PHẦN MỞ ĐẦU
I – Sự cần thiết của đề tài
Hoạt động huy động vốn là nghiệp vụ truyền thống của các Ngân hàng thương mại cũng là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng. Năng lực của đội ngũ nhân viên cũng như của các nhà quản lý Ngân hàng trong việc phát triển hoạt động huy động vốn là một thước đo quan trọng về sự chấp nhận của công chúng đối với Ngân hàng. Huy động vốn là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó là nguồn gốc sâu sa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng.
Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của các Tổ chức tín dụng khác trên thị trường, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín ( Sacombank) nhận thấy cần phải tăng cường hoạt động huy động vốn để có thể đáp ứng nhu cầu vốn đối với sự phát triển của ngân hàng nói riêng và của xã hội nói chung. Do đó, hoạt động huy động vốn đã được chú trọng ngay từ khi thành lập đến nay. Sau 16 năm phát triển, hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn tại Sacombank nói riêng và tại các ngân hàng cổ phần nói chung còn gặp nhiều hạn chế do sự phân biệt của người dân giữa ngân hàng quốc doanh với ngân hàng cổ phần và do chính bản thân ngân hàng. Do đó, vấn đề đặt ra đối với Sacombank là phải khắc phục những hạn chế đó để tăng cường hoạt động huy động vốn nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển của ngân hàng.
Để góp phần giải quyết vấn đề này, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và thực tiễn, trong thời gian công tác tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín tôi đã chọn đề tài “Tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín”
II – Mục đích nghiên cứu của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu nội dung các hình thức và thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín thời gian qua nhằm tìm ra những nguyên nhân làm hạn chế hoạt động huy động vốn từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Sacombank trong thời gian tới.
III – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các phương thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Nghiên cứu thực trạng và khả năng huy động vốn của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín trong khoảng thời gian 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007
IV – Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phương pháp tổng hợp, tư duy lôgic kinh tế nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu.
V – Bố cục luận văn
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Sacombank
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
VI- Các công trình nghiên cứu trước đây
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu để phát triển, tăng cường và mở rộng vốn tại các ngân hàng. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu các hình thức huy động vốn cũng như các giải pháp để tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gòn thương tín. Chính vì vậy mà luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu các hình thức cũng như các phương thức huy động vốn tại Sacombank và từ đó đề ra các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động vốn tại Ngân hàng này.
82 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3939 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín Sacombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng vốn của mình.
Năm 2007, cổ phiếu STB của Sacombank liên tục đứng đầu trong danh sách các cổ phiếu có lượng giao dịch nhiều nhất và là một trong những cổ phiếu có sức ảnh hưởng lớn đối với chỉ số VN-Index cũng như thu hút sự chú ý của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Ngày 22 tháng 5 năm 2007, Sacombank đã đánh dấu sự tăng trưởng mạnh mẽ của mình với đỉnh 168.000 đồng trên mỗi cổ phiếu. Như vậy trong vòng 5 tháng sau ngày đóng cửa năm 2006, STB đã tăng trưởng 133,3%. Vào tháng 8 năm 2007, theo đúng Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông năm 2006, Sacombank đã thực hiện thành công việc tăng vốn điều lệ từ 2.089 tỷ đồng lên thành 4.449 tỷ đồng tương ứng với 444.881.417 cổ phiếu đang lưu hành với mệnh giá 10.000 đồng / cổ phiếu (số liệu tính đến thời điểm 28/12/2007), cụ thể như sau:
1. Trả cổ tức cho cổ đông 12% / vốn cổ phần bằng cổ phiếu, 12% của vốn điều lệ, tương ứng 250.729.540.000 đồng;
2. Phát hành quyền mua: cổ đông sở hữu 1 cổ phần được 1 quyền mua thêm 1 cổ phần với giá bằng 1,5 lần mệnh giá (15.000đ / cổ phần), tương ứng 2.089.412.810.000 đồng;
3. Phát hành quyền mua cho một số cán bộ cốt cán với giá bằng 1,5 lần mệnh giá (15.000đ / cổ phần), tương ứng 20.000.000.000 đồng.
Như vậy, nhờ việc niêm yết mà ngân hàng tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng với các nguồn vốn dài hạn phục vụ cho nhu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh hay mua thêm các ngân hàng khác. Từ đó tiếp tục tạo dựng lòng tin nơi cổ đông, nhà đầu tư cũng như khách hàng và phát huy năng lực của nhân viên trong tập đoàn.
Bên cạnh những kết quả tốt đẹp có được từ thị trường chứng khoán mà cụ thể là kênh huy động vốn từ cổ phiếu đối với Sacombank, thì ngân hàng cũng cần lưu ý những rủi ro tiềm tàng từ thị trường chứng khoán để có những biện pháp phòng chánh cũng như ngăn chặn kịp thời.
2.2.2 Phân tích mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn
Hai nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng hàng đó là huy động vốn và sử dụng vốn, khi ngân hàng có một lượng lớn nguồn vốn huy động cũng như vốn tự có thì nó phải đảm bảo sử dụng nguồn vốn này nhằm tạo ra lợi nhuận để bù đắp lại chi phí huy động cũng như các khoản chi phí vận hành khác. Để thực hiện tốt nghiệp vụ sử dụng vốn các ngân hàng cần tạo ra và cung cấp các dịch vụ tài chính phù hợp và tốt nhất mà thị trường có nhu cầu. Tiếp tục với định hướng đổi mới, phát triển ngân hàng theo hướng hội nhập nền kinh tế toàn cầu của đất nước, vấn đề thiết lập và duy trì mối hợp tác – liên minh – liên kết với các đối tác chiến lược trong cũng như ngoài nước vẫn được ngân hàng đặc biệt quan tâm. Bởi với nhận thức của ngân hàng: sức mạnh tổng hợp từ các mối hợp tác liên minh liên kết đó chính là đòn bẩy vững chắc cho sự phát triển ổn định và bền vững. Điều này sẽ tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung có cơ hội nâng cao vị thế cạnh tranh để phát triển vững chắc. Trong năm 2006, Sacombank đã bắt đầu triển khai thêm một số sản phẩm tín dụng mới, liên kết với nhiều doanh nghiệp có thương hiệu lớn để cung cấp sản phẩm, dịch vụ ngân hàng và thực hiện bảo hiểm cho khách hàng. Đây là những nét đặc trưng trong tiếp thị và bán sản phẩm mang tính liên kết mạng lưới toàn hệ thống của Sacombank đồng thời phát huy lợi thế sẵn có để tăng lợi nhuận. Tiếp đến năm 2007 vừa qua, Sacombank đã ký kết hợp tác với các doanh nghiệp lớn như: hợp tác kinh doanh vàng cùng SJC, hợp tác trên lĩnh vực bảo hiểm với Tổng công ty Bảo Minh, đầu tư vào lĩnh vực xây dựng với Hữu Liên Á Châu, kinh doanh xe cùng Auto Trường Hải,… hay hợp tác toàn diện với 2 ngân hàng bạn là: Habubank và Military Bank, cùng nhiều dự án đầu tư chiến lược khác. Điều đó đã tạo ra sự khác biệt về loại hình hoạt động – phương thức kinh doanh - kỹ năng chăm sóc khách hàng, đồng thời luôn tìm kiếm khoảng trống thị trường để phát triển thị phần, thu hút thêm nhiều hàng mới và khách hàng tiềm năng.
Như kết quả đánh giá ở trên, trong thời gian qua bằng các hình thức huy động vốn đa dạng, Sacombank đã không ngừng mở rộng nguồn vốn huy động của mình, đưa số dư nguồn vốn tăng lên rõ rệt, theo kết quả kinh doanh 2007, tổng huy động của Sacombank là 55.692 tỷ đồng, tăng 161% so với năm 2006; tổng dư nợ cho vay là 35.378 tỷ đồng, tăng 146% so với năm 2006, chiếm tỷ trọng 63,5% (Tính cả đầu tư chứng khoán nợ), giảm 4% so với năm 2006 (67,5) và giảm 4,5% so với năm 2005 (68%). Đây cũng chính là định hướng phát triển bền vững của Sacombank nhằm từng bước đa dạng danh mục sử dụng vốn và giảm dần sự lệ thuộc vào hoạt động tín dụng.
Như vậy, tương ứng với sự phát triển của nguồn vốn, công tác sử dụng vốn và việc cho vay cũng được mở rộng tương ứng. Vấn đề cần chú trọng đó chính là việc sử dụng cũng như huy động nguồn vốn có phù hợp để tạo ra những kết quả kinh doanh tích cực hay không. Trong khuân khổ giới hạn luận văn, ở phần tiếp theo này, chúng ta sẽ cùng phân tích xem xét các vấn đề: Huy động vốn và sử dụng vốn tự có; Huy động vốn và sử dụng vốn trong cho vay trung dài hạn; Huy động vốn và sử dụng vốn trong cho vay ngắn hạn.
Bảng 2.2: Nguồn vốn và dư nợ cho vay theo kỳ hạn qua các năm
Đơn vị tính: triệu đồng
Thời điểm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Số tiền
Tăng trưởng (%)
Số tiền
Tăng trưởng (%)
Tổng nguồn
12.260.104
21.338.020
74%
55.691.771
161%
Huy động ngắn hạn
10.021.292
17.497.176
75%
53.972.637
208%
Huy động trung dài hạn
2.238.812
3.840.844
72%
1.719.133
-55%
Tổng dư nợ (bao gồm cả đầu tư chứng khoán nợ)
8.298.546
14.394.313
73%
35.378.147
146%
Dư nợ cho vay ngắn hạn
5.081.504
9.506.775
87%
21.732.963
129%
Dư nợ cho vay trung dài hạn
3.217.042
4.887.538
52%
13.646.184
179%
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank năm 2006, 2007)
Các chỉ tiêu phân tính là: mức tăng trưởng tuyệt đối và tương đối (tập chung phân tích yếu tố dư nợ cho vay), cũng như việc sử dụng vốn có đảm bảo hiệu quả kinh doanh cũng như quy định ngân hàng nhà nước hay không. Nếu cho vay dài hạn bằng nguồn huy động vốn ngắn hạn quá nhiều sẽ dễ dẫn tới rủi ro mất khả năng thanh toán, mặt khác về mặt kinh tế là không hiệu quả vì huy động ngắn hạn phải có dự trữ bắt buộc mà khoản này thì không sinh lời trong khi đó nếu sử dụng nguồn vốn dài hạn thì không phải dự trữ thanh toán mà có thể được phép sử dụng hết 100%.
2.2.2.1 Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn tự có
Trong các mối quan hệ huy động và sử dụng vốn thì một nhân tố không thể không được cân nhắc đó chính là tiềm lực vốn của chủ sở hữu. Việc sử dụng nguồn vốn huy động trong cho vay cần được xem xét trên năng lực vốn chủ sở hữu điều này cho phép các nhà đầu tư, các nhà phân tích tính toán tỷ lệ an toàn vốn cần thiết trong hoạt động của một ngân hàng. Ta có thể hiểu rằng nguồn vốn tự có của ngân hàng được tạo bởi nguồn lợi nhuận để lại cộng với vốn góp được huy động từ cổ đông do việc phát hành thêm cổ phiếu.
Trong giai đoạn 2005 – 2007, vốn điều lệ của Sacombank đã được tăng lên một cách đáng kể, đặc biệt khi ngân hàng phát hành thêm cổ phiếu (tháng 8 năm 2007), đã góp phần tăng vốn điều lệ của Sacombank từ 2.089 tỷ đồng năm 2006 lên 4.449 tỷ đồng, tăng 113%, đưa Sacombank trở thành 1 trong 5 ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam về quy mô vốn điều lệ. Điều này đã tạo điều kiện rất lớn cho việc tăng vốn chủ sở hữu của Sacombank từ 2.804 tỷ đồng năm 2006 lên 7.181 tỷ đồng năm 2007, tăng trưởng 156%, qua đó mở rộng hoạt động kinh doanh tiền tệ sang các lĩnh vực đầu tư khác, giảm bớt sự tập trung trong lĩnh vực tín dụng, giảm thiểu rủi ro, đa dạng hoá nguồn thu nhập cho ngân hàng. Việc tăng vốn tự có cũng tạo thuận lợi cho kế hoạch mở rộng mạng lưới và nâng cao cơ sở hạ tầng, trang thiết bị tại các điểm giao dịch, tăng tài sản cố định cho ngân hàng.
Như vậy, cùng với sự khởi sắc của nền kinh tế trong quá trình hội nhập, thị trường chứng khoán phát triển và chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được đẩy mạnh, đây là cơ hội tiềm năng để phát triển hoạt động đầu tư. Việc tăng nhanh vốn điều lệ đã góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư, liên doanh liên kết, góp vốn mua cổ phần vào các tổ chức kinh tế, đồng thời tạo cơ sở để Sacombank thực hiện chính sách đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm dự trữ thanh khoản thứ cấp, phân tán rủi ro và tối ưu hoá lợi nhuận.
2.2.2.2 Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn trong cho vay trung dài hạn
Trong giai đoạn 2005 – 2007 vừa qua, huy động vốn trung dài hạn có những biến động mạnh do ảnh hưởng của tình hình kinh tế chung của cả nước, tuy vậy dư nợ cho vay trung dài hạn vẫn được đảm bảo và tăng dần qua các năm. Năm 2007, huy động trung dài hạn đạt mức 1.719.133 triệu đồng, chỉ chiếm tỷ trọng 3% trong tổng huy động; tăng trường giảm 55% so với năm 2006, giảm thấp hơn cả mức huy động năm 2005. Điều này được lý giải như sau: cơn sốt chứng khoán năm 2006 và tiếp tục kéo dài cả năm 2007 cùng với đó là sự nóng lên của thị trường bất động sản đã tạo ra sự luân chuyển vốn rất lớn trên thị trường tài chính, trong đó một phần lớn nguồn vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng dân cư được rút ra để đầu tư vào thị trường chứng khoán khiến việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở 2 trung tâm tài chính lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 2.3: Tình hình huy động vốn và dư nợ cho vay trung, dài hạn
Đơn vị tính: triệu đồng
Thời điểm
2005
2006
2007
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tăng trưởng
Số tiền
Tỷ trọng
Tăng trưởng
Huy động trung dài hạn
2.238.812
18%
3.840.844
18%
72%
1.719.133
3%
-55%
Dư nợ cho vay trung dài hạn
3.217.042
39%
4.887.538
34%
52%
13.646.184
39%
179%
Phần dư trong huy động
-978.230
-1.046.694
-2.222.269
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank năm 2006, 2007)
Để đảm bảo mức tăng trưởng tuyệt đối của dư nợ cho vay trung dài hạn là một phần vốn huy động ngắn hạn được sử dụng. Tuy nhiên tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn trong cho vay trung dài hạn ở Sacombank vẫn luôn đạt chuẩn, cụ thể: năm 2007 tỷ lệ này là 25,5%, năm 2006 là 15,54% và năm 2005 là 19,1%, thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ tối đa được phép theo quy định của ngân hàng nhà nước là 40%.
2.2.2.3 Mối quan hệ giữa huy vốn và sử dụng vốn trong cho vay ngắn hạn
Về cơ cấu nguồn huy động ngắn hạn và trung dài hạn trong tổng huy động vốn của ngân hàng Sacombank giai đoạn vừa qua có sự biến động ở thời điểm năm 2007. Tỷ trọng huy động ngắn hạn trong tổng huy động của ngân hàng qua các năm 2005, 2006, 2007 lần lượt là: 97%, 82%, 79%, mức biến đổi trong tỷ trọng rất lớn trong năm 2007 là do mức biến động tăng trưởng tuyệt đối và tương đối trong năm là rất lớn: năm 2007, huy động ngắn hạn của ngân hàng Sacombank đạt 53.972.637 triệu đồng, tăng 208% so với năm 2006 (đạt 17.497.176 triệu đồng), tăng 439% so với năm 2005 (đạt mức 10.021.292 triệu đồng).
Bảng 2.4: Tình hình huy động vốn và dư nợ cho vay ngắn hạn
Đơn vị tính: triệu đồng
2005
2006
2007
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tăng trưởng
Số tiền
Tỷ trọng
Tăng trưởng
Huy động ngắn hạn
10.021.292
82%
17.497.176
82%
75%
53.972.637
97%
208%
Dư nợ cho vay ngắn hạn
5.081.504
61%
9.506.775
66%
87%
21.732.963
61%
129%
Phần dư trong huy động ngắn hạn
4.939.788
7.990.401
22.534.893
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank năm 2006, 2007)
Sự tăng mạnh mẽ của nguồn vốn huy động ngắn hạn là kết quả tổng hợp của các mức tăng từ tiền gửi khách hàng, huy động dân cư và vay các tổ chức tín dụng khác. Từ phần dư trong nguồn vốn huy động, sau khi tính toán khả năng thanh toán, Sacombank đã tiến hành cho vay ngắn hạn một cách linh hoạt tránh việc để nguồn vốn “chết” vô ích. Từ bảng số liệu trên ta cũng có thể nhận thấy rằng tốc độ tăng trưởng cho vay ngắn hạn có xu hướng giảm trong năm 2007 với tốc độ huy động vốn, điều này được lý giải một phần do nguyên nhân đã được phân tích ở trên. Mặt khác do sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế nên hệ thống ngân hàng đã thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng và giảm dần dư nợ cho vay đối với các khoản vay ngắn hạn, tập chung cho các dự án dài hạn tiềm năng (tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung dài hạn đạt mức 25,5% tăng 10% so với năm 2006). Tuy vậy mức tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2007 là rất cao so với năm 2006 đạt mức 129%. Điều này cho thấy ngân hàng một mặt đảm bảo tính bền vững của hoạt động huy động vốn một mặt đã rất linh động trong công tác tín dụng, giảm thiểu rủi ro tín dụng cũng như chi phí vốn huy động.
Những con số trên cũng phản ánh đúng đặc điểm chung của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam năm 2007: huy động và cho vay tăng trưởng đột biến. Theo tính toán năm 2007, tổng huy động vốn của hệ thống tín dụng tăng khoảng 50% so với năm 2006. Riêng tại Tp.HCM, kỷ lục được xác lập ở mức tăng khoảng 55%; tại Hà Nội là 36,1%. Tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống cũng đột biến kể từ năm 2004, tăng tới 40%; riêng tại Tp.HCM lên tới 51%, tại Hà Nội là khoảng 38,5%. Những con số trên cho thấy sự sôi động của dòng tiền ra – vào các ngân hàng. Mặc dù có những lo ngại về tăng trưởng nóng do tốc độ cho vay tăng cao dẫn đến chất lượng tín dụng không được đảm bảo trong toàn hệ thống, tuy nhiên Sacombank vẫn luôn tuân thủ triệt để các quy định của ngân hàng nhà nước ban hành trong năm 2005 về việc phân loại, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng nhằm đưa hoạt động tín dụng tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế. Với dư nợ tăng trưởng khá cao so với toàn hệ thống nhưng chất lượng tín dụng vẫn luôn nằm trong tầm kiểm soát chặt chẽ, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ năm 2007 là: 0,39% (kế hoạch là <2%), năm 2006 là: 0,95%, năm 2005 là: 0,88; quỹ dự phòng rủi ro cuối năm 2007 đạt: 177,6 tỷ đồng tăng 118% so với năm 2006 (81,4 tỷ đồng).
2.2.3 Phân tích theo cơ cấu đồng tiền huy động
Cuối cùng chúng ta cùng xem xét thực trạng huy động vốn tại ngân hàng Sacombank theo cơ cấu đồng tiền huy động. Cùng với việc đa dạng hoá trong kênh huy động vốn, cơ cấu nguồn huy động thì việc đa dạng trong hoạt động huy động vốn theo cơ cấu đồng tiền giữ 1 vai trò hết sức quan trọng. Việc đa dạng huy động vốn theo cơ cấu đồng tiền cho phép ngân hàng phản ứng nhanh chóng với những biến động trên thị trường tài chính đặc biệt là những biến động tỷ giá tăng cường khả năng hút vốn cũng như mở rộng hoạt động kinh doanh, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các đòi hòi từ thị trường cầu tiền tệ từ đó tối đa lợi nhuận ngân hàng.
Bảng 2.5: Tình hình huy động theo loại tiền tệ
Đơn vị tính: triệu đồng
Thời điểm
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
Tăng trưởng
Giá trị
Tỷ trọng
Tăng trưởng
Bằng tiền đồng
9.072.477
74%
15.576.755
73%
72%
44.995.481
81%
189%
Bằng vàng
1.103.409
9%
2.539.224
12%
130%
5.036.912
9%
98%
Bằng ngoại tệ
2.084.218
17%
3.222.041
15%
55%
5.659.378
10%
76%
Tổng huy động
12.260.104
100
21.338.020
100
74%
55.691.771
100
161%
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank năm 2006, 2007)
Trong giai đoạn vừa qua, huy động bằng tiền đồng vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn tiền huy động của ngân hàng Sacombank, đây cũng là tình trạng chung của các ngân hàng thương mại khi mà hoạt động chính không phải là hỗ trợ kinh doanh xuất nhập khẩu. Mức độ tăng trường của nguồn huy động bằng tiền đồng cũng tăng cao qua các năm: Năm 2006 tăng trưởng 72% so với năm 2005, chiếm tỷ trọng 73% trong tổng huy động; sang đến năm 2007, mức tăng trưởng là 189%, chiếm tỷ trọng 81%. Tỷ trọng cao của nguồn tiền đồng trong tổng huy động cũng phản ánh khá rõ thực trạng nền kinh tế nước ta năm 2007 khi mà tỷ lệ lạm phát tăng cao, nguồn tiền nhàn rỗi trong dân là rất tiềm năng. Mặc dù có sự tăng trưởng trong con số tuyệt đối qua các năm, nhưng tỷ trọng huy động bằng vàng và ngoại tệ trong những năm qua có xu hướng giảm tương ứng với việc tăng lên của nguồn tiền đồng, năm 2007: tỷ trọng nguồn huy động bằng vàng chỉ là 9%, giảm 3% so với năm 2006; tỷ trọng huy động bằng ngoại tệ là 10%, giảm 5% so với năm 2006. Mặc dù ngân hàng Sacombank trong năm 2007 đã chú trọng tăng cường huy động ngoại tệ bằng nhiều hình thức, dịch vụ tiện ích và cả chính sách lãi suất… nhưng nguồn ngoại tệ huy động được vẫn rất hạn chế. Nguyên nhân huy động vốn bằng ngoại tệ giảm là do tỷ giá giai đoạn vừa qua tương đối ổn định trong khi lại suất tiền gửi tiền đồng vẫn cao hơn nên người dân có xu hướng chuyển đổi từ ngoại tệ sang VNĐ để gửi tiết kiệm.
Biểu đồ biến động cơ cấu huy động phân theo loại tiền
2.3 Đánh giá thực trạng công tác huy động vốn tại Sacombank
2.3.1 Những thuận lợi trong công tác huy động vốn
Tận dụng thành công chung và đà tăng trưởng nền kinh tế cả nước.
Lợi thế cạnh tranh do đã sớm triển khai những biện pháp đón đầu về công nghệ cũng như nguồn nhân lực.
Hình ảnh và uy tín của Sacombank đã được khẳng định và nâng cao, tạo niềm tin cho khách khàng cá nhân cũng như các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
Mạng lưới hoạt động rộng khắp, tận dụng được những nguồn vốn nhàn rỗi ở cả những vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, giảm thiểu được cạnh tranh cũng như chi phí huy động tại những vùng đó.
2.3.2 Kết quả đã đạt được:
Nhìn lại giai đoạn 2005 – 2007, có thể thấy rằng Sacombank đã có những bước tiến dài trên con đường trở thành ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam. Trong giai đoạn này nền kinh tế thế giới cũng như trong nước đều có những biến động trái chiều, tuy nhiên Sacombank vẫn giữ được đà tăng trường mãnh mẽ, thực hiện vượt mức hầu hết các chỉ tiêu phát triển, thương hiệu Sacombank ngày càng trở nên quen thuộc và chiếm được lòng tin nơi đông đảo khách hàng, các nhà đầu tư, các định chế tài chính trong và ngoài nước. Đóng góp không nhỏ cho thành công chung của ngân hàng đó chính là công tác huy động vốn. Trong những năm qua, với định hướng trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam, Sacombank đã không ngừng đầu tư cho công tác tuyển chọn nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực, cùng với đó là quá trình mở rộng mạng lưới hoạt động không chỉ tập chung tại những trung tâm tài chính 2 đầu Hà Nội và Hồ Chí Minh mà đã chú trọng cả việc mở rộng mạng lưới về những vùng nông thôn (Sacombank đã có chi nhánh ở 44/64 tỉnh thành, cả những vùng xa xôi như đảo Phú Quốc cũng đã có chi nhánh của ngân hàng). Tất cả những điều kiện tiền đề đó đã phát huy tác dụng, kết quả là vốn huy động ngân hàng Sacombank luôn đạt mức cao (năm 2007, số dư huy động vốn đạt mức: 55691771 triệu đồng, tăng trưởng 161 % so với năm 2006, tăng 354% so với năm 2005) vượt xa chỉ tiêu kế hoạch lẫn chỉ số huy động bình quân toàn hệ thống. Về cơ cấu huy động nguồn vốn cũng có những chuyển biến tích cực, các nguồn vốn trước kia chiếm tỷ trọng nhỏ nay cũng được chú trọng đẩy mạnh, nguồn huy động tiền gửi khách hàng tuy vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng huy động nhưng đã có xu hướng giảm dần theo hướng tích cực. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng đã trở nên đa dạng hơn và phát huy tính cạnh tranh cao.
Có thể nhận định tóm tắt những kết quả đạt được trong công tác huy động vốn của ngân hàng Sacombank giai đoạn 2005 – 2007 như sau:
Tốc độ tăng trưởng ấn tượng luôn ở mức cao
Giữa quy mô huy động vốn và sử dụng vốn có sự phù hợp tương đối
Mạng lưới huy động rộng khắp
Lãi suất huy động cạnh tranh đảm bảo chi phí vốn hợp lý
Đa dạng hoá các sản phẩm tiền gửi cũng như các sản phẩm thẻ
Mở rộng các điểm thanh toán thẻ để tận dụng vốn trong thanh toán.
Phát triển kênh huy động vốn qua thị trường chứng khoán bằng việc niêm yết cổ phiếu trên Sở giao dịch chứng khoáng thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó tăng mức vốn điều lệ của ngân hàng trở thành 1 trong 5 ngân hàng thương mại có nguồn lực tài chính lớn nhất Việt Nam.
2.3.3 Những tồn tại trong công tác huy động vốn và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được trong giai đoạn vừa qua, thì công tác huy động vốn của Sacombank vẫn tồn tại những mặt hạn chế cần được khắc phục nhanh chóng và kịp thời để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng như sau:
Tỷ trọng nguồn vốn có lãi suất thấp còn thấp dẫn đến chi phí huy động vốn nói chung của ngân hàng còn cao
Việc mở rộng chi nhánh quá nhiều, trong thời gian ngắn sẽ dẫn đến tình trạng phát triển về lượng mà chưa chú trọng đến chất, do đó chi phí cho việc sử dụng nguồn nhân lực chưa đúng chuyên môn hay không đạt hiệu quả trong công việc sẽ trở thành một gánh nặng cho ngân hàng.
Đồng thời đó chính là việc duy trì và ứng dụng công nghệ chưa đồng bộ trong toàn hệ thống sẽ tốn kém và chậm trễ hơn so với đối thủ
Nguồn vốn huy động trung dài hạn còn chưa đáp ứng được với nhu cầu tín dụng trung dài hạn.
Mặc dù, Sacombank đã mở rộng các điểm thanh toán thẻ cũng như đa dạng các loại thẻ song nghiệp vụ thanh toán thẻ chưa phát huy được vai trò của mình, số lượng thẻ phát hành chưa đạt so với kế hoạch, số lượng giao dịch qua thẻ không nhiều và chưa thường xuyên nên chưa tận dụng được tối đa nguốn vốn trong thanh toán.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI SACOMBANK
3.1 Định hướng phát triển của Sacombank
Bước vào năm 2008, bản lề của giai đoạn phát triển 2006-2010 và là năm thứ 2 nền kinh tế nước ta hội nhập WTO ngày càng toàn diện, trong đó theo lộ trình sẽ có sự hiện diện ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Cơ hội và thách thức đang chờ đón. Dựa vào nội lực của Sacombank, cùng với những lợi thế so sánh Sacombank đã mạnh dạn xây dựng định hướng phát triển năm 2008 và các năm tiếp theo đổi mới và tự tin, tiếp tục đưa Sacombank phát triển tăng tốc, bền vững, an toàn và hiệu quả.
Về năng lực tài chính:
Tiếp tục tăng nhanh vốn tự có bằng việc tăng cường tích lũy thông qua việc phát triển mạnh các quỹ dự trữ và dự phòng, phấn đấu đến cuối năm 2010 vốn tự có đạt khoảng 16.000 - 16.500 tỷ đồng (tương đương 1 tỷ đô-la Mỹ). Trong đó, vốn điều lệ tính đến năm 2010 đạt khoảng trên 11.500 tỷ đồng chủ yếu bằng phương thức tái đầu tư từ cổ tức của cổ đông hiện hữu.
Về tổng tài sản:
Tổng tài sản của Sacombank đến năm 2010 dự kiến sẽ đạt mức tối thiểu 155.000 tỷ đồng tăng gấp gần 10,5 lần so với cuối năm 2005. Trong đó, giai đoạn 2007-2010 nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư tăng trưởng bình quân 60-65%.
Về hoạt động tín dụng:
Tổng dư nợ cho vay đến cuối năm 2010 dự kiến sẽ đạt 82.000 – 83.500 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 65 – 67% trên tổng nguồn vốn huy động, tăng bình quân mỗi năm khoảng 55 – 60% so với năm trước. Trong đó, dư nợ cho vay nhỏ, phân tán phải chiếm tỷ trọng 55 – 60%. Nợ quá hạn chiếm tỷ trọng dưới 2%/ tổng dư nợ tín dụng.
Về kinh doanh dịch vụ:
Trong thời kỳ kế hoạch 2006 – 2010, Sacombank sẽ tập trung hết sức vào quá trình phát triển mở rộng các dịch vụ ngân hàng; quan tâm đặc biệt đến các dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng quốc tế. Dự kiến đến năm 2010 thu nhập phi tín dụng phải chiếm tỷ trọng khoảng 32 - 35% trên tổng thu nhập của ngân hàng.
Về lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính:
Trong những năm 2007 – 2010 đảm bảo lợi nhuận trước thuế tăng bình quân mỗi năm 55 – 60% so với năm trước. Tỷ suất lợi nhuận/ tổng tài sản vào năm 2010 dự kiến đạt 1,7 - 1,9% và tỷ suất sinh lời/ vốn vào năm 2010 đạt 22 - 23%.
Về mạng lưới hoạt động:
Phấn đấu đến cuối năm 2010, mạng lưới chi nhánh của Sacombank sẽ có mặt tại tất cả các tỉnh, thành miền Nam, miền Trung và tại tất cả các tỉnh thành kinh tế trọng điểm miền Bắc. Dự kiến mạng lưới hoạt động của Sacombank vào năm 2010 sẽ đạt trên 320 điểm. Đồng thời tiến hành thành lập các chi nhánh/VPĐD tại các quốc gia lân cận, văn phòng đại diện tại Mỹ, Châu Âu và Châu Úc. Từ năm 2007, Sacombank cũng đã lên kế hoạch thành lập thành lập công ty vàng bạc, đá quý.
Về hệ thống công nghệ thông tin:
Mục tiêu đặt ra Sacombank phải là một trong những ngân hàng có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và tiên tiến nhất trong hệ thống các ngân hàng thương mại trong cả nước.
Về phát triển nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực có chất lượng cao là yếu tố cốt lõi để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Dự kiến đến năm 2010 đội ngũ CBNV của Ngân hàng đạt trên 9.500 người, Sacombank sẽ khẩn trương xây dựng Trung tâm đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo căn bản, đào tạo chuyên sâu, đào tạo nâng cao và đào tạo cán bộ quản lý điều hành các cấp.
Về tái cấu trúc tổ chức và hoạt động của Ngân hàng:
Hoàn thiện bộ máy điều hành theo dòng sản phẩm hướng về khách hàng, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên theo hướng chuyên nghiệp hóa, tăng cường kỹ năng quản trị – điều hành – giám sát. Đồng thời trong năm 2007 hoàn tất chương trình chuẩn mực hóa, mô hình hóa các quy trình tác nghiệp để nâng cao năng suất lao động và chăm sóc tốt nhất mọi yêu cầu của khách hàng.
Mục tiêu chung của chiến lược phát triển là phải đạt được những giá trị cốt lõi: Ngân hàng phát triển nhanh, ổn định và bền vững trên cơ sở đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu giao dịch tài chính của khách hàng; đảm bảo được các lợi ích cộng đồng và xã hội; tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho khách hàng, cổ đông và các nhà đầu tư; tăng thu nhập cho cán bộ nhân viên.
Về huy động vốn:
Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động, tăng 45% đến 65% so với năm 2007 nhằm tương xứng với quy mô vốn tự có và đáp ứng nhu cầu tín dụng. Trong đó, nguồn vốn có lãi suất thấp phấn đấu đạt từ 20% đến 25%. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và phương thức huy động vốn. Tăng cường tài khoản thanh toán để tận dụng nguồn vốn trong thanh toán.
3.2 Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Sacombank
3.2.1 Tăng quy mô vốn chủ sở hữu
Các ngân hàng trên thế giới trong những năm gần đây đang chịu một áp lực rất lớn từ nhiều phía buộc phải tăng mức vốn để đảm bảo tăng trưởng và giảm rủi ro cho những người gửi tiền. Có rất nhiều yếu tố gây nên áp lực này, bao gồm cả những yếu tố thuộc về các cơ quan quản lý và các yếu tố thuộc về thị trường tài chính. Lạm phát là một yếu tố quan trọng gây áp lực tăng vốn, bởi vì dù lạm phát nâng cao giá trị tài sản của ngân hàng nhưng lạm phát cũng đồng thời nâng cao giá trị của các khoản nợ và kết quả là giá trị vốn của ngân hàng có chiều hướng giảm sút. Nền kinh tế ngày càng biến động trong những năm gần đây cũng buộc ngân hàng phải tìm cách bổ sung quy mô vốn của mình vì môi trường kinh tế mới này đưa đến những rủi ro cao hơn trong hoạt động ngân hàng. Những giới hạn về cho vay cũng là yếu tố thúc đẩy các ngân hàng nâng cao mức vốn để có thể đáp ứng yêu cầu vay vốn của những khách hàng lớn. Chi phí hoạt động tăng lên, đặc biệt là chi phí về đất đai, trang thiết bị, chi phí về nhân sự tăng cao trong những năm gần đây đã gây khó khăn cho vấn đề tăng thu nhập của ngân hàng – nguồn cơ bản để tăng vốn hàng năm. Cuối cùng, rất nhiều nhà đầu tư trên thị trường vốn cho rằng hoạt động ngân hàng dường như tiềm ẩn nhiểu rủi ro hơn dưới tác động của quá trình phi quản lý hóa, của sự cạnh tranh gay gắt giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng và dưới tác động của điều kiện kinh tế không ổn định. Giới đầu tư trên thị trường vốn dường như muốn các ngân hàng phải chú ý hơn nữa tới sức mạnh về vốn của họ và tỏ ra không hào hứng với những chứng khoán hay chứng chỉ tiền gửi tiền của những ngân hàng có mức tư bản hóa kém.
Ngân hàng có thể tăng vốn qua 02 hình thức: tăng vốn từ nguồn nội bộ và tăng vốn từ nguồn bên ngoài.
Tăng vốn từ nguồn nội bộ: trong nhiều năm, nguồn bổ sung vốn cơ bản là những khoản lợi nhuận không chia sau khi ngân hàng đã tiến hành chia cổ tức. Nguồn vốn phát sinh nội bộ có thuận lợi là giúp ngân hàng không phải phụ thuộc vào thị trường vốn và nhờ vậy tránh được chi phí huy động vốn.
Tăng vốn từ nguồn bên ngoài, nếu ngân hàng có nhu cầu tăng vốn từ các nguồn bên ngoài thì có thể lựa chọn các cách sau: bán cổ phiếu, bán tài sản và thuê lại hoặc cho thuê tài sản cố định.
Khi tăng vốn ngân hàng cần phải lưu ý các vấn đề sau:
Ngân hàng phải xác định quy mô vốn hợp lý
Xác định lượng vốn có thể được tạo ra từ việc không chia lợi nhuận
Đánh giá và lựa chọn nguồn vốn phù hợp nhất với những nhu cầu và mục tiêu của ngân hàng
3.2.2 Mở rộng mạng lưới và đa dạng hóa hình thức huy động
Đối với công tác mở rộng mạng lưới:
Tiếp tục phát triển mở rộng mạng lưới theo đúng kế hoạch đã đề ra, đặc biệt là thành lập các khu kinh tế mới như: khu kinh tế Hải Hà- Quảng Ninh; Đông Nam- Nghệ An; Hòn La- Quảng Bình; khu kinh tế Nam Phú Yên,...Đây sẽ là những nơi thu hút vốn đầu tư rất lớn, là cơ hội và tiềm năng phát triển các dịch vụ tài chính ngân hàng. Đồng thời, kiểm tra đánh giá để có biện pháp củng cố, phát triển mạng lưới đang có, đặc biệt là mạng lưới phòng giao dịch phát triển với tốc độ khá nhanh thời gian qua.
Tiếp tục khảo sát, nghiên cứu các địa bàn trọng điểm, có nhiều tiềm năng để chuẩn bị cho kế hoạch mở rộng mạng lưới trong những năm tới. Đảm bảo cho việc phát triển mạng lưới là nhằm chiếm lĩnh thị trường trọng điểm và phục vụ cho việc phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, hạn chế việc phát triển chỉ để tăng trưởng tín dụng.
Đối với hoạt động huy động vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, nhu cầu vốn cho nền kinh tế tiếp tục tăng cao để đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng nên cạnh tranh về huy động vốn dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ rất gay gắt, do đó ngân hàng cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Cần theo dõi diễn biến trên thị trường để có những điều chỉnh kịp thời về lãi suất, áp dụng mức lãi suất “thông minh” theo từng khu vực. Xây dựng cơ sở dữ liệu và phân tích về cơ cấu lãi suất, tác động của cơ cấu lãi suất đến nguồn vốn huy động của ngân hàng, từ đó nâng cao hiệu quả của công cụ lãi suất.
Triển khai các chương trình huy động kèm theo tặng quà hoặc tiết kiệm dự thưởng một cách linh hoạt, hấp dẫn và áp dụng ở những địa bàn trọng điểm về huy động. Thiết lập quan hệ và có chính sách phù hợp đối với một số khách lớn nhằm tăng cường và ổn định nguồn vốn lãi suất thấp.
Tăng cường tiếp thị, cung cấp những sản phẩm dịch vụ đa dạng nhằm tăng số lượng tài khoản thanh toán từ đó giúp ngân hàng có nguồn vốn lãi suất thấp cũng như có điều kiện bán chéo sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.
Tăng cường mối quan hệ thanh khoản, các hạn mức tín dụng với các ngân hàng bạn, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm tranh thủ nguồn vốn liên ngân hàng và chủ động trong những tình huống thiếu hụt thành khoản. Đẩy mạnh hoạt động tiếp nhận vốn từ các dự án, tổ chức tài chính quốc tế như RDF, FMO, JBIC… nhằm bổ sung một phần nguồn vốn trung dài hạn ổn định.
3.2.3 Phát triển sản phẩm thẻ và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ thanh toán khác nhằm sử dụng tối ưu nguồn vốn trong thanh toán
Trên cơ sở định hướng và chiến lược đã được xác lập, từng bước tổ chức thực hiện, khắc phục và chỉnh sửa những tồn tãi cũ về yếu tố kỹ thuật, quy mô tổ chức; đầu tư mạnh về nhân lực và tài lực cho hoạt động phát triển thẻ theo hướng xác định đây là một trong những sản phẩm dịch vụ chính yếu trong tương lai của ngân hàng.
Tăng cường sự phối hợp giữa trung tâm thẻ, khối tín dụng và các chi nhánh trong hoạt động phát triển thẻ, đặc biệt là thẻ tín dụng thông qua việc xây dựng các sản phẩm thẻ tín dụng hướng đến những đối tượng khách hàng chuyên biệt với những cơ chế, chính sách tín dụng được điều chỉnh một cách linh hoạt và phù hợp. Rút kinh nghiệm những sản phẩm trước đây, cần phải chuẩn bị tốt để khi đưa sản phẩm là phải thắng, chiếm lĩnh thị trường.
Song song đó chuẩn bị điều kiện cần thiết để phát hành thẻ quốc tế, cũng như thẻ liên thông với các ngân hàng khác; tích cực tiếp thị và phát triển thẻ Sacombank, mở rộng hệ thống các điểm chấp nhận thẻ của Sacombank trên các địa bàn và vị trí trọng điểm.
3.2.4 Tăng cường công tác marketing trong huy động vốn:
Một trong những nguyên nhân của việc người dân chưa muốn gửi tiền vào ngân hàng là bởi họ chưa biết đến hình ảnh ngân hàng đó. Điều đó đồng nghĩa với việc uy tín của ngân hàng đó chưa cao, nên ngân hàng chưa thể làm tốt vai trò của mình. Đối với Sacombank thời gian qua đã không ngừng có những chiến dịch quảng bá, xây dựng thành một thương hiệu mạnh trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên trước sức ép cạnh tranh, đặc biệt sức ép cạnh tranh từ các ngân hàng lớn trên thế giới đặt chi nhánh tại Việt Nam, ngân hàng cần có những chiến lược cụ thể và hiệu quả nhằm nâng cao hình ảnh của mình.
Trước tiên đó chính là việc nỗ lực xây dựng một văn hoá doanh nghiệp bền vựng có tầm nhìn dựa trên giá trị cốt lõi được đánh giá cao của ngân hàng. Ngân hàng, cụ thể là bộ phận nghiên cứu triển khai cùng đội ngũ marketing cần có những kế hoạch nghiên cứu thị trường một cách sâu sắc để tìm kiếm và đáp ứng tốt nhất những nhu cầu phát sinh của khách hàng theo một cách đặc trưng nhất để tạo ra sự khác biệt trong nhận thức của khách hàng.
Tiếp đó, ngân hàng cần xây dựng và quảng bá thương hiệu của Sacombank trên thương trường thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tham gia xếp hạng tín nhiệm quốc tế, thiết lập mối quan hệ với các tổ chức tài chính - ngân hàng, các tổ chức nghề nghiệp, hiệp hội tài chính ngân hàng trong và ngoài nước, cũng như chủ động tham gia các hoạt động xã hội, các hoạt động từ thiện.
Ở đây, chúng ta cần lưu ý rằng, một thương hiệu mạnh cần phải dựa trên những ưu điểm vượt trội ở chính sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp. Vì rằng, với những thông tin quảng cáo có thể thu hút khách hàng đến với ngân hàng nhưng để giữ khách hàng ở lại lâu dài thì chính chất lượng thực sự của dịch vụ ngân hàng cung cấp mới có thể làm được điều đó.
3.2.5 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn là hai vấn đề không thể tách rời nhau. Có huy động được vốn thì mới có hoạt động sử dụng và sử dụng vốn quay trở lại là cơ sở và động lực cho công tác huy động vốn. Việc huy động vốn phải dựa trên kết quả xác định nhu cầu vốn.
Việc sử dụng vốn có hiệu quả là cơ sở để ngân hàng thực hiện huy động vốn sau này. Chỉ khi nào khách hàng thực sự tin tưởng là đồng tiền họ gửi vào ngân hàng được an toàn và sinh lãi thực sự thì họ mới gửi. Các ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh ngân hàng cổ phần ở Việt Nam hiện nay mặc dù có mức huy động lãi suất khá cao, thời gian phục vụ nhanh, thái độ thường là tốt hơn ngân hàng quốc doanh nhưng lượng khách thu hút được vào ngân hàng này vẫn chỉ là những con số rất nhỏ bé. Đơn giản là người dân vẫn chưa tin tưởng vào các ngân hàng này. Họ không biết là ngân hàng này làm ăn có lãi thường xuyên hay không hay là đang huy động để thực hiện những dự án có thể sinh lãi nhưng rủi ro cao, nếu không trả được nợ thì tuyên bố phá sản. Ai cũng hiểu rằng kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh thương mại, có đầu ra, đầu vào nếu không giải quyết đầu ra được tốt thì đầu vào đương nhiên bị ứ đọng, và chẳng có khách hàng nào muốn cấp vốn cho một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, chẳng có ai gửi tiền vào những ngân hàng có vấn đề về tín dụng.
Ngân hàng muốn được khách hàng tin tưởng gửi tiền thì trước tiên cần phải chứng minh cho khách hàng thấy được ngân hàng là người biết kinh doanh, có khả năng làm lợi cho khách hàng, tức là phải đảm bảo được hiệu quả kinh doanh của mình mà chủ yếu là hoạt động cho vay của ngân hàng.
Về mặt kinh tế, sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đảm bảo cho ngân hàng đồng thời tạo ra cơ sở để ngân hàng áp dụng các biện pháp kinh tế trong công tác huy động vốn sau này. Hơn nữa việc sử dụng vốn có hiệu quả thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng của mình.
Dưới đây là một số giải pháp ngân hàng có thể sử dụng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thời gian tới.
Huy động vốn và sử dụng vốn phải gắn bó với nhau theo một nguyên tắc tương ứng về thời hạn đồng thời xem xét tính ổn định của nguồn tiền huy động theo thời hạn để có những phương án sử dụng hợp lý, đem lại hiệu quả cao với chi phí thấp.
Công tác thu nợ cần chú trọng việc thu nợ đúng hạn đảm bảo cho ngân hàng thực hiện các kế hoạch, mục tiêu theo đúng chiến lược đã đặt ra.
Tiếp tục tái cơ cấu dư nợ tín dụng theo chủ trương và kế hoạch đã đề ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, tạo cơ cấu an toàn và có hiệu quả. Tiến hành xây dựng cơ cấu tín dụng định hướng trong dài hạn nhằm giúp các đơn vị chủ động trong việc tái cơ cấu và phát triển tín dụng đúng định hướng.
Nghiên cứu và áp dụng việc điều chỉnh lãi suất theo hướng linh hoạt, áp dụng cho từng loại hình cho vay khác nhau, cho từng đối tượng khách hàng, lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Có như vậy mới giúp ổn định tăng trưởng tín dụng đồng thời tăng thu nhập trong điều kiện lãi suất bình quân đầu ra của ngân hàng đang khá cao như hiện nay.
Thực hiện phân loại khách hàng và có chính sách ưu đãi phù hợp, cạnh tranh cao đối với khách hàng lớn, có uy tín, sử dụng nhiều sản phẩm - dịch vụ của ngân hàng, đồng thời mạnh dạn tăng lãi suất và mở rộng có chọn lọc đối với cho vay phân tán.
Tích cực nghiên cứu, triển khai và đẩy mạnh một số nghiệp vụ mới theo nhu cầu của nền kinh tế như bao thanh toán, cho vay cầm cố chứng từ có giá, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, thanh toán mua bán nhà đất, mua nhà trả góp, đẩy mạnh cho vay từ nguồn vốn tín dụng quốc tế như RDF, FMO,… Các nghiệp vụ phải đơn giản hoá thủ tục và phù hợp với điều kiện thực tiễn của nền kinh tế và của khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo yêu cầu về chất lượng tín dụng.
Đi đôi với việc phát triển tín dụng, cần tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín dụng bền vững. Tiến hành một cách quyết liệt công tác thu hồi và xử lý nợ quá hạn, lên kế hoạch và lập lộ trình cụ thể cho việc giải quyết nợ nhằm khống chế tỷ lệ nợ quá hạn theo kế hoạch đặt ra.
Củng cố và phát huy vai trò của phòng quản lý tín dụng tại các chi nhánh, tránh tình trạng thiếu cán bộ hoặc bố trí các bộ phận kiêm nhiệm hoặc chỉ hoạt động hình thức.
3.2.6 Hoàn thiện củng cố hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công tác huy động vốn
Công tác tiếp nhận, chuyển giao và đưa vào vận hành hệ thống Core-banking – T24 phải luôn được xem là một trong những công tác trọng tâm và phải được ưu tiên tập trung nhân lực và tài lực để dự án sớm được hoàn thành theo đúng tiến độ.
Chú ý phối hợp tổ chức tốt giữa ban điều hành và các chi nhánh, phòng ban nghiệp vụ trong quá trình cài đặt và vận hành hệ thống Corebanking mới.
Trung tâm công nghệ thông tin cần phải có những bước chuẩn bị thích hợp cho việc tiếp nhận và vận hành thuần thục những công nghệ mới ứng dụng cho hoạt động ngân hàng; phát huy hơn nữa công tác hỗ trợ nghiệp vụ cho các đơn vị thông qua việc nâng cao chất lượng quản lý điều hành qua mạng thông tin, qua hệ thống cơ sở dữ liệu cũng như tham gia vào việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng dựa trên nền tảng kỹ thuật cao.
Để đáp ứng nhu cầu phục vụ mới với số lượng ngày càng lớn, với đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng, ngân hàng cần đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng. Một ngân hàng tiêu chuẩn trước tiên phải dựa vào công nghệ hiện đại và thiết lập được một hệ thống thanh tra, kiểm soát, phòng ngừa hữu hiệu mọi rủi ro mới nâng được sức cạnh tranh, thu hút được nhiều vốn cho đầu tư phát triển.
3.2.7 Nâng cao trình độ nghiệp vụ, tác phong phục vụ của nhân viên ngân hàng
Hiện nay, khi bước vào ngân hàng, một số khách hàng vẫn còn bỡ ngỡ, ngại ngùng. Nguyên nhân phần lớn là do ảnh hưởng thái độ của nhân viên ngân hàng. Khi khách hàng bước vào ngân hàng thường chỉ có 2 lý do: 1, giao dịch với ngân hàng như gửi tiền, vay tiền, làm các dịch vụ; 2, khách hàng tìm hiểu trước về ngân hàng rồi mới quyết định giao dịch hay không. Vì lần đầu tiên đến với ngân hàng nên khách hàng không rõ phải làm thủ tục thế nào, khâu nào trước, khâu nào sau. Nếu nhân viên ngân hàng có thái độ vui vẻ nhiệt tình, chỉ dẫn tỉ mỉ cho khách hàng, giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng sẽ khuyến khích họ đến giao dịch với ngân hàng vào lần sau, và ngược lại. Do đó, trình độ, tác phong phục vụ của cán bộ nhân viên ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng trong việc thu hút khách hàng của một ngân hàng. Để đáp ứng được những yêu cầu phát triển chung của toàn ngân hàng cũng như trong hoạt động huy động vốn nói riêng đối với ngân hàng Sacombank, đòi hỏi ngân hàng phải tiếp tục có những cải tiến và đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ nhân viên.
Về cán bộ cần đào tạo và đào tạo lại có hệ thống các cán bộ theo tiêu chuẩn qui định. Cán bộ làm công tác tiền gửi phải hiểu biết nhiều mặt nghiệp vụ, có khả năng xử lý mọi tình huống công tác một cách thành thạo, giải đáp từng thắc măsc của người gửi tiền. Nói chung, cán bộ ngân hàng cần phải tích cực hoạt bát, lịch sự vui vẻ khi giao tiếp trên cơ sở đó tăng cường tín nhiệm, thắt chặt mối quan hệ bạn hàng lâu dài.
Tiếp tục kiện toàn bộ máy, sắp xếp, bố trí nhân sự theo hướng tinh gọn với tính chuyên nghiệp cao và trẻ hoá, năng động hoá đội ngũ cán bộ điều hành các cấp. Trong đó, phải chú trọng công tác phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và chuẩn bị đội ngũ kế thừa, cũng như ổn định bộ máy nhân sự.
Tiến hành rà soát, đánh giá lại các chức vụ và vị trí công việc của toàn thể cán bộ nhân viên ngân hàng để có thể điều chỉnh và bố trí công tác phù hợp với khả năng, nguyện vọng và định hướng sắp xếp, cơ cấu, bố trí công việc trong tương lai.
Nâng cao ý thức trách nhiệm, tác phong làm việc, thái độ phục vụ khách hàng của toàn thể cán bộ nhân viên ngân hàng tạo nên phong cách phục vụ mới mang đậm bản sắc văn hoá Sacombank. Xây dựng môi trường làm việc đoàn kết, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau nhằm tạo nên nét văn hoá ứng xử không những đối với khách hàng bên ngoài mà còn đối với nội bộ nhân viên ngân hàng.
Đi đôi với quá trình xây dựng, bổ sung, bồi dưỡng nguồn nhân lực Sacombank ngày một chuyên nghiệp và vững mạnh thì phải tiến hành sàng lọc, tinh giản biên chế đối với những người không đáp ứng được yêu cầu, không có tiến bộ và không có khả năng thích nghi với công việc sau khi đã được tạo điều kiện đào tạo lại và bố trí công tác phù hợp với khả năng.
Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi thế hơn các ngân hàng khác. Trong điều kiện hiện nay, với một nền kinh tế phát triển, đời sống người dân nâng cao, khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng đều là những người có tri thức cao do đó họ đòi hỏi ngày càng cao về dịch vụ ngân hàng. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng là cạnh tranh không giới hạn, cạnh tranh phi giá.
3.2.8 Các biện pháp khác
Tăng thêm thời gian phục vụ khách hàng: Để đáp ứng nhu cầu giao dịch của khách hàng, ngân hàng có thể bố trí nhân viên thay phiên nhau làm buổi trưa để phục vụ khách hàng có nhu cầu giao dịch.
Thực hiện chính sách chăm sóc, tư vấn khách hàng thường xuyên: thường xuyên gọi điện hỏi thăm và thông báo cho khách hàng những thông tin mới như các chương trình khuyến mại, những sản phẩm mới hay khi lãi suất thay đổi cũng cần thông báo cho khách hàng và tư vấn cho khách hàng thêm những thông tin cần thiết để khách hàng lựa chọn. Đối với những khách lớn, giao dịch thường xuyên thì cần phải có những chính sách ưu đãi riêng. Như ngày sinh nhật, ngày thành lập doanh nghiệp, ngày lễ thì ngân hàng nên có sự quan tâm như thăm hỏi và tặng quà.
3.3 Các kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước
a) Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô:
Môi trường kinh tế vĩ mô ảnh hưởng rất lớn đến mọi lĩnh vực kinh tế xã hội nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết cho việc nâng cao hiệu quả huy động vốn ngân hàng. Nếu môi trường kinh tế bất ổn định thì người dân sẽ hạn chế gửi tiền do lòng tin sụt giảm, do đó ngân hàng muốn huy động đủ vốn thì phải trả một khoản lãi suất cao để thu hút tiền gửi trong dân. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, đất nước đã gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, việc ổn định được nền kinh tế vĩ mô càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết do việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt sự can thiệp của chính phủ trong các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên bản chất của nền kinh tế nước ta là định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, do đó dù ít dù nhiều hoạt động kinh tế vẫn cần có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm giảm thiểu những tác động xấu, ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế trong nước.
Ổn định tiền tệ: Khi lòng tin của dân chúng vào sự ổn định của đồng tiền Việt Nam được nâng cao thì công tác huy động vốn sẽ thuận lợi hơn, người dân sẽ an tâm hơn khi gửi tiền, đặc biệt là với những khoản tiền gửi dài hạn. Để làm được điều đó, Nhà nước cần duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý, đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền; có chính sách tỷ giá ổn định và linh hoạt, tránh các đột biến làm giảm sức mua của đồng nội tệ.
Có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn. Chính phủ cần phải đưa ra các chính sách về ngoại giao, tiết kiệm, cải tiến bộ máy ngân hàng theo hướng tăng cường hiệu lực quản lý, giảm bớt hệ thống quản lý cồng kềnh, sao cho phù hợp và gắn liền với thực tiễn. Ngoài ra, đối với chính sách huy động vốn qua ngân hàng cũng cần phải được Nhà nước khuyến khích nhiều hơn nữa bằng các biện pháp linh hoạt, cụ thể thông qua các qui định lãi suất, chính sách tỷ giá, thuế… Mặt khác, Nhà nước cũng cần chú trọng công tác thanh kiểm tra, giám sát các hoạt động đầu tư, xây dựng tránh tình trạng đầu tư lãng phí, tham ô làm thất thoát tài sản của Nhà nước.
Duy trì ổn định chính trị: sự ổn định chính trị là điều kiện quan trọng thúc đẩy huy động vốn có hiệu quả. Một nền chính trị được kiến tạo vững chắc có thiết chế hợp lý, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ thì những chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực huy động vốn sẽ dễ dàng được thực hiện. Ngược lại, sự bất ổn chính trị - xã hội sẽ tạo nên những hoài nghi của dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước về chế độ, chính sách khiến họ e ngại khi bỏ vốn đầu tư.
b) Tạo lập môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý nước ta còn nhiều bất cập, các văn bản có sự chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ ràng và thiếu đồng bộ do đó một nhiệm vụ cấp thiết của Nhà nước là sớm hoàn thiện môi trường pháp lý.
Việc xây dựng hệ thống pháp lý đồng bộ, rõ ràng không chỉ tạo niềm tin cho dân chúng mà còn khuyến khích và tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh quan hệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm: chuyển bộ phận tiêu dùng chưa cấp thiết sang đầu tư, chuyển dần tài sản cất giữ dưới dạng vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh hoặc gửi vốn vào ngân hàng.
Ngân hàng trực tiếp tham gia huy động các nguồn vốn khác nhau: tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi dân cư… Bởi vậy, việc tạo lập chính sách, cơ chế thực hiện chiến lược vốn phải đầy đủ các hình thức huy động vốn, đề cao chiến lược sử dụng vốn và cần phải có sự hợp lực của nhiều cấp ngành có liên quan.
Đồng thời việc hoàn thiện luật giúp cho các ngân hàng hoạt động trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao được hiệu quả của công tác huy động vốn. Tránh trường hợp cạnh tranh nhiều rủi ro, thiếu bền vững bằng những cuộc chạy đưa lãi suất giữa các ngân hàng như giai đoạn vừa qua, làm tăng chi phí đồng thời cũng làm mất lòng tin của khách hàng.
Tóm lại, việc ban hành, hướng dẫn thi hành và thực hiện cần phải có sự thống nhất chặt chẽ. Đồng thời phải có sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành hữu quan để hoàn thiện và tạo lập các văn bản khác. Mặt khác phải xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật.
3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Trung Ương
Ngân hàng Trung ương với chức năng quản lý và điều hành hệ thống NHTM, là ngân hàng của các ngân hàng. Nó đóng vai trò định hướng cho các ngân hàng thương mại trong các hoạt động của ngân hàng và tác động rất lớn đến chiến lược huy động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Do đó, Ngân hàng Trung ương cần xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ hợp lý hơn nhằm khuyến khích người dân gửi tiền bằng các công cụ lãi suất, tỷ giá, thị trường mở và một số công cụ khác nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền.
Ngoài ra, việc ban hành các văn bản hướng dẫn việc thi hành luật và các văn bản khác phải thể hiện rõ ràng, chính xác và có tầm nhìn dài hạn.
Chính sách lãi suất linh hoạt theo từng thời kỳ, đảm bảo lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng.
Ban hành và có các hướng dẫn cụ thể về lãi suất gửi tiền đối với các khoản tiền có kỳ hạn dài.
Hướng dẫn và đưa vào sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt để khách hàng quen với việc sử dụng dịch vụ, thiết bị của ngân hàng và quan hệ lâu dài với ngân hàng. Đây là hình thức giúp cho ngân hàng có thể thu hút được nhiều khách hàng.
Mặt khác, Ngân hàng Trung ương cần có sự kết hợp đồng bộ với các ngành, các cấp đặc biệt là lắng nghe tiếng nói từ các ngân hàng thương mại để có những giải pháp phù hợp cũng như tính khả thi cao khi áp dụng các chính sách, chiến lược phát triển hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng,
Kết luận
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín tuy là một ngân hàng cổ phần mới thành lập từ năm 1992 nhưng đến nay đã trở thành 1 trong 5 ngân hàng hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang phát triển khởi sắc và trước những thắng lợi vẻ vang của Việt Nam trên trường quốc tế, dưới sự chỉ đạo sâu sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và được sự hậu thuẫn vững chắc của bà con cổ đông cùng sự thương yêu gắn bó thuỷ chung của hàng chục vạn khách hàng trên khắp mọi miền đất nước, năm 2007, Sacombank đã có nhiều nỗ lực và đã tạo ra được những bước tăng trưởng vượt bậc cả bề rộng lẫn bề sâu; đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007; luôn giữ vững và phát huy vị thế của một ngân hàng bán lẻ hàng đầu, đồng thời cũng chuẩn bị khá chu đáo mọi điều kiện cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch năm 2008. Trong đó, hoạt động huy động vốn đã đạt được những thành công nhất định. Cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động huy động vốn đã, đang và sẽ là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của Ngân hàng thương mại nói chung và của Sacombank nói riêng.
Mặc dù đã có những thắng lợi bước đầu trong hoạt động này như mạng lưới huy động rộng khắp, cách tính lãi suất linh hoạt,...nhưng nếu Sacombank phát huy lợi thế của mình hơn nữa và khắc phục những tồn tại thì Sacombank sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn nữa và phù hợp với quy mô vốn chủ sở hữu. Đồng thời để đạt được kết quả đó đòi hỏi sự cố gắng của toàn bộ cán bộ nhân viên trong ngân hàng, sự hỗ trợ của Nhà nước, của Ngân hàng nhà nước cùng các cơ quan hữu quan khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tăng cường hoạt động huy động vốn tại ngân hàng tmcp sài gòn thương tín sacombank.doc