cao trực tiếp tham gia
vào vấn đề M&A liên quan tới tổ chức tìm cách bưng bít thông tin đối với nhân
viên cấp dưới. Mục đích của họ là để bảo đảm giá trị cổ phiếu của công ty và
việc thực hiện các đề xuất M&A cho đến khi chúng được hoàn tất. Tuy nhiên,
điều đó gây nên tâm lý hoang mang, bất ổn, mất niềm tin và lòng trung thành
đối với tổ chức của nhân viên. Một số trường hợp các doanh nghiệp còn tìm
cách lừa dối nhân viên bằng cách tung ra những thông tin sai sự thật, những lời
đảm bảo về vị trí của nhân viên và cam kết không có việc cắt giảm nhân sự. Hơn
nữa, do các nhà quản trị không được biết những thông tin mà đáng lẽ ra họ phải
được biết nên họ không thể đưa ra những chiến lược hợp lý và có hiệu quả. Điều
đó cũng tác động xấu tới doanh nghiệp.
b. Thiếu sự tham gia của nhân viên trong M&A
Thông tin dưới đây được trích từ bài thuyết trình của Raymond Noe minh
hoạ việc tham gia của nhân viên trong các giai đoạn khác nhau trong quá trình
thực hiện M&A ở Mỹ, châu Á, châu Đại Dương và Brazil.
Human Resources Involvement in the Merger Process
United States Asia-Pacific Brazil
Initial Planning 16% 19% 8%
Investigative 41% 21% 12%
Negotiation 16% 16% 24%
Trang 37
Integration 27% 44% 56%
Source: Raymond Noe, “Mergers and Acquisitions” MHR 860, Ohio State
University
Fisher College of Business, January 17, 2002
Theo cuộc khảo sát 134 nhà quản lý nhân sự trong năm 1999, phòng nhân
sự không phải lúc nào cũng tham gia vào hoạt động M&A. Chỉ có 59% trong
cuộc khảo sát được hỏi ý kiến trước khi có việc mua lại và sát nhập. Do thiếu sự
tham gia của lực lượng nhân sự có thể gây ra ảnh hưởng xấu đối với hoạt động
của doanh nghiệp sau khi sáp nhập bởi vì có thể rất nhiều vấn đề liên quan trực
tiếp tới thành bại của một doanh nghiệp sẽ không được chú ý tới.
c. Thiếu việc tập huấn
Tập huấn là rất cần thiết để trong việc thực hiện các hoạt động sau khi hội
nhập và để đạt được một quá trình hợp nhất suôn sẻ. Tuy nhiên, những số liệu
thăm dò cho thấy chỉ có 48% các nhà quản trị nhân sự tham gia các lớp tập huấn
sau khi đã có sự mua lại và sáp nhập. Trong nhiều trường hợp, những chuyên gia
về nhân sự không được tham gia vào quá trình M&A. Tới 81% trong số các nhà
quản lý được hỏi cho rằng những chuyên gia về nhân sự không có đủ kiến thức
chuyên môn để giải quyết vấn đề M&A và những yếu tố nảy sinh từ quá trình
này. Vì vậy, những nhà quản trị cấp cao thường lưỡng lự trong việc cho những
chuyên gia về nhân sự tham gia vào các vụ mua lại và sáp nhập. Điều nực cười
là ở chỗ, việc thiếu tập huấn gây ra một cái vòng luẩn quẩn. Trong đó, các nhà
quản trị cấp cao không muốn các giám đốc nhân sự tham gia vào quá trình
M&A vì cho rằng họ không đủ trình độ chuyên môn để đối mặt với những vấn
đề phức tạp của M&A. Thế nhưng, bản thân các nhà quản lý nhân sự cũng
không thể đạt được trình độ chuyên môn đó nếu họ không nhận được sự giúp đỡ
của các nhà quản trị cấp cao. Bản thân nhiều nhà quản trị cấp cao cũng không có
được những khoá tập huấn cần thiết. Hậu quả là họ không thể đưa ra những kế
Trang 38
hoạch hiệu quả để thực hiện quá trình sau hợp nhất và thiếu những kiến thức cần
thiết để có thể đáp ứng những yêu cầu của tổ chức mới sau khi hợp nhất.
d. Việc mất đi những con người tài năng
Việc sáp nhập và mua lại trong nhiều trường hợp dẫn tới việc ra đi của
những con người xuất sắc của tổ chức bao gồm những nhân viên tài năng và
những người ra quyết định chủ chổt. Theo hiệp hội quản lý của Mỹ, ¼ những
nhân viên hàng đầu của các doanh nghiệp ra đi trong vòng 3 tháng kể từ khi có
những thông tin liên quan tới những thay đổi to lớn bên trong tổ chức. Khoảng
47% các nhà quản lý hàng đầu cũng rời khỏi các doanh nghiệp bị mua lại chỉ sau
1 năm. Một bài báo của tờ Wall Street Journal đưa ra ước tính khoảng 50-75%
các nhà quản trị ở các công ty có kế hoạch sáp nhập sẽ ra đi trong vòng 3 năm.
Điều này có vẻ trái ngược với mục tiêu của các doanh nghiệp là nhằm đạt được
nguồn nhân lực tài năng với kinh nghiệm và chuyên môn cao. Và trong nhiều
trường hợp, những con người này sẽ làm việc tại các doanh nghiệp khác, những
đối thủ cạnh tranh của chính doanh nghiệp có hoạt động M&A. Ví dụ như tháng
10 năm 1997 Bank of America mua lại quỹ đầu tư Montgomery. Do có những
bất đồng trong đội ngũ quản lý và những xung đột về văn hoá, hầu hết các nhà
đầu tư xuất sắc của quỹ này đã chuyển sang làm việc cho đối thủ của quỹ
Montgomery. Kết quả là quỹ này chẳng bao giờ lấy lại được vị thế mà nó từng
nắm giữ nữa.
e. Việc mất đi khách hàng
Những con người trong tổ chức ra đi, họ kéo theo những khách hàng thân
quen của họ, và điều đó làm cho doanh nghiệp mất đi những khách hàng của
mình. Khi những nhân viên tài năng nhất ra đi, theo chân họ là những khách
hàng chiến lược của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngay cả khi doanh nghiệp giữ
chân được những nhân viên xuất sắc của mình, hoạt động của doanh nghiệp vẫn
có thể rất tồi tệ nếu khách hàng có sự nghi ngại rằng chất lượng dịch vụ hay sản
phẩm sẽ trở nên tồi tệ hơn ở tổ chức mới được hình thành.
f. Xung đột văn hoá
Trang 39
Ngay cả khi hai công ty đã có những yếu tố đảm bảo thành công của một
cuộc sát nhập, sự khác biệt về văn hoá giữa hai công ty có thể sẽ làm cho thương
vụ thất bại. Tổ chức Business International đã cho biết hai nhân tố chính dẫn tới
thất bại của những thương vụ M&A là do trao đổi thông tin yếu kém và những
thất bại trong việc giải quyết xung đột văn hoá công ty. Nếu vấn đề xung đột
văn hoá không được giải quyết, nó sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ mọi mặt trong công
ty từ quá trình ra quyết định, năng suất lao động, lợi nhuận doanh nghiệp… Nếu
không giải quyết nổi vấn đề này thì dù thương vụ sáp nhập có tốt đẹp và chặt
chẽ tới mức nào thì cũng không thể đảm bảo thành công cho doanh nghiệp.
Có thể lấy ví dụ từ vụ sáp nhập đình đám giữa Benz-Daimler và Chrysler
thành tập đoàn Daimler-Chrysler nổi tiếng trong lĩnh vực kinh doanh sản xuất ô
tô. Ban đầu, cả hai bên đều tỏ rõ thái độ cam kết cùng nhau hoạt động và chia sẻ
những kinh nghiệm và phương pháp phát triển sản phẩm nhưng rồi những cam
kết này cũng không được hiện thực hoá mà điển hình là việc ban giám đốc của
Daimler không chịu dùng các bộ phận của Chrysler trên xe Mercedes nổi tiếng
của họ.
g. Tranh giành quyền lực
Đây cũng là một trở ngại chính đối với thành công của các cuộc mua lại
và sáp nhập. Sự xung đột giữa hai ban giám đốc của hai doanh nghiệp, cũng như
những xung đột bên trong nội bộ một công ty có thể làm cho vụ mua lại và sáp
nhập đi đến chỗ thất bại. Các nhà quản trị không những mải mê tranh giành
quyền lực, họ lại tìm cách đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của doanh nghiệp.
Vì vậy, họ đưa ra những quyết định đem lại lợi ích cho bản thân họ trong khi lại
gây thiệt hại cho doanh nghiệp
Sau khi đã phân tích những lợi ích dẫn tới động cơ của doanh nghiệp và
những rủi ro tiềm tàng mà doanh nghiệp gặp phải khi tiến hành hoạt động M&A,
chúng ta hãy cùng xem xét thực trạng của các doanh nghiệp sau các thương vụ
mua lại và sáp nhập này.
Trang 40
3. Tác động tới doanh nghiệp bị mua lại.
Mặc dù có nhiều kết quả trái ngược nhau nhưng hầu hết các nghiên cứu
đều chỉ ra rằng, việc thay đổi chủ sở hữu thường đem lại những ảnh hưởng tích
cực tới năng suất của doanh nghiệp bị mua lại. Thực tế cho thấy các nhà máy ở
Canada bị mua lại trong những năm 1970 thì đạt được mức sản lượng cao hơn
so với các nhà máy không có sự thay đổi chủ sở hữu. Những dữ liệu của Hoa Kỳ
cũng cho thấy có mối liên hệ giữa hoạt động sản xuất của doanh nghiệp bị mua
lại với quy mô của nó. Những con số này cho thấy, việc chuyển chủ sở hữu sẽ
giúp các đơn vị sản xuất có quy mô lớn gia tăng năng suất. Đối với các đơn vị
sản xuất nhỏ, việc mua lại và sáp nhập giúp cho họ đảm bảo được nguồn cung
ứng cần thiết để tiếp tục phát triển. Những nghiên cứu của Thuỵ Điển cho thấy
có sự khác biệt giữa các trường hợp M&A diễn ra giữa các doanh nghiệp trong
cùng một nước và giữa các doanh nghiệp thuộc hai nước khác nhau. Kết quả cho
thấy, đối tượng bị mua lại và sáp nhập thường là những doanh nghiệp có sản
lượng thấp hơn sản lượng trung bình của ngành. Sau khi được một doanh nghiệp
nước ngoài mua lại, các doanh nghiệp thường đạt được sự gia tăng đáng kể về
năng suất. Trong khi đó, những doanh nghiệp bị mua lại và sáp nhập bởi một
doanh nghiệp khác trong cùng quốc gia thì năng suất lao động lại không đổi,
thậm chí có lúc lại còn bị giảm sút. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp được mua lại
cũng tăng được quy mô tổ chức và đổi mới về công nghệ so với các doanh
nghiệp không trải qua quá trình M&A. Tuy nhiên, các doanh nghiệp được mua
lại bởi các doanh nghiệp ở một nước khác thì có được kết quả doanh số bán
hàng, lượng xuất khẩu khả quan hơn.
4. Hoạt động của doanh nghiệp sau M&A
Thực tế cho thấy rằng sau khi diễn ra hoạt động M&A, các doanh nghiệp
không thực sự đạt được mức tăng trưởng như mục tiêu họ đề ra. Theo cuộc khảo
sát do AT Kearney và KPMG tiến hành vào năm 1999, chỉ một phần nhỏ các
doanh nghiệp sau khi tiến hành hoạt động M&A thì có mức tăng về giá trị của
cổ phiếu. Thậm chí một số công ty, sau khi tiến hành M&A thì cổ phiếu đã giảm
Trang 41
giá tới hơn 50% giá trị. Bên cạnh đó, AT Kearney cũng chỉ ra rằng tới 58%
trường hợp sau các cuộc sáp nhập thì doanh nghiệp không đạt được những mục
tiêu đã đề ra. Bên cạnh đó, dù các doanh nghiệp khi tiến hành sáp nhập thường
nhấn mạnh vào tầm quan trọng của những nhân viên tài năng nhưng thực tế chỉ
ra rằng có tới 47% quản trị viên cấp cao rời bỏ doanh nghiệp trong vòng một
năm sau khi sáp nhập. Năng suất cũng bị giảm tới 50% trong vòng 6-8 tháng.
Có hai cách để xem xét tình hình hoạt động của doanh nghiệp sau khi họ
tiến hành hoạt động M&A.
a. Căn cứ vào giá của cổ phiếu công ty
Đây là cách thức thường được sử dụng khi thị trường chứng khoán hoạt
động hiệu quả, tức là thị trường phản ánh đúng tình hình hoạt động của công ty
thông qua những biến động về giá cổ phiếu của công ty đó. Tình hình hoạt động
của doanh nghiệp sau khi tiến hành hoạt động M&A được xem xét dựa vào việc
so sánh giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp trước và sau khi doanh nghiệp tiến
hành hoạt động M&A. Kết quả cho thấy, tới 2/3 trong số các trường hợp M&A,
các cổ đông của cả công ty mua lại và công ty bị mua lại đều phải chứng kiến
giá cổ phiếu của họ bị giảm sút(Schenk 2000). Những nghiên cứu khác cũng cho
thấy, việc hợp nhất kéo dài quá một năm làm cho giá trị của phần cổ tức dành
cho các cổ phiếu phổ thông cũng bị giảm sút (Magenheim và Mueller 1988) .
b. Căn cứ vào các số liệu về hoạt động
Đây là một cách khác dùng để đánh giá tác động của M&A với doanh
nghiệp. Phương pháp này dựa trên những con số thống kê thị phần và lợi nhuận
của doanh nghiệp một vài năm trước và sau khi có hoạt động M&A. Kết quả cho
thấy, dù trục thời gian dùng để xem xét và đánh giá là khá dài nhưng trong hầu
hết các trường hợp M&A, hầu hết các doanh nghiệp không thể đạt được mức
tăng lợi nhuận đáng kể trong dài hạn. Những nghiên cứu về các doanh nghiệp ở
nước Anh cho thấy, 10-18 năm sau khi các doanh nghiệp thực hiện việc M&A,
lợi nhuận của họ chẳng tăng là mấy so với thời kỳ trước khi có hoạt động M&A.
Trang 42
Bên cạnh đó, 22 nghiên cứu trên phạm vi 9 quốc gia cho thấy, trung bình một
công ty thực hiện việc mua lại và sát nhập không hề đạt được mức lợi nhuận cao
hơn lợi nhuận trung bình của ngành (tờ Bild của Đức năm 1998). Đồng thời, các
nghiên cứu cũng cho thấy một kết quả khá ngạc nhiên là việc M&A diễn ra theo
hình thức conglomerate đem lại những kết quả kinh doanh cho các doanh nghiệp
là khả quan hơn so với hội nhập ngang và hội nhập dọc. Thêm vào đó, trong các
trường hợp việc M&A được tiến hành xuyên quốc gia thì sự khác biệt lớn về
văn hoá của doanh nghiệp mua lại và bị mua lại đem lại sự tăng trưởng về doanh
số bán hàng.
Trang 43
CHƯƠNG II. BÀI HỌC RÚT RA TỪ HOẠT ĐỘNG MUA LẠI&SÁP NHẬP
NỔI TIẾNG TRÊN THẾ GIỚI
Cùng với dòng chảy thời gian, thế giới đã chứng kiến rất nhiều vụ mua lại
và sáp nhập thành công. Bên cạnh đó ta cũng không thể không kể đến những vụ
mua lại & sáp nhập thất bại. Sau đây chúng tôi xin đi sâu phân tích một vài ví dụ
điển hình về hoạt động M&A của các tập đoàn nổi tiếng trên thế giới. Thông qua
đó, ta có thể có được một cái nhìn toàn diện và rút ra những bài học kinh nghiệm
về M&As.
1. Procter & Gamble mua lại Gillete.
Procter & Gamble (P&G) thành lập năm 1837 có trụ sở tại bang Ohio-
Mỹ là một trong những công ty lớn nhất thế giới trong sản xuất các sản phẩm
tiêu dùng chăm sóc sắc đẹp và gia đình. Procter & Gamble sản xuất những sản
phẩm chắc bền chất lượng cao với giá hợp lý có thể đáp ứng được yêu cầu của
khách hàng và luôn thân thiện với môi trường. P&G có chi nhánh trên 80 nước
và bán sản phẩm của mình dưới 300 nhãn hiệu với 5 tỷ khách hàng ở hơn 160
quốc gia trên thế giới. Năm 2004 doanh thu của công ty là 56,74 tỷ USD, lợi
nhuận ròng là 7,26 tỷ USD, đầu tư nước ngoài 2,18 tỷ USD, ngân sách dành cho
nghiên cứu và phát triển là 1,94 tỷ USD và có số lao động 110 000 người.
Gillette thành lập năm 1901 là công ty của Mỹ đứng đầu thế giới về sản
phẩm chăm sóc vệ sinh cá nhân cho nam bao gồm lưỡi dao cạo, bàn cạo, máy
cạo râu. Công ty cũng sản xuất sản phẩm sửa lỗi, máy chăm sóc răng, bàn chải
đánh răng. Doanh số năm 2004 là 9 tỷ USD.
Tháng 1/2005 công ty Procter & Gamble đã tuyên bố mua lại Gillette với
giá 57 tỷ USD, gấp 6 lần doanh số của Gillette (9 tỷ USD). P&G từ lâu đã
hướng về đối tượng khách hàng là phụ nữ và trẻ em sơ sinh giờ đây sáp nhập với
Gillette - một hãng đứng đầu về các sản phẩm cho nam giới. Tuy nhiên sự sáp
nhập này không làm ảnh hưởng đến những mặt hàng cùng loại mà kéo theo phát
triển sự hợp tác về thương mại, công nghiệp, marketing, R&D, quản lý đặc biệt
là lợi thế về mạng lưới phân phối rộng lớn giữa hai đối tác.
Trang 44
Sau vụ mua lại và sáp nhập này, Procter & Gamble đã thông báo kế hoạch
trước công chúng kế hoạch sa thải 6000 công nhân (trên toàn bộ 140 000 người).
Khi hai trụ cột của nền công nghiệp Mĩ hợp nhất, điều đó không chỉ làm đảo lộn
quang cảnh chung của ngành này (tập đoàn trở thành số 1 thế giới vượt cả
Unilever) mà còn là lợi nhuận khổng lồ với các nhà phân phối. Không hề có sự
cạnh tranh của các sản phẩm hai phía vì chúng hướng tới các khách hàng khác
nhau. Tuy nhiên, các nhóm khách hàng khi mua hàng của loại này lại thường có
xu hướng mua thêm loại kia. Do đó, hai tập đoàn bán hàng trong cùng kênh siêu
thị. Điều này giúp cho họ tranh thủ được cơ sở vốn có của bên kia và tận dụng
bán đi kèm các sản phẩm của cả hai bên cho cùng một nhóm khách hàng. Tập
đoàn mới P&G – Gillette có trên 5 sản phẩm số 1 thế giới, tài sản của tập đoàn
này đặt ở những phần thị trường mà đã đem lại cho họ sức tăng trưởng với tỷ lệ
cao nhất. Chính sự bao trùm về địa lý và chính sách sáng tạo năng động đã giúp
tập đoàn mới có được thành công vượt bậc.
Vụ mua lại và sáp nhập giữa hai tập đoàn lớn Procter & Gamble và Gillette
của Mỹ với giá trị giao dịch 57 tỷ USD năm 2005 mang tính chất sáp nhập bình
đẳng cho ra đời tập đoàn mới Procter & Gamble-Gillette là một vụ trong những
vụ sáp nhập lớn nhất của các công ty xuyên quốc gia, đã đem lại thành công và
phát triển cho tập đoàn mới.
2. Vụ sáp nhập giữa tập đoàn tài chính J.P. Morgan Chase và ngân hàng
Bank One
Bank One là ngân hàng lớn thứ sáu của Mỹ, có trụ sở hoạt động tại
Chicago. Ban đầu Bank One được thành lập như một công ty quản lý vốn cho
City National Bank của Colombus và một vài ngân hàng khác trong đất nước.
Sau đó tập đoàn Bank One đã sáp nhập với First Chicago NBO Corporation để
lập nên Bank One Corporation và trụ sở được chuyển từ Colombus tới Chicago.
JP Morgan là tập đoàn tài chính đứng đầu thế giới và là một trong các
ngân hàng lớn nhất ở Mĩ với số vốn sở hữu là 1200 tỉ USD và 106 tỉ đôla trị giá
chứng khoán, hoạt động tại hơn 50 quốc gia. Trụ sở của hãng được đặt tại New
Trang 45
York. Lĩnh vực hoạt động chính của tập đoàn này là đầu tư ngân hàng, dịch vụ
tài chính cho người tiêu dùng và doanh nghiệp, ngoài ra còn có nghiệp vụ xử lý
các giao dịch tài chính. Hiện nay tập đoàn này đang phục vụ cho khoảng hơn 90
triệu khách hàng, bao gồm cả khách hàng Mĩ và khách quốc tế.
Để đi đến quyết định sáp nhập chính thức cả hai tập đoàn này đã phải trải
qua rất nhiều tranh luận. Những nhà phê bình Chicago tỏ ra lo lắng khi họ được
chuyển tới NewYork, có thể họ sẽ không còn được tín nhiệm cao như khi họ
còn hoạt động tại Chicago; hơn nữa chi phí phải chi trả sẽ cao hơn trong khi hoạt
động cho vay có thể không hiệu quả như trước. Phản đối lại, phía những người
ủng hộ đã đưa ra lý do hết sức chính đáng rằng việc liên kết này có thể giúp tạo
ra sự cạnh tranh độc quyền và điều hoà được những rủi ro tiềm ẩn nhờ vào sự
liên kết sức mạnh của hai công ty. Hơn nữa bản thân giữa hai giám đốc điều
hành của hai tập đoàn đã có sự đấu tranh. Jamie Diamon, nguyên giám đốc điều
hành của Bank One đã đặt ra điều kiện với Harrison, giám đốc điều hành JP
Morgan rằng ông sẽ bán lại Bank One với giá rẻ hơn nếu sau đó ngay lập tức
ông được ngồi vào chiếc ghế giám đốc điều hành tập đoàn mới.
Ngày 15/1/2004, Bank One thông báo họ đã bán lại công ty cho
J.P.Morgan Chase với trị giá là 58 tỷ USD. Vụ sáp nhập này chính thức hoàn
thành vào tháng 7 năm 2004, hình thành nên một tập đoàn tài chính đứng đầu
trong việc đầu tư ngân hàng, dịch vụ tài chính cho người tiêu dùng và thương
nhân, xử lý giao dịch tài chính, vốn và quản lý vốn.
Đối với hai ngân hàng, lợi ích lớn nhất là họ đã có một số vốn khổng lồ
nhờ sự trao đổi này. Kết hợp được cả kinh nghiệm lâu năm trong hoạt động tài
chính và lượng vốn khổng lồ từ hai đại gia nên tập đoàn mới đã nhanh chóng thu
được thành công. Năm 2004, tập đoàn mới này đã thu về 10 tỷ đôla lợi nhuận
ròng. Ngoài ra cơ cấu nhân sự của tập đoàn mới cũng có sự thay đổi để dung hòa
lợi ích cho cả hai bên. Harrison trở thành chủ tịch hội đồng quản trị, còn Jamie
Darmon nắm giữ chức vị tổng giám đốc kiêm giám đốc điều hành tập đoàn mới.
Như vậy vụ sáp nhập không những dung hòa được lợi ích chung về kinh doanh
Trang 46
của hai tập đoàn mà còn làm vừa lòng cả những người có nhiều lợi ích nhất của
cả hai bên. Đó chính là bí quyết cho sự thành công của M&A này.
3. Renault mua lại cổ phần của Nissan và Samsung Motor.
Nissan Motor thành lập năm 1911 tại Osaka. Đầu tiên được gọi là Dat
Jidosha-Seizo, năm 1933 đổi tên thành Jidosha-Seizo và cuối cùng là Nissan
năm 1934. Nissan đã phát triển mạnh mẽ vào những năm 1970 khi mà nền công
nghiệp ô tô Nhật Bản đang nở rộ. Nissan trở thành hãng ô tô đứng thứ hai Nhật
Bản sau Toyota. Kể từ đó tham vọng của Nissan là luôn luôn theo kịp đối thủ
nhưng chưa bao giờ Nissan làm được.
Trong những năm 1990 công ty phát triển rất chậm chạp, hoạt động
Marketing không có tác dụng, hình ảnh công ty mờ nhạt dần. Trong suốt thập
niên này công ty chỉ có lợi nhuận trong năm 1996. Nissan đứng bên bờ vực của
sự phá sản đã phải bán một phần công ty cho Renault, một nhà chế tạo ô tô Pháp
năm1999.
Năm 1994 Samsung liên kết với Nissan Motor tạo ra Samsung Motor Inc
(SMI). Năm 1997, sau việc đầu tư tổng thể 2 tỉ USD, SMI đã trở thành một nhà
chế tạo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1998 Samsung Motor lăng xê sản phẩm SM5
(dựa trên sản phẩm Nissan Maxima) trong lúc cuộc khủng hoảng kinh tế đang
diễn ra trên toàn quốc. Mặc dù sản phẩm SM5 đem lại thành công nhưng cũng
không thể cứu được công ty gánh nổi những khoản nợ của các chi nhánh làm ăn
thua lỗ, Samsung quyết định giải thể hoạt động ngành ô tô.
Renault là công ty chế tạo ô tô của Pháp được thành lập năm 1899 với tên
là Renault Freres. Năm 1905, Renault trở thành nhà chế tạo số một Pháp. Năm
1913 Renault đã mở rộng xưởng chế tạo đến 136.000m2, sản xuất 4200 xe. Sau
đó Renault thay đổi trong lĩnh vực sản xuất các phương tiện chuyên chở quân
đội và máy bay. Renault trở thành tập đoàn công nghiệp đứng đầu ở Pháp. Năm
1945 Renault được quốc hữu hoá và trở thành mạng lưới xí nghiệp xuyên quốc
gia. Đến năm 1996 công ty được tư nhân hoá.
Trang 47
Ngày 31/03/1999 công ty chế tạo ô tô Pháp đã mua lại 35% cổ phần của
Nissan với trị giá 5,3 tỷ. Ngay sau vụ mua lại, Carlos Ghosn, nhà lãnh đạo số
hai của Renault thời kỳ này đã được cử đến lãnh đạo Nissan, trở thành người
Pháp đầu tiên đứng đầu một doanh nghiệp chế tạo ô tô Nhật Bản.
Sau vụ mua lại & sáp nhập này, Carlos Ghosn trở thành tổng giám đốc của
Nissan và ông đã dựng lại công ty với bản kế hoạch nổi tiếng “Kế hoạch làm
sống lại Nissan”. Nhờ áp dụng chính sách giảm giá thành sản xuất mà thực chất
là giảm 21000 nhân viên và việc hiệp đồng với cổ đông mới của nó là Renault,
Nissan đã trở thành một tập đoàn cạnh tranh tầm thế giới. Nhờ nhứng chính sách
đúng đắn, L’Alliance Renault-Nissan hiện nay đã trở thành tập đoàn ô tô thứ tư
thế giới. Ở Châu Âu cũng như phần còn lại của thế giới Renault Nissan là nhãn
hiệu đang rất được ưa chuộng: Năm 2003, 542.592 phương tiện đã được bán.
Hoạt động hiệu quả cuả nó có thể thấy qua lượng nhân công ngày càng tăng:
tháng 3/2003 số lượng nhân viên của Renault Nissan trên toàn thế giới lên tới
127.625 người. Renault Nissan sử dụng khoảng 12.000 nhân viên là người Châu
Âu, được phân bổ trong các ngành hoạt động đa dạng như là: dự kiến sản phẩm
mới, lập dự án, nghiên cứu và phát triển, chế tạo, logistic, bán hàng và
marketing
Renault sau khi mua lại Nissan tiếp tục cứu thoát công ty Samsung Motor
vào năm 2000 khi Samsung đã không thể gánh nổi những thua lỗ nặng nề của
các chi nhánh. Sau việc mua lại này, Samsung Motor đổi tên thành Renault
Samsung Motor và khởi động lại những hoạt động thương mại và công nghiệp.
Năm 2002 với việc tung vào thị trường sản phẩm SM3, Renault Samsung đã bao
phủ 10% thị trường Hàn Quốc. Năm 2004 Công ty lại tiếp tục tung sản phẩm
SM7 trên thị trường xe dòng sản phẩm chất lượng cao và năm 2005 là sản phẩm
SM5.
Dự định của công ty là đến năm 2007 những sản phẩm được sản xuất tại
Hàn Quốc phần lớn sẽ được xuất khẩu sang Châu Âu dưới nhãn hiệu Renault.
Trang 48
4. Vụ sáp nhập giữa Mercedes-Benz và Chrysler
Trên đây đều là những ví dụ về các vụ mua lại và sáp nhập thành công, sau
đây chúng tôi xin đưa ra một điển hình không thành công của hoạt động này.
Đã từ lâu Mercedes-Benz được đánh giá như một thương hiệu của sự đắt
giá và đáng tin cậy. Tập đoàn này xuất hiện vào năm 1926 sau vụ sáp nhập giữa
hai đối thủ cạnh tranh Đức Daimler-Motoren-Gesellschat (DMG) và Benz & Cie
(Benz). Chúng tôi xin không đề cập đến sự thành công của vụ sáp nhập này mà
sẽ chú trọng phân tích vào vụ sáp nhập sau đây của Mercedes-Benz và Chrysler.
Cho đến những năm đầu thâp kỉ 90, Mercedes chỉ sản xuất những xe hơi
hạng sang dành cho giới thượng lưu và không cung cấp sản phẩm của mình cho
bất kì phân đoạn nào khác của thị trường. Mercedes-Benz đã thành công với
chiến lược đó và trở thành một trong những nhà sản xuất xe hơi sang trọng hàng
đầu thế giới. Tuy nhiên gần đây nó đã trải qua những ngày thực sự khó khăn.
Giữa những năm 1990 của thế kỉ 20, ở châu Âu xảy ra một cuộc suy thoái
kinh tế. Trong hoàn cảnh đó, DaimlerBenz công ty sản xuất xe hơi hạng sang
hàng đầu thế giới quyết định chuyển đổi chiến lược từ chỗ chỉ sản xuất xe hạng
sang dành cho giới thượng lưu mở rộng ra sản xuất các dòng xe hạng nhỏ và
hạng trung dành cho các phân đoạn thị trường khác. Năm 1997, Mercedes-Benz
thành lập một cơ sở sản xuất ở Mỹ do nhận ra tiềm năng của những chiếc xe ôtô
thể thao tiện ích (SUV) ở thị trường này. Năm 1998, Mercedes-Benz sáp nhập
với tập đoàn Chrysler của USA – một nhà sản xuất xe hơi hạng trung của Mỹ
cho ra đời tập đoàn Daimler-Chrysler. Sau khi Schrempp tiến hành “gán ghép”
Daimler và Chrysler, với tham vọng trở thành một đại gia ôtô hàng đầu thế giới,
câu hỏi mà những người thuộc phái hoài nghi đặt ra từ đầu vẫn còn nóng hổi:
Cuộc hôn phối này sẽ đi về đâu? Giám đốc điều hành công ty Schrempp mơ ước
sự kết hợp giữa chất lượng (Mercedes) và sự phổ thông (Chrysler) sẽ bổ sung
những ưu khuyết cho nhau, sự hợp tác hỗ trợ sẽ nhanh chóng mang lại lợi ích.
Nhưng tiếc thay chẳng có gì diễn ra như đã định cả. Trong vòng 7năm sau vụ
sáp nhập tính đến năm 2005, Daimler-Chrysler đã nếm trải những bước thăng
Trang 49
trầm ít ai có thể ngờ. Hàng loạt vấn đề nảy sinh, chất lượng giảm sút, thua lỗ
trong kinh doanh xe hạng nhỏ, chi phí sản xuất cao. Tất cả đẩy Mercedes từ chỗ
là biểu tượng toàn cầu về chất lượng và thuộc số những nhà sản xuất xe hơi làm
ăn phát đạt nhất, rơi vào tình trạng thua lỗ triền miên. Riêng nửa đầu năm 2005,
Mercedes đã thua lỗ 1,1 tỷ USD. Chrysler đã ngốn hàng tỷ đầu tư và làm ban
quản trị đau đầu trong nhiều năm. Công ty con Chrysler liên tục thua lỗ, phải
dựa vào công ty mẹ. Năm 2000, Chrysler rơi vào khủng hoảng trầm trọng và
làm thiệt hại 4,7 tỷ USD chỉ riêng một năm sau đó. Hiện nay Chrysler đang có
nguy cơ bị tách khỏi Mercedes khi Dieter Zestch đảm nhiệm vị trí lãnh đạo của
Mercedes Car Group. Thêm nữa ta không thể không nhắc tới sự thất bại của
phân nhánh xe cao cấp Mercedes. Daimler đã phải chắt bóp chi phí trong việc
sản xuất dòng xe này. Mercedes đòi hỏi mức giá thấp hơn từ phía các nhà cung
cấp và đổi lại buộc phải giảm bớt các yêu cầu về chất lượng.Chất lượng sút giảm
đã giáng đòn mạnh vào uy tín của Mercedes ở cả hai thị trường châu Âu và châu
Mỹ, những nơi lần lượt chiếm 76% & 21% số xe tiêu thụ của công ty. Thị phần
của Mercedes ở châu Âu do vậy đã giảm xuống còn 4,2 % trong nửa đầu năm
2005, so với con số 4,5% cùng giai đoạn năm 2004. Trong giai đoạn 1995-2000,
đóng góp vào tổng doanh số của 2 dòng xe cao cấp S-class & E-class giảm
xuống còn 32% so với 71% giai đoạn 1990-1995. Cuối cùng ta phải kể đến
những đánh giá của giới kinh doanh, nhà băng, các chuyên gia về công ty
Daimler sau sự vụ sáp nhập này? Những giới này đang mất dần lòng tin ở
Daimler. Trong nhiều năm, công ty này được sự hậu thuẫn hùng hậu từ cổ đông
lớn nhất Deutsch Bank. Nhưng vào ngày 28/07/2005 nhà băng đứng đầu nước
Đức này đã bán bớt cổ phần trong DaimlerChrysler, giảm từ 10,4% xuống còn
6,9% cảnh báo sẽ bán nốt số cổ phần còn lại cho cổ đông khác nhằm gây sức ép.
Ở Đức, các nhà băng & giới kinh doanh chứng khoán đã tính chuyện mua lại
toàn bộ DaimlerChrysler hay một phần nhằm gây sức ép, buộc ban quản trị từ
bỏ tham vọng duy trì sự kết hợp giữa Daimler & Chrysler. Những người phản
đối vụ sáp nhập cho rằng việc Mercedes “ly hôn” Chrysler sẽ kích thích các nhà
đầu tư bởi một mình Mercedes sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn và do đó tăng uy
Trang 50
tín giá trên thị trường. “Lựa chọn khôn ngoan nhất của Zestch là tách Mercedes
khỏi Chrysler”, chuyên gia phân tích thị trường Stephen Cheetham của Sanford
C. Bernstein, London, khẳng định. Theo ông, tổng giá trị DaimlerChrysler lúc
đó sẽ vào khoảng 72-96 tỷ USD, gần gấp đôi con số 51,5 tỷ USD vào năm
2005.rõ ràng là sự kết hợp giữa đẳng cấp và phổ thông đã vấp phải nhiều khó
khăn hơn bất cứ ai có thể hình dung. Nếu như trước đây Daimler & Benz là hai
đối thủ cạnh tranh cùng tập trung vào một dòng sản phẩm xe cao cấp, đã sáp
nhập với nhau trở thành một DaimlerBenz thành công & danh tiếng thì sự sáp
nhập của DaimlerBenz với Chrysler – hai công ty có hai dòng sản phẩm không
thống nhất tỏ ra thiếu hiệu quả. Sự phối hợp giữa hai công ty ít tương đồng về
sản phẩm sẽ thật khó khăn. Tuy đã học tập đối thủ, Chrysler & Mercedes đang
sử dụng chung thiết kế & linh kiện cho nhiều mẫu xe, cả hai lại không có được
sự hợp tác như giữa các bộ phận khác nhau của Nissan hay Toyota nhằm tiết
kiệm chi phí. Giữa Chrysler & Mercedes sự tương hỗ chỉ dừng lại ở các phụ
tùng đơn giản. Nếu như DaimlerBenz không chuyển đổi chiến lược, vẫn giữ
nguyên chiến lược ổn định, chỉ tập trung vào phân đoạn thị trường dành cho
tầng lớp thượng lưu và không sáp nhập với Chrysler thì kết quả sẽ như thế nào?
Ban đầu, Mercedes dường như chiếm vị trí cao nhất trong phân đoạn thị trường
của mình về tuổi đời, danh tiếng cũng như chất lượng của hãng mình. Trong một
phân đoạn có ít đối thủ cạnh tranh cũng như đối thủ mới gia nhập ngành như
vậy, sự cạnh tranh cũng ít khốc liệt hơn so với phân khúc hạng trung là võ đài có
đông đối thủ tham gia nhất. Nếu như Mercedes vẫn tiếp tục phát huy chiến lược,
sở trường của mình là chỉ sản xuất xe hơi chất lượng cao không dàn trải phạm vi
hoạt động tôi tin đối thủ đồng hương có quy mô nhỏ hơn BMW không thể lấn
sân và qua mặt Mercedes được. Trong khi đó phân khúc hạng trung vốn đã là sở
trường của người Nhật, DaimlerChrysler khó lòng vượt qua. Thêm nữa chu kì
kinh tế trong đó có sự suy thoái là tất yếu và chỉ xảy ra trong một thời đoạn nhất
định, sự sụt giảm doanh số trong dòng xe hạng sang của hãng khi chưa tiến hành
chuyển đổi chiến lược cũng chỉ là tạm thời. Nền kinh tế châu Âu và thế giới
chắc chắn sẽ phục hồi.& phát triển để rồi doanh số bán của công ty sẽ được cải
Trang 51
thiện. Phải chăng các nhà hoạch định chiến lược công ty đã có phần vội vàng khi
chuyển đổi chiến lược, đánh mất chiến lươc mục tiêu của công được xây dựng
và khẳng định trong một thời gian dài? Có vội vàng không khi DaimlerBenz mở
rộng lĩnh vực hoạt động sang phân khúc hạng trung, sáp nhập với Chrysler, để
rồi bắt đầu từ năm 1998, từng đoàn các nhà quản lý lũ lượt kéo đến Auburn Hill
(trụ sở của Chrysler) và nhanh chóng phát hiện ra Chrysler (vốn có một lịch sử
đầy thăng trầm) đang ở trong tình trạng tồi tệ hơn dự kiến?
Ta có thể thấy rằng vụ sáp nhập giữa DaimlerBenz và Chrysler đã tỏ ra
không thành công nếu không nói là thất bại. Và chúng ta nên nhìn vào ví dụ này
để rút ra kinh nghiệm cho hoat động M&A.
Trang 52
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VỚI HOẠT ĐỘNG MUA LẠI&SÁP NHẬP
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VẤN ĐỀ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP CỦA VIỆT
NAM
*Thực trạng phát triển hoạt động mua lại và sáp nhập trong những
năm vừa qua
a. Tình hình hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời cùng với việc thực hiện chính sách
đổi mới, mở cửa năm 1986. Một năm sau đó, Luật đầu tư nước ngoài ra đời tạo
cơ sở pháp lý cho thu hút đầu tư và nhanh chóng đi vào cuộc sống. Năm 2005,
Luật đầu tư chung được quốc hội thông qua đánh dấu bước công nhận quyền
bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong , ngoài nước trong việc đầu tư. Ngày 7
tháng 11 năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO, đánh dấu
tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới; tác động sâu rộng đến hoạt
động đầu tư nước ngoài.
Qua gần 20 năm thu hút đầu tư nước ngoài dã có trên 7000 dự án đầu tư
được cấp giấy phép với số vốn lên đến trên 70 tỉ USD, trong đó, vốn thực hiện
đã chiếm trên một nửa. Trong năm 2001 - 2005 thu hút đầu tư nước ngoài có
bước chuyển biến tích cực, tổng mức vốn đăng kí đạt 20,9 tỉ USD, tổng vốn thực
hiện đạt 14,3 tỉ, vượt 30% kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm trước. Năm
2006, số vốn đăng kí đầu tư nước ngoài vượt ngưỡng 8 tỉ USD.
Tuy vậy, môi trường đầu tư ở Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện và được các
tổ chức kinh tế đánh giá cao. Số vốn thất bại (bị rút giáy phép hoạc đề nghị rút
giấy phép) là 1,27 tỉ USD chiếm 20% tổng vốn đăng kí trong năm 2005. Năm
2006, WEF xếp Việt Nam hạng 77/125 quốc gia về mức độ cạnh tranh, trong đó
mức độ hài lòng của doanh nghiệp đứng thứ 86, độ sẵn sàng công nghệ thứ 85,
kết cấu hạ tầng thứ 83. Trong các nước ASEAN được xếp hạng, Việt Nam chỉ
xếp trên Campuchia(103), trong khi Malaisia là 26, Thái Lan là 35.
Trang 53
Theo đánh giá của ngân hàng thế giới (WB) và công ty tài chính quốc tế
(IFC) về mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh, năm 2006 Việt Nam xếp
hạng 104/175 nền kinh tế, tụt 6 bậc so với năm 2005. Nếu xét trong khu vực
châu Á - Thái Bình Dương với 23 quốc gia thì Việt Nam đứng thứ 17 trong khi
Singapore là thứ 1, Thái Lan thứ 3, Malaisia thứ 4.
Theo đánh giá của UNCTAD về chỉ số tiềm năng thu hút FDI thì các giai
đoạn 2000 - 2002; 2001 - 2003; 2002 - 2004 của Việt Nam làn lượt là 67; 68; 74
trên 140 quốc gia còn chỉ số thực hiện thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
giai đoạn 2000-2002 Việt Nam được xếp hạng 51/141 quốc gia; năm 2003 -
2005 là 53 /141 quốc gia.
Về hoạt động đầu tư ra nước ngoài từ tháng 4 năm 1999 đến hết quý I
năm 2006 đã có 156 dự án đầu tư ra nước ngoài vời tổng số vốn đăng kí 665
triệu USD trong đó có 56 dự án liên doanh với nước ngoài. Các dự án đầu tư ra
nước ngoài được thực hiện tại 32 nước và lãnh thổ chủ yếu là tại Lào, Nga…
Thực tế cho thấy ngày càng nhiều các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng tài
chính quan tâm đến đầu tư ra nước ngoài nhằm mở rộng thị trường, tiết kiệm chi
phí sản xuất, chi phí vận tải và khai thác lợi thế của hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhìn chung, các dự án đầu tư ra nước ngoài bước đầu triển khai có hiệu
quả. Qua đó, sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng lên, đồng thời
tác động tích cực tới việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ mà tổ
chức kinh tế trong nước liên kết với doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Tuy
nhiên, nhà nước chưa chủ động xây dựng chiến lược và vận động xúc tiến đầu tư
ra nước ngoài. Hiện nay, phổ biến là doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính tự đề
nghị Chính phủ xem xét chấp thuận. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta chưa thấy hết
tầm quan trọng và tính khách quan của đầu tư ra nước ngoài trong bối cảnh hội
nhập nền kinh tế thế giới.
b. Xu hướng phát triển của hoạt động M&A
Nếu như trước đây, nói đến hoạt động mua lại và sáp nhập, các doanh
nghiệp Việt Nam còn cảm thấy xa lạ. Đa phần chúng ta coi sự thôn tính doanh
Trang 54
nghiệp chỉ là một hiện tượng của nền kinh tế tư bản phát triển ở nước ngoài.
Ngay cả trong những văn bản về pháp luật thì việc mua lại và sáp nhập cũng ít
được đề cập đến. Tuy nhiên trong những năm trở lại đây, mua lại và sáp nhập
bắt đầu trở nên quen thuộc và dược nhiều người biết đến dặc biệt là từ khi tiến
trình cổ phần hoá được thực hiện.
Mặc dù việc mua lại và sáp nhập của các công ty nước ngoài vào Việt
Nam hiện nay còn chưa thực phổ biến, nhưng triển vọng sắp tới của lĩnh vực
M&A tại Việt Nam là rất lớn do:
* Sự ra đời của Luật đầu tư chung yêu cầu quyền bình đẳng tương đối
giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước đồng thời với lộ trình gia nhập tổ
chức thương mại thế giới WTO. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp mạnh dạn
hơn trong khi thực hiện các hoạt động M&As.
* Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đang được đẩy
mạnh, trong đó số doanh nghiệp chưa được cổ phần hoá vẫn còn tương đối nhiều
đem đến cơ hội mua lại và sáp nhập.
* Yêu cầu về số vốn điều lệ trong các ngân hàng và tổ chức tài chính,
cùng với việc chuẩn bị mở cửa thị trường ngân hàng tài chính theo Hiệp định
Việt - Mỹ làm tăng khả năng bị mua lại và sáp nhập của các ngân hàng trong
nước.
* Sự ra đời của thị trường chứng khoán và sự phát triển nóng của thị
trường này cũng đẩy nhanh nguồn cung và cầu của thị trường mua bán doanh
nghiệp, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động mua lại và sáp nhập
Trang 55
* Mua lại và sáp nhập là một xu thế chung của nền kinh tề phát triển và
hội nhập khi mà các công ty xuyên quốc gia chiếm một vai trò lớn trong tổng thể
toàn bộ nền kinh tế.
Trong xu thế đó, chúng ta thấy nhiều Công ty Quản lý quỹ và các quỹ đầu tư được
thành lập nhằm thu hút lượng vốn lớn cả trong và ngoài nước để mua lại, hoặc đầu tư vào các
dự án, mua lại các công ty hoặc cổ phiếu được phát hành. Bên cạnh đó trên thị trường cũng
sắp có quỹ mua bán doanh nghiệp đầu tiên với số vốn điều lệ là 100 tỉ VNĐ , quỹ này sẽ liên
kết với một quỹ đầu tư của Hồng Kông và một Quỹ đầu tư của Mỹ để nâng mức vốn điều lệ
lên tới 1000 tỉ VNĐ và hoạt động chủ yếu mua lại các doanh nghiệp sau đó đầu cơ hoặc đưa
lên sàn giao dịch.
Như ta đã biết về những tác động của M&A tới nền kinh tế của nước
nhận đầu tư được phân tích trong chương I,tác động của M&A tới
nền kinh tế VIỆT NAM cũng không nằm ngoài những tác động
đó,bao gồm cả những tác động tích cực cũng như tiêu cực.
Hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp luôn có tác động ngược
chiều nhau đối với môi trường kinh doanh.
Tác động thứ nhất, tác động tích cực là việc mua lại và sáp nhập doanh
nghiệp giúp cho bản thân các doanh nghiệp sau khi mua lại và sáp nhập có được
các lợi thế trong kinh doanh từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh cho hoạt
động chung của các doanh nghiệp :
* Mở rộng thị trường và cơ sở vật chất nhưng tiết kiệm được thời gian từ
khi xây dựng tới khi đưa vào sản xuất
* Tiết kiệm chi phí Marketing khi tiếp quản thị phần của doanh nghiệp bị
mua, bị sáp nhập.
* Có được đội ngũ cán bộ và công nhân về một lĩnh vực sản xuất trong
thời gian ngắn nhất và do đó, tiết kiệm được chi phi đào tạo
* Tạo ra sự tích tụ các nguồn lực sản xuất và vốn để tăng tính cạnh tranh
trên thị trường
Trang 56
Các doanh nghiệp Việt Nam khi được sáp nhập hoặc mua lại một phần
bởi công ty nước ngoài sẽ có nguồn vốn lớn hơn tạo ra lợi thế quy mô trong
cạnh tranh. tiếp cận được với khoa học công nghệ hiện đại và quy trình quản lý
chuyên nghiệp hơn, đồng thời có được uy tín dựa vào thương hiệu của công ty
nước ngoài.
Tuy nhiên hoạt động mua lại và sáp nhập này cũng đem lại một số tác
động tiêu cực tới môi trường kinh doanh trong nước:
* Trong một số trường hợp việc mua lại và sáp nhập lại làm giảm tính
cạnh tranh trên thị trường khi doanh nghiệp sau khi mua lại và sáp nhập có vị trí
thống lĩnh trên thị trường và xuất hiện hiện tượng độc quyền.
* Việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp thường tạo ra các vấn đề về
xã hội liên quan tới việc người lao động bị dôi dư do cơ cấu lại hoạt động doanh
nghiệp
Một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động M&A cần phải được thiết kế để
không chỉ giới hạn các tác động xấu nhưng cũng tạo điều kiện cho những mặt
tích cực của hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp .
Trang 57
Từ thực trạng hoạt động mua lại và sáp nhập của Việt Nam như
trên ta thấy hoạt động mua lại và sáp nhập là một xu hướng tất yếu
của nền kinh tế thị trường, đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành
viên của tổ chức thương mại thể giới WTO. Để đẩy mạnh hoạt động
đầu tư nước ngoài nói chung và hoạt động mua lại và sáp nhập nói
riêng ta thay những việc cần phải làm ngay là:
* Xây dựng khung chính sách, pháp lý tạo môi trường thuận lợi cho
các nhà đầu tư.
Theo quan điểm tôi, trong thời gian trước mắt, nội dung chủ đạo của
khung pháp lý cho hoạt động mua lại và sáp nhập nên là tạo điều kiện thuận lợi
cho việc mua lại và sáp nhập doanh nghiệp Việt Nam để có thể đẩy nhanh tiến
trình tích tụ tư bản và cơ sở vật chất của các doanh nghiệp – và từ đó tăng tính
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường.
Cũng có nhiều quan điểm cho rằng, việc tạo thuận lợi cho việc mua lại và
sáp nhập các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần
hoá) sẽ có thể dẫn đến việc “tư nhân hoá ” các tài sản nhà nước với mức giá rẻ
và “mất kiểm soát nền kinh tế” khi các nguồn vốn đầu tư nước ngoài có được cổ
phần trong các công ty lớn, hoạt động ở các lĩnh vực nhay cảm của Việt Nam.
Do đó, những người theo quan điểm này cho rằng cần phải kiểm soát chặt chẽ,
hạn chế việc mua lại và sáp nhập doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là với các
công ty, các quỹ đầu tư, các tổ chức tài chính khác của nước ngoài. Tuy một
phần đồng ý với quan điểm này về khả năng thất thoát tài sản của nhà nước cũng
như sự khó kiểm soát; nhưng chúng tôi cho rằng, việc kiểm soát phải được giải
Trang 58
quyết bằng các quy định chặt chẽ và minh bạch về việc định giá doanh nghiệp
cũng như những ràng buộc pháp lý cần thiết chứ không bằng cách tăng các điều
kiện làm phức tạp thủ tục mua lại và sáp nhập doanh nghiệp.
Thêm nữa, với nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
hiện nay, khi lập pháp chúng ta nên nhìn theo trục DN Việt Nam – DN nước
ngoài, thay vì Nhà nước -Tư nhân - Nước ngoài. Đồng thời theo nguyên tắc đối
xử quốc gia mà Việt Nam cam kết khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp nước
ngoài sẽ được đối xử bình đẳng như các doanh nghiệp Việt Nam vì vậy việc
phân biệt doanh nghiệp trong hay ngoài nước chỉ diễn ra trong thời gian lộ trình
mở cửa dần dần mà chính phủ Việt Nam cam kết. Lộ trình này dài nhất cũng chỉ
là 12 năm (thời gian mà Việt Nam sau đó được công nhận là nền kinh tế thị
trường). Những xu hướng trên yêu cầu khung pháp lý của Việt Nam vừa phải
phù hợp với những cam kết quốc tế, đồng thời phải minh bạch, rõ ràng, công
bằng hơn. Chúng ta đã có Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư chung, Luật cạnh
tranh đều có những liên quan đến hoạt động mua lại và sáp nhập. Tuy nhiên,
mua lại và sáp nhập là một hoạt động có nhiều phức tạp và kẽ hở vì thế, vấn đề
cần làm hiện nay là:
• Ban hành những hướng dẫn thi hành luật cụ thể hơn với những quy định
rõ ràng về thời hạn hiệu lực tối thiểu của Luật/ Hướng dẫn nhằm tạo một
môi trường kinh doanh ổn định, công bằng. Tránh những thuật ngữ gây
tranh cãi hoặc cụ thể rõ những thuật ngữ này. Ví dụ như Luật cạnh tranh
hiện nay cấm những hoạt động mua lại và sáp nhập có thể dẫn tới việc
một doanh nghiệp có mức “tập trung kinh tế” lớn hơn 50% “thị trường
liên quan” trong khi Luật cạnh tranh và các văn bản dưới Luật không quy
định rõ thị trường liên quan là gì.
• Xác định mối quan hệ giữa các ngành luật, sự giao thoa giữa các Luật và
giá trị pháp lý cao nhất thuộc về văn bản nào.
• Xây dựng bộ máy hành chính trong sạch và đơn giản hoá các thủ tục cấp
phép , quản lý đầu tư.
Trang 59
• Bên cạnh việc xây dựng một hành lang luật pháp tốt, việc đào tạo đội ngũ
lao động là hết sức quan trọng
Nghiên cứu cho thấy, trong năm 2006, nhu cầu về nhân lực trong các
ngành tài chính, ngân hàng, chứng khoán… có liên quan mật thiết đến hoạt động
mua lại và sáp nhập tăng đến 70% so với năm 2005 nhưng cung về nhân lực lại
không tăng đãng kể, chưa kể đến những yêu cầu về chất lượng.
Việc đào tạo đội ngũ này là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế
nói chung và hoạt động M&A nói riêng. Điều này đòi hỏi Chính phủ và Bộ giáo
dục đào tạo cần có ngay một chiến lược và lộ trình hợp lý. Bên cạnh đó cũng
nên khuyến khích các tập đoàn lớn có cơ sở và chiến lược tự đào tạo như việc ra
đời của trường Đại học FPT năm 2006.
* Khuyến khích sự liên kết, hợp tác:
Nhằm tránh những mặt tiêu cực của hoạt động mua lại và sáp nhập, bản
thân các doanh nghiệp trong nước cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của
chính mình. Điều này đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ và tinh thần đoàn kết giữa các
doanh nghiệp. Hiện nay, chúng ta đã có Hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam , Hội
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Hiệp hội các doanh nghiệp phần mềm…. Đây là
một trong những cầu nối quan trọng giữa các doanh nghiệp cũng như giữa doanh
nghiệp và chính phủ nhằm giúp tiếng nói của doanh nghiệp dễ dàng đến với các
cơ quan chức năng có thẩm quyền. Sự hợp tác mật thiết giữa các doanh nghiệp
trong và ngoài nước là một trong những động lực thúc đẩy tiến trình hội nhập
ngày càng sâu rộng của đất nước.
Trang 60
KẾT LUẬN
Qua những phần nghiên cứu ở trên chúng ta đã hiểu rõ được phần nào về
hiện trạng hoạt động mua lại và sáp nhập trên thế giới nói chung và ở Việt Nam
nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay, M&As phát triển theo xu hướng gia tăng và
là hình thức đầu tư được ưa chuộng chủ yếu tại các nước phát triển, tuy vậy
những năm gần đây hoạt động M&A cũng đã bước đầu gia tăng tại các nước
đang phát triển như là một hình thức đầu tư FDI. Với các điều kiện hiện có của
Việt Nam luồng vốn FDI vào nước ta vẫn tăng đều. Đây là một dấu hiệu đáng
mừng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước ta. Tuy nhiên trong khi Ấn Độ,
Trung Quốc đang nổi lên như những trung tâm thu hút vốn đầu tư nước ngoài
lớn nhất hiện nay thì Việt Nam càng cần phải nỗ lực cố gắng hơn nữa. Thận
trọng phát huy tối đa những thế mạnh sẵn có và hạn chế tối thiểu những thiếu sót
là hết sức cần thiết đối với một nền kinh tế đang phát triển. Chúng ta cần phải
xác định chúng ta đã và chưa làm được trong việc thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài hướng tới các doanh nghiệp Việt Nam. Từ đó nhà nước và chính phủ hỗ
trợ cho các doanh nghiệp của ta khi hợp tác liên doanh với nhà đầu tư nước
ngoài. Vai trò của chính phủ rất to lớn trong việc phê chuẩn các dự án đầu tư,
các vụ mua lại và sáp nhập. Sự phối kết hợp nhịp nhàng ăn ý giữa chính phủ và
các doanh nghiệp sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp bất ngờ. Thu hút các tập đoàn
xuyên quốc gia hướng đến việc mua lai&sáp nhập với các doanh nghiệp Việt
Nam là một quá trình lâu dài đòi hỏi sự thống nhất và liên kết chặt chẽ từ trung
ương đến địa phương, các bộ ngành. Ngoài việc tận dụng triệt để những lợi ích
của hoạt động M&A chúng ta cũng không thể không cẩn trọng, không thể không
nhận ra những mặt tiêu cực và chủ động xử lí các tình huống bất lợi có thể xảy
ra. Chúng ta cũng cần phải độc lập trong khi làm việc, triển khai dự án với các
bên đối tác nước ngoài để không bị phụ thuộc vào họ. Thật là đáng buồn nếu
như chúng ta chỉ chú tâm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài mà không thực thi
các dự án một cách triệt để, vận hành hoạt động của các công ty một cách thiếu
hiệu quả. Điều đó sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, làm xấu đi hình ảnh
của ta trong mắt các nhà đầu tư, thậm chí làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền
Trang 61
kinh tế đất nước. Chúng ta đã làm gì thì phải làm đến cùng, làm một cách trọn
vẹn trong khả năng có thể, chứng minh khả năng của các nhà quản lý, các doanh
nhân Việt Nam, đem lại lợi ích cho quốc gia. Biết bao nhiêu giải pháp đã được
đề ra song từ lí luận đến thực tiễn còn là cả một quãng đường dài. Nên chăng
chúng ta hãy bước từng bước chậm rãi nhưng vững chắc đưa nước ta đi lên
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế quốc gia? Để làm được
điều đó cần có sự nỗ lực hết mình của tất cả chúng ta, làm sao cho hoạt động
M&A mang lại lợi ích lớn nhất cho đất nước.
Trong khuôn khổ còn hạn chế cũng như sự chưa đầy đủ về kiến thức khi
thực hiện đề tài “Tác động của M&A xuyên quốc gia&Bài học cho VIỆT
NAM”, đề án này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Trang 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. World Investment Report (UNCTAD)
2. An estimate of the share of mergers and acquisitions (M&A) in French
BoP direct invesment statistics in equity capital (UNCTAD)
3. Transnational corporations: impact on their home countries (UNCTAD)
4. M&As and their impact on the organization (Andreas Andersson-
Birgitta Karlsson)
5. Organization of Multinational Activities and Ownership Structure
(Christian Mugele & Monika Schnitzer)
6. Impact of cross-border mergers and acquisitions on development and
policy issues for consideration (UNCTAD)
7. Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hậu WTO (CIEM)
8. Tham luận về khung pháp lý liên quan tới vấn đề mua lại và sáp nhập ở
Việt Nam (Thái Bảo Anh - Bao & partners law firm)
9. Giao trình KINH TẾ ĐẦU TƯ (ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN)
Trang 63
Các trang web:
1. UNCTAD:
2. UNCTC (United Nations Conference on Transnational Corporations)
3. Thời báo kinh tế Việt Nam:
4. Viện kinh tế:
5. Bộ công nghiệp:
6. Bộ kế hoạch đầu tư:
7. Các nước thuộc thế giới thứ 3:
8. Tạp chí Fortune:
9. Bách khoa toàn thư
10. Development gateway:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- fdfh_gjhg_4607.pdf