Chính phủ và các tỉnh Đắc Lắc, Bình Thuận, Ninh thuận, Phú Yên,
Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam. chỉ đạo thực hiện mạnh mẽ hơn quy
hoạch trồng bông vụ khô, trong đó cần ưu tiên đẩy nhanh các công trình thủy lợi
và giao thông đến các vùng qui họach trồng bông. Khuyến khích thành lập các
trang trại và hợp tác xã trồng bông công nghiệp. Cấp cho Công ty Bông Việt
Nam 300 - 500 ha đất để tổ chức trang trại bông kiểu mẫu.
- Thành lập Quỹ bình ổn giá và trợ giá cho người trồng bông để khuyến
khích duy trì các cánh đồng chuyên canh bông vải (như các nuớc trồng bông
trên thế giới đang làm với mức trợ giá bình quân hiện nay là 0.25-0.30 USD/kg).
Nguồn quỹ này gồm:
- Hỗ trợ 3 năm 2004, 2005, 2006 vốn đầu tư của Nhà nước cho người
trồng bông với mức 500 đ/kg bông, việc hỗ trợ thực hiện qua giá mua bông hạt,
ước khoảng 120 tỷ đồng cho 3 năm nhằm thay thế cho hỗ trợ giống theo Quyết
định 17/2002/QĐ-TTg trước đây rất khó thực hiện.
154 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2161 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tác động của việc trung quốc gia nhập WTO đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a phát triển ngành.
Gắn công nghiệp dệt may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu sợi,
dệt, nhuộm, may, dịch vụ... Đối với các cụm công nghiệp dệt may mới, đầu tư hạ
tầng tốt và có hệ thống xử lý môi trường nên các doanh nghiệp không phải đầu
tư thêm cho khâu này, các doanh nghiệp có thể bổ trợ cho nhau, đầu ra của nhà
máy này sẽ là đầu vào cho nhà máy kia giúp giảm chi phí vận chuyển nguyên
liệu, sản phẩm, nâng cao một bước công nghiệp hoá, tăng khả năng thu hút vốn
đầu tư trong và ngoài nước.
Để cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài trong môi trường
quốc tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay đòi hỏi nỗ lực không chỉ của riêng mỗi
doanh nghiệp mà của cả ngành kinh tế. Muốn vậy các doanh nghiệp phải liên kết
chặt chẽ với nhau trong sản xuất, tham gia các hiệp hội của ngành, cam kết cùng
nhau hợp tác xây dựng thương hiệu, uy tín chung cho cả ngành dệt may Việt
Nam. Vai trò của VINATEX và VITAS cần phải được phát huy trong phân công
chuyên môn hoá sản xuất, tránh trường hợp vì mục tiêu lợi nhuận trước mắt mà
quá nhiều doanh nghiệp cùng đầu tư sản xuất một mặt hàng đang ăn khách khiến
cung vượt cầu, vừa lãng phí vừa gây cạnh tranh không lành mạnh trong nội bộ
ngành
Hiện nay, VITAS đã quy tụ được rất nhiều doanh ngiệp tham gia với mục
đích hỗ trợ các doanh nghiệp này trong việc tìm kiếm thị trường, giải quyết các
tranh chấp phát sinh với các khách hàng nước ngoài, tư vấn pháp luật cho các
105
doanh nghiệp… Tuy nhiên cho đến nay hiệu quả hoạt động của hiệp hội vẫn
chưa cao do các doanh nghiệp chưa nhận thức được rõ vai trò của việc liên kết
lẫn nhau, do vậy VITAS cần phải nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về
vai trò của các hiệp hội ngành, liên kết dọc trong hoạt động, cũng như trong việc
liên kết nhận quota xuất khẩu...
3.2.6 Giải pháp về quản lý điều hành và phát triển nguồn nhân lực
3.2.6.1 Giải pháp về quản lý điều hành
Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại
nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp dệt may. Đặc biệt là
các doanh nghiệp nhà nước, cần có biện pháp để phát huy hiệu quả của chế độ
"một thủ trưởng" theo tiêu chuẩn quản lý ISO-9000. Về việc này, cần có sự
thống nhất thực hiện từ phía các cấp, các ngành, từ trong Đảng đến Chính quyền
và các tổ chức quần chúng khác. Giám đốc là người chịu trách nhiệm mọi mặt
trong công ty, do vậy Giám đốc cần được trao các quyền cần thiết để thực thi
nhiệm vụ của mình theo đúng luật định. Các doanh nghiệp dệt may cần có kế
hoạch xây dựng hệ thống mạng thông tin điều hành nhằm nâng cao hiệu quả của
việc điều hành và quản lý xí nghiệp.
Để có thể tiếp nhận các công nghệ phù hợp, nhập các loại thiết bị tương
thích thì việc củng cố các Viện nghiên cứu và sử dụng các chuyên gia kỹ thuật
chuyên ngành là rất cần thiết, kể cả việc thuê các chuyên gia nước ngoài nhằm
đảm bảo cho các dự án đầu tư được triển khai thực hiện có hiệu quả.
Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt để
bổ sung cho các doanh nghiệp gặp khó khăn, hoặc thực hiện các dự án đầu tư
mới sau khi đã qua khoá đào tạo ngắn hạn về quản lý hoặc kỹ thuật.
Thuê các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài nhằm giải
quyết khó khăn cho một số công ty, hoặc điều hành các dự án mới.
106
Xây dựng cơ chế ứng xử mới, cả về tinh thần và vật chất (thực chất là nền
văn hoá doanh nghiệp) nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho phát triển ngành
dệt may.
Củng cố Viện nghiên cứu chuyên ngành nhằm mục đích thay mặt cho
ngành dệt may phối hợp với các cơ quan hải quan, cơ quan thuế thực hiện các
thủ tục hải quan và thuế sao cho có lợi đối với các sản phẩm dệt may Việt Nam.
Củng cố các trường đào tạo, trung tâm đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả
đào tạo (kể cả việc thuê các chuyên gia đào tạo nước ngoài) để đáp ứng nhu cầu
tăng vọt về cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong thời gian tới.
3.2.6.2 Chính sách phát triển nguồn nhân lực
* Về đào tạo đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân
Nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất hạn chế về
chuyên môn, kỹ thuật và quản lý. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc không có
kinh phí đào tạo, hoặc người được đào tạo sau đó lại chuyển đi nơi khác gây
thiệt hại cho doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước cần có biện pháp khuyến khích và
hỗ trợ các cơ sở đào tạo thuộc các ngành, địa phương, tổng công ty lớn giúp các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đào tạo nguồn nhân lực bằng các hình thức thích hợp.
Mặt khác, trong các văn bản pháp lý về lao động cần có những quy định cụ thể
hơn về trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động được doanh nghiệp hỗ trợ
kinh phí đào tạo nhưng không thực hiện cam kết làm việc cho doanh nghiệp theo
thỏa thuận.
Nghiên cứu mô hình “lồng ấp” như kinh nghiệm của Đài Loan, Trung
Quốc: tập trung hệ thống các dịch vụ giúp đỡ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
giai đoạn mới hình thành tại một địa điểm, đến khi có đủ kinh nghiệm thì mới để
doanh nghiệp tự bước ra kinh doanh. Cách làm này nhằm đáp ứng công tác đào
tạo doanh nhân trong điều kiện doanh nhân không có thời gian dự các lớp đào
tạo tập trung.
107
* Về chế độ chính sách đãi ngộ, thu hút lao động
Thành phố cần đề ra các chính sách đào tạo có địa chỉ và khuyến khích
người tài, người có chuyên môn cao, các chuyên gia giỏi đang làm việc ở nơi
khác về công tác (tạo điều kiện thuận lợi cho gia đình họ được cư trú tại Hà Nội
chẳng hạn). Việc quý trọng và bồi dưỡng nhân tài không chỉ thể hiện trong công
tác đào tạo cán bộ nguồn mà còn phải chú ý đến chính sách đãi ngộ, chính sách
tiền lương cũng như việc quản lý, sử dụng cán bộ, thi tuyển bố trí việc làm.
Nghiên cứu ban hành và công bố rộng rãi những giải pháp và chính sách
ưu tiên nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nhân tài trong và ngoài nước để
phát triển công nghiệp dệt may. Chẳng hạn nên phối hợp với các Trường đại học
để nắm bắt được những sinh viên giỏi, có khả năng đáp ứng những yêu cầu của
sự phát triển công nghiệp dệt may, tạo học bổng, hướng họ về làm việc cho công
nghiệp dệt may. Nên tổ chức các cuộc thi thường xuyên nhằm phát hiện và có
chính sách thu hút nhân tài cho công nghiệp dệt may. Nghiên cứu ban hành hệ
thống chính sách đào tạo, đãi ngộ và sử dụng các nhà khoa học đầu đàn phục vụ
phát triển ngành công nghiệp này. Có những hình thức khen thưởng động viên
kịp thời đối với những người có thành tích xuất sắc trong việc phát triển xuất
khẩu các sản phẩm của ngành.
3.2.7 Chính sách hỗ trợ nhằm mở rộng vùng nguyên liệu
Đảm bảo nguồn nguyên liệu là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các
doanh nghiệp dệt may nhất là trong điều kiện hiện nay khi giá nguyên liệu trên
thế giới thay đổi không ngừng gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của ngành. Chủ động được về nguồn nguyên liệu nội địa với giá thành
thấp và chất lượng tốt sẽ là một thế mạnh lớn của ngành dệt may Việt Nam:
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam đối với hàng dệt may
Trung Quốc. Do đó, Chính phủ nên có nhiều chính sách hỗ trợ, đặt nền móng
ban đầu vững chắc cho sản xuất nguyên liệu trong nước: cả bông, tơ tằm và sợi
hoá học.
108
3.2.7.1 Chính sách hỗ trợ phát triển cây bông
Để đạt mục tiêu đáp ứng 70% nhu cầu bông trong nước của Chiến luợc
phát triển cây bông đến 2010, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ ngành hữu quan
phối hợp với các địa phương quy hoạch các vùng trồng bông thích hợp trên cơ sở
đó, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi….
Hỗ trợ về khoa học công nghệ: sử dụng vốn ngân sách đầu tư cho các
công trình nghiên cứu lai tạo, chọn lọc và nhập nội giống bông lai, bông kháng
sâu bệnh cho năng suất cao, chất lượng tốt để cung cấp cho nông dân; đầu tư các
cơ sở nghiên cứu, sản xuất giống bông bao gồm giống gốc, giống bố mẹ và
giống lai F1, nhập khẩu giống gốc có năng suất và chất lượng cao; tiến tới hoàn
chỉnh kỹ thuật công nghệ giống bông lai, xây dựng mạng lưới sản xuất giống bảo
đảm đủ giống cho nhu cầu sản xuất; chỉ đạo các viện nghiên cứu cây bông phải
có chương trình, kế hoạch nghiên cứu, triển khai ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, khoa
học và công nghệ về cây bông để có những giống bông có năng suất, chất lượng
cao phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng, cung cấp cho nhu cầu sản xuất;
đồng thời tăng cường công tác khuyến nông cây bông để chuyển giao nhanh tiến
bộ kỹ thuật và công nghệ đổi mới về trồng bông, chế biến.
Đầu tư: tập trung đầu tư thâm canh cho các vùng bông tưới bằng nước
mưa có năng suất cao, đảm bảo yêu cầu cần thiết cho sản xuất vụ bông có sử
dụng hệ thống tưới tiêu, coi việc đầu tư không chỉ là vấn đề giải quyết vốn cho
sản xuất mà còn để kiểm soát quá trình thâm canh. Nhà nước nên tiếp tục đầu tư
cho thực hiện giai đoạn hai dự án AFD (Dự án hỗ trợ phát triển của chính phủ
Pháp cho ngành nông nghiệp Việt Nam) nhằm tăng cường vốn tín dụng cho sản
xuất. Đầu tư kinh phí khuyến nông để chuyển giao tiến bộ kĩ thuật, nhằm đảm
bảo cho nông dân trồng bông đạt năng suất, hiệu quả cao nhất, tạo sơ sở cho việc
mở rộng diện tích trồng bông.
Về tổ chức: ngành sản xuất bông hiện nay gồm có Tổng công ty bông
Việt Nam, các công ty cổ phần, các công ty bông địa phương và các công ty tư
109
nhân. Để thống nhất chỉ đạo sản xuất theo đúng kế hoạch, cần có một chương
trình phát triển bông quốc gia do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ
Công nghiệp đồng chủ trì. Điều phối hoạt động là một bộ phận độc lập đặt dưới
sự chỉ đạo trực tiếp của VINATEX hay Bộ Công nghiệp, đồng thời Hiệp hội sản
xuất bông, các công ty bông cũng sẽ cử người tham gia bộ phận này nhằm phối
hợp hoạt động một cách đồng bộ và hiệu quả.
Về chính sách hỗ trợ: Sản xuất bông là để thay thế nhập khẩu, vì vậy
sản xuất bông ở nước ta phải cạnh tranh với các nuớc công nghiệp hiện đại sản
xuất bông mà chủ yếu là Mỹ, Úc. Hơn nữa những nước xuất khẩu bông như Mỹ,
EU, Hy Lạp lại có sự tài trợ lớn từ chính phủ, điều này càng làm tăng lợi thế
cạnh tranh của họ và khiến ngành trồng bông Việt Nam phải đối mặt với nhiều
thử thách. Nền sản xuất nông nghiệp của chúng ta còn nhỏ, vì vậy sự hỗ trợ ban
đầu là rất cần thiết và có ý nghĩa quyết định.
Phát triển trồng bông vải trong nước để chủ động cung ứng nguyên liệu
cho ngành dệt cũng như để cơ cấu lại sản phẩm nông nghiệp là chính sách lớn
của Đảng và Nhà nước. Ngày 23/4/2001, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định
55/2001/TTg đề ra mục tiêu nâng diện tích trồng bông từ 33.000 ha hiện nay lên
60.000 ha vào năm 2005 và 120.000 ha vào năm 2010 để đạt sản lượng 30.000
tấn bông xơ và 80.000 bông xơ vào các năm tương ứng. Đồng thời tại quyết định
số 17/2002/TTg ngày 21/1/2001, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quy hoạch các
vùng trồng bông cũng như ban hành một số chính sách hỗ trợ cho ngành trồng
bông như: hỗ trợ vốn dự trữ hạt bông, ưu tiên vốn tín dụng đầu tư, hỗ trợ công
tác nghiên cứu khoa học công nghệ, thành lập Quỹ hỗ trợ giá bông. Tuy nhiên,
các chính sách trên dường như chưa đủ mạnh để tác động cho ngành trồng bông
phát triển như mong muốn. Mùa vụ 2003 do bị hạn hán và bị tranh chấp bởi một
số cây trồng khác nên diện tích trồng bông tại Tây nguyên bị giảm đến gần 20%.
Nhờ năng suất tăng nên sản lượng bông xơ không giảm so với vụ trước, tuy
nhiên sản lượng không đạt mức kế họach đề ra là 15.000 tấn.
110
Để ngành trồng bông phát triển và thực hiện được mục tiêu đề ra thì người
trồng bông cần được hỗ trợ thông qua các biện pháp sau:
- Chính phủ và các tỉnh Đắc Lắc, Bình Thuận, Ninh thuận, Phú Yên,
Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam... chỉ đạo thực hiện mạnh mẽ hơn quy
hoạch trồng bông vụ khô, trong đó cần ưu tiên đẩy nhanh các công trình thủy lợi
và giao thông đến các vùng qui họach trồng bông. Khuyến khích thành lập các
trang trại và hợp tác xã trồng bông công nghiệp. Cấp cho Công ty Bông Việt
Nam 300 - 500 ha đất để tổ chức trang trại bông kiểu mẫu.
- Thành lập Quỹ bình ổn giá và trợ giá cho người trồng bông để khuyến
khích duy trì các cánh đồng chuyên canh bông vải (như các nuớc trồng bông
trên thế giới đang làm với mức trợ giá bình quân hiện nay là 0.25-0.30 USD/kg).
Nguồn quỹ này gồm:
- Hỗ trợ 3 năm 2004, 2005, 2006 vốn đầu tư của Nhà nước cho người
trồng bông với mức 500 đ/kg bông, việc hỗ trợ thực hiện qua giá mua bông hạt,
ước khoảng 120 tỷ đồng cho 3 năm nhằm thay thế cho hỗ trợ giống theo Quyết
định 17/2002/QĐ-TTg trước đây rất khó thực hiện.
- Cho phép công ty bông Việt Nam được trích 2% trong giá thành các
thời vụ thuận lợi.
- Phụ phí 0,5% trên trị giá bông nhập khẩu (được thu ngay từ nhập
khẩu).
- Tính thuế VAT 5% cho bông hạt thu mua của nông dân và đồng thời áp
dụng cùng mức thuế 5% cho sợi sản xuất đề khuyến khích cả người trồng bông
và nhà sản xuất sợi sử dụng bông Việt Nam.
- Cho phép ngành bông vải được hưởng các quỹ: Quỹ hỗ trợ đầu tư phát
triển nông nghiệp, quỹ bảo hiểm tín dụng để hỗ trợ cho nông dân, quỹ bản hiểm
ngành hàng đối với một số nông dân sản xuất xuất khẩu thay thế nhập khẩu.
111
- Ưu tiên hỗ trợ vốn ngân sách, vốn ODA cho các công trình thuỷ lợi
thuộc các vùng tập trung, chuyên canh, thâm canh có tưới, kiên cố hoá kênh
mương đối với hệ thống công trình thuỷ lợi đã có.
- Làm dịch vụ kỹ thuật, đầu tư vật tư, bao tiêu sản phẩm ngay từ đầu vụ
để người nông dân an tâm sản xuất.
- Xây dựng các cơ sở chế biến bông tại các vùng trồng bông với công
nghệ hiện đại, đáp ứng công suất chế biến, nâng cao chất lượng bông xơ.
3.2.7.2 Chính sách hỗ trợ phát triển dâu tơ tằm
Nhà nước cần hỗ trợ cho ngành dâu tằm tơ trong việc sản xuất trứng giống
tằm bằng vốn ngân sách. Đối với những vùng mới phát triển dâu tằm, đời sống
nhân dân còn khó khăn, cần có chính sách hỗ trợ xây dựng nhà nuôi tằm, hỗ trợ
vốn và kỹ thuật. Ngoài ra cũng cần phải nghiên cứu để xây dựng và triển khai
một quỹ bình ổn giá kén bằng cách trích một phần giá thành của doanh nghiệp,
một phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.
3.2.7.3 Chính sách phát triển sản xuất vải
Chính phủ tập trung nguồn tín dụng hỗ trợ phát triển cho ngành dệt, trong
5 năm tới, mỗi năm 3000 tỉ. Đối với việc đầu tư vào các dự án nhuộm hoàn tất
và xử lý nước thải cần có cơ chế khuyến khích hơn: lãi suất 3%, thời gian 12
năm với 3 năm ân hạn.
Chính phủ và các địa phương cho phép ngành dệt may được thương mại
hóa quỹ đất di dời và được sử dụng toàn bộ quỹ này để đầu tư hiện đại hóa nâng
cao sức cạnh tranh.
Áp dụng cơ chế xuất khẩu tại chỗ đối với vải sản xuất trong nước, nằm
trong sản phẩm may đã được xuất khẩu (không phân biệt sản xuất từ doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài hay doanh nghiệp Việt Nam).
Xem xét lại yêu cầu về tiêu chuẩn COD về xử lý nước thải một cách hợp
lý hơn. Hiện nay tiêu chuẩn này yêu cầu quá cao so với các nước xung quanh
khiến doanh nghiệp nhuộm phải đầu tư lớn vào công đọan xử lý, tăng vốn đầu
112
tư, giảm sức cạnh tranh. Kiến nghị trong giai đoạn hiện nay, cho phép các dự án
đầu tư xử lý nước thải với mức COD không vượt quá 140 ( tương tự tiêu chuẩn
của Đài Loan). Từ năm 2010 sẽ nâng tiêu chuẩn COD lên mức không quá 100.
Có biện pháp vận động nước ngoài đầu tư vào ngành dệt một cách mạnh
mẽ hơn.
3.3 CÁC GIẢI PHÁP VI MÔ
3.3.1 Giải pháp về thị trường
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khó có thể cạnh tranh được với hàng
Trung Quốc. Do đó, theo các chuyên gia, tìm thị trường để lách và gia tăng sự
hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam là phương thức khả thi nhất. Các doanh
nghiệp Việt Nam phải tìm cho mình một mặt hàng chuyên biệt để lấy chỗ đứng
hoặc năng động tìm cách hợp tác với các doanh nghiệp khác để tạo thế đứng.
Theo ông Lê Quốc Ân – chủ tịch hiệp hội dệt may Việt Nam: “chúng ta không
thể đối đầu trực diện với Trung Quốc thì phải né họ đi, tìm hướng khác, hoặc là
hợp tác với họ để tạo thị phần riêng” [8].
Trong lĩnh vực sản phẩm thời trang, do Trung Quốc có nhiều nhà máy quy
mô lớn nên họ chủ yếu khai thác được những đơn hàng sản xuất với lô hàng loạt
lớn và khó khai thác được các đơn hàng có giá trị cao, lô nhỏ. Đây chính là
khoảng trống mà các doanh nghiệp nhỏ sẽ có nhiều lợi thế để khai thác.
Đối với thị trường Mỹ, hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của
ngành dệt may Việt Nam. Năm 2005 các doanh nghiệp cần tập trung khai thác có
hiệu quả nhất bằng cách tăng giá trị các mã hàng xuất khẩu có hạn ngạch, đồng
thời tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chưa bị khống chế hạn ngạch.
Theo quy định của Mỹ, các sản phẩm dệt may được chia thành 167 mã hàng
riêng lẻ, trong đó riêng hàng may mặc có tới 106 mã hàng. Trong số 38 mã hàng
dệt may Việt Nam bị khống chế hạn ngạch có tổng cộng 35 mã hàng may mặc
(chiếm 33% tổng số mã hàng may mặc vào thị trường Mỹ) và chỉ có ba mã hàng
dệt (chiếm 4,9% tổng các mã hàng dệt). Tính chung, tổng số các mã hàng bị
113
khống chế của Việt Nam chỉ chiếm 22,7%. Như vậy vẫn còn tới 129 mã hàng
Việt Nam vẫn có thể xuất tự do vào thị trường Mỹ mà các doanh nghiệp có thể
tận dụng. Tuy nhiên, đặc điểm của các cat không bị khống chế hạn ngạch là các
cat thuộc nhóm nguội, cạnh tranh cao về chất lượng và giá cả. Thực tiễn sau khi
thực hiện Hiệp định dệt may của Trung Quốc và Cam-pu-chia với Mỹ cho thấy:
có tới 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của hai nước này vào thị trường
Mỹ nằm ở các mã không bị khống chế hạn ngạch. Các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam hoàn toàn có thể làm được điều này qua sự chuyển đổi mã hàng sản
xuất phù hợp.
Các doanh nghiệp cần thiết phải nghiên cứu kỹ quy chế xác định chủng
loại mã hàng để tận dụng tối đa các cơ hội. Chẳng hạn, cat 345 (áo len cotton),
cat 645/646 (áo len sợi tổng hợp) chịu khống chế hạn ngạch chặt chẽ. Tuy nhiên,
nếu thương lượng được với khách hàng để sử dụng sợi cotton pha len hoặc
acrilic pha len với tỷ lệ len từ 17% trở lên thì mặt hàng đó lại được xếp vào
nhóm cat 445/446 (áo len nam, nữ chất len) không bị hạn ngạch. Cát 342/642
(váy ngắn cotton và vải tổng hợp) bị khống chế hạn ngạch nhưng các loại váy
dài thuộc cat 336/636 và cat 350/650 lại không bị hạn ngạch. áo vest nam chất
cotton (cat 333) có hạn ngạch 36.000 tá nhưng áo vest nam (cat 433) chất liệu
len với tỷ lệ len từ 17% trở lên lại không chịu hạn ngạch. Đồ ngủ chất vải bông
và vải tổng hợp (cat 351/651) có hạn ngạch 482.000 tá nếu có chỉ số sợi pha
lilen/cotton hoặc linen/PE lớn hơn 50% hoặc pha tơ tằm thì được xuất khẩu tự
do... Tương tự còn rất nhiều chủng loại hàng, khác bị áp đặt hạn ngạch, các
doanh nghiệp có thể đàm phán và thương lượng với khách hàng để chuyển sang
mã hàng không bị áp đặt hạn ngạch.
Đối với thị trường EU, trong điều kiện hầu hết là các doanh nghiệp Việt
Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp phải tăng cường sử dụng
thương mại điện tử để quảng bá, giới thiệu. Phải tìm cách sử dụng được một
cách tối đa lực lượng người Việt Nam ở EU để họ làm đầu mối cho mình. Hiện
114
nay, 70.000 người Việt Nam làm thương mại tại đây. Làm thế nào đưa hàng Việt
Nam vào các chợ đầu mối, các hệ thống bán lẻ của người Việt Nam tại Nga,
Tiệp, Đức... thay vì từ trước tới nay chợ của người Việt Nam lại lấy hàng Trung
Quốc về bán. Đồng thời phải liên kết giữa các công ty ở Việt Nam với các công
ty khai thác thị trường của nước ngoài để tạo được sự hợp tác thương mại hai
bên cùng có lợi.
Đối với thị trường Nhật Bản: để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này
kể cả kim ngạch lẫn mở rộng chủng loại mặt hàng, các doanh nghiệp Việt Nam
cần chú trọng:
- Các chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư từ Nhật Bản để xuất trở
lại thị trường này thông qua các hình thức liên doanh hay 100% vốn nước ngoài.
Có chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ cho việc chuyển giao công nghệ trong lĩnh
vực chế tạo, chế biến, đặc biệt là trong lĩnh vực điện, điện tử, tin học, ôtô. Và
quan trọng hơn là định ra thể chế kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện chính sách
bảo hộ công nghiệp này.
- Thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Nhật Bản
trong các khuôn khổ hợp tác kinh tế song phương hoặc đa phương như chương
trình xúc tiến thương mại và đầu tư của Nhật Bản dành cho ASEAN. Phối hợp
chặt chẽ với trung tâm xúc tiến thương mại Nhật Bản và Hiệp hội các doanh
nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức hội thảo, triển lãm, giới thiệu cơ hội thâm
nhập.
3.3.2 Đổi mới quản lý và tổ chức sản xuất
Hiện nay, ngành dệt may nên tổ chức lại sản xuất theo hướng tổ chức sản
xuất liên kết dọc theo kiểu vệ tinh: một công ty mẹ với nhiều công ty vệ tinh
cùng sản xuất một loại sản phẩm. Công ty mẹ sẽ chịu trách nhiệm đặt hàng và
cung ứng nguyên phụ liệu cho các công ty con, sau đó thu gom và xuất khẩu
dưới nhãn mác của một công ty lớn, đảm bảo về thị trường tiêu thụ ổn định. Điều
này xuất phát từ đặc thù và cũng là hạn chế của cơ cấu tổ chức của ngành dệt
may Việt Nam bao gồm chủ yếu các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức
115
sản xuất có hiệu quả cao nhưng có thể gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường và
giao dịch xuất khẩu cũng như thực hiện các đơn hàng lớn.
Cũng có thể phát triển hình thức sản xuất vệ tinh theo hướng tăng cường
chuyên môn hoá, chia nhỏ các khâu. Mỗi công ty, xí nghiệp sẽ chuyên môn hoá
sản xuất một khâu trong quá trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả sử
dụng thiết bị, tạo sản phẩm cuối cùng có chất lượng cao.
Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần phải kết hợp với việc chuyên môn
hoá dây chuyền sản xuất theo mặt hàng giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng
cạnh tranh về năng suất sản xuất và chất lượng sản phẩm. Các nước nhập khẩu
hiện nay luôn mong muốn đặt hàng của các xưởng sản xuất được tổ chức chuyên
môn hoá, có thiết bị chuyên dùng phù hợp, có năng lực sản xuất tương đối lớn,
có như vậy mới có thể tạo ra các sản phẩm đạt chất lượng cao ổn định, giao hàng
đúng tiến độ và có khả năng đáp ứng nhanh. Để đáp ứng nhu cầu đó, một công ty
có thể tổ chức nhiều xưởng, mỗi xưởng được chuyên môn hoá một mặt hàng
khác nhau như: sơmi nam, quần kaki, quần âu, vest nam, vest nữ...
Các doanh nghiệp cũng cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác liên doanh,
liên kết giữa các công ty dệt may lớn với các doanh nghiệp địa phương nhằm tận
dụng thế mạnh của cả hai bên vào sản xuất hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp dệt
may dù lớn của Việt Nam cũng không làm hết đơn hàng, giá nhân công ở các
thành phố lớn ngày càng tăng; các địa phương khác trong cả nước lại có nguồn
nhân lực dồi dào, nguồn nguyên liệu, đất đai nhà xưởng thuận lợi cho phát triển
sản xuất nhưng thiếu thông tin thị trường, đối tác, đơn hàng, yếu về kỹ thuật,
trình độ quản lý... Kinh nghiệm cho thấy một số địa phương tự xây dựng nhà
máy nhưng do yếu và thiếu các yếu tố nói trên nên mặc dù đầu tư lớn, máy móc
không đồng bộ và làm ăn kém hiệu quả. Như vậy, các doanh nghiệp lớn thuộc
VINATEX và các doanh nghiệp địa phương đều có lợi ích trong hợp tác, liên kết
với nhau để tận dụng thế mạnh của nhau.
116
Tổ chức thực hiện việc quản lý sản xuất kinh doanh tuân thủ theo các tiêu
chuẩn quản lý về chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh và
trách nhiệm xã hội như: ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 (hoặc WRAP), và
OHSAS 18000. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng vẫn là việc tuân thủ các tiêu chuẩn
này một cách thường xuyên tại các xưởng sản xuất. Đây là những yêu cầu mà tất
cả các nhà nhập khẩu quan tâm và tổ chức đánh giá đầu tiên (đặc biệt là tiêu
chuẩn SA 8000 hoặc WRAP) trước khi quyết định tiến đến đàm phán về giá cả
hoặc quy cách sản phẩm...
Đẩy mạnh tin học hoá trong quản lý bằng cách áp dụng các phần mềm
quản lý và thông tin dữ liệu trong sản xuất kinh doanh nhằm tăng cường hiệu
năng quản lý, đồng thời có thể cung cấp thường xuyên và kịp thời các số liệu cần
thiết theo yêu cầu của khách hàng. Mọi thông tin cần được thông suốt và kịp thời
thông qua các công cụ điện tử như email, website. Mẫu sản phẩm và thiết kế kỹ
thuật có liên quan được chỉnh sửa và truyền tải kịp thời qua internet. Ngoài ra
các doanh nghiệp còn cần phải từng bước giúp nhân viên làm quen với việc làm
việc với nhau thông qua hệ thống máy tính hệ nhất là hệ thống mạng nội bộ, giúp
thông tin được truyền tải nhanh gọn, rút ngắn thời gian qua lại bằng con đường
công văn giấy tờ lãng phí thời giờ và tiền bạc một cách không đáng có nhất là
đối với các doanh nghiệp mà trụ sở, chi nhánh và xưởng sản xuất nằm cánh xa
nhau.
3.3.3 Sử dụng hợp lý nguồn vốn đầu tư
Không chỉ đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư cho ngành dệt may, vấn đề sử
dụng vốn một cách hiệu quả cũng là một đòi hỏi cấp bách đối với các doanh
nghiệp hiện nay. Chỉ có một số ít các doanh nghiệp đạt tỷ suất lợi nhuận cao
(trong năm 2002, toàn Tổng công ty dệt may Việt Nam có 5 doanh nghiệp may
và một doanh nghiệp cơ khí đạt tỷ suất lợi nhuận trên vốn trên 10%, cao nhất là
may Đức Giang đạt 30%, may Việt Tiến đạt 23%, may Nhà Bè đạt 15%; tỷ suất
lợi nhuận trên vốn của các doanh nghiệp dệt đạt 1% riêng dệt Phong Phú đạt
117
9,2%) và thậm chí một số doanh nghiệp còn bị thua lỗ (Dệt 8/3). Một trong
những lý do là các doanh nghiệp đã sử dụng vốn để đầu tư cho các thiết bị công
nghệ không hiện đại nên sản phẩm sản xuất ra chất lượng kém, không bán được.
Do vậy, khi sử dụng vốn đầu tư huy động được, các doanh nghiệp phải biết phân
bổ vốn hợp lý, bao hàm vốn đầu tư nhiều mục đích như đào tạo đội ngũ cán bộ,
công nhân lành nghề, mua sắm thiết bị máy móc, nghiên cứu thị trường, thiết kế
mẫu mã tạo ra các sản phẩm mới... nhằm đạt hiệu quả tài chính cao đồng thời
phù hợp với quy hoạch phát triển ngành của cả nước cũng như địa phương.
Bên cạnh đó, quy mô đầu tư đối với các doanh nghiệp của từng ngành
cũng phải tính toán hợp lý:
- Trong tình hình sản xuất hiện nay thì hình thức các doanh nghiệp ngành
may chủ yếu là vừa và nhỏ là một xu hướng hợp lý vì nhu cầu vốn đầu tư không
quá lớn, linh hoạt hơn trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong tương lai các
doanh nghiệp cũng cần phải nghĩ tới việc xây dựng một thương hiệu, một tập
đoàn may mặc lớn như các quốc gia có ngành công nghiệp dệt may phát triển
trên thế giới như Trung Quốc, Italia, Hàn Quốc… Bên cạnh đó, tiếp tục duy trì
một số doanh nghiệp may quy mô lớn, trang bị hiện đại, có hiệu quả sản xuất cao
do lợi thế về quy mô để đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn (hàng triệu sản
phẩm) của khách hàng.
- Các doanh nghiệp kéo sợi, dệt, nhuộm, hoàn tất nên tổ chức sản xuất theo
quy mô lớn, trang bị đồng bộ, hiện đại để hiệu quả sản xuất cao và có thể đáp
ứng về nguyên liệu chất lượng cao phục vụ hàng may xuất khẩu.
Định hướng đầu tư: do ngành may xuất khẩu đã phát triển nhanh hơn
ngành dệt nên hiện nay, một mặt vẫn tiếp tục đầu tư đổi mới trang thiết bị ngành
may, mặt khác, tập trung lượng vốn lớn hơn, đầu tư có trọng điểm cho các sản
phẩm mà Việt Nam đang phải nhập khẩu như sợi, phụ liệu dệt may; tránh tình
trạng đầu tư trùng lắp, tranh mua tranh bán, phá giá hàng xuất khẩu. Tập trung
118
đầu tư các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao phục vụ thiết thực cho ngành
may xuất khẩu.
3.3.4 Đầu tư đổi mới công nghệ
Công nghệ, thiết bị là một trong những yếu tố sống còn của doanh nghiệp
dệt may. Do đó, việc trang bị máy móc hiện đại và sử dụng hết công suất máy là
một vấn đề mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải quan tâm trước
nhất. Trước hết, cần trang bị cho các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ và
các phòng thí nghiệm ở các công ty xí nghiệp cơ sở vật chất và trang thiết bị tốt,
có khả năng nghiên cứu và tiếp thu những công nghệ tiên tiến để từng bước áp
dụng vào sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Hiện nay, trang thiết bị ngành dệt may Việt Nam còn rất lạc hậu trong khi
đó đầu tư cho ngành cơ khí phải tốn một thời gian dài nên trước mắt các doanh
nghiệp vẫn phải nhập các thiết bị công nghệ của nước ngoài để phục vụ nâng cấp
trang thiết bị sản xuất. Tuy nhiên cần phải lưu ý khi nhập thiết bị công nghệ từ
nước ngoài phải kết hợp hài hoà giữa thiết bị công nghệ hiện đại với thiết bị đã
qua sử dụng, vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản phẩm vừa cân đối được
vốn đầu tư cho trang thiết bị và đảm bảo tính cạnh tranh về giá của sản phẩm
trên cơ sở hiệu quả kinh tế; công tác kiểm định thiết bị công nghệ cũng phải tiến
hành chặt chẽ để có thể nhập được những thiết bị công nghệ phù hợp, tránh việc
nhập khẩu những loại máy móc đã qua sử dụng, công nghệ lạc hậu mà giá lại
cao, đem lại hiệu quả sản xuất quá kém. Bên cạnh đó cũng tránh việc đầu tư ồ ạt,
gây nên tình trạng ứ đọng vốn đầu tư vốn đã eo hẹp của doanh nghiệp. Do đó
cũng cần phải kết hợp giữa việc đầu tư mới với tận dụng máy móc thiết bị cũ, cải
tiến, nâng cấp máy móc đã qua sử dụng.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc triển khai ứng dụng
công nghệ thông tin (ví dụ hệ thống phần mềm quản lý sản xuất ngành may -
một giải pháp công nghệ trong nước); ứng dụng công nghệ máy tính trợ giúp
thiết kế và sản xuất (CAD - CAM: Computer added desing - Computer added
119
manufacturing). Công nghệ CAD - CAM có nhiều công dụng: vẽ phác thảo trên
máy, mô tả được chất liệu vải, tạo ra bản vẽ kỹ thuật đầy đủ... Việc sử dụng công
nghệ này giúp nâng cao năng lực thiết kế sáng tạo mẫu mã sản phẩm dệt may
đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường.
Chú trọng đẩy mạnh đầu tư vào các dự án sản xuất sản phẩm mới theo
tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000.. Nghiên cứu áp dụng khoa học về nguyên liệu
và vật liệu mới, về công nghệ và thiết bị hiện còn bỏ trống, tương xứng với
nguyên liệu mới phải có công nghệ xử lý hoàn tất cao cấp.
3.3.5 Đẩy mạnh nghiên cứu cải tiến hình thức của sản phẩm
Trong những năm gần đây nhu cầu về ăn mặc của mọi người dân đã có
nhiều thay đổi, yếu tố quyết định đến tính hấp dẫn của trang phục không phải là
độ bền, ấm mà là hình thức, mẫu mã của chúng. Vì vậy, muốn cạnh tranh tốt trên
thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu
cải tiến hình thức của sản phẩm bằng cách đẩy mạnh nghiên cứu mẫu mốt. Đây
cũng chính là điểm còn thiếu sót và ít được quan tâm đến của các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam.
Để làm được điều này, trước tiên, các doanh nghiệp cần phải đầu tư xây
dựng xây dựng cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị hệ thống máy móc hiện đại
đồng bộ cho bộ phận nghiên cứu sáng tạo mẫu mốt. Cần tạo ra nguồn tư liệu,
thông tin kịp thời phục vụ cho việc nghiên cứu sáng tạo mẫu mốt một các phong
phú có hệ thống và đặc biệt là kịp thời nắm bắt các xu thế thời trang trên thế giới
để ngành thiết kế tạo mẫu của Việt Nam có thể theo kịp được với đà phát triển
của nhu cầu may mặc trên thế giới.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chú trọng, quan tâm đến việc bồi dưỡng,
đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao chuyên làm công tác nghiên
cứu thiết kế mẫu mốt. Doanh nghiệp cần có chính sách khuyến khích và tạo điều
kiện để đội ngũ này có cơ hội không ngừng trau dồi kiến thức, bổ sung thêm
120
những thông tin cần thiết vì thời trang thế giới luôn luôn thay đổi nên chu kì
sống của sản phẩm cũng rất ngắn.
Trong kế hoạch tài chính, doanh nghiệp cần có sự liên kết về kinh tế, kỹ
thuật kết hợp chặt chẽ với các cơ sở, viện, trung tâm nghiên cứu về mẫu mốt
trong và ngoài nuớc để có thể học hỏi, trao đổi thông tin, kiến thức phục vụ cho
công việc.
3.3.6 Không ngừng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ
Một trong số những tồn tại lớn nhất của ngành dệt may hiện nay năng
suất lao động rất thấp, nguyên nhân một phần là do máy móc còn lạc hậu nhưng
một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng đó là tay nghề người lao
động và hiệu quả làm việc của người lao động chưa cao. Do vậy các doanh
nghiệp trong ngành cần thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo nâng cao trình
độ cho công nhân cũng như cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ marketing…
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần phải có chế độ đãi ngộ hợp lý
cho người lao động như các chế độ xã hội, đóng bảo hiểm, tăng thêm các khoản
thưởng cho cán bộ và công nhân. Đối với các doanh nghiệp có điều kiện nên cử
cán bộ công nhân kỹ thuật ở các khâu quan trọng đi học tập nâng cao trình độ ở
các nước có ngành công nghiệp dệt may phát triển cao để có thể tiếp thu thêm
các kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất cũng như các phương pháp quản lý hiện đại
nhằm đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất có thể.
Ngoài ra, một việc cũng không kém phần quan trọng và cần phải làm
thường xuyên đó là phải khơi dậy ý thức trách nhiệm của cán bộ công nhân viên
trong doanh nghiệp trong công việc hàng ngày phải phải tiết kiệm nguyên liệu,
bảo vệ của công và làm việc tạo ra năng suất cao.
3.3.7 Tham gia các hiệp hội doanh nghiệp
Hiện nay vai trò của các hội, hiệp hội ngành trong nước và khu vực đang
ngày một nâng cao. Các hiệp hội đã thiết lập được những mối quan hệ hợp tác,
liên kết hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp thành viên,
121
cùng chung sức thực hiện các dự án lớn, chia sẻ cơ hội và rủi ro. Đồng thời các
hiệp hội của ngành cũng sẽ làm chức năng đại diện cho các doanh nghiệp thành
viên và của cộng đồng trên diễn đàn trong nước, trong khu vực và trên thế giới,
qua đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp, làm cơ sở cho liên kết liên doanh giữa
các doanh nghiệp trong và ngoài hội, giữa các doanh nghiệp trong nước và các
doanh nghiệp nước ngoài. Hiện nay mới chỉ có 558 doanh nghiệp tham gia vào
Hiệp hội dệt may Việt Nam, con số quá ít ỏi so với số 1960 doanh nghiệp dệt
may ở Việt Nam hiện nay. Do đó, các doanh nghiệp chưa tham gia các hội, hiệp
hội cần tích cực hơn trong việc gia nhập; các doanh nghiệp thành viên của các
hội và hiệp hội này thực hiện đầy đủ và đúng đắn những quyền lợi và nghĩa vụ
của mình để góp sức mình để phát triển các hội, các hiệp hội nói riêng và phát
triển ngành dệt may nói chung.
120
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dệt may
là một ngành có vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Trong chiến lược “hướng mạnh về xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu ...” bên
cạnh việc đáp ứng một phần lớn nhu cầu may mặc trong nước, ngành dệt may đã
đóng góp một phần đáng kể vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước với kim
ngạch xuất khẩu luôn đứng ở vị trí thứ hai trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam từ năm 1995 đến nay.
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam đang có một số lợi thế cạnh tranh cơ
bản như có một nguồn lao động dồi dào, giá nhân công tương đối rẻ, ngành có
cơ hội phát triển rất lớn trên cơ sở một thị trường nội địa đầy tiềm năng và thị
trường xuất khẩu cũng đang ngày càng mở rộng nhờ đường lối đối ngoại đa
phương hoá, đa dạng hoá của Đảng và Nhà nước, ngành cũng có lợi thế nhờ sự
hỗ trợ tích cực của Nhà nước về vốn, về công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm
thị trường,... Nhưng bên cạnh đó cũng có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng bất lợi tới
khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam như sự yếu kém của các
ngành công nghiệp cung cấp nguyên phụ liệu, trình độ công nghệ của ngành dệt
may còn thấp, năng suất chưa cao, trình độ quản lý kém, nhiều khi thiếu sự hợp
tác sản xuất giữa các doanh nghiệp ... dẫn tới giá thành cao, chưa hấp dẫn khách
hàng.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt về xuất khẩu hàng dệt may như hiện
nay, ngành dệt may Việt Nam cần tập trung triển khai các biện pháp nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh của ngành. Các giải pháp được đưa ra rất nhiều, từ các
giải pháp vĩ mô như chính sách đầu tư, chính sách phát triển các ngành cung cấp
nguyên liệu cho ngành may, chính sách đào tạo về nhân lực, ... và cả các giải
pháp vi mô như từng doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao
khả năng thiết kế mẫu mốt, tăng cường công tác tìm hiểu và mở rộng thị trường
121
... Quan trọng nhất là mỗi doanh nghiệp cần tự năng động đổi mới doanh nghiệp
mình, Nhà nước cần có những chiến lược đúng đắn cho từng giai đoạn để hỗ trợ
sự phát triển của ngành để ngành dệt may có thể tận dụng được những lợi thế
đang có, khắc phục khó khăn để có thể cạnh tranh với hàng dệt may của các
nước khác đặc biệt là hàng dệt may Trung Quốc.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khó có thể cạnh
tranh được với hàng Trung Quốc. Do đó, theo các chuyên gia, tìm thị trường để
lách và gia tăng sự hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam là phương thức khả
thi nhất. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm cho mình một mặt hàng chuyên
biệt để lấy chỗ đứng hoặc năng động tìm cách hợp tác với các doanh nghiệp khác
để tạo thế đứng. Theo ông Lê Quốc Ân – chủ tịch hiệp hội dệt may Việt Nam:
“chúng ta không thể đối đầu trực diện với Trung Quốc thì phải né họ đi, tìm
hướng khác, hoặc là hợp tác với họ để tạo thị phần riêng”.
PHỤ LỤC 1
TỔNG HỢP TÌNH HÌNH XK HÀNG DỆT MAY SANG EU NĂM 2004
(Cấp E/L từ 01/01/2004 đến 30/12/2004)
STT
Chủng
loại
Đơn vị
tính
Hạn ngạch Số lượng
Tỷ lệ %
so với HN
Kim ngạch
(USD)
Giá bình
quân
I. Các chủng loại hàng XK cần có thông báo giao hạn ngạch
1 Cat. 41 Tấn 1.692,26 1.504,13 88,88% 2.205.349,02
1466,19
USD/Tấn
II. Các chủng loại hàng có áp dụng hạn ngạch nhưng thực hiện cấp E/L tự động
1 Cat. 4 Chiếc 29.024.563 20.930.971 72,11% 40.895.774,06
1,95
USD/Chiếc
2 Cat. 5 Chiếc 10.672.240 9.341.369 87,53% 52.510.431,19
5,62
USD/Chiếc
3 Cat. 6 Chiếc 11.962.160 10.001.605 83,61% 59.728.002,16
5,97
USD/Chiếc
4 Cat. 7 Chiếc 8.935.790 4.833.356 54,09% 14.964.523,42
3,1
USD/Chiếc
5 Cat. 8 Chiếc 26.842.577 14.633.515 54,52% 79.418.776,45
5,43
USD/Chiếc
6 Cat. 9 Tấn 1.137,77 736,49 64,73% 4.003.425,53
5435,84
USD/Tấn
7 Cat. 10 Đôi 7.319.870 2.216.874 30,29% 3.887.075,57
1,75
USD/Đôi
8 Cat. 12 Đôi 4.236.230 306.552 7,24% 132.423,42
0,43
USD/Đôi
9 Cat. 13 Chiếc 17.081.760 13.312.449 77,93% 12.660.865,16
0,95
USD/Chiếc
10 Cat. 14 Chiếc 725.040 591.769 81,62% 3.110.749,66
5,26
USD/Chiếc
11 Cat. 15 Chiếc 1.407.919 1.284.864 91,26% 17.376.831,08
13,52
USD/Chiếc
12 Cat. 18 Tấn 2.083,55 602,97 28,94% 4.099.449,10 6798,74
USD/Tấn
13 Cat. 20 Tấn 307,41 258,98 84,24% 3.528.231,79
13623,75
USD/Tấn
14 Cat. 21 Chiếc 24.444.340 13.490.820 55,19% 190.733.004,90
14,14
USD/Chiếc
15 Cat. 26 Chiếc 2.179.243 741.508 34,03% 3.474.810,11
4,69
USD/Chiếc
16 Cat. 28 Chiếc 10.034.560 6.661.451 66,39% 13.690.274,61
2,06
USD/Chiếc
17 Cat. 29 Bộ 1.075.800 823.658 76,56% 5.724.652,39 6,95 USD/Bộ
18 Cat. 31 Chiếc 11.893.210 5.946.057 50,00% 19.692.686,42
3,31
USD/Chiếc
19 Cat. 35 Tấn 1.652,71 375,98 22,75% 1.236.849,97
3289,68
USD/Tấn
20 Cat. 39 Tấn 303,24 231,62 76,38% 3.109.837,49
13426,68
USD/Tấn
21 Cat. 68 Tấn 1.112,74 534,05 47,99% 7.719.810,58 14455,17
USD/Tấn
22 Cat. 73 Bộ 2.782.510 839.761 30,18% 5.443.460,38 6,48 USD/Bộ
23 Cat. 76 Tấn 2.644,72 2.152,38 81,38% 21.931.496,60
10189,43
USD/Tấn
24 Cat. 78 Tấn 2.967,32 2.325,49 78,37% 42.723.507,24
18371,85
USD/Tấn
25 Cat. 83 Tấn 991,13 904,44 91,25% 10.749.741,27
11885,5
USD/Tấn
26 Cat. 97 Tấn 489,34 301,11 61,53% 1.909.136,06
6340,24
USD/Tấn
27 Cat. 118 Tấn 315,02 99,41 31,56% 2.983.377,34
30010,66
USD/Tấn
28 Cat. 161 Tấn 739,07 274,13 37,09% 4.292.948,18
15660,48
USD/Tấn
III. Các chủng loại hàng không áp dụng hạn ngạch
1 Cat. 1 Tấn 345,24 735.900,20
2131,59
USD/Tấn
2 Cat. 2 Tấn 62,15 292.073,33
4699,35
USD/Tấn
3 Cat. 3 Tấn 224,25 557.582,90
2486,49
USD/Tấn
4 Cat. 16 Bộ 568.373 4.471.435,03 7,87 USD/Bộ
5 Cat. 17 Chiếc 186.976 2.864.625,54
15,32
USD/Chiếc
6 Cat. 19 Chiếc 34.461 43.852,16
1,27
USD/Chiếc
7 Cat. 22 Tấn 272,97 647.910,96
2373,54
USD/Tấn
8 Cat. 23 Tấn 39,19 96.453,24
2461,1
USD/Tấn
9 Cat. 24 Bộ 9.265.688 6.180.980,04 0,67 USD/Bộ
10 Cat. 27 Chiếc 2.062.761 6.303.670,34
3,06
USD/Chiếc
11 Cat. 33 Tấn 15.160,93 20.289.069,04
1338,25
USD/Tấn
12 Cat. 36 Tấn 0,38 6.882,60
18285,33
USD/Tấn
13 Cat. 37 Tấn 9,50 36.337,44
3826,56
USD/Tấn
14 Cat. 40 Tấn 2,49 75.849,58
30510,69
USD/Tấn
15 Cat. 62 Tấn 0,13 1.280,00
10039,22
USD/Tấn
16 Cat. 66 Tấn 0,00 1,00
500
USD/Tấn
17 Cat. 67 Tấn 0,11 3.799,20
33065,27
USD/Tấn
18 Cat. 72 Tấn 87,70 752.613,65
8581,43
USD/Tấn
19 Cat. 84 Tấn 49,38 13.055,02
264,41
USD/Tấn
20 Cat. 86 Tấn 0,50 10.518,75
20982,94
USD/Tấn
21 Cat. 88 Tấn 0,42 15.825,38
38133,45
USD/Tấn
22 Cat. 90 Tấn 69,02 127.506,97
1847,4
USD/Tấn
23 Cat. 112 Tấn 0,03 626,62
18988,48
USD/Tấn
24 Cat. 120 Tấn 4,67 177.691,53
38012,95
USD/Tấn
25 Cat. 136 Tấn 1,01 20.734,89
20564,21
USD/Tấn
26 Cat. 141 Tấn 0,11 1.906,00
17171,17
USD/Tấn
27 Cat. 142 Tấn 0,38 5.760,00
15000
USD/Tấn
28 Cat. 154 Tấn 0,04 390,00
9750
USD/Tấn
29 Cat. 156 Tấn 0,05 667,58
13351,6
USD/Tấn
30 Cat. 157 Tấn 67,59 399.959,27
5917,23
USD/Tấn
31 Cat. 159 Tấn 168,07 6.376.118,00
37938,28
USD/Tấn
32 Cat. 160 Tấn 0,66 26.853,00
40855,98
USD/Tấn
Tổng kim ngạch XK 684.475.430,41
PHỤ LỤC 2
TÌNH HÌNH XK HÀNG DỆT MAY SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ NĂM 2004
(Cấp Visa từ ngày 01/01/2004 đến 30/12/2004)
STT Cat.
Đơn
vị
tính
Tổng
nguồn
HN 2004
đã ứng
2005
HN 2004
chưa ứng
2005
Lượng
HN
đã sử
dụng
năm 2003
Số lượng
đã cấp
Visa
Tỷ lệ HN
đã sử
dụng
(so với 4)
Tỷ lệ HN
đã sử dụng
(so với 5)
HN 2004
chưa cấp
Visa
Kim ngạch XK
(USD)
Đơn giá TB
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7)
(8)
=[(6)+(7)
]/(4)
(9)
=[(6)+(7)]/(
5)
(10)
=(4)-(6)-(7)
(11) (12)
I.- Nhóm 1:
1 334/335 Tá 747.379 705.958 27.928 679.246 94,62% 100,17% 40.205 81.071.525,88 119,36 USD/Tá
2 338/339 Tá 15.618,498 14.472,350 1.396,440 14.222,58 100,00% 107,92% 0 590.961.463,04 41,55 USD/Tá
3
359-
S/659-S
Kgs 608.811 575.106 547.838 89,98% 95,26% 60.973 16.435.515,42 30 USD/Kgs
II.- Nhóm 2:
1 340/640 Tá 2.304.364 2.176.849 2.209.307 95,87% 101,49% 95.057 130.575.696,99 59,1 USD/Tá
2 434 Tá 13.514 12.523 3.083 22,81% 24,62% 10.431 917.438,54 297,58 USD/Tá
3 435 Tá 45.092 42.646 23.700 52,56% 55,57% 21.392 5.684.430,84 239,85 USD/Tá
4 440 Tá 2.831 2.678 83 2,93% 3,10% 2.748 16.373,70 197,27 USD/Tá
5 448 Tá 35.754 33.796 10.513 29,40% 31,11% 25.241 3.018.959,86 287,16 USD/Tá
6 647/648 Tá 2.248.471 2.123.858 82.066 2.067.968 95,62% 101,23% 98.437 125.153.704,81 60,52 USD/Tá
III.- Nhóm 3 (cấp Visa tự động):
1 200 Kgs 181.411 162.151 102.537 56,52% 63,24% 78.874 392.300,09 3,83 USD/Kgs
2 301 Kgs 616.444 572.788 432.143 70,10% 75,45% 184.301 1.257.279,00 2,91 USD/Kgs
3 332
Tá
đôi
99.807 35.607 753 0,75% 2,11% 99.054 4.335,50
5,76 USD/Tá
đôi
4 333 Tá 26.473 24.162 1.234 4,66% 5,11% 25.239 203.611,21 165 USD/Tá
5 341/641 Tá 918.776 869.882 665.444 72,43% 76,50% 253.332 35.027.397,21 52,64 USD/Tá
6 342/642 Tá 625.770 591.089 18.817 501.009 83,07% 87,94% 105.944 26.406.719,39 52,71 USD/Tá
7 345 Tá 193.413 175.125 62.930 32,54% 35,93% 130.483 4.970.802,28 78,99 USD/Tá
8 347/348 Tá 7.927.471 7.345.721 243.831 6.838.913 89,34% 96,42% 844.727 445.954.374,05 65,21 USD/Tá
9 351/651 Tá 469.339 438.685 10.996 210.044 47,10% 50,39% 248.299 10.959.864,48 52,18 USD/Tá
10 352/652 Tá 1.990.463 1.873.678 72.659 1.378.941 72,93% 77,47% 538.863 11.393.000,61 8,26 USD/Tá
11
359-
C/659-C
Kgs 311.624 290.770 77.997 25,03% 26,82% 233.627 1.219.240,81 15,63 USD/Kgs
12 447 Tá 58.353 55.171 8.949 15,34% 16,22% 49.404 1.533.285,11 171,34 USD/Tá
13 620 m2 3.705.052 3.296.483 1.561.238 42,14% 47,36% 2.143.814 434.341,85 0,28 USD/m2
14 632
Tá
đôi
100.820 68.720 10.030 9,95% 14,60% 90.790 20.773,00
2,07 USD/Tá
đôi
15 638/639 Tá 1.382.721 1.306.089 43.469 1.081.387 81,35% 86,12% 257.865 57.071.231,41 52,78 USD/Tá
16 645/646 Tá 162.901 150.510 13.026 55.979 42,36% 45,85% 93.896 3.351.796,74 59,88 USD/Tá
Tổng kim ngạch XK 1.554.035.461,82
Ghi chú:
- Lượng hạn ngạch 2004 đã sử dụng năm 2003 được điều chỉnh theo thư điện tử của Hải Quan Hoa Kỳ gửi ngày 13/10/2004.
- Nguồn hạn ngạch (ô số 4) đã bao gồm hạn ngạch ứng trước năm 2005 (6 - 8%).
- Việc phân nhóm và cấp Visa tự động theo Thông báo số 5208/TM-XNK ngày 12/10/2004, 5605/TM-XNK ngày
02/11/20046095/TM-XNK ngày 19/11/2004 và 6378/TM-XNK ngày 14/12/2004.
122
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Báo Công nghiệp Việt nam – Hiệp hội dệt may Việt nam (2003), Để xuất
khẩu thành công hàng dệt may Việt nam vào thị trường Hoa kỳ,
NXB Thống kê, Hà nội.
2. Biến động dệt may thời hậu hạn ngạch, cập nhật ngày 20/04/2005,
3. Nguyễn Như Bình, Lê Thanh Tâm, Bùi Huy Nhượng, Trần Thị Hồng Việt,
Đinh Ngọc Đức, Nguyễn Anh Minh (1999), Chính sách công nghiệp
của Nhật Bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.
4. Bức xúc lao động ngành dệt may, cập nhật ngày 05/04/2005,
5. Có qua được cơn bão lớn,
6. Dệt may đủ sức cạnh tranh,
7. Dệt may Hà nội: khẳng định vị thế, cập nhật ngày 15/03/2005,
8. Dệt may: “lách” thế nào trước “người khổng lồ” Trung Quốc?, cập nhật
ngày 08/04/2005,
9. Dệt may vào Mỹ: những điều doanh nghiệp cần quan tâm, cập nhật ngày
14/03/2005,
10. Dệt may Việt nam có thể cạnh tranh với Trung Quốc sau 2005, cập nhật
ngày11/10/2004,
11. Dệt may Việt nam trước thềm 2005: Đối đầu với hàng Trung Quốc,
12. Đương đầu với cạnh tranh,
13. EU đem chuyện dệt may Trung Quốc tới WTO, cập nhật ngày 30/5/05
123
14. Hiệp hội dệt may Việt nam – Trung tâm tư vấn XT thương mại và lao
động (2004), VITAS – CSC, Hồ Chí Minh.
15. Nguyễn Hoàng, “Dệt may ASEAN hợp sức chống lại đại hồng thuỷ”,
Vneconomy cập nhật ngày 11/11/2004.
16. Nguyễn Văn Hồng (2003), Trung Quốc cải cách mở cửa những bài học
kinh nghiệm, NXB Thế giới, Hà nội.
17. Một vũ khí cạnh tranh cho doanh nghiệp dệt may: hệ thống quản lý tích
hợp,
18. Liên kết chuỗi các doanh nghiệp dệt may: Tại sao không?, cập nhật ngày
29/01/2005,
19. Liên kết chuỗi các doanh nghiệp dệt may: Tại sao không?, cập nhật ngày
29/01/2005,
20. Liên kết tạo sực mạnh cạnh tranh, cập nhật ngày 03/03/2005,
21. Võ Đại Lược (2004), Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới
thời cơ và thách thức, NXB Khoa học xã hội, Hà nội.
22. Nâng cao sức cạnh tranh của ngành dệt may Việt nam, cập nhật ngày
01/04/2005,
23. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2003), Văn bản pháp luật về ngành dệt –
may, Hà nội
24. Ngành dệt may bước vào thời kỳ ảm đạm,
25. Nguyễn Thế Nghiệp (2005), Cuộc chiến hàng dệt may còn cam go, Thời
báo kinh tế Việt Nam, 88 (18).
26. Dương Ngọc (2005), Dệt may Việt Nam trước thách thức lớn, Thời báo
kinh tế Việt Nam, 88 (16).
27. Dương Ngọc (2005), Đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập khẩu, Thời báo
kinh tế Việt Nam, 202 (6).
124
28. Minh – Nguyên, Bãi bỏ hạn ngạch dệt may: cạnh tranh gay gắt hơn, Báo
Người Lao Động, cập nhật ngày 6/12/2004
29. Văn Nguyễn (2005), Dự báo mức tăng trưởng kinh tế thế giới 2005, Thế
giới hôm nay, 18.
30. Người lao động, WTO sẽ bỏ hạn ngạch hàng dệt may, Vneconomy cập
nhật ngày 08/10/2004.
31. Nguyên Thành, Nâng chất lượng sản phẩm dệt để cạnh tranh trong thị
trường phi quota, Vneconomy cập nhật ngày 31/03/2004.
32. Nguyên Thành, Cần sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành may mặc,
Vneconomy cập nhật ngày 26/11/2004.
33. Sôi động thị trường dệt – may, cập nhật ngày 21/02/2005,
34. Thời báo Kinh tế Việt nam (2004), Kinh tế (2004 – 2005) Việt nam & Thế
giới, Hà nội.
35. Tổng công ty Dệt may Việt Nam (2005), Báo cáo quý I năm 2005, Hà Nội
36. TTXVN, Sẽ có nhiều ưu đãi về tài chính cho các doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư vào lĩnh vực dệt, Vneconomy cập nhật ngày
24/03/2004.
37. TTXVN, Danh mục hàng dệt may giảm thuế theo hiệp định dệt may Việt
– Mỹ, Vneconomy cập nhật ngày 24/02/2004.
38. TTXVN, “Kim ngạch xuất khẩu dệt may 9 tháng tăng 17,6%”,
Vneconomy cập nhật ngày 01/10/2004.
39. TTXVN, “Dệt may Việt namm vẫn có lối ra”,Vneconomy cập nhật ngày
06/08/2004.
40. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2003), Toàn cầu hóa và
tác động đối với sự hội nhập của Việt nam, NXB Thế giới, Hà nội.
125
41. Cao Triều (2004), “Những ảnh hưởng của việc huỷ bỏ chế độ hạn ngạch
đối với việc xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc”, Tạp chí mậu dịch
đối ngoại Trung Quốc, Bắc Kinh.
42. Vào EU phải cạnh tranh với hàng Trung Quốc,
43. Vào WTO: Đừng để Việt nam thành Mehico thứ hai, cập nhật ngày
13/12/2004,
44. Đức Vượng, “Thay đổi cách điều hành hạn ngạch”, Vneconomy cập nhật
ngày 14/10/2004.
45. Đức Vượng, “Cần giúp dệt may qua vận hạn”, Veconomy cập nhật ngày
20/09/2004.
46. Việt nam là thị trường đặt hàng dệt may chiến lược của Mỹ,
47. Thái Vĩ, “Dệt may hậu hạn ngạch: báo động nguy cơ mất thị trường”,
Vneconomy cập nhật ngày 08/11/2004.
48. Xuất khẩu dệt may: Niềm vui chưa thể cất cánh, cập nhật ngày
26/02/2003,
49. Xuất khẩu hàng dệt may năm 2005 – cơ hội và thách thức,
TIẾNG ANH
50. Chinese textile industry fumes, updated 26 November 2004,
51. Elena Ianchovichina and Will Martin (2004), Economic Impact of China’s
accession to the WTO.
52. Elena Ianchovichina & Will Martin(2005), Trade Liberalization in
China’s Accession to the World Trade Organzation. World Bank.
126
53. Influence of China’s Entry to WTO on Domestic Textile Machinery
Industry,
54. Khalid Nadvi and John Thoburn (2004), “Challenges to Vietnamese firms
in the world garment and textile value chain, and the implications
for alleviating poverty”, Journal of the Asia Pacific Economay,
55. Profile of China’s Textile Industry,
56. Review of textile industry affter WTO entry, updated April 2005,
57. Textiles Export Set to Grow Steadily, update 14 April 2005,
58. Textile industry: China Nationl Textile & Apparel Council,
59. The American Textile Manufacturers Institue (2005), The China Threat to
World Textile and Apparel Trade, 1130 Connecticut Ave, NW
Washington DC 20036.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3040_2002.pdf