Kim ngạch ngoại thương tăng rất nhanh: năm 1986, kim ngạch ngoại thương
đạt 2,97 tỷ USD; năm 2005, kim ngạch ngoại thương vượt mốc 69 tỷ USD. Thu
hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ: đến năm 2005, tổng số vốn FDI theo đăng ký đã
lên đến 53,6 tỷ USD, nguồn vốn FDI chiếm khoảng 20% tổng số vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội.
24 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực
hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam?
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin:
1.1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử:
1.1.1. Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất:
1.1.1.1. Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội:
Sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng
công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự
nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người.
Sản xuất vật chất có hai đặc trưng sau: Thứ nhất, đây là hoạt động đặc trưng
cho xã hội loài người, là phương thức sinh tồn đặc trưng của loài người. Thứ hai,
đó là hoạt động có tính mục đích và tính sáng tạo.
Theo quan điểm duy vật về lịch sử thì sản xuất vật chất giữ vai trò là nền
tảng vật chất của toàn bộ đời sống xã hội loài người. Như vậy, lịch sử của nhân
loại trước hết là lịch sử của quá trình sản xuất vật chất; sự phát triển của toàn bộ
đời sống xã hội chỉ thực sự có được trên cơ sở phát triền của nền sản xuất vật chất
của xã hội. Cũng chính vì vậy mà C.Mác cho rằng: bản thân con người, bắt đầu
bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình.
1.1.1.2. Vai trò của phương thức sản xuất vật chất đối với sự vận động và phát triển của
xã hội:
Phương thức sản xuất là những cách thức mà con người sử dụng để tiến
hành một quá trình sản xuất của xã hội. Như vậy, phương thức sản xuất cũng
chính là chỉ quá trình sản xuất của xã hội nhưng không phải là xét trên phương
diện mục đích của nó mà xét trên phương diện cách thức tiến hành quá trình sản
xuất đó - tức quá trình sản xuất đó được tiến hành với những cách thức nào và với
những công cụ gì.
Mỗi phương thức sản xuất được tạo thành từ hai phương diện cơ bản là
phương thức kỹ thuật, công nghệ của quá trình sản xuất và phương thức tổ chức
kinh tế của quá trình đó, trong đó phương thức kỹ thuật, công nghệ giữ vai trò
quyết định phương thức tổ chức kinh tế của quá trình đó.
Mỗi xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định đều có thể có sự đan xen
của một số phương thức sản xuất nào đó, nhưng thường có một phương thức sản
xuất chiếm địa vị phổ biến và mang ý nghĩa quyết định, đặc trưng cho xã hội đó.
Điều này không loại trừ trong một xã hội nhất định, trong các điều kiện xác định,
cùng tồn tại một số phương thức sản xuất đan xen và chi phối lẫn nhau và cùng tác
động đến tiến trình phát triển của nền sản xuất xã hội và xã hội nói chung. Khi
nghiên cứu về các xã hội phương Đông châu Á, C.Mác đã đặc biệt lưu ý đến tính
chất đan xen của các phương thức sản xuất khác nhau cùng tồn tại lâu dài trong
lịch sử và ông đã gọi nó bằng một khái niệm đặc thù là “phương thức sản xuất Á
Châu”.
Vai trò của phương thức sản xuất có thể được khái quát như sau:
Thứ nhất, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản
xuất vật chất của xã hội và cũng chính qua đó mà nó giữ vai trò là nhân tố quyết
định trình độ phát triển của đời sống xã hội nói chung. Cũng chính vì vậy mà có
thể nói, tiêu thức cơ bản để phân định trình độ phát triển của các nền sản xuất vật
chất của xã hội chính là ở sự phân biệt về trình độ phát triển của phương thức sản
xuất.
Thứ hai, phương thức sản xuất là nhân tố giữ vai trò quyết định tính chất,
trình độ, nội dung và hình thức tổ chức kinh tế của một xã hội và cũng qua đó nó
cũng giữ vai trò quyết định tính chất, trình độ, nội dung và hình thức đặc trưng của
tổ chức chính trị – xã hội nói chung.
Thứ ba, phương thức sản xuất là nhân tố giữ vai trò quyết định đến cả
phương thức hoạt động tinh thần của xã hội, chẳng hạn như phương thức tư duy
của con người trong xã hội đó.
1.1.1.3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất:
Lực lượng sản xuất là tổng thể các nhân tố được sử dụng trong quá trình
sản xuất tạo thành năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng tự nhiên theo nhu cầu
của con người.
Một là, xét đến các nhân tố hợp thành lực lượng sản xuất bao gồm: tư liệu
sản xuất và người lao động (thực chất là sức lao động của người lao động). Cũng
có thể gọi đó là nhân tố “vật” và nhân tố “con người” trong đó nhân tố con người
là nhân tố giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất bởi vì nhân tố vật, suy
cho cùng cũng chỉ là sản phẩm lao động của người lao động, đồng thời giá trị thực
tế của nhân tố tư liệu sản xuất như thế nào trong lực lượng sản xuất cũng là cái
được quyết định bởi năng lực sử dụng của người lao động trong thực tế sản xuất.
Hai là, khi nói đến phương thức sản xuất, cơ bản phải phân tích làm sáng tỏ
mối quan hệ giữa các yếu tố được vận dụng trong quá trình sản xuất thực tế, nhờ
đó nó mới có thể tạo thành năng lực thực tiễn làm cải biến các đối tượng tự nhiên,
sức mạnh cải biến môi trường tự nhiên theo nhu cầu của con người. Đây là
phương diện chất của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất xã hội (sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng).
Có thể chỉ rõ hơn rằng, khái niệm quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể các mối
quan hệ kinh tế của xã hội, nảy sinh tất yếu do nhu cầu khách quan của việc tiến
hành các quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội – tức những quan hệ tất yếu
khách quan cần phải có để thực hiện những lợi ích kinh tế giữa người ta với nhau
và do đó mà có thể diễn ra được quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của
quá trình sản xuất đó. Ba quan hệ trên có mối quan hệ biện chứng, nhưng quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Trong xã hội, những cuộc cải
cách liên quan đến quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là cuộc cải cách đã tiến hành
theo chiều sâu của nó.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất không phải là mối quan hệ giữa người
với vật (tư liệu sản xuất) mà là mối quan hệ kinh tế giữa con người ta với nhau.
Quan hệ tổ chức, quản lý quá trình sản xuất của xã hội, xét trên phương diện là
những quan hệ sản xuất, cũng không phải là quan hệ giữa người với vật (các đối
tượng quản lý) mà là quan hệ giữa người ta với nhau trong việc xác định địa vị chi
phối điều khiển quá trình đó. Tương tự, quan hệ phân phối, với tư cách là quan hệ
kinh tế, nó chính là mối quan hệ giữa con người ta với nhau trong việc xác định về
quy mô cũng như phương pháp phân chia lợi ích có được nhờ quá trình sản xuất –
tức lợi ích kinh tế.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một mối liên hệ
ràng buộc thống nhất, không có lực lượng sản xuất hiện thực ngoài quan hệ sản
xuất và ngược lại; lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất đó, quan hệ sản
xuất nào sẽ đòi hỏi một lực lượng sản xuất tương ứng.
Trong mối quan hệ này thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đến
sự hình thành, củng cố và biến đổi của quan hệ sản xuất hiện thực. Sở dĩ như vậy
là vì trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật còn
quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất cũng có tác động trở lại sự bảo tồn, khai thác và phát triển
lực lượng sản xuất theo hai hướng tác động (tích cực và tiêu cực).
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
giữa hai mặt đối lập. Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng này là đi từ thống
nhất đến những khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột giữa nhu cầu phát triển
của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển đó, khi đó bắt
đầu nhu cầu của những cuộc cải cách, hoặc cao hơn là một cuộc cách mạng, nhằm
thực hiện sự cải biến những quan hệ sản xuất hiện thời theo hướng làm cho nó phù
hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp
mới của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
1.1.2. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
1.1.2.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng:
Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Do đó, khi nói đến cơ sở hạ tầng của một xã hội
thì thực chất là nói đến cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội đó và do vậy mà cũng có
thể gọi tắt cơ sở hạ tầng xã hội là cơ sở kinh tể của xã hội.
Các bộ phận cấu thành của cơ sở hạ tầng gồm có quan hệ sản xuất thống trị,
quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất tương lai.
1.1.2.2. Khái niệm kiến trúc thượng tầng:
Khái niện kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ các hình thái ý thức xã hội và
các thiết chế xã hội tương ứng với các hình thái đó.
Về cơ bản, phân tích kết cấu của kiến trúc thượng tầng gồm có hai lớp
chính: hình thái ý thức xã hội và thiết chế xã hội tương ứng. Sự phân tích thành hai
lớp chính như trên cho thấy bản chất của kiến trúc thượng tầng là hình thái ý thức
xã hội còn thiết chế chỉ là hiện hình của ý thức xã hội.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội tồn tại trong
tính quy định thống nhất với nhau: kiến trúc thượng tầng là các hình thức chính trị,
pháp luật... của các quan hệ kinh tế và hoạt động kinh tế hiện thực của xã hội;
ngược lại, cơ sở hạ tầng lại là cơ sở kinh tế hình thành nên những quan hệ và hoạt
động chính trị, pháp luật, ... trong đời sống hiện thực của xã hội.
Thứ hai, trong mối quan hệ này, vai trò quyết định thuộc về cơ sở hạ tầng
kinh tế của xã hội. Nói cách khác, cơ sở kinh tế hiện thực của xã hội giữ vai trò
quyết định chính trị, nhà nước... Cơ sở hạ tầng nào thì tất yếu sẽ làm nảy sinh kiến
trúc thượng tầng ấy; Khi cơ sở hạ tầng có những biến đổi nhất định sẽ kéo theo
những biến đổi nhất định của các nhân tố thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Thứ ba, các nhân tố thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội thường xuyên
có tác động trở lại cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. Trong sự tác động trở lại này,
nhân tố nhà nước và pháp luật thường thể hiện là nhân tố có vai trò tác động trực
tiếp và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.
Thứ tư, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
có mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng: chúng vừa có khả năng thống nhất với
nhau vừa có khả năng đối lập và xung đột với nhau. Như vậy, về nhu cầu khác
quan có tính tất yếu quy luật là: kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ
tầng của xã hội
1.2. Thực tiễn kinh nghiệm của các nước trên thế giới:
1.2.1. Trung Quốc:
Chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn đặt căn bản trên ba nguyên lý là Dân
Tộc, Dân Quyền, và Dân Sinh.
Thứ nhất, nguyên lý Dân Tộc xác minh là nhân dân phải giành lại chủ quyền
quốc gia để có thể hoạch định chính sách xây dựng đất nước một cách độc lập.
Các thỏa ước thiếu bình đẳng với ngoại quốc bất lợi cho dân tộc phải được hủy bỏ
hoặc tái xét nhằm có lợi cho đôi bên.
Thứ hai, nguyên lý Dân Quyền chủ trương là nhân dân phải có bốn “chánh
quyền” căn bản: bầu cử, đề nghị dự luật, biểu quyết bãi nhiệm chính quyền hay
công chức, và phúc phủ quyết luật pháp. Tổ chức hành chính quốc gia phân chia ra
thành 'chánh quyền' (quyền chính trị) và 'trị quyền' (quyền quản trị quốc sự). 'Trị
quyền' của chính phủ bao gồm quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giám sát, và
khảo thí (Ngũ Quyền Hiến Pháp). Tôn Trung Sơn tin rằng nếu tổ chức quốc gia
được xây dựng trên căn bản của bốn chánh quyền và năm trị quyền vừa được bàn
đến thì các thế lực chính trị trong quốc gia sẽ được thăng bằng (phân lập) và có thể
giải quyết được tệ nạn trì trệ trong lãnh vực quản thống quốc sự cũng như đẩy
mạnh được nỗ lực canh tân đất nước.
Thứ ba, nguyên lý Dân Sinh chủ trương rằng vấn đề dân sinh là trọng tâm của
sự tiến hóa trong xã hội, và sự tiến hóa trong xã hội trở thành trọng tâm của lịch
sử. Vì vậy cho nên chủ nghĩa Tam Dân bắt buộc chính quyền phải chăm lo đến đời
sống của nhân dân bởi vì quốc gia không thể hùng cường nếu dân tộc không được
ấm no. Sự cách biệt giữa kẻ giàu và người nghèo phải được giảm thiểu tối đa để
nâng cao đời sống nhân dân một cách đồng đều và giới hạn sự bất bình đẳng
quyền lợi kinh tế trong quốc gia.
Ðối diện với nền kinh tế nông nghiệp Trung Hoa và thực trạng đại đa số nhân
dân là nông dân, Tôn Trung Sơn chủ trương “bình quân địa quyền” và “tiết chế tư
bản”.
Chính sách 'bình quân địa quyền' nhắm vào nỗ lực cải cách điền địa để trưng
mua đất đai và cấp cho dân vô sản cày cấy (canh giả hữu kỳ điền hay người cày có
ruộng). Song song, nhân dân phải được hướng dẫn và khuyến khích dùng đồ nội
hóa. Ông đề nghị là chính quyền phải áp dụng chính sách kinh tế chú trọng vào
việc sản xuất hàng hóa nội địa nhằm cung ứng cho thị trường trong nước.
Về chính sách 'tiết chế tư bản', chương Tri Phú trong tài liệu Tam Dân Chủ
Nghĩa (ghi lại các bài diễn thuyết) của Tôn Trung Sơn có đoạn như sau: “Muốn
giải quyết vấn đề nhân sinh (thì) nhất định phải phát đạt tư bản, chấn hưng thực
nghiệp. Nhưng nếu không dùng lực lượng quốc gia ra mà kinh doanh, mà lại phó
thác cho tư nhân Trung quốc, hoặc thương nhân ngoại quốc, thì tương lai chẳng
qua làm giàu cho một số người có tư bản và phát sinh sự bất bình đẳng giữa giai
cấp giàu nghèo.”
Chính phủ không chỉ tiết chế tư bản cá thể mà còn phải phát triển nền kinh tế
quốc doanh qua phương pháp chấn hưng các ngành nghề, không để cho kinh tế tư
bản tư nhân thao túng. Ðối với một vài cơ sở kỹ nghệ lớn, Tôn Trung Sơn chủ
trương quốc hữu hóa và bồi thường xứng đáng cho giới chủ nhân.
Tôn Trung Sơn kết luận rằng: mục đích của chủ nghĩa dân sinh là làm cho dân
chúng có đủ cơm no, áo mặc, nhà ở, đường đi. Để đạt được mục đích ấy, chính
phủ cần phải khuyến khích nhân dân sản xuất vật phẩm thật nhiều, rồi kiểm soát
sự phân phối vật sản ấy cho đồng đều để mọi người đều được hưởng như nhau.
Vậy, chủ nghĩa Dân sinh cũng không khác nào chủ nghĩa cộng sản, nó thể hiện cái
nhìn xa vượt lên trên sự tranh giành ngai vị tầm thường để đi đến sách lược chăm
lo cho đời sống nhân dân cũng như bảo vệ quyền tự do cá nhân trong một xã hội
công bằng.
1.2.2. Liên Xô:
1.2.2.1. Nội dung cơ bản của chính sách “Kinh tế mới”:
Thứ nhất, bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa của nông dân và thay vào
đó là thuế lương thực.
Thứ hai, những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hóa, nay cho tư nhân
thuê hay mua lại để kinh doanh tự do (chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng).
Thứ ba, cho phép mở rộng trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn,
giữa công nghiệp và nông nghiệp, cho thương nhân được tự do hoạt động (chủ yếu
trên lĩnh vực bán lẻ) để góp phần khôi phục kinh tế, củng cố lại lưu thông tiền tệ
trong nước.
Thứ tư, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh.
1.2.2.2. Thành tựu đạt được:
Chính sách kinh tế mới đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất ở cả
thành thị và nông thôn, vì nó đáp ứng được yêu cầu của quy luật kinh tế của nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa còn mang tính chất hàng hóa và có nhiều thành phần.
Nhờ đó, trong một thời gian ngắn, Nhà nước Xô Viết đã khôi phục được nền kinh
tế bị chiến tranh tàn phá, củng cố thêm khối liên minh công nông; thành lập nên
Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết. (ngày 30 tháng 12 năm 1922)
Về nông nghiệp, chính sách kinh tế mới được quán triệt trong các ngành
kinh tế và lấy việc khôi phục nông nghiệp làm nhiệm vụ hàng đầu. Đến cuối năm
1922, Liên Xô đã vượt qua được nạn đói. Tổng sản lượng lương thực của Liên Xô
đã tăng từ 42,2 triệu tấn (năm 1921) đến 74,6 triệu tấn (năm 1925).
Về công nghiệp, tổng sản lượng công nghiệp năm 1925 so với năm 1913
mới đạt 75,5%, đến năm 1926 mới khôi phục 100%. Ngành cơ khí chế tạo và điện
đã vượt mức trước chiến tranh.
Về thương nghiệp, trong việc thực hiện chính sách kinh tế mới, Lênin coi
thương nghiệp là “mắt xích” trong chuỗi dây xích các sự biến lịch sử mà Nhà nước
phải đem toàn lực ra mà nắm lấy nó. Thương nghiệp đã tăng cường mạnh mẽ (về
mặt nội thương: tổng mức lưu chuyển hàng hóa năm 1926 đã bằng 2 lần năm
1924; về ngoại thương: mở rộng quan hệ buôn bán với hơn 40 nước)
2. Thực tiễn ở Việt Nam:
2.1. Đặc điểm tình hình Việt Nam thời kỳ miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Thứ nhất, là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu dựa trên sản xuất
nhỏ cá thể, cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản để lại hết sức kém cỏi và non yếu.
Công nghiệp nhỏ bé, nông nghiệp và thủ công có tính chất phân tán, chiếm bộ
phận lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, miền Bắc chịu sự tàn phá nặng nề của 15 năm chiến tranh, chính
sách khai thác thuộc địa nặng nề của thực dân Pháp.
Thứ ba, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong khi chủ nghĩa xã hội đã
trở thành một hệ thống trên thế giới.
Thứ tư, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc diễn ra khi đất nước
ta đang bị chia cách làm hai miền.Đảng và Nhà nước đã chủ trương: “đưa miền
Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.”
2.2. Quá trình xây dựng nên kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc:
2.2.1. Khôi phục kinh tế (1955 - 1957):
Về nội dung, khôi phục kinh tế thực hiện trên ba mặt: khôi phục các cơ sở sản
xuất, khôi phục mức sản xuất ngang trước chiến tranh (năm 1939) và làm biến đổi
tính chất của nền kinh tế cho phù hợp với chế độ dân chủ nhân dân.
Kết quả khôi phục kinh tế:
Thứ nhất, hoàn thành cải cách ruộng đất và bước đầu cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh. Cải cách ruộng đất đã chia 81 vạn ha ruộng đất cho 2,1
triệu hộ nông dân, làm thay đổi hẳn quan hệ ruộng đất trong nông thôn.
Thứ hai, khôi phục sản xuất đạt và vượt mức trước chiến tranh. Việc khôi phục
kinh tế của miền Bắc được thực hiện theo tinh thần Nghị quyết của Bộ chính trị
tháng 9-1954 để ra là: “Trước hết cần nắm vững việc phục hồi và phát triển nông
nghiệp. Đó là vấn đề then chốt, là cơ sở củ việc cải thiện đời sống nhân dân. Khôi
phục và phát triển công nghiệp nhẹ trước, công nghiệp nặng sau; công nghiệp nhẹ
là chính, đồng thời cũng khôi phục một phần công nghiệp nặng.” Do vậy sau 3
năm khôi phục kinh tế, sản lương lúa năm 1957 đã đạt 3,95 triệu tấn vượt 62% so
với năm 1939. Sản lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 1957 bằng
299,8% năm 1939.
Thứ ba, chấn chỉnh thương nghiệp, tài chính tiền tệ. Về việc thống nhất thị
trường, ta đã dựa trên giá cả vùng tự do để điều chỉnh giá cả ở vùng giải phóng,
giúp đỡ sản xuất phát triển. Hệ thống mậu dịch quốc doanh được mở rộng. Việc
buôn bán với nước ngoài được mở rộng hơn. Song song với việc phục hồi các
ngành kinh tế, Chính phủ sớm ban hành các chính sách thuế công thương nghiệp
mới và coi thuế là công cụ để kiếm tra mọi hoạt động kinh tế phức tạp của xã hội,
là công cụ điều tiết thu nhập của giai cấp tư sản công thương nghiệp... Về tiền tệ,
Chính phủ đã tiến hành thu hồi các loại tiền: Đông Dương, tín phiếu, tiền ngân
hàng nhân dân Nam Bộ; lưu hành giấy bạc ngân hàng Trung ương.
Thành tựu của công cuộc khôi phục kinh tế chứng minh và khẳng định một tất
yếu kinh tế là: khi sức sản xuất được giải phóng, quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất thì kinh tế sẽ phục hồi và phát triển nhanh.
2.2.2. Cải tạo và phát triển kinh tế (1958 - 1960)
Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (khóa II) tháng 11 -1958 đã đề ra kế hoạch ba
năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế miền Bắc: “Đẩy mạnh cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với thành phần kinh tế cá thể nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản, tư doanh; đồng thời ra sức phát triển kinh
tế quốc doanh.”
Thứ nhất, cải tạo xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ cơ bản của công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa
nhằm mục đích cải biến nền kinh tế quốc dân nhiều thành phần thành nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu chủ yếu là toàn dân và tập thể. Đảng ta
chủ trương: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, đi đôi với thủy lợi hóa và cải tiến kỹ
thuật trong cải tạo nông nghiệp. Trong việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
doanh, chúng ta chủ trương dùng phương pháp hòa bình. Công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa đã đạt được thắng lợi to lớn: quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác
lập một cách phổ biến (chủ yếu về mặt sở hữu tư liệu sản xuất), xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, lực lượng sản xuất được giải phóng và đang trên đà phát
triển, giai cấp nông dân tập thể được hình thành, khối liên minh công nông được
củng cố, chuyên chính vô sản được tăng cường.
Thứ hai, phát triển sản xuất. Nông nghiệp phát triển toàn diện hơn sơ với trước
chiến tranh. Đối với công nghiệp, chủ trương của Đảng là: “… phải ra sức phát
triển công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh phát triển
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng”.
2.2.3. Kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961 - 1965)
Thứ nhất, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ trương
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã được Đại hội Đảng lần thứ III đề
ra là: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp
công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một
nước công nghiệp hiện đại.” Trong sự nghiệp bước đầu công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa, chúng ta đã thu được những thắng lợi to lớn, nền kinh tế miền Bắc đã
có những chuyển biến cơ bản.
Thứ hai, củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa,
từng bước nâng cao trình độ quản lý kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và thực
hiện tốt nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong nông nghiệp, tiếp tục đưa nông
dân cá thể vào hợp tác xã, chuyển các hợp tác xã từ bậc thấp lên bậc cao, từng
bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật kết hợp với cải tiến quản lý hợp tác xã.
Đối với công nghiệp: Nhà nước đã mở cuộc vận động “Ba xây, ba chống” nhằm
khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế quốc doanh, củng cố quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, củng
cố khối liên minh công nông và đoàn kết dân tộc.
3. Nội dung chính sách thực hiện cơ cấu hàng hóa nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có hai con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ nhất, đó là con đường quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, xuất phát từ các nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Thời kỳ quá
độ này bắt đầu khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, phản ánh quy luật
phát triển tuần tự. Thời kỳ quá độ ngắn và trực tiếp tiến lên chủ nghĩa xã hội
Thứ hai, đó là con đường phát triền gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những
nước chủ nghĩa tư bản còn thấp kém hay theo V.I.Lênin cho rằng, những nước có
nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, cũng có
thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong điều kiện cụ thể nào đó, nhất là trong điều
kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm
quyền) và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ. Thời kỳ quá độ gián tiếp dài
và phải trải qua nhiều bước.
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành
giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể -
quá độ từ một xã hội nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc
lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước
ta có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã
hội chứ không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này
chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
và làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong các mâu thuẫn nảy sinh, Hồ Chí Minh
đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển cao của đất nước theo xu
hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta.
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam:
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu
dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao
gồm hai nội dung lớn:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây
dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng,
trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, qua
nhiều “bước ngắn, bước dài tùy theo hoàn cảnh”, phải làm “dần dần, thận trọng
từng bước một, từ thấp đến cao”, trong đó trọng tâm là công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa.
3.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
trong thời kỳ quá độ:
Về mặt chính trị, phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Một nội dung
chính trị quan trọng nữa là củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng
cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng
cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của
nó.
Về mặt văn hóa – xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vẫn đề xây dựng
con người mới. Người đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học – kỹ thuật
trong xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định
phải có học thức, cần phải học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội
cộng với khoa học chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận. Hồ Chí
Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định
vai trò to lớn của văn hóa trong đời sống xã hội.
Về mặt kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người đề cập đến tăng năng suất lao động trên cơ sở
tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất là công hữu về tư
liệu sản xuất là chủ yếu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể). Ở nước ta, Hồ Chí Minh
là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4. Tính đúng đắn của luận điểm:
Đại hội VI (tháng 12-1986) của Đảng là một mốc lịch sử quan trọng trên con
đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta, trong đó có đổi mới kinh tế.
4.1. Những nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế:
4.1.1. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
Đại hội VI đã xem xét lại một cách căn bản vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa và
đã đưa ra quan điểm mới về nền kinh tế nhiều thành phần: “Đi đôi với việc phát
triền kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của
nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế khác.”
Thứ nhất, đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Từng bước mở rộng quyền tự chủ
cho doanh nghiệp nhà nước đi đôi với xóa bỏ dần chế độ Nhà nước bao cấp tài
chính, cung ứng và bao cấp giá vật tư, và định giá đối với hầu hết các sản phẩm do
doanh nghiệp nhà nước sản xuất và tiêu thụ. Chế độ thu quốc doanh cũng được bãi
bỏ, thay bằng chế độ thuế. Sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo hướng giải
thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, sáp nhập các doanh
nghiệp có liên quan với nhau về công nghệ và thị trường. Chuyển sang các hình
thức sở hữu khác: cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, giao, bán, khoán kinh
doanh đổi với các doanh nghiệp quy mô nhỏ, mô hình công ty mẹ – công ty con.
Thứ hai, đổi mới kinh tế hợp tác. Giải thể các tập đoàn sản xuất hoặc các hợp
tác xã làm ăn kém, thua lỗ kéo dài hoặc chỉ tồn tại trên hình thức. Giao khoán hoặc
bán nhượng, bán tư liệu sản xuất cho xã viên để họ trực tiếp quản lý, sản xuất kinh
doanh theo hộ gia đình. Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành
các hợp tác xã cổ phần, hoạt động theo Luật hợp tác xã (ban hành năm 1997).
Thứ ba, phát triển kinh tế cá thể, tư nhân và các loại hình sở hữu hỗn hợp. Ở
nông thôn, các hộ gia đình đã trở thành đơn vị sản xuất tự chủ hoàn toàn. Quyết
định 26 và 27/HĐBT ngày 9-3-1988 cho phép các cơ sở kinh tế tư nhân quy mô
nhỏ được hoạt động trong các ngành sản xuất công nghiệp, xây dựng, vận tải và
dịch vụ. Năm 1990, Quốc hội ban hành một số đạo luật tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động của khu vực này. Các hình thức sở hữu, kinh doanh hỗn hợp mới ra đời.
Riêng trong công nghiệp năm 2000 đã có 1063 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và 2787 doanh nghiệp hỗn hợp.
4.1.2. Điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế:
Trong những năm qua, do nhận thức phiến diện về công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa dẫn đến khuynh hướng ham muốn xây dựng công nghiệp nặng, ham quy mô
lớn và thiên về xây dựng mới, gây ra mất cân đối trong nền kinh tế. Để khắc phục
tình trạng đó, Đại hội VI đã đề ra chủ trương bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu
tư giữa các ngành kinh tế, thực chất là cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế nước ta trong từng
giai đoạn
Đầu tiên cần tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế để tạo tiền đề cho đẩy
mạnh công nghiệp hóa ở giai đoạn tiếp theo. “Phải thật sự tập trung sức người, sức
của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.” (Quan điểm của Đại hội VI)
Đại hội VII (năm 1991) chủ trương điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng “đẩy
mạnh ba chương trình kinh tế với nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng
cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa.”
Từ giữa thập kỷ 1990, trên cơ sở những tiền đề đã đạt được Đảng ta chủ trương
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Bênh cạnh đó, nội dung
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ này đã đề ra chủ trương xây dựng có
chọn lọc, một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều
kiện về vốn, công nghệ, thị trường.
Như vậy, điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đổi mới thực chất là cụ thể
hóa nội dung chính của công nghiệp hóa cho phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế nước ta trong từng giai đoạn.
4.1.3. Đổi mới cơ chế quản lí kinh tế
Đại hội VI đã chủ trương đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế, và chỉ ra thực chất
của cơ chế mới đó là: “Cơ chế kế hoạch hóa tập trung theo phương thức hạch toán
kinh doanh của xã hội chủ nghĩa, đúng theo nguyên tắc dân chủ tập trung.”
Thứ nhất, đổi mới công tác kế hoạch hóa. Công tác kế hoạch hóa trong thời kỳ
này được cải tiến dần theo hướng chuyển từ kế hoạch hóa tập trung mang tính chất
pháp lệnh trực tiếp sang kế hoạch hóa gián tiếp. Nhà nước xây dựng chiến lược
phát triển với mục tiêu lớn, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu, và điều tiết kinh tế bằng
các chính sách, các công cụ kinh tế vĩ mô. Đến năm 1988, phần kế hoạch Nhà
nước giao chỉ còn chiếm 30-35% tổng sản phẩm của khu vực quốc doanh. Các
DNNN ngày càng tự chủ hơn. Đối với các hợp tác xã nông nghiệp, sau khi giao
khoán ruộng đất cho các hộ gia đình nông dân sử dụng, Nhà nước cũng không còn
giao các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất hoặc thu mua nông phẩm như trước nữa.
Thứ hai, xóa bỏ bao cấp, tự do hóa giá cả, khôi phục các quan hệ hàng hóa –
tiền tệ. Trong Đại hội Đảng VI: “Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp các
quy luật, trong đó quy luật giá trị có tác động trực tiếp. Giá cả phù hợp giá trị,
đồng thời phải phù hợp vơi sức mua đồng tiền… Phải phấn đấu thi hành chính
sách một giá kinh doanh.” Cải cách giá cả: xóa bỏ cơ chế định giá nông sản bán
theo nghĩa vụ với nông dân; điều chỉnh giá bán lẻ hàng tiêu dùng và dịch vụ những
năm 1986 – 1988 được thực hiện theo chính sách hai giá: giá cung cấp và giá bán
lẻ; giá vật tư cung ứng của nhà nước được điều chỉnh tăng dần theo sự điều chỉnh
giá mua nông sản và giá vật tư nhập khẩu để giảm bao cấp của nhà nước đối với tư
liệu sản xuất. Như vậy, đến năm 1990, nước ta đã cơ bản xóa bỏ cơ chế Nhà nước
định giá và bao cấp qua giá, chức năng định giá được trả lại cho thị trường.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính sách tài chính, tiền tệ. Về tài chính nhà nước:
về thu ngân sách, Nhà nước ban hành hoặc sửa đổi bổ sung thêm nhiều loại thuế
mới như: Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật thuế doanh thu… Về chi ngân sách, giảm
dần và chấm dứt chế độ bao cấp qua giá. Về hệ thống ngân hàng và chính sách tiền
tệ: hệ thống ngân hàng được tổ chức lại thành hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và
Ngân hàng thương mại. Năm 1990, Nhà nước ban hành Pháp lệnh về ngân hàng
thương mại. Tháng 12-1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành.
Ngân hàng Nhà nước chỉ can thiệp gián tiếp vào các hoạt động của ngân hàng
thương mại bằng các công cụ chính sách tiền tệ: điều chỉnh lãi suất; sử dụng lãi
suất chiết khấu, dự trữ bắt buộc; sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở.
Thứ tư, tạo lập và từng bước hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường. (Thị
trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường tài chính tiền tệ,thị
trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ.)
Thứ năm, kiện toàn và nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà
nước. Nhà nước đã tách quản lý hành chính của nhà nước với quản lý kinh doanh
của doanh nghiệp (chủ yếu là DNNN). Thiết lập khuôn khổ pháp luật, Chính phủ
đã ban hành nhiều nghị định xác định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ.
4.1.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:
Thứ nhất, về ngoại thương, cải cách ngoại thương được thực hiện theo hướng
từng bước mở cửa và hội nhập quốc tế. Nhà nước xóa bỏ bao cấp và bù lỗ trong
kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các DNNN từ cuối năm 1987. Nhà nước từ bỏ
nguyên tắc độc quyền ngoại thương, điều chỉnh tỷ giá hối đoái để khuyến khích
xuất khẩu.
Thứ hai, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Năm 1987, Nhà nước ban
hành Luật đầu tư nước ngoài, sau đó luật này được sửa đổi và bổ sung nhiều lần để
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
4.2. Những chuyển biến của nền kinh tế:
4.2.1. Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ cao.
Nông nghiệp phát triển toàn diện cả về trồng trọt và chăn nuôi, nghề rừng và
thủy sản. Thành tựu nổi bật là đã giải quyết vững chắc, an toàn lương thực quốc
gia. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ hai con số. Bình quân
hàng năm thời kỳ 1991-1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996-2000 tăng 13.2%. Hoạt
động thương mại và dịch vụ có nhiều khởi sắc.
4.2.2. Kiểm chế và đẩy lùi được lạm phát.
Trong những năm 1986-1988, lạm phát đã tăng tới 3 con số làm nền kinh tế
chao đảo. Từ năm 1989, lạm phát được chặn lại ở mức 2 con số và sau đó giảm
xuống còn 1 con số (năm 1999: 0,1%), tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
4.2.3. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng năng động và hiệu quả.
Cơ cấu ngành kinh tế có sự chuyển dịch giảm tỷ trọng khu vực I (nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy sản), tăng tỷ trọng của khu vực II (công nghiệp và xây dựng cơ
bản) và khu vực III (dịch vụ).
Cơ cấu sở hữu trong thời kỳ đổi mới là cơ cấu nhiều thành phần, đa sở hữu,
tương ứng với năm thành phần kinh tế.
Cơ cấu vùng kinh tế chuyển dịch theo hướng hình thành ba vùng kinh tế trọng
điểm ở ba miền: Bắc, Trung, Nam.
4.2.4. Cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành.
Nhà nước đã xóa bỏ về cơ bản cơ chế kinh tế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp,
xây dựng một bước nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4.2.5. Kinh tế đối ngoại được phát triển nhanh, mở rộng về quy mô, đa dạng hóa
hình thức và đa phương hóa thị trường.
Kim ngạch ngoại thương tăng rất nhanh: năm 1986, kim ngạch ngoại thương
đạt 2,97 tỷ USD; năm 2005, kim ngạch ngoại thương vượt mốc 69 tỷ USD. Thu
hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ: đến năm 2005, tổng số vốn FDI theo đăng ký đã
lên đến 53,6 tỷ USD, nguồn vốn FDI chiếm khoảng 20% tổng số vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội.
4.2.6. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Thu nhập của dân cư tăng bình quân 10% trong 16 năm đổi mới, GDP bình
quân đầu người đạt 400 USD/năm. Cùng với đời sống vật chất, đời sống tinh thần
của nhân dân cũng được nâng lên đáng kể: chỉ số phát triển con người HDI của
Việt Nam tăng từ 0,464 năm 1992 lên 0,671 năm 2000, xếp thứ 108 trong 174
nước được xếp hạng.
ĐỀ CƯƠNG
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin:
1.1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử:
1.1.1. Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất:
1.1.1.1. Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội:
Theo quan điểm duy vật về lịch sử thì sản xuất vật chất giữ vai trò là nền
tảng vật chất của toàn bộ đời sống xã hội loài người.
1.1.1.2. Vai trò của phương thức sản xuất vật chất đối với sự vận động và phát triển của
xã hội:
Phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển, quá trình vận động
phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội. Do đó, nó quyết định trình độ phát
triển của xã hội và sự vận động phát triển của xã hội.
1.1.1.3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất:
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
giữa hai mặt đối lập, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
1.1.2. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
1.1.2.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng:
Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội
1.1.2.2. Khái niệm kiến trúc thượng tầng:
Khái niện kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ các hình thái ý thức xã hội và
các thiết chế xã hội tương ứng với các hình thái đó.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội có mối
quan hệ mâu thuẫn biện chứng.
1.2. Thực tiễn kinh nghiệm của các nước trên thế giới:
1.2.1. Trung Quốc:
Chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn đặt căn bản trên ba nguyên lý là
Dân Tộc, Dân Quyền, và Dân Sinh. Chủ nghĩa Tam Dân thể hiện cái nhìn xa vượt
lên trên sự tranh giành ngai vị tầm thường của Tôn Trung Sơn để đi đến sách lược
chăm lo cho đời sống nhân dân cũng như bảo vệ quyền tự do cá nhân trong một xã
hội công bằng.
1.2.2. Liên Xô:
1.2.2.1. Nội dung của chính sách kinh tế mới (NEP)
Thứ nhất, bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa của nông dân. Thứ hai,
những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hóa, nay cho tư nhân thuê hay mua lại
để kinh doanh tự do. Thứ ba, cho phép mở rộng trao đổi hàng hóa. Thứ tư, thực
hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh.
1.2.2.2. Thành tựu đạt được
Chính sách kinh tế mới đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất ở cả
thành thị và nông thôn.
2. Thực tiễn ở Việt Nam:
2.1. Đặc điểm tình hình Việt Nam thời kỳ miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Việt Nam đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ thủ công, mang tính
chất cá nhân hóa; chịu hậu quả nặng nề do chiến tranh tàn phá; tiến lên chủ nghĩa
xã hội mà không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
2.2. Quá trình xây dựng nên kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc:
2.2.1. Khôi phục kinh tế (1955-1957)
Khôi phục kinh tế là khôi phục các cơ sở sản xuất, khôi phục mức sản xuất
ngang trước chiến tranh và làm biến đổi tính chất của nền kinh tế cho phù hợp với
chế độ dân chủ nhân dân.
2.2.2. Cải tạo và phát triển kinh tế (1958-1960)
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích cải biến nền kinh tế
quốc dân nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở
hữu chủ yếu là toàn dân và tập thể.
2.2.3. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa song song với việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa.
3. Nội dung của vấn đề:
3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội
nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ
nghĩa xã hội.
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam:
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Hồ
Chí Minh nhấn mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội một quá trình lâu dài, phải biết
làm dần dần, thận trọng từ thấp đến cao, trong đó trọng tâm là công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa.
3.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
trong thời kỳ quá độ:.
3.3.1. Chính trị:
Phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, dân làm chủ, Nhà nước giữ vai trò
quản lý xã hội.
3.3.2. Văn hóa - xã hội:
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới.
3.3.3. Kinh tế:
Hồ Chí Minh đề cập đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản
lý kinh tế.
4. Tính đúng đắn của luận điểm:
4.1. Những nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế:
4.1.1. Xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
4.1.2. Điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế, đổi mới về nội dung và cách thức công
nghiệp hóa.
4.1.3. Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4.1.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
4.2. Những chuyển biến của nền kinh tế:
4.2.1. Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ cao.
4.2.2. Kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát.
4.2.3. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng năng động và hiệu quả.
4.2.4. Cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành, xây dựng một
bước nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4.2.5. Kinh tế đối ngoại được phát triển nhanh, mở rộng về quy mô, đa dạng hóa
hình thức và đa phương hóa thị trường.
4.2.6. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, cả về đời sống vật chất và tinh
thần.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.pdf