Để làm tốt việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ
hiện nay cần thực hiện nhiều giải pháp trước mắt và lâu dài. Giải pháp trước
mắt là: Thực hiện tổng rà soát tình hình đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản
lý và nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý; cần có một Nghị quyết riêng của
Ban cán sự đảng Bộ về công tác cán bộ nữ và tạo nguồn cán bộ nữ của Bộ;
khẩn trương rà soát toàn bộ các quy định của Bộ có liên quan đến việc tạo
nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ; phân công bộ phận thường
trực hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện công tác cán bộ nữ và
tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ
Giải pháp lâu dài, thực hiện thường xuyên, bao gồm: Nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị và của cán
bộ, công chức, viên chức về tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý trong
công tác cán bộ; hoàn thiện thể chế, chính sách về tạo nguồn cán bộ nữ; Cụ
thể hóa tiêu chuẩn công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ; xác định và thực
hiện tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý trong quy hoạch, bổ nhiệm
ở Bộ Nội vụ; tổ chức thực hiện tốt các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
bố trí, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển đối với cán bộ nữ; thực hiện tốt
chính sách đối với nữ trong quy hoạch và nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Các giải pháp nêu trên được đưa ra nhằm tập trung xử lý tồn tại, hạn
chế trong tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ, tiến tới đề
xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật hiện hành về công tác cán bộ nữ để đạt
được mục tiêu bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và tăng cường phụ nữ
tham chính ở Việt Nam nói chung, ở Bộ Nội vụ nói riêng trong giai đoạn hiện
nay.
126 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 694 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở bộ nội vụ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à 55 tuổi.
Trong bổ nhiệm, cần thiết phải có quy định về tỷ lệ nữ thích đáng để bổ
nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước làm cơ sở
cho việc xây dựng kế hoạch tạo nguồn cán bộ nữ. Trong thực hiện giải pháp
94
này, Bộ Nội vụ với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về cán bộ, công chức,
viên chức, cần nghiên cứu để đề xuất cấp có thẩm quyền quy định về tỷ lệ này
dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
Trong đào tạo, bồi dưỡng, đối chiếu những quy định tại Nghị định số
18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ quy định về đào
tạo, bồi dưỡng công chức với mục tiêu tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo,
quản lý nói chung và tại Bộ Nội vụ nói riêng cho thấy, cần sửa đổi quy định
về điều kiện thời gian công tác để nữ công chức được cử đi học sau đại học từ
05 năm xuống còn từ 2 đến 3 năm; không giới hạn độ tuổi đào tạo sau đại học
dưới 40 tuổi như hiện nay đối với nữ công chức để tạo cơ hội, điều kiện cho
nữ được tham gia đào tạo, bồi dưỡng, không bị ảnh hưởng bởi thời gian sinh
con và nuôi con nhỏ để bảo đảm chất lượng nguồn nữ.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo
đặc thù cho cán bộ nữ công chức lãnh đạo, quản lý, lãnh đạo và nguồn nữ
trong quy hoạch; thực hiện phân cấp đào tạo, bồi dưỡng và đa dạng hóa các
hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp dành cho nữ công chức nói chung và nữ
công chức lãnh đạo, quản lý nói riêng.
Đối với các khóa học bồi dưỡng nâng cao tiếng Anh ở nước ngoài
theo Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng
ngân sách nhà nước (Đề án 165), không nên quy định độ tuổi đối với nữ công
chức lãnh đạo, quản lý và nữ trong diện quy hoạch các chức danh lãnh đạo,
quản lý, vì thời gian bồi dưỡng kéo dài khoảng 3 - 6 tháng và không phải công
chức nữ nào cũng có điều kiện tham gia trong độ tuổi theo quy định.
Bên cạnh đó, theo quy định hiện hành, để tham gia đào tạo, bồi dưỡng
trình độ cao cấp lý luận chính trị cao cấp để đủ điều kiện, tiêu chuẩn bổ
nhiệm, nữ dưới 36 tuổi cần tham gia đào tạo hệ tập trung, trong khi đó đây là
giai đoạn nữ công chức, viên chức phải tập trung thực hiện thiên chức làm vợ,
95
làm mẹ, do đó ảnh hưởng tới nguồn để lựa chọn, bổ nhiệm chức danh lãnh
đạo, quản lý. Vì vậy, cần sửa đổi quy định về độ tuổi đào tạo, bồi dưỡng hoặc
hình thức đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị phù hợp đối với nguồn
cán bộ nữ.
Phụ nữ làm công tác lãnh đạo, quản lý cũng khác hơn so với nam giới,
do mang các đặc điểm của giới tính. Vì vậy, cần xây dựng và thực hiện
chương trình đào tạo, bồi dưỡng riêng dành cho cán bộ nữ; cần bổ sung quy
định để đa dạng các hình thức đào tạo đối với nữ công chức, viên chức phù
hợp với đặc điểm giới. Đổi mới nội dung, chương trình, hình thức đào tạo phù
hợp với từng đối tượng, đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại theo chức danh; đào tạo
có trọng tâm, trọng điểm, chuyên sâu, toàn diện về chuyên môn, lý luận chính
trị, quản lý nhà nước, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, ngoại ngữ, tin học, kết hợp
với đào tạo trong thực tiễn. Phải có chế độ vừa khuyến khích, vừa bắt buộc
đối với việc tự học tập, nghiên cứu để bổ sung kiến thức mọi mặt của nữ công
chức, viên chức và nữ công chức lãnh đạo, quản lý.
Trong điều động, luân chuyển, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25
tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lý quy định thời gian luân chuyển nói chung từ 3 năm trở lên. Tuy nhiên,
để phù hợp với đặc điểm riêng của nữ công chức lãnh đạo, quản lý, trước mắt
Chính phủ cần nghiên cứu, đề xuất để sửa đổi, bổ sung Nghị định số
24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 về tuyển dụng, sử dụng và quản
lý công chức, trong đó quy định thời gian luân chuyển đối với nữ công chức
lãnh đạo, quản lý là 02 năm, khắc phục những hạn chế của công tác luân
chuyển trong tạo nguồn cán bộ nữ hiện nay.
Trong thời gian tiếp theo, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, xây
dựng và thực hiện quy định về luân chuyển nữ công chức lãnh đạo, quản lý ,
trong đó xác định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn, đối tượng luân chuyển, đào
96
tạo theo quy hoạch và quy trình luân chuyển để đào tạo, thử thách, tích lũy
kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý để thúc đẩy quá trình tạo nguồn cán bộ nữ đạt
hiệu quả.
Trong bố trí cán bộ nữ, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện
các quy định về tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm đối với nữ công chức, viên
chức cho phù hợp với các mục tiêu bình đẳng giới
Trong nâng ngạch công chức hành chính, yêu cầu về tiêu chuẩn ngạch
công chức là một trong những điều kiện cần và đủ để nữ công chức trong quy
hoạch được xem xét, bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Theo quy định
hiện hành, quy định về nâng ngạch công chức đối với nam và nữ là bình đẳng.
Tuy nhiên, để tăng hiệu quả cho tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý,
cần có những quy định ưu tiên đối với nữ, như: Ưu tiên về thời gian giữ ngạch
đối với nữ công chức được cử tham dự kỳ thi nâng ngạch chuyên viên chính,
chuyên viên cao cấp; trường hợp nữ và nam công chức có tổng số điểm bằng
nhau ở chỉ tiêu nâng ngạch cuối cùng thì nữ được quyền ưu tiên trúng tuyển
kỳ thi nâng ngạch.
3.2.2.3. Cụ thể hóa tiêu chuẩn công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ
Cụ thể hóa tiêu chuẩn công chức lãnh đạo, quản lý là công việc quan
trọng, là tiền đề, chi phối và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các nội dung
khác của tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ.
Theo phân cấp công tác cán bộ, các bộ, ngành xây dựng tiêu chuẩn
chức danh lãnh đạo, quản lý của Bộ theo thẩm quyền. Tiến hành cụ thể hóa
tiêu chuẩn công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ trước hết cần bám sát vào
chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ; cần
dựa vào tiêu chuẩn chung của cán bộ trong giai đoạn hiện nay theo Chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiêu
chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý của Bộ Nội vụ thời kỳ đẩy mạnh công
97
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo Quyết định số 1204/QĐ-BNV ngày 19
tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Đồng thời cần căn cứ những
quy định của Luật cán bộ, công chức trên cơ sở lồng ghép giới khi cụ thể hóa
tiêu chuẩn từng chức danh công chức lãnh đạo, quản lý.
Trên cơ sở nhiệm vụ chính trị và đặc điểm của đội ngũ nữ công chức
lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, đơn vị của Bộ, Bộ cần quy định cụ thể về tiêu
chuẩn đối với từng chức danh gắn với vị trí việc làm, gắn với chức năng,
nhiệm vụ chính trị của cơ quan và của từng đơn vị; chỉ đạo xây dựng mới quy
định về tiêu chuẩn đối với từng chức danh công chức lãnh đạo, quản lý đã
được phân cấp thẩm quyền quản lý cho các đơn vị trực thuộc Bộ.
Về lâu dài, cần nghiên cứu để xây dựng, ban hành quy định cụ thể về
tiêu chuẩn nữ công chức lãnh đạo, quản lý gắn với vị trí việc làm trên cơ sở
xác định cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý phù hợp để làm căn cứ tổ
chức thực hiện các nội dung khác của công tác tạo nguồn cán bộ nữ, trong đó
những yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được xem xét, quy định
một cách hợp lý.
3.2.2.4. Xác định và thực hiện tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo,
quản lý trong quy hoạch, bổ nhiệm ở Bộ Nội vụ
Trên cơ sở tiêu chuẩn các chức danh công chức lãnh đạo, quản lý đã
được cụ thể hóa, Bộ cần rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ nữ để xác
định tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý phù hợp với thực tiễn hoạt
động quản lý nhà nước của Bộ.
Về tỷ lệ, cần có quy định các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ có
tỷ lệ công chức, viên chức đạt từ 30% trở lên phải có ít nhất 01 nữ giữ chức
danh lãnh đạo, quản lý; các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ công chức, viên chức
đạt từ 30% trở xuống cần bảo đảm tỷ lệ nữ giữ chức danh lãnh đạo, quản lý so
với tổng số công chức lãnh đạo, quản lý đạt tối thiểu 15%. Quy định như vậy
98
vừa bảo đảm chỉ tiêu để phấn đấu thực hiện, bảo đảm về cơ cấu tỷ lệ nữ công
chức lãnh đạo, quản lý với nữ công chức, viên chức của đơn vị; vừa bảo đảm
tỷ lệ phù hợp cho hoạt động tạo nguồn được thuận lợi.
Ban cán sự đảng Bộ cần cho chủ trương đối với mỗi chức danh công
chức lãnh đạo, quản lý được đưa vào quy hoạch bảo đảm có tối thiểu 01
người là nữ; đối với quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý cấp Lãnh đạo Bộ,
nhất thiết phải có tối thiểu 01 người là nữ. Trường hợp các đơn vị thuộc và
trực thuộc không đủ nguồn nữ công chức, viên chức để đưa vào quy hoạch thì
cấp có thẩm quyền chỉ phê duyệt quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý
khi đơn vị đó có kế hoạch tạo nguồn nữ trong nhiệm kỳ kế tiếp.
Về cơ cấu, cần xuất phát từ điều kiện cụ thể và nguồn nữ công chức,
viên chức để xác định cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ một cách
hợp lý, sát thực tế, phù hợp với nhiệm vụ cụ thể và phương hướng phát triển
của bộ. Cần xác định những vị trí lãnh đạo, quản lý cần phải có nữ, nhất là tại
các đơn vị: Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Tiền lương, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Tổng
hợp, Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Vụ Kế hoạch – Tài chính,
Văn phòng Bộ, Học viện Hành chính Quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà
nướclà những đơn vị mà ở đó nữ công chức lãnh đạo, quản lý có thể phát
huy năng lực, sở trường, phù hợp với đặc điểm giới. Trong chiến lược tạo
nguồn lâu dài của Bộ, cần xác định mỗi cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc
Bộ cần cơ cấu ít nhất 01 nữ công chức lãnh đạo, quản lý.
Việc quy đinh tỷ lệ và cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ cần
được thể chế hóa thành văn bản chỉ đạo để các cơ quan, đơn vị có căn cứ xây
dựng kế hoạch tạo nguồn cán bộ nữ.
3.2.2.5. Tổ chức thực hiện tốt các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
bố trí, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển đối với cán bộ nữ; thực hiện tốt
chính sách đối với nữ trong quy hoạch và nữ công chức lãnh đạo, quản lý
99
- Trong quy hoạch nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Quy hoạch cán bộ nữ là khâu đầu tiên, quan trọng để bảo đảm cho quá
trình tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý đạt kết quả tốt, bảo đảm đội
ngũ cán bộ nữ phát triển liên tục, có kế thừa, đáp ứng nhiệm vụ chính trị của
cơ quan, đơn vị.
Để làm tốt nội dung này, trước hết cần làm tốt tại khâu xây dựng quy
hoạch; cần căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cơ quan, tiêu chuẩn các
chức danh công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ đã được cụ thể hóa; tình hình
đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý đương chức và nguồn nữ có thể đưa
vào quy hoạch. Đồng thời, cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng cơ
quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ; vào chức năng, nhiệm vụ của người
đứng đầu từng cơ quan, đơn vị trực thuộc để đưa những công chức, viên chức
phù hợp vào quy hoạch.
Hiện nay, Bộ Nội vụ có tỷ lệ nữ công chức, viên chức đạt trên 50%, tỷ
lệ nữ giữ chức danh lãnh đạo, quản lý so với tổng số cán bộ lãnh đạo, quản lý
của cơ quan, tổ chức, đơn vị đã đạt trên 15% theo quy định chung. Tuy nhiên,
cần đặt ra chỉ tiêu phấn đấu cao hơn nữa, quy định chỉ tiêu tối thiểu cho từng
đơn vị thuộc và trực thuộc không ít hơn 30% nữ trong quy hoạch ở các cương
vị Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng và tương đương trở lên.
Trước mắt, Bộ cần xây dựng quy hoạch nữ công chức, viên chức trong
quy hoạch tổng thể về công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ; có kế hoạch tạo
nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý theo giai đoạn, đẩy mạnh tạo nguồn
cán bộ nữ sớm và bảo đảm chất lượng thực sự; có kế hoạch đưa những nữ
công chức lãnh đạo, quản lý chưa đạt chuẩn và nữ công chức trong quy hoạch
các chức danh lãnh đạo, quản lý tại Bộ đi đào tạo, bồi dưỡng theo các hình
thức thích hợp tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chính trị để được đào tạo cơ bản,
cập nhật kiến thức, trong đó coi trọng bồi dưỡng trong thực tiễn.
100
Bên cạnh đó, các cấp ủy, tổ chức đảng tại các đơn vị thuộc và trực
thuộc Bộ cần sớm có chiến lược tạo nguồn cán bộ nữ, bảo đảm tỷ lệ nguồn nữ
trong quy hoạch tương ứng với tỷ lệ công chức, viên chức trong cơ quan, đơn
vị, bảo đảm quy định, hướng dẫn và chủ trương của Ban cán sự đảng Bộ. Mọi
kế hoạch thực hiện quy hoạch như đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí sử
dụng, thử thách cán bộ cũng phải tuân thủ cơ cấu, tỷ lệ trên; đồng thời có
chính sách chăm lo, ưu tiên để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho cán bộ nữ
trong quá trình phấn đấu.
Về điều kiện, tiêu chuẩn để quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý các
cấp đối với nữ công chức, viên chức, theo quy định hiện nay tại Nghị quyết số
42-NQ/TW ngày 30 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, cán bộ đưa vào quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cần được
đào tạo, bồi dưỡng; yêu cầu trình độ đào tạo “đối với cán bộ dưới 45 tuổi
thuộc diện quy hoạch chức danh chủ chốt thì phải tốt nghiệp đại học chính
quy và cao cấp lý luận chính trị hệ tập trung; đồng thời quan tâm đến các
đồng chí tuy không đồng chí đào tạo cơ bản theo quy định nhưng có năng lực
nổi trội trong chỉ đạo thực hiện, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín
nhiệm; những đồng chí là cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ cần xem xét, vận
dụng một cách thích hợp”. Do đó, cần có khi cụ thể hóa tiêu chuẩn quy hoạch
và hướng dẫn quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý của Bộ, Bộ cần vận
dụng một cách linh hoạt quy định nêu trên của Bộ Chính trị về trình độ đào
tạo của nữ công chức, viên chức, bảo đảm nguồn nữ dồi dào để đưa vào quy
hoạch.
Khi tiến hành quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý đối với nguồn
nữ trong quy hoạch, bên cạnh việc căn cứ vào phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống, năng lực, trình độ, kết quả công tác, uy tín, chiều hướng, triển vọng
101
phát triển, đánh giá của cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và kết quả bỏ phiếu
của tập thể lãnh đạo, coi trọng, chú ý đến những nữ công chức, viên chức trẻ
tuổi, có triển vọng phát triển; để tăng hiệu quả công tác tạo nguồn nữ công
chức lãnh đạo, quản lý, cần quán triệt quan điểm kết quả lấy phiếu tín nhiệm
quy hoạch chỉ mang tính chất tham khảo, không mang tính chất quyết định
đối với việc quy hoạch nguồn nữ.
Trong quá trình triển khai công tác quy hoạch, để làm tốt công tác quy
hoạch đối với nguồn nữ lãnh đạo, quản lý, Bộ cần thực hiện tốt những nội
dung sau:
Một là, xác định cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý một cách hợp
lý, bảo đảm cơ cấu về giới trong quy hoạch để bố trí vào các cương vị thích hợp.
Hai là, định kỳ hàng năm tiến hành khảo sát, đánh giá đội ngũ nữ công
chức lãnh đạo, quản lý, dự báo sự biến động và nhu cầu nữ lãnh đạo, quản lý
cho từng thời kỳ. Trên cơ sở đó, cân đối số lượng và cơ cấu nữ công chức
lãnh đạo, quản lý, lựa chọn đối tượng đưa vào nguồn nữ lãnh đạo, quản lý kế
cận cho các chức danh tương ứng trước mắt và lâu dài. Phấn đấu từng bước
xây dựng đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý đủ đức, đủ tài, đủ về số
lượng, bảo đảm chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, có sự chuyển tiếp liên tục và
vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính
trị của Bộ.
Ba là, tăng cường quản lý, đánh giá nữ công chức, viên chức trong quy
hoạch, định kỳ xem xét quy hoạch nữ công chức lãnh đạo, quản lý để động
viên, khuyến khích kịp thời những đối tượng phấn đấu tốt, đồng thời uốn nắn
những khuyết điểm, thiếu sót; có kế hoạch, biện pháp giúp đỡ nguồn nữ trong
quy hoạch nhưng còn khó khăn trong việc phấn đấu đạt các điều kiện, tiêu
chuẩn của chức danh quy hoạch.
- Trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý
102
Khác với nam công chức, viên chức, bên cạnh việc hoàn thành nhiệm
vụ được giao, nữ công chức, viên chức, đặc biệt là nữ công chức lãnh đạo,
quản lý còn phải làm tròn chức năng sinh con, nuôi dạy con, làm tròn trách
nhiệm với gia đình. Sự tiến bộ và trưởng thành của cán bộ nữ không thể tách
rời sự êm ấm và hạnh phúc gia đình. Sự ủng hộ, cổ vũ của gia đình và xây
dựng được một gia đình hạnh phúc, hòa thuận sẽ là nền tảng vững chắc để nữ
công chức, viên chức vươn lên học tập nâng cao trình độ, đồng thời tạo lập
được uy tín đối với cơ quan, tổ chức. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả tạo nguồn
nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ, cần có chủ trương, chỉ tiêu cụ thể để
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý trong từng
giai đoạn; cùng với đó, xác định mục tiêu tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để bảo
đảm 100% nữ công chức, viên chức có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở
lên, 100% nữ công chức, viên chức trong diện quy hoạch các chức danh lãnh
đạo, quản lý đạt điều kiện, tiêu chuẩn của chức danh quy hoạch. Để thực hiện
điều này, Bộ cần xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng đối với nữ công chức, viên chức đến năm 2020 bảo đảm phù hợp với
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, trong đó xác định và thực hiện các
nhiệm vụ sau đây một cách thường xuyên, chủ động, liên tục, đó là: Gắn quy
hoạch với đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng, định kỳ tiến hành kiểm tra tình
hình thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bảo đảm nguồn kinh phí dành
cho đào tạo, bồi dưỡng đối với nữ công chức, viên chức và nữ công chức lãnh
đạo, quản lý ở Bộ; có chế độ, chính sách hợp lý, phù hợp với đặc điểm tình
hình của Bộ để hỗ trợ nữ công chức, viên chức, nữ trong diện quy hoạch, nữ
công chức lãnh đạo, quản lý đang nuôi con nhỏ tham gia đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ.
Như vậy, trước hết các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ cần tạo
mọi điều kiện thuận lợi để cán bộ nữ tham gia học tập nâng cao trình độ và
103
năng lực công tác; ưu tiên, tạo điều kiện cử nữ công chức giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý, nữ trong diện quy hoạch được đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu,
tiêu chuẩn của chức danh, vị trí và chức vụ lãnh đạo, quản lý; được lựa chọn
hình thức học, thời gian học phù hợp với điều kiện cụ thể của bản thân và phù
hợp với yêu cầu của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, chương trình, nội dung đào tạo
theo quy định. Việc đào tạo, bồi dưỡng đối với nữ công chức, viên chức cần
thực hiện trước và sau công tác quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý tại
Bộ. Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trước quy hoạch để chủ động về nhân sự
đưa vào quy hoạch; đào tạo, bồi dưỡng sau quy hoạch để bảo đảm nữ công
chức, viên chức trong quy hoạch có đủ điều kiện, tiêu chuẩn của từng chức
danh, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát huy thế mạnh, ưu điểm của
nữ công chức, viên chức.
Bên cạnh đó, để phù hợp với tính chất đặc thù về lĩnh vực quản lý nhà
nước của Bộ Nội vụ, cần nghiên cứu để xây dựng chương trình đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của ngành Nội vụ và tài liệu đào tạo, bồi
dưỡng dành cho công chức lãnh đạo, quản lý của ngành, nhất là trong những
lĩnh vực đặc thù như: Chính quyền địa phương, tổ chức – biên chế, công chức
– viên chức, tiền lương, tôn giáo; nghiên cứu để xây dựng chương trình
riêng để đào tạo, bồi dưỡng cho từng chức danh lãnh đạo, quản lý theo vị trí
việc làm, cho nữ lãnh đạo, quản lý của Bộ để tạo điều kiện tốt nhất phát huy
năng lực, vai trò của nguồn nữ khi thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý.
Bộ và các cơ quan, đơn vị trực thuộc có thẩm quyền quản lý công chức,
viên chức có trách nhiệm xây dựng và công khai quy hoạch, kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ cho công chức, viên chức nữ theo thẩm quyền quản lý; đảm bảo tỷ lệ công
chức, viên chức nữ được cử tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về
quản lý nhà nước, lý luận chính trị, nghiệp vụ chuyên ngành, ngoại ngữ, tin
104
học và các chương trình đào tạo, bồi dưỡng khác theo quy định của Nghị
quyết 11-NQ/TW phải đạt tối thiểu từ 30% trở lên trong tổng số công chức,
viên chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng. Đơn vị có nữ trong diện quy hoạch
đi học tập, bồi dưỡng cần tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để công chức đó
yên tâm học tập, đạt kết quả cao và có thể phấn đấu học tập đạt trình độ cao
hơn nữa
Mặt khác, cơ quan có thẩm quyền cần tạo mọi điều kiện để khuyến
khích, động viên nữ công chức, viên chức của Bộ không ngừng nỗ lực, phấn
đấu học tập, bồi dưỡng, tự rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ và trưởng thành; tích cực rèn luyện trong thực tiễn công tác để tích lũy
kinh nghiệm để tham gia hiệu quả vào hoạt động quản lý nhà nước. Cần có cơ
chế hỗ trợ kinh phí cho nữ công chức, viên chức của Bộ, nhất là nữ trong diện
quy hoạch khi tham gia học tập lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước
chuyên môn, nghiệp vụ.
Cần nghiên cứu, xây dựng chính sách riêng của Bộ hỗ trợ đối với công
chức, viên chức nữ khi đi đào tạo, bồi dưỡng trong nước đang nuôi con dưới
36 tháng tuổi phù hợp với tình hình thực tế tại Bộ và theo quy định của pháp
luật; thực hiện giải pháp hỗ trợ như: Hỗ trợ tiền đi lại từ cơ quan đến nơi học
tập mỗi tháng một lượt đi và về; được hưởng phụ cấp lưu trú bằng chế độ
công tác phí trong trường hợp được cử đi đào tạo theo yêu cầu bắt buộc của
tiêu chuẩn ngạch công chức, chức vụ lãnh đạo, quản lý; được hỗ trợ tiền gửi
trẻ hàng tháng khi gửi con đi học hoặc đưa con đến cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
bằng mức lương tối thiểu trong thời gian đi đào tạo, bồi dưỡng
Đồng thời, nghiên cứu để sửa đổi Quyết định số 490/QĐ-BNV ngày 22
tháng 01 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Quy chế đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức, người lao động của Bộ Nội vụ theo hướng quy
định ưu tiên lựa chọn nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như
105
nam trong việc xét tuyển đi học các chương trình sau đại học, học các chương
trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ ở trong nước và ngoài nước.
- Trong bố trí, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển
Trong bố trí nguồn cán bộ nữ, trên cơ sở quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Bộ cần chủ động lên kế hoạch
sắp xếp, bố trí cán bộ nữ, đảm bảo đủ nguồn cán bộ nữ có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn, năng lực, trình độ để bổ sung, thay thế cho nhiệm kỳ tiếp theo, đặc biệt
đối với lĩnh vực, vị trí cần có cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ.
Cần thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc, thủ tục, quy trình bố trí cán
bộ; phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của tổ chức trong hệ thống chính trị,
từ chức năng, nhiệm vụ của từng chức danh lãnh đạo, quản lý để bố trí cán bộ
nữ cho phù hợp; đồng thời, phải dân chủ, khách quan, công tâm, công khai và
bảo đảm bình đẳng giới khi bố trí đối với cán bộ nữ.
Khi kiện toàn, sắp xếp, bố trí đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý tại
Bộ, cần bảo đảm các cơ quan, tổ chức, đơn vị có từ 30% nữ trở lên nhất thiết
phải có ít nhất 01 cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ ở tất cả các đơn vị. Việc bố
trí, phân công công tác cho nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý cần bảo
đảm không phân biệt đối xử giữa nam và nữ ở cùng vị trí việc làm.
Trong đề bạt, bổ nhiệm nữ công chức lãnh đạo, quản lý, cần thực hiện
nghiêm chỉnh nguyên tắc dân chủ, công khai và quyết định theo đa số, bảo
đảm tuyển chọn đúng người, đủ tổ chức theo yêu cầu của từng chức danh lãnh
đạo, quản lý. Quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm nữ công chức lãnh đạo, quản lý
phải chặt chẽ, đúng trình tự các bước trên cơ sở đánh giá chính xác mọi mặt.
Mạnh dạn bổ nhiệm những nữ công chức, viên chức đã được rèn luyện, thử
106
thách, được đào tạo và có đủ tổ chức vào các chức danh người đứng đầu cơ
quan, đơn vị.
Thực hiện thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp Vụ,
cấp Sở, cấp phòng theo Thông báo Kết luận số 202-TB/TW ngày 26 tháng 5
năm 2015 của Bộ Chính trị về Đề án "Thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh
đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng" có tính đến cơ cấu nữ công chức lãnh
đạo, quản lý để có những quy định, ưu tiên cho phù hợp, như: Hội đồng thi
tuyển phải có cơ cấu là nữ hoặc đại diện của Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ của
Bộ; quy định đối tượng thi tuyển là nữ ở những vị trí lãnh đạo, quản lý nhất
định; thứ tự xác định người trúng tuyển cần ưu tiên nữ khi nam và nữ có điểm
thi bằng nhau
Bên cạnh đó, cần xác định rõ căn cứ để lựa chọn, đề bạt nữ công chức
lãnh đạo, quản lý là quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ nữ lãnh đạo, quản
lý tại Bộ, trên cơ sở kết quả nhận xét hàng năm, trong đó có coi trọng những
nhân tố nữ tài năng trong đội ngũ nữ công chức, viên chức tại Bộ; đồng thời
những đối tượng đó đã bảo đảm được đầy đủ các tiêu chuẩn cơ bản của chức
danh lãnh đạo, quản lý của cơ quan. Khi bổ nhiệm đối với nguồn cán bộ nữ,
cần ưu tiên lựa chọn công chức nữ đã có trong quy hoạch của chức danh đó
để động viên, khích lệ nữ công chức, viên chức phấn đấu, cống hiến. Trường
hợp đặc biệt, Bộ có thể xem xét cất nhắc, bổ nhiệm vượt cấp đối với những
công chức, viên chức nữ đặc biệt xuất sắc.
Cho đến nay, mặc dù cơ chế, chính sách, quy trình về công tác cán bộ
đã được quy định rõ, tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện nội dung đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ nữ tại nhiều cơ quan Nhà nước, trong đó có Bộ Nội vụ, vẫn còn
nhiều hạn chế. Điều này đỏi hỏi trong quá trình thực hiện công tác bổ nhiệm,
bố trí đối với cán bộ nữ tại Bộ, cũng cần có có phương pháp nhất định phù
hợp với đặc điểm của cơ quan. Ngoài phương châm dân chủ, công khai, bình
107
đẳng, ngoài ý kiến của chuyên môn, cần phải có ý kiến của tổ chức đoàn thể
theo đúng quy trình, trong đó Công đoàn Bộ, Ban vì sự tiến bộ phụ nữ của Bộ
giữ vai trò quan trọng trong việc giới thiệu, cho ý kiến đối với việc bổ nhiệm
đối với nữ công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị theo quy định.
Tiếp tục mở rộng phạm vi triển khai chủ trương chỉ định bổ nhiệm nữ
tại các cơ quan, đơn vị; khi tiến hành quy trình đề bạt và bổ nhiệm công chức
lãnh đạo, quản lý trường hợp nam, nữ có đủ điều kiện tiêu chuẩn như nhau,
ưu tiên lựa chọn và bổ nhiệm nữ; trường hợp thi tuyển các chức danh lãnh
đạo, quản lý, ưu tiên lựa chọn nữ khi nam và nữ công chức, viên chức có kết
quả ngang bằng nhau. Trường hợp nữ công chức được cấp có thẩm quyền
quyết định quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý, đủ điều kiện, tiêu chuẩn
theo quy định của chức danh lãnh đạo, quản lý, nếu quá tuổi bổ nhiệm so với
quy định từ 12 tháng trở xuống tính đến thời điểm thực hiện quy trình bổ
nhiệm thì vẫn được xem xét bổ nhiệm giữ chức danh lãnh đạo, quản lý đã
được quy hoạch. Trên thực tế, phụ nữ nghỉ hưu trước nam giới 05 tuổi, nên độ
tuổi bổ nhiệm, quy hoạch cũng bị sớm hơn nam giới 05 năm. Ngoài ra, trong
các quy định hiện hành về công tác cán bộ của Đảng và quy định của pháp
luật cũng cho phép đối với một số trường hợp có thể xem xét bổ nhiệm nếu
quá tuổi, nhưng đảm bảo đủ thời gian từ 2/3 nhiệm kỳ trở lên. Trên thực tế,
trong thời gian vừa qua, một số nữ Thứ trưởng được cấp có thẩm quyền bổ
nhiệm khi đã quá tuổi theo quy định.
Cần quy định tỷ lệ nữ để bổ nhiệm giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý
tại Bộ căn cứ theo các quy định trong Nghị quyết và văn bản hướng dẫn của
Đảng, căn cứ vào các chỉ tiêu đề ra trong mục tiêu của Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, cam kết của Chính phủ Việt Nam trong
thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ, ý kiến chỉ đạo của Ban cán sự đảng
Chính phủ về công tác cán bộ nữ và phù hợp với tình hình thực tế.
108
Bộ cũng cần phải xác định những giải pháp cụ thể để thực hiện đạt kết
quả các chỉ tiêu của Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của
Bộ Chính trị nhằm đảm bảo chỉ tiêu nữ công chức, viên chức lãnh đạo, quản
lý, như quy định trách nhiệm cụ thể của người đứng đầu các đơn vị thuộc và
trực thuộc đối với việc đảm bảo chỉ tiêu nữ công chức lãnh đạo, quản lý của
đơn vị mình theo quy định, chủ trương chung của Bộ; có quy định khen
thưởng, phê bình rõ ràng, minh bạch.
Trong thời gian tới, cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung tiêu chuẩn về
bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý theo Quyết định số 1205/QĐ-BNV
ngày 19 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành Quy
chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm công chức,
viên chức lãnh đạo, quản lý và điều động, biệt phái công chức, viên chức làm
việc tại các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ bảo đảm mục tiêu bình
đẳng giới; trong đó nên nghiên cứu để sửa theo hướng không áp dụng tiêu
chuẩn bổ nhiệm “Thuộc đối tượng quy hoạch chức danh bổ nhiệm hoặc chức
danh tương đương với chức danh được bổ nhiệm đã được cấp có thẩm quyền
phê duyệt nói chung ít nhất 01 năm” đối với nữ.
Trong điều động, luân chuyển, phải xác định đây là một giải pháp rất
quan trọng để tạo nguồn và xây dựng đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý
ở Bộ Nội vụ có chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Do đó, trước hết cần quán triệt nhận thức, quan điểm để nữ công chức
lãnh đạo, quản lý, nữ trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý hiểu rõ
mục đích của công tác luân chuyển là nhằm tạo môi trường để nữ công chức
lãnh đạo, quản lý được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn cuộc sống để có
bước trưởng thành nhanh, toàn diện, đáp ứng yêu cầu công việc lâu dài, đáp
ứng yêu cầu sử dụng cán bộ theo kế hoạch; là quá trình tiếp tục đào tạo, bồi
dưỡng một cách toàn diện trong thực tiễn. Qua đó, có thể vận dụng lỹ luận đã
109
học vào giải quyết công việc hằng ngày và rèn luyện, học tập kinh nghiệm
công tác của những công chức lãnh đạo, quản lý đương chức.
Để việc luân chuyển đạt kết quả, cần thực hiện tốt chủ trương của
Đảng; có biện pháp tổ chức, thực hiện chính sách và công tác tư tưởng để nữ
công chức lãnh đạo, quản lý thông suốt và tự giác thực hiện; chuẩn bị kỹ kế
hoạch và lộ trình thực hiện từng bước, chuẩn bị tốt cả nơi công chức đi và
đến, đồng thời cần bảo đảm yếu tố giới trong việc lựa chọn lĩnh vực, địa bàn
luân chuyển bảo đảm phù hợp với đặc điểm về giới của nữ công chức lãnh
đạo, quản lý. Khi luân chuyển nữ lãnh đạo, quản lý cần quan tâm đến đặc
điểm của phụ nữ, ngoài việc đảm đương công việc của cán bộ cơ sở, họ còn
phải làm tròn chức năng sinh con và nuôi, dạy, con cái. Điều này cần được
xem xét cẩn thận khi quyết định địa bàn luân chuyển và tạo điều kiện thuận
lợi để nữ công chức lãnh đạo, quản lý hoàn thành nhiệm vụ; lưu ý ưu tiên luân
chuyển nữ công chức, lãnh đạo quản lý về công tác tại những lĩnh vực như tổ
chức cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức biên chế, tiền lương cho phù hợp
với năng lực, sở trường, kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý của cán bộ nữ khi ở
Bộ Nội vụ.
Theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng
3 năm 2010 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, việc bố
trí, phân công công tác cho công chức phải bảo đảm phù hợp giữa quyền hạn
và nhiệm vụ được giao với chức danh, chức vụ và ngạch công chức được bổ
nhiệm. Nghị định này cũng quy định công chức được bố trí công tác ở những
vị trí phải thực hiện định kỳ chuyển đổi vị trí công tác thực hiện theo quy định
của pháp luật. Như vậy, với đặc thù của Bộ Nội vụ là quản lý về công tác cán
bộ, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, có nhiều vị trí cần thực hiện
định kỳ chuyển đội vị trí công tác theo quy định của pháp luật. Điều này đòi
hỏi cần có quy hoạch, kế hoạch cụ thể để bố trí, luân chuyển đối với các vị trí
110
cần thực hiện chuyển đổi vị trí công tác.
Khi thực hiện điều động, luân chuyển đối với nguồn nữ công chức lãnh
đạo, quản lý, cần quan tâm, chú ý đặc điểm giới; thực hiện luân chuyển nữ
công chức trong diện quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý theo quy hoạch.
Thực hiện nội dung này nhằm đào tạo toàn diện nữ công chức lãnh đạo, quản
lý trong thực tiễn để tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung kiến thức, nhất là
rèn luyện năng lực tổ chức thực tiễn, xử lý tình huống của nữ công chức lãnh
đạo, quản lý; chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để bố trí cán bộ đó vào
cương vị chủ chốt. Bởi vậy, cần luân chuyển nữ công chức theo đúng quy
hoạch, tạo điều kiện thuận lợi cả ở nơi đi và nơi được luân chuyển đến để nữ
công chức lãnh đạo, quản lý hoàn thành nhiệm vụ và trưởng thành.
Sau luân chuyển, cần quán triệt thực hiện thống nhất nguyên tắc: Đối
với các đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ có nữ công chức lãnh đạo, quản lý luân
chuyển thì phải được thay thế bằng nữ lãnh đạo, quản lý khác; một nữ công
chức lãnh đạo, quản lý nghỉ việc phải giới thiệu được từ hai đến ba nữ công
chức, viên chức đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm hoặc trong diện quy
hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý tương đương; không thực hiện luân
chuyển đối với nữ công chức lãnh đạo, quản lý đang nuôi con nhỏ dưới 36
tháng tuổi. Có biện pháp chính sách hỗ trợ, giảm bớt khó khăn cho nữ công
chức, viên chức khi thực hiện công tác luân chuyển, vừa bảo đảm yêu cầu
công tác, vừa thực hiện tốt thiên chức làm mẹ, làm vợ.
3.2.2.6. Có biện pháp, chính sách phát huy, thúc đẩy tinh thần tự học
tập, rèn luyện của nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Để tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý đạt kết quả và có chất
lượng tốt, ngoài việc thực hiện các giải pháp nêu trên, từng nữ công chức,
viên chức cần tự học tập, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt, năng lực công
tác, phẩm chất đạo đức. Trong nhiều trường hợp, điều này trở thành nhân tố
111
quyết định sự phát triển, trưởng thành của từng nữ công chức, viên chức và
của cả đội ngũ cán bộ nữ. Để phát huy tinh thần tự học tập, rèn luyện của nữ
công chức, viên chức, nữ công chức, viên chức trong diện quy hoạch và nữ
công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ, cần thực hiện tốt những nội dung sau đây:
Một là, từng nữ công chức, viên chức tích cực, chủ động học tập nâng
cao trình độ lý luận chính trị và trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ. Cần
tích cực, chủ động nghiên cứu các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các
cấp ủy cấp trên, các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp tới công việc, lĩnh
vực công tác của bản thân. Coi trọng học tập, nâng cao sử dụng các phương
tiện hiện đại phục vụ việc tiếp nhận, cập nhật thông tin, các văn bản của
Đảng, các văn bản pháp luật. Cùng với việc tự học tập nâng cao trình độ lý
luận chính trị, từng nữ công chức, viên chức cần tích cực học tập nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn
Hai là, cơ quan, đơn vị quản lý và sử dụng nữ công chức, viên chức cần
quan tâm xây dựng và thực hiện các chính sách khuyến khích, động viên phù
hợp để nữ công chức, viên chức, nhất là nữ công chức trong diện quy hoạch
phát huy tinh thần tự giác, tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn,
năng lực công tác, nhằm tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý bảo đảm
chất lượng theo yêu cầu nhiệm vụ. Để làm được điều này, cần coi trọng và
thực hiện tốt hơn nữa chính sách cán bộ đối với nữ công chức lãnh đạo, quản
lý đương chức và nữ công chức, viên chức trong diện quy hoạch các chức
danh lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, đơn vị, gồm: Chính sách đào tạo, bồi
dưỡng; chính sách sử dụng và quản lý cán bộ; chính sách bảo đảm lợi ích vật
chất và động viên tinh thần đối với những nữ công chức lãnh đạo, quản lý
đương chức và nữ công chức, viên chức trong diện quy hoạch. Thời gian tới,
có thể nghiên cứu để quy định cụ thể những chính sách nêu trên tại một văn
bản riêng về tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ Nội vụ.
112
KẾT LUẬN
Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ, bên cạnh việc thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tổ chức hành chính, sự nghiệp nhà nước; chính
quyền địa phương, địa giới hành chính, Bộ Nội vụ còn thực hiện quản lý nhà
nước đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và có chức năng,
nhiệm vụ nhất định trong công tác cán bộ nữ theo quy định của Chính phủ.
Do đó, việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý vừa là một nhiệm vụ
trong quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo thẩm quyền,
vừa là chức năng trong công tác quản lý nhà nước của Bộ. Thực hiện tạo
nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay có ý nghĩa to lớn
đối với sự phát triển của Bộ Nội vụ nói chung và tăng cường đội ngũ lãnh
đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ nói riêng trong tiến trình thực hiện mục tiêu tăng
cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ
quan Nhà nước theo chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại các cơ quan nhà nước là
một nhiệm vụ trong công tác cán bộ tại cơ quan, đơn vị, trong đó có Bộ Nội
vụ; là quá trình gồm hệ thống các công việc từ xây dựng tiêu chuẩn, cơ cấu
nguồn, đến phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển,
bố trí và sử dụng nguồn nhằm tạo ra nguồn nữ đủ điều kiện, tiêu chuẩn để đề
bạt, bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo, quản lý; đồng thời bảo đảm phát huy năng
lực, sở trường, phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới theo chủ trương của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
gồm các nội dung chủ yếu: Cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh
đạo, quản lý; xác định tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý và và tỷ lệ
113
nữ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý; quy hoạch nguồn nữ công
chức lãnh đạo, quản lý; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nữ công chức lãnh đạo,
quản lý; luân chuyển, điều động nguồn nữ; bố trí và thực hiện chính sách đối
với nguồn nữ; việc tự học, tự rèn luyện của nguồn nữ công chức lãnh đạo,
quản lý.
Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ thời gian qua
đã có nhiều tiến bộ, ưu điểm: Bộ đã quan tâm chỉ đạo quyết liệt và thường
xuyên quán triệt thực hiện công tác cán bộ nữ; đã xây dựng tiêu chuẩn chức
danh lãnh đạo, quản lý của Bộ Nội vụ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở định hướng cho việc tạo nguồn; việc xác định
cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện;
công tác quy hoạch nữ công chức lãnh đạo, quản lý cấp Bộ, cấp Vụ được
quan tâm chỉ đạo thực hiện theo quy định; đã quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đối
với nữ công chức, viên chức để bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm
theo quy định; bước đầu thực hiện chủ trương ưu tiên đối với nữ công chức
trong bổ nhiệm, điều động, luân chuyển và bố trí.
Tuy nhiên, tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện
nay cũng có không ít hạn chế. Đó là: Chưa có quy định của Bộ để cụ thể hóa
tiêu chuẩn công chức lãnh đạo, quản lý đối với từng chức danh theo vị trí việc
làm; chưa xác định tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý làm cơ sở cho
công tác tạo nguồn; công tác quy hoạch nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản
lý còn nhiều hạn chế, chưa đặt trong chiến lược tạo nguồn lâu dài và chưa có
quy hoạch riêng dành cho cán bộ nữ; đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, bổ nhiệm,
điều động, luân chuyển đối với nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý còn
nhiều hạn chế.
114
Để làm tốt việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ
hiện nay cần thực hiện nhiều giải pháp trước mắt và lâu dài. Giải pháp trước
mắt là: Thực hiện tổng rà soát tình hình đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản
lý và nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý; cần có một Nghị quyết riêng của
Ban cán sự đảng Bộ về công tác cán bộ nữ và tạo nguồn cán bộ nữ của Bộ;
khẩn trương rà soát toàn bộ các quy định của Bộ có liên quan đến việc tạo
nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ; phân công bộ phận thường
trực hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện công tác cán bộ nữ và
tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ
Giải pháp lâu dài, thực hiện thường xuyên, bao gồm: Nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị và của cán
bộ, công chức, viên chức về tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý trong
công tác cán bộ; hoàn thiện thể chế, chính sách về tạo nguồn cán bộ nữ; Cụ
thể hóa tiêu chuẩn công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ; xác định và thực
hiện tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý trong quy hoạch, bổ nhiệm
ở Bộ Nội vụ; tổ chức thực hiện tốt các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
bố trí, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển đối với cán bộ nữ; thực hiện tốt
chính sách đối với nữ trong quy hoạch và nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Các giải pháp nêu trên được đưa ra nhằm tập trung xử lý tồn tại, hạn
chế trong tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ, tiến tới đề
xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật hiện hành về công tác cán bộ nữ để đạt
được mục tiêu bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và tăng cường phụ nữ
tham chính ở Việt Nam nói chung, ở Bộ Nội vụ nói riêng trong giai đoạn hiện
nay.
115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Vân Anh (2009), Kết quả nghiên cứu định tính về nữ lãnh đạo
khu vực Nhà nước ở Việt Nam, Hà Nội.
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1994), Chỉ thị số 37-CT/TW ngày
16/05/1994 về công tác cán bộ nữ.
3. Ban Tổ chức Trung ương Đảng (2012), Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW
ngày 05/11/2012 về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tinh
thần Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa
IX) và kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 của Bộ Chính trị (khóa XI).
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (xuất bản) (1989), Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1982), Báo cáo về xây dựng Đảng, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị (1999), Quyết định số 51-QĐ/TW ngày 03/5/1999 ban hành
Quy chế bổ nhiệm cán bộ.
7. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 về Công
tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
8. Bộ Chính trị (2012), Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 về đẩy mạnh
công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm
2020 và những năm tiếp theo.
9. Bộ Nội vụ (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Hà Nội.
10. Bộ Nội vụ (2012), Đề án nâng cao năng lực CB, CC nữ, Lưu hành nội bộ.
11. Bộ Nội vụ (2012), Quyết định số 1204/QĐ-BNV ngày 19/11/2012 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành Quy định tiêu chuẩn chức danh lãnh
116
đạo, quản lý của Bộ Nội vụ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
12. Bộ Nội vụ (2014), Báo cáo tổng kết năm 2014 về kết quả triển khai công
tác vì sự tiến bộ của phụ nữ, Lưu hành nội bộ.
13. Bộ Nội vụ (2014), Báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về
bình đẳng giới, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-
2020, Lưu hành nội bộ.
14. Bộ Nội vụ (2015), Báo cáo về quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, hỗ trợ nữ
cán bộ, công chức đi tham gia đào tạo và thực hiện mục tiêu 1 của Chiến
lược quốc gia về Bình đẳng giới, Lưu hành nội bộ.
15. Bộ Nội vụ (2016), Báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu quốc gia về bình
đẳng giới năm 2016, Lưu hành nội bộ.
16. Bộ Nội vụ (2015), Báo cáo tổng kết công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ, Lưu
hành nội bộ.
17. Bộ Nội vụ (2016), Báo cáo sơ kết tình hình thực hiện Chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020, Lưu hành nội bộ.
18. Bộ Nội vụ (2017), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-
NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị (Khóa X) về công tác phụ nữ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Lưu hành nội bộ.
19. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 01/12/2009 ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực
hiện Nghị quyết số 11- NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27/4/2007 về công
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
20. Chính phủ (2010), Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy
định những người là công chức.
21. Chính phủ (2010), Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của
Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức.
117
22. Chính phủ (2010), Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của
Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.
23. Chính phủ (2017), Nghị định số 34/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ.
24. Phạm Thị Hải Chuyền , 2014, Tọa đàm ‘Chia sẻ kinh nghiệm quản lý, lãnh
đạo và kết nối mạng lưới lãnh đạo nữ ngành LĐ-TBXH”, Trang tin điện tử
Vụ Bình đẳng giới, Bộ LĐ-TB và XH, truy cập ngày 5/5/2015 tại địa chỉ
25. Dự án “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo”
(2012), Nghiên cứu Giới trong một số văn bản về công tác cán bộ, Trường
Cán bộ phụ nữ Trung ương, Hà Nội.
26. Đỗ Xuân Định (1998), Vấn đề tạo nguồn trong quy hoạch cán bộ, Kỷ yếu
hội thảo khoa học Một số vấn đề về công tác quy hoạch cán bộ, Chương
trình khoa học cấp Nhà nước KHXH.05, Hà Nội.
27. Học viện Chính trị - Hành chính khu vực 1 (2011), Tập bài giảng Khoa
học quản lý, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
28. Học viện Chính trị - Hành chính khu vực 1 (2012), Tâm lý học quản lý,
Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội.
29. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2014), Báo cáo tình hình đội ngũ cán bộ
nữ lãnh đạo, quản lý các cấp và công tác tham mưu của Hội LHPN Việt
Nam, Lưu hành nội bộ.
30. Hoàng Thu Hà (2015), Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác cán bộ
nữ, Trang tin Điện tử Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ, truy cập ngày
6/5/2015 tại địa chỉ
31. Nguyễn Thị Thu Hà (2011), Thành phố Hồ Chí Minh với việc thực hiện
chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm cán bộ nữ, Tọa đàm
trực tuyến “Chính sách cán bộ nữ và chính sách lao động nữ nhằm phát
118
huy vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”.
32. Trần Lưu Hải (2015), “Một số vấn đề về công tác quy hoạch, luân chuyển
cán bộ - thành tựu, hạn chế và phương hướng, giải pháp khắc phục”, Tạp
chí Cộng sản điện tử, truy cập ngày 4/5/2015 tại đại chỉ
33. Nguyễn Đức Hạt (2016), Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong
hệ thống chính trị, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2014, 2015), Vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam góp phần tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị,
Tọa đàm chuyên gia về đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tỷ lệ nữ đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND; Tình hình cán bộ nữ tham gia các cấp ủy
Đảng và kiến nghị, Hội thảo “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong
lĩnh vực chính trị”.
35. Lê Ngọc Hùng (2011), Đánh giá về thực hiện Bình đẳng giới và chính sách
cán bộ nữ dựa trên bằng chứng thực tế, Tọa đàm trực tuyến “Chính sách
cán bộ nữ và chính sách lao động nữ nhằm phát huy vai trò của phụ nữ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
36. Trần Thị Hương (2011), Một số giải pháp Quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng,
bổ nhiệm, luân chuyển đối với cán bộ nữ, Tọa đàm trực tuyến “Chính sách
cán bộ nữ và chính sách lao động nữ nhằm phát huy vai trò của phụ nữ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
37. Nguyễn Thị Quỳnh Hương (2015), Tăng cường sự tham gia của phụ nữ
vào các vị trí quản lý trong cơ quan nhà nước tại Thái Nguyên, Hà Nội.
38. Đào Hồng Lan (2015), Tình hình cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong các cơ quan hành pháp và kiến nghị, Hội thảo “Tăng cường sự tham
gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị”.
119
39. Vũ Mạnh Lợi (2006), Phụ nữ làm quản lý và lãnh đạo trong khu vực công
ở Việt Nam, Trang tin điện tử của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, truy
cập tại www.hoilhpn.org.vn.
40. Trương Thị Mai (2015), Tình hình tham gia của phụ nữ trong các cơ quan
dân cử, Hội thảo “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực
chính trị”.
41. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI, XII.
42. Nguyễn Thị Kim Oanh (2011), Một số đề xuất về công tác cán bộ nữ và
thực hiện các chính sách đối với lao động nữ, Tọa đàm trực tuyến “Chính
sách cán bộ nữ và chính sách lao động nữ nhằm phát huy vai trò của phụ
nữ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”.
43. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2011), Cơ sở lý luận thực tiễn
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Hà Nội.
44. Quốc hội (2006), Luật Bình đẳng giới.
45. Quốc hội (2008), Luật cán bộ, công chức.
46. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
47. Ngô Thị Doãn Thanh (2011), Thành ủy Hà Nội với việc thực hiện Các chính
sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm và luân chuyển đối với cán bộ
nữ, Tọa đàm trực tuyến “Chính sách cán bộ nữ và chính sách lao động nữ
nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”.
48. Bùi Ngọc Thanh (2011), Một số đề xuất về công tác nữ và thực hiện chính
sách đối với nữ lao động thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Tọa đàm trực tuyến “Chính sách cán bộ nữ và chính sách lao
động nữ nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
120
49. Đỗ Thị Thạch (2013), Về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
nữ trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
50. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 27/2003/QĐ-TTg ngày
19/2/2003 về việc ban hành Quy chế Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển,
từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.
51. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 2351/QĐ - TTg ngày
24/12/2010 phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2011-2020.
52. Đỗ Minh Cương (1996), Các học thuyết quản lý, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
53. Đặng Ánh Tuyết, Lê Thị Bích Tuyền, 2011, bài viết trích trong Đề tài “Lý
thuyết thiết chế giới và phụ nữ trong lãnh đạo chính trị: Trường hợp của
Việt Nam”, Trang tin điện tử Tổng cục Dân số Kế hoạch hóa gia đình, truy
cập ngày 6/2/2015 tại địa chỉ
54. Trần Trung Trực (2015), Một số giải pháp nâng cao chất lượng quy
hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, Hội thảo “Tăng cường sự tham gia của phụ
nữ trong lĩnh vực chính trị”.
55. Văn kiện Hội nghị Trung ương 6 (Khóa IV).
56. Viện Khoa học tổ chức nhà nước - Bộ Nội vụ (2012), Pháp luật về công
vụ, công chức của Việt Nam và một số nước trên thế giới, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
57. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa – Thông
tin, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_tao_nguon_nu_cong_chuc_lanh_dao_quan_ly_o_bo_noi_vu.pdf