Luận văn Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

Tăng cường pháp chế XHCN trong giai đoạn cách mạng hiện nay là một tất yếu khách quan gắn liền với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng ta chủ trương cải cách bộ máy nhà nước bao gồm cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước ta. Trong bối cảnh đó, việc giữ vững và tăng cường pháp chế XHCN càng trở thành một đòi hỏi cấp thiết nhằm phục vụ công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Pháp chế trong hoạt động tư pháp cũng như pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của hệ thống VKSND là một bộ phận cấu thành nền pháp chế XHCN nói chung. Nội hàm cơ bản của pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là chế độ tuân thủ nghiêm minh pháp luật trong tổ chức và hoạt động của hệ thống VKSND, trước hết là Luật tổ chức VKSND và hệ thống các văn bản pháp luật nội dung và pháp luật hình thức liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND nói riêng và các cơ quan tư pháp nói chung.

pdf119 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3818 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp giữa nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất không phân chia với nguyên tắc thống nhất, có tính hệ thống trong thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước. 2- Hoàn thiện pháp luật nội dung phải đồng thời hoàn thiện pháp luật tố tụng. Trước hết, cần hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. 3- Củng cố, kiện toàn các cơ quan tư pháp chủ yếu đó là: Cơ quan điều tra, VKSND và hệ thống TAND. Trước mắt kiện toàn các tổ chức ở các mắt khâu yếu nhất như TAND huyện, quận, thị xã nhất là Tòa án, VKSND ở những huyện vùng sâu, vùng xa. 4- Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ công chức tư pháp như: Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên và cán bộ công chức ở các cơ quan bảo vệ pháp luật khác. 5- Nhà nước cần tổ chức, quản lý và phát huy vai trò của các tổ chức, cơ quan THA, các tổ chức giám định tư pháp, các tổ chức tư vấn pháp lý, các Đoàn Luật sư và hoạt động luật sư. 6- Cần hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước. Trong cơ cấu hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các ban Đảng như: Ban Nội chính, ủy ban Kiểm tra, Ban bảo vệ chính trị nội bộ với các cơ quan bảo vệ pháp luật của Nhà nước, kết hợp thật hiệu quả giữa vai trò của báo chí trong việc phát hiện vi phạm pháp luật và tội phạm. 7- Kết hợp giữa giáo dục và cưỡng chế trong thực hiện quyền tư pháp. Tăng cường xử lý các vi phạm pháp luật, đấu tranh kiên quyết đối với tội phạm, kết hợp với giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ công chức và nhân dân. Vận dụng các quan điểm chỉ đạo của Đảng, kết hợp thực hiện 8 nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp mà Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã xác định với những biện pháp đề xuất nêu trên, nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Hà Nội, tác giả xin đề xuất một số giải pháp cụ thể - được trình bày trong mục 3.3. 3.3. Một số giải pháp nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội 3.3.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan tư pháp nói riêng, cũng như cho nhân dân và cán bộ nói chung Như các phần trên đã phân tích, để thực sự có một nền pháp chế XHCN thì cần có hai yếu tố đó là: - Sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; mà hệ thống pháp luật này phải đảm bảo là điều kiện cần và đủ cho sự tồn tại một trật tự pháp luật XHCN và kỷ luật của mọi tổ chức. - Sự đòi hỏi tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, nhân viên nhà nước và công dân. Không nằm ngoài những đòi hỏi chung của việc xây dựng nền pháp chế XHCN, pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cũng đòi hỏi có sự đáp ứng của hai yếu tố trên. Thứ nhất: Về sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; mà hệ thống pháp luật này phải đảm bảo là điều kiện cần và đủ cho sự tồn tại một trật tự pháp luật XHCN và kỷ luật của mọi tổ chức. Yếu tố này đòi hỏi các cơ quan nhà nước ở tầm vĩ mô cần xác định một chiến lược tổng thể nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh làm điều kiện pháp lý cho sự tồn tại của một trật tự pháp luật XHCN. Thứ hai: Về sự đòi hỏi tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, nhân viên nhà nước và công dân. Yếu tố thứ hai này đòi hỏi một trình độ nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cao của các nhân viên, công chức nhà nước và công dân. Vấn đề ý thức pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc áp dụng pháp luật. Để áp dụng đúng đắn một quy phạm pháp luật đòi hỏi phải có sự hiểu biết chính xác nội dung và yêu cầu của quy phạm đó, phải giải thích và làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của quy phạm ấy. Pháp luật XHCN là cơ sở để củng cố, phát triển và nâng cao ý thức pháp luật XHCN. Kinh nghiệm thực tiễn cho chúng ta thấy, cải cách bộ máy nhà nước, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng Nhà nước Pháp quyền phải đi đôi với quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường Pháp chế XHCN, nâng cao ý thức pháp luật và nâng cao trình độ văn hóa pháp lý cho cán bộ và nhân dân lao động. Cả ba nhân tố đó được tăng cường đồng bộ, phát triển hài hòa thì cải cách bộ máy nhà nước mới có hiệu quả, dân chủ hóa mới đi vào cuộc sống một cách lành mạnh, và có như vậy mới có thể từng bước xây dựng được một Nhà nước Pháp quyền Việt Nam XHCN. Nhìn vào thực tiễn đổi mới hơn 17 năm qua ở nước ta có thể thấy rằng, ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ, nhân dân ta chưa được nâng cao tương xứng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Có thể nói, chưa có thời điểm nào mà số lượng các văn bản pháp luật được Nhà nước ta ban hành nhiều như trong những năm gần đây. Hàng chục đạo luật và Pháp lệnh mới ra đời hướng tới điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Trong lúc đó trình độ nhận thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ và nhân dân chưa được nâng lên tương xứng với sự đổi mới hệ thống pháp luật. Đại đa số nhân dân vẫn còn ở trong trạng thái kém hiểu biết về pháp luật. Xét trên ba yếu tố tạo nên trình độ văn hóa pháp lý của một người, có thể thấy rõ thực trạng đó như sau: - Yếu tố trước tiên của văn hóa pháp lý của cá nhân công dân là tri thức pháp luật. Đây là yếu tố ban đầu quan trọng để phát triển ý thức pháp luật và là tiền đề của tính tích cực của hành vi hợp pháp của con người. Nó là điều kiện cần thiết để tiếp xúc với chính trị và văn hóa, là chất kích thích cho các hành vi hợp pháp, là phương tiện để thực hiện quyền dân chủ. Nhận thức pháp luật tối thiểu của một công dân trước hết đó là sự am hiểu thấu đáo các quy định của pháp luật, vai trò của nó trong đời sống xã hội, và nắm vững các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà Hiến pháp và các đạo luật chủ yếu đã quy định. Trình độ nhận thức pháp luật này của người dân nước ta còn rất hạn chế. Trên thực tế công dân rất lúng túng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho mình để tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó họ cũng không có những ứng xử tích cực trong việc đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. - Yếu tố thứ hai của văn hóa pháp lý của cá nhân công dân là tình cảm tôn trọng đối với pháp luật hiện hành. Tình cảm ấy trước hết là lòng tin đối với pháp luật. Tin vào sự cần thiết, vào tính công bằng, vào lợi ích của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật, tin vào tính không khoan nhượng của nó. Đấy là yếu tố rất quan trọng để chuẩn bị tư tưởng cho mỗi người hành động theo pháp luật. ở nước ta có thể nhận thấy rằng, một bộ phận không nhỏ công dân nước ta do bị ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tưởng phong kiến và pháp luật của chế độ thực dân với những hình phạt tàn khốc, độc ác dã man, lại thiếu tri thức pháp luật của xã hội mới nên tình cảm pháp luật của họ là sự sợ hãi chứ không phải là sự tin tưởng vào pháp luật. Văn hóa pháp lý không thừa nhận sự tôn trọng pháp luật dựa trên tình cảm sợ hãi pháp luật. Sự sợ hãi không bao giờ dẫn con người đến những hành vi xử sự tích cực đối với pháp luật. Nó đối lập với dân chủ, với tính tích cực trong hành vi ứng xử của con người. Ngược lại, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhất là những người có chức có quyền, tri thức pháp luật không đến nỗi kém so với những người lao động bình thường nhưng họ không có tình cảm pháp luật đúng đắn nên có hành vi vi phạm pháp luật, thậm chí là tội phạm. Tình cảm pháp luật của họ là coi thường pháp luật, đặt mình cao hơn pháp luật hiện hành để mưu cầu những lợi ích tầm thường cho cá nhân. - Yếu tố thứ ba của văn hóa pháp lý của cá nhân công dân là hành vi xử sự theo đúng những đòi hỏi của pháp luật. Hành vi đó phải trở thành thói quen, trở thành niềm tin nội tâm được xây dựng trên tri thức và tình cảm đúng đắn đối với pháp luật. Như đã nói ở trên, đa số các thành viên trong xã hội ta chưa có đủ một lượng tri thức pháp luật cần thiết trong nhận thức, và tình cảm pháp luật lại chưa đúng đắn thì xã hội tất yếu chưa thể hình thành thói quen "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật". Từ ba yếu tố tạo nên văn hóa pháp lý của một người nhìn rộng ra có thể đi đến kết luận rằng trình độ văn hóa pháp lý của xã hội ta nhìn chung còn thấp kém hơn các dạng văn hoá khác. Điều đó không còn phù hợp với quá trình đất nước đang từng bước mở rộng dân chủ, với sự ra đời của nhiều chế định pháp lý mới. Do đó, giáo dục pháp luật nâng ý thức pháp luật cho mỗi cá nhân và toàn xã hội đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho người dân quan tâm đến pháp luật, xây dựng động cơ đúng đắn trong việc thực hiện pháp luật và tích cực đấu tranh phòng chống các vi phạm pháp luật. Vai trò quan trọng của giáo dục pháp luật là ở chỗ nó nâng cao sự hiểu biết về pháp luật, nắm được tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm pháp lý và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Mục đích cuối cùng của giáo dục pháp luật là tạo ra một động lực tư tưởng chung của toàn xã hội thúc đẩy hành động nhất quán theo một trật tự chung mà khuôn khổ pháp luật quy định. Biến động lực chung đó thành động cơ thúc đẩy hành vi tích cực pháp luật một cách tự giác của từng cá nhân công dân và công chức nhà nước. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu những hành vi vi phạm và tội phạm. Đó là một trong những hình thức, phương pháp nhằm đưa pháp luật đến với những con người cụ thể. Có thể nói rằng, trong việc tăng cường tuyên truyền và giáo dục pháp luật được bắt đầu từ việc nhận thức thống nhất và đúng đắn về công tác này. Xuất phát từ nội dung của pháp luật nói chung, và đặc biệt là các Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự cũng như các luật và Pháp lệnh liên quan đến hoạt động của VKSND và các cơ quan tư pháp nói riêng, phải coi công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật là một bộ phận trong hệ thống giáo dục nói chung, và là trách nhiệm của các cơ quan Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong lĩnh vực hoạt động của VKSND và các cơ quan tư pháp nói chung, kiến thức pháp luật phải được đặt ngang hàng với kiến thức và thông tin về các vấn đề xã hội và cuộc sống để tuyên truyền cho nhân dân cũng như cho đội ngũ công chức nhà nước, và thậm chí ngay cả đối với đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan tư pháp. Từ mục đích của giáo dục pháp luật cần xác định rõ đối tượng nội dung cụ thể cần được giáo dục tuyên truyền pháp luật mới đề ra được hình thức, phương pháp giáo dục thích hợp. Chúng tôi cho rằng, trước hết cần phải phân biệt việc giáo dục pháp luật và tuyên truyền pháp luật là hai phạm trù khác nhau, tuy chúng có cùng nội dung và mục đích. Tuyên truyền pháp luật là một hình thức của giáo dục pháp luật. Bởi vì đây là một trong những hình thức truyền tải nội dung pháp luật các tri thức về luật pháp, thực chất là đưa thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng đến với các đối tượng cần được giáo dục. Bởi vì, nhiệm vụ quan trọng của giáo dục pháp luật là nâng ý thức pháp luật cá nhân nhằm xây dựng ý thức pháp luật chung của toàn xã hội. Vì trình độ ý thức pháp luật cá nhân ở các công dân có sự khác nhau, khi tiến hành công tác giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật trong lĩnh vực hoạt động của VKSND nói riêng cần chú ý một số vấn đề có tính nguyên tắc là: 1- Phải tính đến khả năng lĩnh hội những kiến thức pháp lý của các loại đối tượng (công chức nhà nước nói chung, công chức trong các cơ quan tư pháp nói riêng, công nhân, nhân dân lao động v.v...) các tầng lớp dân cư để từ đó lựa chọn những phương pháp và hình thức giáo dục thích hợp. 2- Làm cho công dân hiểu được rằng: bảo vệ trật tự pháp luật, hình thành một nền pháp chế XHCN vững chắc là sự nghiệp của toàn dân. Công dân có quyền được bảo vệ trong một môi trường pháp luật lành mạnh. Nhưng tất cả mọi công dân đều phải có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật để giữ gìn sự tự do an toàn cho cá nhân mình và đồng thời cũng phải tôn trọng sự tự do an toàn của mọi người, cũng như của toàn xã hội. 3- Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức, làm sáng tỏ tầm quan trọng xã hội và giá trị đạo đức của các quy phạm pháp luật nói chúng và các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực hoạt động của VKSND cũng như của các cơ quan tư pháp nói riêng để người dân cũng như mọi cán bộ công chức của VKSND và các cơ quan tư pháp nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Đồng thời tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động của VKSND nói riêng. 4- Kích thích và tạo điều kiện phát triển tâm lý pháp lý tích cực của công dân; hình thành ở họ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi vi phạm pháp chế và xâm phạm đến trật tự pháp luật. Có như vậy mới phát huy được quyền làm chủ của công dân; kích thích tinh thần dân chủ trong nhân dân nhằm xây dựng một xã hội công dân đúng nghĩa trong môi trường một Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, đồng thời với việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, kịp thời, công tác giáo dục ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân nói chung, cũng như cán bộ công chức của VKSND và các cơ quan tư pháp nói riêng có ý nghĩa quan trọng để tăng cường hiệu lực trong lĩnh vực hoạt động của VKSND nói riêng cũng như của các cơ quan tư pháp nói chung. 3.3.2. Nhận thức và thực hiện đúng các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp Theo quy định của Điều 138 Hiến pháp 1992 (sửa đổi), và Luật tổ chức VKSND năm 2002, nhiệm vụ của VKSND là "thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp". Nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm sát chính là đảm bảo cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp tuân thủ nghiêm chỉnh, kịp thời, và đúng các quy định của pháp luật. Trong các giai đoạn của quá trình tố tụng, kiểm sát viên đồng thời thực hiện hai chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp. Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm việc truy tố của VKS đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không để lọt tội phạm và người phạm tội. Việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp là nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, xét xử, giam giữ cải tạo, THA của các cơ quan tư pháp tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật. Với quy định nói trên thể hiện đặc trưng và sự khác biệt cơ bản giữa hoạt động của VKSND với và các cơ quan tư pháp khác hay nói một cách khác là không có một cơ quan nhà nước nào có thể thay thế VKS để truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án và có trách nhiệm bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp đúng quy định của pháp luật. Theo đó nếu có một người bị truy tố xét xử oan sai hoặc việc hoạt động của các cơ quan tư pháp không tuân thủ theo đúng quy định của Pháp luật thì trách nhiệm trước hết vẫn là VKSND vì Đảng và Nhà nước đã giao trọng trách cho VKSND nhiệm vụ là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp mà không một cơ quan nhà nước nào có thể thay thế. Nhận thức về việc bảo đảm truy tố đúng người đó là đúng người đã thực hiện hành vi phạm tội mà cuộc điều tra của cơ quan điều tra đã kết luận, là người thực hiện hành vi phạm tội phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và họ có năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Yêu cầu truy tố đúng tội, đó là hành vi phạm tội đã được thực hiện phải được VKSND xác định là tội phạm, và hành vi đó vi phạm vào điều luật nào của Bộ luật hình sự. Việc xác định đúng tội danh các điều khoản để truy tố là yêu cầu hết sức quan trọng và cần thiết, có xác định đúng tội danh, mới có cơ sở để đề xuất áp dụng mức hình phạt đúng đắn mới có tác dụng trừng trị kẻ phạm tội và giáo dục chung thông qua vụ án, mới đáp ứng được đòi hỏi của dư luận xã hội và của nhân dân. Tóm lại, về yêu cầu truy tố đúng pháp luật phải xem xét toàn diện đầy đủ các quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự cũng như nhưng văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan để làm căn cứ. Về chức năng kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp của VKSND là nhằm bảo đảm cho hoạt động của cơ quan điều tra, cơ quan xét xử, và cơ quan THA tuân thủ đúng pháp luật một cách nghiêm minh và kịp thời. Nội dung chức năng này thể hiện đối tượng để tiến hành kiểm sát đó là hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Khi thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, trước hết kiểm sát viên phải nắm chắc và đầy đủ các quy định và trình tự thủ tục của việc tiến hành tố tụng ở từng khâu nghiệp vụ do Luật tổ chức VKS quy định để làm căn cứ kiểm sát. Đồng thời phải nắm chắc các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, cũng như các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, hành chính, kinh tế, lao động và các quy phạm pháp luật khác có liên quan để làm căn cứ kiểm sát. 3.3.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp Để tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì việc kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên của VKSND thành phố Hà Nội đủ về số lượng, đảm bảo về phẩm chất, đủ năng lực, trình độ để hoàn thành nhiệm vụ là có ý nghĩa quyết định. Để thực hiện nhiệm vụ đó, trong thời gian tới cần phải tiến hành một số nội dung cơ bản sau: Trước hết, cần bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy của VKSND thành phố trên cơ sở triển khai nghiên cứu, sắp xếp tổ chức bộ máy trong ngành kiểm sát theo tinh thần Luật tổ chức VKSND năm 2002. - Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy lãnh đạo của VKSND các quận huyện cũng như các phòng nghiệp vụ của VKS thành phố cho phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2002. - Để làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, cần có đề án nghiên cứu về tổ chức bộ máy các khâu công tác nghiệp vụ, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới. - Xác định rõ nhu cầu biên chế và cơ cấu kiểm sát viên ở từng địa phương, đơn vị trong toàn ngành để tổng hợp báo cáo VKSNDTC. Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên theo tinh thần quán triệt nội dung Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về "Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng"; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về "Một số vấn đề về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị" và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08/ NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Công tác tổ chức cán bộ trong thời gian tới của VKSND thành phố Hà Nội cần phải quán triệt một cách sâu sắc những quan điểm có tính nguyên tắc về đổi mới công tác cán bộ, đồng thời gấp rút tổ chức triển khai thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm là: Thứ nhất: Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của ngành phải xuất phát từ việc quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết số 08/ NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của ngành. Xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát trên cơ sở giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phải phù hợp với cơ chế chính sách và đường lối đổi mới của Đảng. Phải quán triệt quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Thứ hai: Xác định rõ mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ ở cả hai cấp kiểm sát trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp và yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ, bảo đảm đủ về số lượng, đáp ứng được tiêu chuẩn về trình độ và năng lực nghiệp vụ chuyên môn; đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự kế thừa, chuyển tiếp các thế hệ cán bộ tới năm 2005 và 2010, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và tiêu chuẩn hóa cán bộ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ ba: Hết sức coi trọng và tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, trẻ hóa cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa, khắc phục tình trạng hẫng hụt chắp vá thiếu cán bộ. Phải nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác điều động và luân chuyển cán bộ, công tác quy hoạch và kế hoạch đào tạo. Có quan điểm và phương pháp đánh giá, sử dụng và đề bạt cán bộ một cách khoa học, công tâm, khách quan và bảo đảm đúng quy trình. Thứ tư: Đào tạo, bồi dưỡng là một nội dung quan trọng của công tác cán bộ, do vậy cần phải tập trung tạo điều kiện cho các cán bộ có điều kiện học tập nâng cao trình độ kiến thức khoa học pháp lý, và nâng cao năng lực nghiệp vụ chuyên môn. Đồng thời tạo điều kiện cho những cán bộ cần đào tạo lại có cơ hội được đào tạo theo đúng tiêu chuẩn, chất lượng góp phần đa dạng hóa các mô hình đào tạo và đẩy mạnh tốc độ tiêu chuẩn hóa cán bộ. Thứ năm: Tiếp tục đổi mới và kiện toàn cơ quan tham mưu về công tác cán bộ (phòng Tổ chức cán bộ - VKSND thành phố). Chú trọng công tác dự báo chiến lược, tập trung nghiên cứu và đề xuất kịp thời một số giải pháp và hoàn thiện quy chế về công tác cán bộ. Những giải pháp về công tác cán bộ - Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết số 08/ NQ-TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và tư tưởng chỉ đạo trong đổi mới công tác cán bộ, phải tiến hành rà soát, đánh giá lại thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ toàn ngành, từ đó có sự sắp xếp, bố trí lại một cách hợp lý đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, định hướng cải cách hoạt động tư pháp và các chính sách về cán bộ. - Về tiêu chuẩn bổ nhiệm kiểm sát viên, đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc trong quy trình bổ nhiệm cán bộ, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ năng lực thực tiễn của cán bộ và đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với công tác cán bộ của ngành. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình thực tiễn và giải quyết những bất cập còn tồn tại trong bước quá độ, ngoài việc thực hiện đúng quy định của luật, có thể đề nghị VKSNDTC xem xét, chấp thuận vận dụng chính sách cán bộ cho một số trường hợp đặc biệt chưa áp dụng về tiêu chuẩn trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong việc bổ nhiệm kiểm sát viên từ nay đến năm 2005, để anh em có điều kiện hoàn thiện, nâng cao trình độ theo yêu cầu. 3.3.4. Tăng cường sự phối hợp hoạt động giữa Viện kiểm sát nhân dân với các cơ quan tư pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội Để thực hiện tốt nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND thì sự phối hợp hoạt động giữa VKSND thành phố cũng như các VKSND các quận huyện với các cơ quan tư pháp trên địa bàn thành phố đóng một vai trò hết sức quan trọng. Như các phần trên đã phân tích thì thực hành quyền công tố chính là hoạt động của VKSND cũng như các cơ quan tư pháp khác (như: cơ quan điều tra, tòa án...) nhằm truy cứu trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật. Thực hành quyền công tố là nhiệm vụ chính của VKSND. Nhưng việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các đối tượng vi phạm pháp luật còn phụ thuộc vào hoạt động điều tra của cơ quan điều tra và hoạt động xét xử của cơ quan tòa án; và sau khi bản án có hiệu lực thì còn phụ thuộc vào hoạt động của cơ quan THA. Mặc dù cùng nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp nhưng các cơ quan này lại có vị trí độc lập (tương đối) với hoạt động của VKSND. Chính vì vậy, để đưa một vụ việc ra truy cứu trách nhiệm pháp lý một cách chính xác, đúng đối tượng và đúng pháp luật thì sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tư pháp nói chung với VKSND trên địa bàn thành phố có ý nghĩa hết sức quan trọng. Cuộc đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm là nhiệm vụ của toàn xã hội, của mọi cấp, mọi ngành và của mọi công dân; nhưng trong đó nòng cốt phải là các cơ quan tư pháp của Nhà nước mà trong đó VKSND là một thành viên quan trọng. Để cuộc đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm có hiệu quả thì sự thống nhất về ý chí và phối hợp có hiệu quả trong hành động của các cơ quan tư pháp với nhau nói chung và giữa VKSND với các cơ quan tư pháp khác nói riêng là điều kiện tiên quyết. Đây là quá trình phối hợp giữa các cơ quan tư pháp nhằm kiên quyết đấu tranh, loại trừ các hành vi vi phạm và tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Sự phối hợp đó không chỉ được thể hiện trong quá trình đấu tranh phòng chống các biểu hiện vi phạm pháp luật cụ thể thông qua việc xử lý, giải quyết những vụ án cụ thể; Mà nó còn phải được thể hiện trong sự thống nhất ý chí từ khâu chỉ đạo điều hành giữa các cấp lãnh đạo của các cơ quan tư pháp với nhau cũng như giữa các cơ quan tư pháp với VKSND các cấp. Trong quá trình chỉ đạo điều hành các cấp lãnh đạo cần chú trọng việc hướng dẫn thực hiện pháp luật một cách thống nhất, tạo ra một sự nhận thức thống nhất giữa các ngành đối với các quy phạm pháp luật cụ thể cũng như hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng. Trong khi trực tiếp giải quyết các vụ án cụ thể thì sự phối hợp hành động giữa các nhân viên các cơ quan tư pháp với tinh thần đoàn kết, nhất trí, kiên quyết đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm cũng như các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí cũng là yếu tố quan trọng. Phối hợp hành động giữa VKSND với các cơ quan tư pháp có hiệu quả cũng chính là biện pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. 3.3.5. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội Bên cạnh việc đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả các khâu công tác trong lĩnh vực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, việc đổi mới công tác quản lý chỉ đạo điều hành của VKSND thành phố, mà trước hết là bảo đảm được yêu cầu tập trung thống nhất hoạt động của ngành cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cho đến nay tất cả các khâu công tác: Kiểm sát điều tra; Kiểm sát xét xử hình sự; Kiểm sát xét xử các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động; Kiểm sát THA và Kiểm sát việc giam giữ - cải tạo đã có quy chế nghiệp vụ. ở VKSND thành phố, hàng năm sau khi có chỉ thị công tác của Viện trưởng VKSNDTC, Lãnh đạo Viện cần kịp thời tổ chức quán triệt cho các phòng nghiệp vụ và VKSND các quận huyện thực hiện các khâu nghiệp vụ công tác kiểm sát theo sự chỉ đạo thống nhất trong toàn ngành. Việc kiểm tra, hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ của cấp trên đối với cấp dưới cần chặt chẽ hơn, thông qua kiểm tra đã kịp thời thông báo rút kinh nghiệm, uốn nắn thiết sót, vi phạm để chấn chỉnh khắc phục, đồng thời nắm được tiến độ công tác của cấp dưới để chỉ đạo. Đáng lưu ý những năm qua Đảng và Nhà nước phát động phong trào đấu tranh chống tội phạm và lập lại trật tự kỷ cương trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội. Quán triệt các chủ trương này, VKSND thành phố cần quán triệt sâu sắc, kịp thời hướng dẫn thực hiện Quyết định 114 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống tham nhũng, chống tệ nạn xã hội, lập lại trật tự an toàn xã hội, và gần đây là Chỉ thị 53 và Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị. VKSND thành phố cần tăng cường, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện của cấp dưới, tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm công tác chỉ đạo điều hành, chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong hoạt động; đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm, những cách làm tốt để phát huy, nhằm tăng cường pháp chế trong trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. 3.3.6. Tăng cường các hoạt động giám sát, kiểm tra; xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp Cuộc đấu tranh phòng và chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm là nhiệm vụ cấp thiết và thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta cũng như của các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức kinh tế và của mọi công dân. Vì vậy, chúng ta phải kết hợp sức mạnh tổng hợp của mọi cơ quan, đơn vị, mọi tổ chức và mọi công dân vào cuộc đấu tranh đó; đồng thời phải vận dụng linh hoạt biện pháp cưỡng chế và giáo dục, thuyết phục nhằm loại trừ tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội của chúng ta. Quyền chủ thể là một phạm trù khoa học pháp lý có giới hạn. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc bởi không một xã hội có tổ chức nào có thể chấp nhận cho một người hoặc một tổ chức nào đó có thể làm tất cả những gì họ muốn. Lênin đã từng nói: "Sống trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều không thể được" [30, tr. 127]. Trong lĩnh vực đấu tranh phòng và chống các vi phạm pháp luật và tội phạm thì các cơ quan tư pháp và đặc biệt là hệ thống VKSND với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp nói chung và các hệ thống VKSND nói riêng là đấu tranh, phòng và chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, giữ gìn an ninh quốc gia, bảo đảm an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế XHCN, giữ gìn trật tự pháp luật XHCN và bảo đảm để công dân được tự do thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Do đó để xứng đáng là người lính xung kích trên mặt trận bảo vệ pháp chế XHCN, mỗi người cán bộ, kiểm sát viên của Ngành KSND nói riêng và mỗi cán bộ của các cơ quan tư pháp nói chung luôn phải trau dồi đạo đức, rèn luyện phẩm chất, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao phó. Trong thực tế nhiều năm qua, đại đa số cán bộ, kiểm sát viên trong hệ thống VKSND đã tu dưỡng, rèn luyện theo đúng 5 điều Bác Hồ dạy Cán bộ Ngành KSND là: "Công minh, Chính trực, Khách quan, Thận trọng, Khiêm tốn". Nhiều tấm gương sáng vượt qua khó khăn, không bị sa ngã trước những cám dỗ của vật chất tầm thường, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, bên cạnh đó lác đác trong ngành vẫn còn có những cá nhân không chịu tu dưỡng, rèn luyện, chạy theo lối sống vì lợi ích vật chất tầm thường dẫn đến vi phạm kỷ luật nghiệp vụ, thậm chí vi phạm pháp luật phải bị xử lý kỷ luật ở nhiều mức độ khác nhau, cá biệt có trường hợp phải truy tố trước pháp luật như trường hợp Nguyễn Thập Nhất, nguyên Trưởng phòng kiểm sát giam giữ - cải tạo VKSND thành phố Hà Nội trong vụ án Trương Văn Cam. Để tăng cường pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Bên cạnh việc thực hiện tốt chức năng hoạt động của mình đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong hoạt động của các cơ quan tư pháp, bảo đảm việc xử lý đúng đối tượng, đúng pháp luật, hơn ai hết mỗi cán bộ, kiểm sát viên trong hệ thống VKSND nói chung và VKSND thành phố Hà Nội nói riêng càng phải là những người chấp hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh nhất. Mọi hành vi vi phạm Pháp luật và tội phạm đều rất xa lạ với truyền thống và bản chất của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên VKSND thành phố Hà Nội. Do đó, những hành vi đó phải được kiên quyết loại trừ; những cá nhân vi phạm nhất định phải bị xử lý. Có như vậy mới xứng đáng với niềm tin và trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho Ngành KSND. Trên cơ sở xử lý những biểu hiện tiêu cực đã phát sinh, chúng ta phải quan tâm nghiên cứu, phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh những biểu hiện tiêu cực đó để đề ra biện pháp loại trừ nó khỏi đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên của VKSND thành phố Hà Nội. Để đạt được điều đó các cấp lãnh đạo quản lý trong cơ quan VSKND thành phố Hà Nội cũng như VKSND các quận, huyện phải không ngừng tăng cường kiểm tra uốn nắn đối với các cán bộ thuộc quyền có trên lĩnh vực nghiệp vụ chuyên môn cũng như tu dưỡng rèn luyện. Theo chúng tôi, việc tăng cường kiểm tra, giám sát trong nội bộ và xử lý nghiêm minh, triệt để các vi phạm pháp luật phát hiện được trong quá trình hoạt động của các cấp VKSND cũng chính là giải pháp hữu hiệu để tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Hà Nội. 3.3.7. Một số kiến nghị Nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và của VKSND thành phố Hà Nội nói riêng xin nêu hai kiến nghị: Thứ nhất: Về hoàn thiện pháp luật Pháp chế XHCN chỉ có thể được củng cố và tăng cường trên cơ sở có một hệ thống pháp luật ngày càng phát triển và hoàn thiện kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, kịp thời phản ánh đúng những đặc điểm của hiện thực XHCN trong từng giai đoạn phát triển cụ thể. Để làm được như vậy phải thường xuyên thực hành hệ thống hóa các văn bản pháp luật đã có để phát hiện, loại bỏ những quy định đã lạc hậu, trùng lặp, mâu thuẫn, bổ sung những quy định mới phù hợp với thực tế phát triển của xã hội; kịp thời thể chế hóa những chủ trương, đường lối của Đảng thành các quy định của pháp luật; có kế hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Hiện nay trong điều kiện Đảng ta đang chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trên cơ sở một nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển theo định hướng XHCN. Việc xây dựng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng thì việc đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh cũng là điều cấp thiết trong điều kiện ngày nay. Đặc biệt là các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung cũng như của VKSND nói riêng. Nó bao gồm các văn bản pháp luật nội dung và pháp luật hình thức. Đặc biệt là các văn bản luật hình thức của ta hiện nay chưa được hệ thống hóa thành các bộ luật hoàn chỉnh là một điều hết sức bất cập cho hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung cũng như của VKSND nói riêng. Hiện nay về pháp luật hình thức, chúng ta mới xây dựng được Bộ luật tố tụng hình sự (nhưng hiện cũng đang trong quá trình sửa đổi). Còn các quy định về tố tụng dân sự, tố tụng hành chính - kinh tế - lao động; trình tự thủ tục THA v.v... đều chỉ dừng ở mức quy định chứ chưa xây dựng được các văn bản luật về các mặt hoạt động này. Trong điều kiện đó chính bản thân hoạt động của các cơ quan tư pháp trong các lĩnh vực nói trên còn gặp rất nhiều khó khăn. Do đó hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND càng gặp nhiều khó khăn hơn. Chính vì vậy, nhằm tăng cường pháp chế XHCN nói chung và đặc biệt là pháp chế trong lĩnh vực hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng, chúng tôi đề nghị cần phải tăng cường hoạt động xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh làm cơ sở pháp lý cho việc tăng cường pháp chế XHCN. Đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng các văn bản pháp luật hình thức, quy định trình tự thủ tục tiến hành các thao tác pháp lý của các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng. Trước mắt, kiến nghị Quốc hội sớm thông qua Bộ luật tố tụng hình sự (Sửa đổi) và có kế hoạch xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự cũng như tố tụng về hành chính - kinh tế - lao động, trình tự thủ tục THA v.v.. làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng. Có như vậy mới có thể tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. Thứ hai: Về giải thích và hướng dẫn thực hiện, áp dụng pháp luật Có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ nhưng không có sự giải thích, hướng dẫn thực hiện áp dụng pháp luật tạo ra một cách hiểu thống nhất trong hệ thống các cơ quan áp dụng pháp luật và người dân thì cũng không thể có pháp chế XHCN nói chung và đặc biệt là pháp chế trong lĩnh vực hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. Trong thực tế hiện nay có nhiều văn bản luật được các cơ quan hữu quan hướng dẫn không thống nhất dẫn đến việc nhận thức và vận dụng trong thực tiễn hết sức khó khăn. Hoặc cùng một văn bản nhưng có cơ quan có văn bản hướng dẫn nhưng cơ quan khác lại không ban hành văn bản hướng dẫn v.v... cũng dẫn đến việc nhận thức và vận dụng các quy phạm pháp luật gặp khó khăn. Vì vậy, chúng tôi xin kiến nghị, cần có sự thống nhất giữa các cơ quan hữu quan trong việc ban hành các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật tạo điều kiện cho các cấp thực hiện và người dân có một cách nhận thức thống nhất đối với các quy phạm pháp luật đã ban hành. Có như thế mới có thể xây dựng được một nền pháp chế XHCN thật sự; và có cơ sở để tăng cường pháp chế XHCN. Trong lĩnh vực hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng, chúng tôi thấy cần có văn bản quy định và giải thích rõ một số khái niệm cụ thể như: Tư pháp, cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp, quyền công tố, thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp v.v... bởi trong thực tế hiện nay những khái niệm này được nhiều nhà khoa học cũng như các nhà lãnh đạo đề cập trong nhiều bài nói, bài viết nhưng chưa có một văn bản pháp lý nào quy định hoặc giải thích cụ thể các khái niệm đó. Do đó chính các cán bộ hoạt động trong các cơ quan tư pháp cũng chưa có cách nhìn nhận chính thống về các khái niệm này. Và như vậy hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong khi các khái niệm trên chưa được quy định và giải thích một cách chính thức. Kết luận Tăng cường pháp chế XHCN trong giai đoạn cách mạng hiện nay là một tất yếu khách quan gắn liền với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng ta chủ trương cải cách bộ máy nhà nước bao gồm cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước ta. Trong bối cảnh đó, việc giữ vững và tăng cường pháp chế XHCN càng trở thành một đòi hỏi cấp thiết nhằm phục vụ công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Pháp chế trong hoạt động tư pháp cũng như pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của hệ thống VKSND là một bộ phận cấu thành nền pháp chế XHCN nói chung. Nội hàm cơ bản của pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là chế độ tuân thủ nghiêm minh pháp luật trong tổ chức và hoạt động của hệ thống VKSND, trước hết là Luật tổ chức VKSND và hệ thống các văn bản pháp luật nội dung và pháp luật hình thức liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND nói riêng và các cơ quan tư pháp nói chung. Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND có những đặc trưng cơ bản riêng của nó. Những đặc trưng cơ bản này là cơ sở lý luận để xác định vai trò cũng như phương hướng tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND ở nước ta hiện nay. Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay. Vai trò đặc biệt đó bắt nguồn từ vai trò của hệ thống pháp luật nói chung và của các văn bản quy phạm pháp luật (cả pháp luật nội dung và pháp luật hình thức) liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của hệ thống cơ quan VKSND nói riêng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta đang tiến hành cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Trong công cuộc cải cách đó thì việc cải cách tổ chức bộ máy và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một trong những khâu then chốt quyết định sự thành công của công cuộc cải cách. Trong bối cảnh chung như vậy thì việc tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là một tất yếu khách quan bắt nguồn từ đòi hỏi phải tăng cường hiệu lực hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của chính hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng và cũng chính là bắt nguồn từ đòi hỏi xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Căn cứ vào những yêu cầu khách quan và xuất phát từ thực trạng pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. Việc tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN cần tiến hành theo ba phương hướng cơ bản là: Một là: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (cả pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức) liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của VKSND nói riêng. Hai là: Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành. Ba là: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ngành KSND nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung có đủ năng lực và phẩm chất để hoàn thành trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Tăng cường pháp chế XHCN nói chung và pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng là đòi hỏi cấp bách của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo thành công cần phải thực hành một cách khẩn trương, đồng bộ với những giải pháp thiết thực, cụ thể và hiệu quả. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Huy Bằng, (2001), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 2. Dương Thanh Biểu (2002), Tài liệu tập huấn Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về công tác giải quyết khiếu nại - tố cáo của Viện kiểm sát. 3. Hoàng Công (1987), "Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (8). 4. Lê Duẩn (1976), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, Nxb Sự thật, Hà Nội. 5. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Nxb Sự thật, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con đường Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Trần Ngọc Đường (1992), Nhà nước pháp quyền với cải cách bộ máy nhà nước và hoàn thiện hệ thống chính trị dưới ánh sáng của văn kiện Đại hội VII trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền, Nxb Sự thật, Hà Nội. 14. Trần Ngọc Đường (1994), "Một vài suy nghĩ về học thuyết pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta", Luật học, (5). 15. Trần Ngọc Đường (1996), "Một vài suy nghĩ về nguyên tắc chỉ đạo xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (5). 16. Trần Ngọc Đường (1998), Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Trần Ngọc Đường (Chủ biên) (1999), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Hiến pháp 1946 (1994), Tìm hiểu chế độ kinh tế trong Hiến pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội. 19. Hiến pháp 1959 (1994), Tìm hiểu chế độ kinh tế trong Hiến pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội. 20. Hiến pháp 1980 (1981), Nxb Pháp lý, Hà Nội. 21. Hiến pháp 1992 (1992), Nxb Pháp lý, Hà Nội. 22. Phạm Hưng (1986), "Khắc phục những mặt yếu về xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (10). 23. Phan Hiền (1985), "Mấy vấn đề về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (10). 24. Hội Luật gia Việt Nam (1985), Hồ Chủ tịch và pháp chế. 25. Hoàng Văn Hảo (1984), "Dân chủ và pháp chế", Nghiên cứu lý luận, (1). 26. Trần Trọng Hựu (1993), Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân - Sưu tập chuyên đề Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Thông tin Khoa học xã hội Hà Nội. 27. Phạm Hùng (1985), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. 28. Nguyễn Nhật Hùng (1996), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân dân ở nước ta hiện nay, Luận án PTS Khoa học Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 29. Quách Sĩ Hùng (1996) Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Luận án PTS. Khoa học Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 30. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 31. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 32. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 33. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 34. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 35. V.I. Lênin (1977), Về pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. 36. C.Mác - Ph.Ănghen: Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật Hà Nội 1978. 37. C.Mác - Ph.Ănghen: Tuyển tập, tập 6, Nxb Sự thật Hà Nội 1984. 38. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 (1998), Nxb Thế giới, Hà Nội. 39. "Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002" (2002), Phụ trang Tạp chí Kiểm sát, (10). 40. Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội. 41. Khuất Văn Nga (2003), "Quán triệt một số quan điểm cơ bản về cải cách tư pháp trong xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi)", Kiểm sát, (6). 42. Khuất Văn Nga (2003), "Đổi mới quản lý, chỉ đạo công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự của ngành kiểm sát nhân dân", Kiểm sát, (9). 43. Đỗ Khánh Tặng (1985), "Tìm hiểu về pháp chế xã hội chủ nghĩa", Giáo dục lý luận, (2). 44. Phùng Văn Tửu (1988), "Ngành tư pháp nước ta trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa", Báo Nhân dân, ngày 22/7. 45. Lê Minh Thông (1996), "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện xã hội nước ta hiện nay", Báo Nhân dân, ngày 1/11. 46. Trần Thu (2002), Tài liệu tập huấn Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra - kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự của Viện kiểm sát. 47. Hà Mạnh Trí (1992), "Tăng cường kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực kinh tế", Tạp chí cộng sản, (2). 48. Đào Trí úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 49. Đào Trí úc (1994), "Làm thế nào để xây dựng pháp luật và ý thức sống theo pháp luật", Nhà nước và pháp luật, (3). 50. Đào Trí úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 51. Đào Trí úc (Chủ biên) (1997), Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 52. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 1999. 53. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 2000. 54. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 2001. 55. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf188_2458.pdf
Luận văn liên quan