Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được đầu tư
vào nhiều lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nhưhoá dầu, dệt may, thuỷ
sản v.v. Trong đó, thực hiện chủtrương của Đảng và Nhà nước, Ngân
hàng chú trọng đầu tư vào các ngành sản xuất, chế biến kinh doanh hàng
xuất khẩu, thay thếnhập khẩu. Đặc biệt Ngân hàng luôn khuyến khích
những dựán có hiệu quảkinh tếcao, sử dụng công nghệ kỹ thuật tiên
tiến, góp phần thực hiện mục tiêu Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất
nước.
109 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4224 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hải phát huy được vai trò tham mưu có hiệu
quả cho lãnh đạo từ cơ sở đến TW trong việc quyết định các khoản cho
vay.
e. Công tác thẩm định dự án đầu tư phải được xây dựng theo hướng
đặc thù phù hợp với hoạt động cho vay của ngân hàng, phải được duy trì
và phát triển thành một thế mạnh trong kinh doanh và cạnh tranh. Do đó,
phải thường xuyên tổng kết thực tiễn rút ra những kinh nghiệm để hoàn
thiện và phát triển.
f. Công tác thẩm định đòi hỏi tính chủ động, năng lực sáng tạo, khả năng
tổng hợp phân tích và tổng hợp thực tiễn.
II. Những hạn chế trong giải pháp hiện hành
Thời gian qua tuy đã có nhiều cố gắng nhưng công tác thẩm định dự án
tín dụng đầu tư của Ngân hàng Ngoại thương vẫn còn nhiều vướng mắc:
hiệu quả thẩm định chưa cao, nhiều dự án doanh nghiệp không có khả
năng trả nợ, thậm chí nhiều doanh nghiệp đã lập nên dự án “ảo” để lừa
ngân hàng. Để khắc phục những hạn chế này, Ngân hàng đã đưa ra nhiều
biện pháp. Bước đầu những biện pháp này đã phát huy tác dụng, chất
lượng công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư đã được nâng cao một
bước, quy trình thẩm định cũng được thực hiện một cách nghiêm túc, việc
xét duyệt cho vay được tính toán và cân nhắc cẩn thận, trách nhiệm của
cán bộ thẩm định được nâng cao. Tuy nhiên các giải pháp hiện hành vẫn
còn nhiều hạn chế nhất định. Cụ thể:
Quy trình thẩm định dự án tín dụng đầu tư đã được xây dựng
một cách khoa học, nhưng khả năng áp dụng vào thực tế không khả thi
và hầu như chưa thực hiện được vì:
- Việc thu thập thông tin, số liệu cho quá trình thẩm định rất
khó khăn, nguồn thông tin chủ yếu do doanh nghiệp cấp, số liệu chưa qua
kiểm toán, các chỉ tiêu theo quy trình thẩm định thì cũng chỉ là những chỉ
tiêu tính toán và hoàn toàn không có tác dụng gì trong việc thẩm định dự
án và ra quyết định đầu tư.
- Việc thẩm định theo quy trình đòi hỏi cán bộ thẩm định phải
có kiến thức tổng hợp, không chỉ am hiểu sâu rộng nghiệp vụ Ngân hàng
mà còn phải hiểu rõ về hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án mà Ngân
hàng đầu tư và các yếu tố pháp lý của dự án. Tuy nhiên hoạt động tín
dụng đầu tư theo dự án của Ngân hàng Ngoại thương bao gồm rất nhiều
ngành nghề, lĩnh vực khác nhau mà chủ yếu là đầu tư cho việc mua sắm
thiết bị công nghệ hiện đại nhập từ nước ngoài. Vì vậy cán bộ thẩm định
khó có thể hiểu biết hết mọi lĩnh vực, trong khi đó những tổ chức tư vấn
về các lĩnh vực kỹ thuật ở nước ta hầu như không có.
Ngân hàng Ngoại thương chỉ đòi hỏi cán bộ thẩm định nâng cao
trách nhiệm trong công việc mà chưa đưa ra những đãi ngộ, khuyến khích
thích đáng. Đặc biệt cũng không có ưu đaĩ gì cho nhân viên khi đi thẩm
định ở các đơn vị vay vốn. Điều này khiến cán bộ thẩm định chưa gắn
liền trách nhiệm với công việc.
III. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thẩm định dự án
tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
1. Xây dựng hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng.
Thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng, nó
không những ảnh hưởng đến hiệu quả thẩm định mà còn là công cụ cạnh
tranh hữu hiệu với các ngân hàng khác. Thông tin tác động đến chất
lượng thẩm định trên cả 2 mặt lượng và chất. Nếu lượng thông tin cho
thẩm định không đủ thì kết luận rút ra không phản ánh được đầy đủ biến
động các mặt, còn nếu chất thông tin không cao thì các kết luận rút ra sẽ
không chính xác. Thông tin được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau: từ
các nguồn sẵn có ở ngân hàng (hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức
tín dụng, phân tích của cán bộ tín dụng...), từ phía khách hàng (qua phỏng
vấn, theo chế độ báo cáo định kỳ), và từ các nguồn thông tin khác như
Trung tâm CIC của Ngân hàng Nhà nước, báo chí, toà án.
Để đảm bảo cho hệ thống thông tin của Ngân hàng Ngoại thương hoạt
động hiệu quả, phục vụ tốt nhất cho hoạt động thẩm định, theo tôi cần
thực hiện một số biện pháp sau
- Với các báo cáo tài chính, Ngân hàng phải yêu cầu doanh
nghiệp cung cấp số liệu của ít nhất 3 năm gần đây. Hiện nay, các doanh
nghiệp chỉ bị yêu cầu cung cấp trong 2 năm, nhưng về mặt ý nghĩa thống
kê, số liệu trong 2 năm không thể nói lên xu thế phát triển.
- Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các chủ đầu tư.
Yêu cầu các chủ đầu tư khi nộp báo cáo tài chính và bản cân đối kế toán
phải có xác nhận của một cơ quan kiểm toán có uy tín. Nếu chủ đầu tư
không có chữ ký xác nhận thì Ngân hàng sẽ thuê kiểm toán với chi phí do
chủ đầu tư chịu.
- Ngân hàng Nhà nước nên kết hợp với các tổ chức quốc tế để lập
ra một công ty chuyên đánh giá và xếp hạng các doanh nghiệp. Mặc dù để
thực hiện được điều này Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, không chỉ về
mặt kinh phí để thực hiện mà còn về mặt kỹ thuật. Nhưng đây sẽ là một
bước tiến rất lớn trong ngành ngân hàng, nó sẽ trợ giúp rất nhiều khi thẩm
định tình hình tài chính doanh nghiệp, giảm thiểu được rủi ro khi cho vay.
- Tăng cường hệ thống thông tin nội bộ: Để xây dựng được một
hệ thống thông tin có hiệu quả, Ngân hàng cần ban hành một quy chế
thông tin định kỳ cho các trung tâm, bộ phận thông tin ở các chi nhánh
cũng như Trung ương. Những thông tin cần thiết liên quan đến dự án phải
được cung cấp nhanh chóng, đầy đủ và thông suốt trong toàn hệ thống.
Các chi nhánh sẽ thu thập và lưu trữ thông tin cụ thể về tình hình ở khu
vực, địa bàn hoạt động của mình. Hàng tuần, chi nhánh sẽ gửi các báo
cáo thông tin thu thập được về phòng Dự án và phòng Thẩm định ở Trung
ương để lưu trữ và tổng hợp trên phạm vi toàn quốc. Việc trao đổi thông
tin giữa các phòng và chi nhánh được thực hiện qua hệ thống máy tính
nội bộ. Một mặt, thông tin được phân loại và tổng hợp theo ngành, lĩnh
vực, khu vực khác nhau. Mặc khác, thông tin cũng được tổng hợp theo
hướng bao gồm ba nội dung chủ yếu:
Thông tin về kinh tế xã hội nói chung: các thông tin về chủ
trương, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước về tình hình đầu tư
trực tiếp nước ngoài hay đầu tư trong nước cho các ngành công nghiệp,
năng lượng, điện lực. . .tình hình xuất nhập khẩu, thuế suất. . .
Thông tin về tài chính ngân hàng: các Nghị định của Chính phủ,
thông tư, quyết định, quy chế của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước,
các thông tư liên bộ.
Thông tin về thị trường giá cả: bao gồm cả nguyên liệu sản
xuất, máy móc thiết bị và hàng tiêu dùng.
Để thực hiện được điều này, Ngân hàng phải xây dựng được một phần
mềm máy tính chyên dụng. Hiện nay, phần mềm “ Crystal ball” đựợc các
ngân hàng trên thế giới sử dụng rộng rãi do nó có nhiều tính năng ưu việt
so với các phần mềm khác, khả năng phân tích và dự báo rủi ro tương đối
chính xác. Ngân hàng Ngoại thương nên xem xét để đưa vào ứng dụng.
- Ngoài những nguồn thông tin nói trên, khi thẩm định tình hình
tài chính của chủ đầu tư, Ngân hàng nên sử dụng cả báo cáo thường niên
của công ty. Trên thực tế, báo cáo thường niên của công ty là nguồn
thông tin quan trọng nhất để đánh giá mức độ tin cậy của doanh nghiệp.
Báo cáo thường niên được đưa ra vào cuối năm tài chính của doanh
nghiệp, nó bao gồm cả các số liệu của năm hiện hành cũng như các năm
truớc để so sánh. Thông thường, năm tài chính kết thúc vào ngày 31
tháng 12, và báo cáo thường niên được phát hành vào khoảng tháng 4.
Nếu doanh nghiệp chậm trễ cung cấp báo cáo thường niên, rất có thể là
họ đang gặp khó khăn về tài chính.
Thông thường, báo cáo thường niên sẽ cung cấp thêm những thông tin về
các khoản mục tài chính. Chủ tịch công ty sẽ có một bài phát biểu ngắn
ngay đầu báo cáo về hoạt động, chiến lược của công ty và những thành
công hay thất bại khi giải quyết những vấn đề phát sinh trong năm. Nó
cũng nói lên những thay đổi trong quản lý của công ty. Bên cạnh đó, tuỳ
vào qui mô công ty, báo cáo thường niên còn có thể tóm tắt hoạt động của
công ty theo sản phẩm hoặc hoặc lĩnh vực hoạt động. Những chủ đề như
phát triển sản phẩm, nghiên cứu và phát triển, mở rộng mạng lưới phân
phối, xâm nhập thị trường... cũng đựoc nêu lên trong các phần này, điều
này sẽ giúp ngân hàng đánh giá đựoc doanh nghiệp trong mối tương quan
với những đối thủ cạnh tranh khác. Ngân hàng cũng nên yêu cầu các công
ty khi nộp báo cáo thường niên phải có chứng nhận của kiểm toán để
chứng thực độ tin cậy của các số liệu.
Bên cạnh báo cáo thường niên, Ngân hàng cũng cần phân tích một số loại
báo cáo tài chính sau:
+ Báo cáo tài chính nội bộ: được phát hành theo quí hay
tháng. Báo cáo này sẽ cung cấp cho ngân hàng những thông tin mới nhất
về tình hình doanh nghiệp.
+ Báo cáo tài chính tổng hợp: Thường đựoc đưa vào trong báo
cáo thường niên. Báo cáo này sẽ cho thấy bức tranh tổng thể về toàn bộ
doanh nghiệp, nó cũng có thể chỉ ra những số liệu của từng bộ phận. Với
báo cáo tài chính tổng hợp, các giao dịch của công ty như các khoản đầu
tư, doanh thu, chi phí và phân chia thu nhập sẽ được phơi bày rõ ràng.
- Ngoài những thông tin thu thập được từ nội bộ Ngân hàng và
Trung tâm CIC của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngoại thương nên
tích cực mở rộng phạm vi thu thập thông tin từ các nguồn khác như:
Từ phía các ngân hàng, các tổ chức tín dụng mà doanh
nghiệp đã và đang có quan hệ để xem xét lịch sử trả nợ, lượng vốn đã vay
nhằm kiểm định lại vị trí, uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng.
Đặc biệt ngân hàng có thể khai thác thông tin từ cơ quan thuế- đây là cơ
quan Nhà nước trực tiếp theo dõi tình hình tài chính của doanh nghiệp,
thông tin từ nguồn này tương đối chính xác và cập nhật.
Từ các bộ, ngành có liên quan như Bộ Thương mại, Tài
Chính, Kế Hoạch và Đầu Tư, Thống Kê...để thường xuyên cập nhật
những quy định của Nhà nước có liên quan đến dự án đầu tư như: định
hướng của Nhà nước đối với việc xuất- nhập khẩu những hàng hoá, vật
phẩm là đối tượng của dự án hay là đầu vào của dự án, quy định về quy
hoạch, kiến trúc, chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp,
chế độ khấu hao tài sản, chế độ ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đầu tư.
Thông qua các cơ quan chuyên cung cấp thông tin kinh tế,
thông qua báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng Internet... để thu thập
các thông tin có liên quan đến dự án như số các doanh nghiệp trong
nghành, cung- cầu của sản phẩm trên thị trường, đặc biệt ngân hàng nên
hợp tác những tổ chức kinh tế- xã hội nước ngoài như hiệp hội các quốc
gia dầu mỏ(APEC), hiệp hội cà phê... để có được những thông tin cập
nhật về xu hướng giá cả và tình hình biến động cung cầu trên thị trường
thế giới
- Để phát huy hiệu quả của công tác thu thập thông tin, đòi hỏi sự
phối hợp của nhiều bên. Trong đó, vai trò của Ngân hàng Nhà nước là
không thể thiếu được. Về phía mình, Ngân hàng Nhà nước cần phải:
Chỉ đạo các đơn vị CIC tại các chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước, phối hợp các tổ chức tín dụng thực hiện tốt công tác thông tin tín
dụng trong hệ thống ngân hàng.
Khẩn trương hướng dẫn các trung tâm, bộ phận thông tin của
các ngân hàng thương mại trong công tác thu thập thông tin theo chế độ
báo cáo mới phù hợp với chế độ kế toán hiện hành. Sớm chỉnh sửa
chương trình, hệ thống mẫu biểu để đảm bảo tính đồng bộ trong công tác
truyền tin giữa trung ương và địa phương.
Liên hệ với các tổ chức thông tin quốc tế, các ngân hàng nước
ngoài để sớm khai thác, thu thập nguồn thông tin về các đối tác nước
ngoài có ý định làm ăn với Việt Nam để kịp thời ngăn ngừa rủi ro khi
quan hệ làm ăn với nước ngoài. Hiện nay nguồn thông tin này vẫn còn rất
hạn hẹp nên khi xem xét nguồn cung cấp thiết bị cho dự án, ngân hàng
thương mại gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn thông tin chính xác.
Sửa đổi bổ sung quy chế tổ chức hoạt động của trung tâm
thông tin tín dụng theo hướng bắt buộc 100% các tổ chức tín dụng phải
tham gia tổ chức thông tin để có đủ các thông tin về các khách hàng và
các tổ chức tín dụng tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại khai
thác tốt các nguồn thông tin.
Tăng cường hơn nữa công tác thanh tra kiểm tra xử lý đối với
các tổ chức tín dụng thực hiện không nghiêm túc các quy định về thông
tin, báo cáo và công tác tín dụng.
- Các ngân hàng cần có sự chỉ đạo và các biện pháp để từng bước
tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật một cách đồng bộ cho hệ thống thông
tin, từng bước hoàn thiện công tác tổ chức và nâng cao hơn nữa về trình
độ cán bộ làm công tác thông tin.
2. Giải pháp về phương pháp thẩm định
a. Đối với các chỉ tiêu định tính:
Hiện nay, thẩm định các yếu tố định tính vẫn chưa được quan tâm thích
đáng. Tuy trong quy trình của Ngân hàng có đưa ra quy định đối với một
số các chỉ tiêu định tính, nhưng việc thực hiện còn chưa nghiêm túc, chỉ
là về mặt lý thuyết.
+Về Ban quản lý của doanh nghiệp: Khi phân tích chủ thể vay
vốn, cán bộ tín dụng mới chỉ chú trọng đến năng lực pháp lý, chứ chưa
hoặc đánh giá một cách sơ sài về chủ thể kinh doanh bao gồm tư cách,
danh tiếng, trình độ chuyên môn, khả năng quản lý và đặc biệt là tầm
nhìn của cán bộ quản lý của doanh nghiệp. Nếu như báo cáo tài chính là
công cụ quan trọng để đánh giá một doanh nghiệp, thì một vấn đề cũng
quan trọng không kém là trên thực tế ngân hàng không cho doanh nghiệp
vay mà cho ban quản lý của doanh nghiệp vay. Cho dù bản báo cáo tài
chính của doanh nghiệp có khả quan bao nhiêu nhưng nếu có sự thay đổi
về quản lý và ban quản lý mới kém năng lực thì doanh nghiệp sẽ nhanh
chóng bị thất bại.
Đánh giá về ban quản lý của doanh nghiệp là một lĩnh vực rất khó khăn,
ngân hàng không có một chỉ tiêu định lượng cũng như một thước đo nào
cả. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có khả năng trong việc đặt câu
hỏi, lắng nghe và đưa ra quan điểm cá nhân. Tuy nhiên để đánh giá đúng
đắn, cán bộ tín dụng phải đảm bảo rằng họ đã biết tường tận về những
vấn đề sau:
1. Ban quản lý cuả doanh nghiệp là ai?
Để trả lời câu hỏi này, cán bộ tín dụng phải tìm hiểu xem các thành viên
chủ chốt của ban quản lý có dày dạn kinh nghiệm không? Kinh nghiệm ở
đây chỉ nói đến những kinh nghiệm trong lĩnh vực doanh nghiệp đang
hoạt động. Nếu họ thiếu kinh nghiệm thì doanh nghiệp rất dễ gặp khó
khăn
Bên cạnh kinh nghiêm của ban quản lý, một vấn đề quan trọng không
kém là ban quản lý đó phải rất “cân bằng”: Không do một cá nhân nào
thống trị, cũng không phải được điều hành bởi mọi thành viên trong
doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng phải đảm bảo rằng mỗi chức năng của
công ty từ sản xuất, marketing tới tài chính đều phải được điều hành tốt.
Ngoài ra, cán bộ tín dụng cũng cần phải quan tâm tới cơ cấu bộ máy quản
trị của doanh nghiệp, lớp cán bộ kế cận được đào tạo để kế nhiệm trong
trường hợp thay đổi lãnh đạo.
2. Cán bộ tín dụng phải xác định được vị trị hiện giờ của doanh
nghiệp trên thị trường cũng như vị trí mà doanh nghiệp đang cố gắng để
đạt được.
3. Công ty đã đưa ra kế hoạch khả thi nào để thực hiện được
mục đích nói trên chưa. Để xác định được điều này, ngân hàng cần phải
biết được các kế hoạch và chiến lược tương lai của công ty về:
Phát triển sản phẩm
Sản xuất
Marketing
Nhân sự
Tài chính
Các kế hoạch này phải phù hợp với nhiệm vụ của công ty cũng như
những giả định mà ban quản lý đưa ra về môi truờng kinh doanh, về
ngành, về các đối thủ cạnh tranh và về bản thân công ty. Đây phải là một
bước tiến so với chiến lược hiện hành của doanh nghiệp.
4. Doanh nghiệp có khả năng thực hiện những kế hoạch này
không? Câu trả lời tuỳ thuộc vào bản chất của kế hoạch cũng như vào
đánh giá của cán bộ tín dụng.
b. Đối với các chỉ tiêu định lượng:
- Chỉ tiêu phân tích rủi ro: Ngân hàng Ngoại thương đã xây dựng
được một quy trình thẩm định tương đối hoàn chỉnh với hệ thống các chỉ
tiêu phân tích và đánh giá tài chính bao trùm được nhiều khía cạnh của dự
án. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này mới chỉ dừng lại ở mức đảm bảo cho dự
án thành công trong điều kiện “tĩnh”, tức là trong trường hợp các giả định
đặt ra đều thành hiện thực. Trên thực tế, các kết quả của một dự án nhất
định sẽ phụ thuộc vào những sự kiện bất định trong tương lai. Những yếu
tố cơ bản trong luồng lợi ích và chi phí của dự án - như giá và lượng đầu
vào và đầu ra - rất ít khi là các sự kiện có tính chắc chắn hoặc gần như
chắc chắn, theo nghĩa chúng chỉ được thể hiện hợp lý bằng những giá trị
duy nhất. Sự bất định và rủi ro sẽ tồn tại bất cứ khi nào dự án tạo ra nhiều
hơn một kết cục có thể có. Vì thế, đo lường chi phí và lợi ích kinh tế
không thể tránh được việc phải có những nhận định công khai hoặc ngấm
ngầm về xác suất. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định,
bên cạnh nnhững chỉ tiêu thẩm định dự án về mặt tài chính, Ngân hàng
Ngoại thương cần phải đưa thêm một số công cụ để đánh giá rủi ro. Hiện
nay trên thế giới có rất nhiều phương pháp để đánh giá rủi ro mà ngân
hàng có thể học tập để áp dụng như: phân tích độ nhạy, giá trị hoán
chuyển và kỹ thuật mô phỏng.
+ Phân tích độ nhạy góp phần đánh giá rủi ro bằng cách xác
định những biến số có ảnh hưởng nhiều nhất đến lợi ích ròng của dự án
và lượng hoá mức độ ảnh hưởng của chúng. Kiểu phân tích này bao gồm
việc kiểm định tác động của sự biến thiên trong một số biến chi phí và lợi
ích chọn lọc đến IRR và NPV của dự án. Phân tích độ nhạy có thể giúp
cho việc nhận biết được những phương án thiết kế yếu kém và chỉ ra sự
cần thiết phải thu thập thêm thông tin về một số biến số. Nó cũng có thể
giúp biểu đạt một số ý tưởng về rủi ro dự án.
+ Giá trị hoán chuyển: Cách tiếp cận nên dùng để phân tích độ
nhạy là sử dụng giá trị hoán chuyển. Giá trị hoán chuyển của một biến số
là giá trị tại đó NPV của dự án bằng 0 và IRR bằng tỉ suất chiết khấu.
Người ta thường biểu thị giá trị hoán chuyển dưới dạng phần trăm thay
đổi trong gía trị của biến số mà sự thay đổi đó là cần để đưa NPV của dự
án về bằng 0. Người ta có thể sử dụng giá trị hoán chuyển để nhận biết
biến số nào có tác động lớn nhất đến kết cục dự án. Người ta cũng có thể
biểu thị giá trị hoán chuyển của các biến số tương đối quan trọng hơn
theo trình tự mức độ nhạy cảm giảm dần.
+ Phép mô phỏng Monte Carlo và phân tích rủi ro: ước tính
thích hợp NPV kỳ vọng của dự án thường đòi hỏi phảI sử dụng kỹ thuật
mô phỏng. Mô phỏng là qui trình đơn giản và có khả năng ứng dụng duy
nhất để khắc phục nhược điểm của phân tích độ nhạy, tính toán NPV dự
kiến, và phân tích rủi ro. Phép mô phỏng thường đòi hỏi nhiều thông tin
hơn phân tích độ nhạy, nhưng kết quả về việc cải tiến thiết kế dự án thì
rất đáng thực hiện.
Ước tính thích hợp NPV kỳ vọng đòi hỏi phải qua ba bước:
Xác định cụ thể phân phối xác suất của các cấu thành
bất định quan trọng
Xác định cụ thể quan hệ tương quan giữa các cấu thành
Kết hợp thông tin này để tính ra NPV kỳ vọng và phân
phối xác suất chính của kết cục dự án .
Xác định dạng phân phối chính và tính toán NPV kỳ vọng bằng phân tích
toán học , thường không thể làm đựơc. Ngân hàng phải dựa vào phép mô
phỏng do máy tính thực hiện. Sử dụng dạng phân phối xác suất đặc trưng
cho các cấu thành bất định của dự án, máy tính sẽ mô phỏng số kết cục
nhiều như mức cán bộ phân tích muốn. Trong phép mô phỏng Monte
Carlo, máy tính thực hiện giống như chúng ta đang tiến hành cùng một dự
án hàng trăm, hàng nghìn lần dưới những điều kiện cụ thể. Vì chúng ta
giả định rằng số biến của một dự án là bất định, nên kết quả mô phỏng
được sau mỗi lần sẽ khác nhau. Đôi khi NPV tính được có thể âm, đôi khi
nó lại là số dương rất lớn.
Máy tính nhóm kết quả lại để đưa ra ước tính về kết quả trung bình và
phân phối xác suất của nó. Từ các phép mô phỏng, máy tính sẽ đưa ra
dạng phân phối xác suất cho NPV, bao gồm cảc xác suất dự án thất bại
(NPV âm) và NPV kỳ vọng. Ngân hàng có thể dễ dàng có được các phần
mềm như thế để thực hiện những phân tích này.
- Đánh giá môi trường hoạt động của doanh nghiệp: Hiện nay trong
quy trình thẩm định của Ngân hàng Ngoại thương cũng như nhiều ngân
hàng khác ở Việt Nam, công tác thẩm định chỉ đi sâu vào đánh giá doanh
nghiệp vay vốn mà chưa chú trọng đến đánh giá các yếu tố có liên quan
khác như ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động trong đó, mức độ cạnh
tranh trên thị trường v.v. Đây là một thiếu sót mà Ngân hàng cần phải
khắc phục vì có biết được môi trường hoạt động của doanh nghiệp ta mới
có thể đánh giá được doanh nghiệp đó hoạt động có hiệu quả hay không.
Do để đánh giá về thành tựu của doanh nghiệp thì Ngân hàg cần phải đặt
doanh nghiệp đó trong mối quan hệ với các doanh nghiệp khác trên thị
trường.
Đánh giá ngành: Trước khi xem xét các thông tin chi tiết về
doanh nghiệp, ngân hàng cần phải phân tích ngành mà doanh nghiệp hoạt
động. Bằng cách này, ngân hàng có thể có thể đánh giá được những điểm
mạnh và yếu của từng doanh nghiệp trong nghành đó. Khi đánh giá khả
năng cạnh tranh trong ngành, ngân hàng có thể quyết định có nên cho
nhiều doanh nghiệp trong ngành vay( nếu không quá cạnh tranh) hay chỉ
cho vài doanh nghiệp vay(nếu cạnh tranh gay gắt) hay thậm chí không
cho doanh nghiệp nào vay vốn.
Về mức độ cạnh tranh trên thị trường: Để đánh giá mức độ
cạnh tranh trên thị trường, ngân hàng phải tập trung vào các yếu tố sau:
Sự khác biệt về sản phẩm, kênh phân phối, sự tăng trưởng của ngành v.v.
- Về các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi thẩm định điều kiện đảm
bảo tiền vay, ngân hàng cho phép doanh nghiệp sử dụng các hình thức
như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh... Việc sử dụng rộng rãi nhiều hình thức
đảm bảo như vậy đã tạo thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp nhưng nó
cũng là một nguồn rủi ro rất lớn đối với ngân hàng. Để đảm bảo dự án
đầu tư có khả năng trả nợ, ngân hàng cần phải đưa ra nhiều biện pháp để
đảm bảo an toàn hơn nữa. Cụ thể, đơn cử đối với bảo lãnh của người thứ
3( ví dụ như công ty mẹ bảo lãnh cho công ty con vay, hay công ty này
bảo lãnh cho công ty khác vay còn gọi là bảo lãnh chéo) , ngân hàng cần
phải nhớ rằng có rất nhiều khía cạnh pháp lý được áp dụng cho những
khoản bảo lãnh như vậy, nên nếu ngân hàng có nghi nghờ gì thì ngân
hàng cần phải xin tư vấn của luật sư ngay lập tức. Thông thường, có một
số vấn đề pháp lý mà ngân hàng thường gặp là:
Bảo lãnh chỉ là một nghĩa vụ thứ cấp. Nếu như nghĩa
vụ sơ cấp thanh toán khoản vay bị vô hiệu dù vì bất cứ lý do gì thì bảo
lãnh cũng mất hiệu lực.
Để đứng ra bảo lãnh, thông thường bên đảm bảo
cũng phải có một lợi ích gì đó. Ngân hàng có thể dễ dàng hiểu được lợi
ích của công ty mẹ khi đứng ra bảo lãnh cho công ty con, nhưng khó có
thể biết được lợi ích của bên đảm bảo khi đứng ra bảo lãnh chéo. Vì vậy
khi cho thẩm định cán bộ tín dụng cần phải cân nhắc kỹ những trường
hợp trên. Để an toàn khi thẩm định các điều kiện đảm bảo tiền vay, ngân
hàng nên yêu cầu Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan đưa ra
khung pháp luật hoàn chỉnh để qui định cụ thể các trường hợp được phép
đảm bảo tiền vay.
- Đánh giá hiệu quả tài chính:
Trong khi tính chỉ tiêu NPV, thông thường ngân hàng tính cho cả đời dự
án. Tuy nhiên, cần phải nhận thấy là thời gian cho vay của ngân hàng là
có hạn và thường ngắn hơn rất nhiều so với tuổi đời của dự án nên để
đảm bảo an toàn khả năng đúng hạn của dự án, cán bộ tín dụng nên tính
thêm NPV với thời gian bằng thời gian vay vốn của ngân hàng. Trường
hợp NPV âm thì dự án không có khả năng trả nợ đúng hạn, do vậy chủ
đầu tư phải giải trình dùng các nguồn khác để bù đắp trả nợ.
- Vấn đề giá trị thời gian của tiền:
Đây là vấn đề mấu chốt của thẩm định tài chính dự án đầu tư nhưng
chưa được ngân hàng quan tâm đúng mức. Một trong những đặc trưng cơ
bản của hoạt động đầu tư là các lợi ích và chi phí phát sinh ở các giai
đoạn khác nhau nhưng giá trị đồng tiền ở các thời điểm khác nhau không
giống nhau. Vì vậy, cần phải có một phương pháp quy đổi giá trị của
dòng tiền xuất hiện ở các thời điểm khác nhau về cùng một thời điểm để
xem xét, phân tích mà còn tạo điều kiện để so sánh lựa chọn các dự án.
- Tính lãi suất chiết khấu:
Đối với các dự án đầu tư chủ yếu bằng nguồn vốn vay ngân hàng, ta chọn
lãi suất chiết khấu đúng bằng lãi suất vay ngân hàng. Trường hợp vay
bằng nhiều nguồn có lãi suất khác nhau, ta tính lãi suất bình quân gia
quyền. Tuy nhiên, do tín dụng đầu tư thường có thời hạn dài nên việc
ngân hàng ấn định một mức lãi suất chiết khấu nhất định trong cả quãng
thời gian như vậy sẽ đem lại rủi ro rất lớn cho ngân hàng trước những
biến động của thị trường tiền tệ. Như vậy, ngân hàng nên sử dụng các tỷ
lệ chiết khấu thay đổi để phản ánh các tác động của môi trường kinh tế tới
dự án, chẳng hạn như tác động của lạm phát, mức độ rủi ro... Trong
những năm mà nguồn vốn khan hiếm, Ngân hàng có thể tính tỷ lệ chiết
khấu cao do chi phí vốn tăng và ngược lại, tỷ lệ chiết khấu thấp hơn cả
trong những năm nguồn vốn dồi dào.
- Tính dòng tiền:
Phần lớn các dự án đều có giá trị thu hồi tài sản cố định. Các máy móc
thiết bị, nhà xưởng khi kết thúc dự án còn có một giá trị thị trường nhất
định. Khi được bán sẽ xuất hiện một luồng tiền thu cuối dự án. Một điều
lưu ý là dòng tiền này phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp vì nó là
luồng tiền hoạt động trước thuế.
Ngân hàng cũng cần phải tính tới khoản thu hồi vốn lưu động ròng, khoản
thu hồi này sẽ được cộng vào dòng tiền ở năm cuối cùng của dự án. Đặc
biệt, ngân hàng cần phải tính toán dòng tiền cho cả đời dự án chứ không
nên dừng lại ở năm dự án trả hết nợ.
Khi xác định lợi nhuận ròng để trả nợ, ngân hàng nên chú ý tính tới phần
sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước mà doanh nghiệp phải nộp (nếu có).
Đối với những dự án đầu tư đã được thẩm định có hiệu quả, trong một số
năm đầu dự án có dòng tiền âm, ngân hàng có thể xem xét thu nợ vào
những năm sau, chứ không nhất thiết phải yêu cầu miễn thuế hoặc hỗ trợ.
- Tính khấu hao:
Khi tính đến khấu hao, ngân hàng cần chú ý tới cơ cấu của chi phí đầu tư
cho dự án để áp dụng tỷ lệ khấu hao phù hợp. Đối với phần chi phí trước
vận hành, ngân hàng cần tách ra để tính thu hồi trong một số năm đầu khi
dự án đi vào hoạt động chứ không nên tính gộp với chi phí xây lắp.
3. Giải pháp về tổ chức và nhân sự
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng cũng ngày
càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Ngân hàng không chỉ là một ngành kinh tế mà đó còn là công cụ để điều
tiết nền kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Ngày nay, hầu hết các lĩnh vực kinh
tế khác đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của ngân hàng. Có thể nói sự phát
triển của ngân hàng được coi như thước đo mức độ phát triển của nền
kinh tế. Do tính chất và vai trò quan trọng như vậy nên trình độ và năng
lực của các cán bộ ngân hàng là một yếu tố tiên quyết.
Là một ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng thương mại của Việt
Nam, Ngân hàng Ngoại thương phải không ngừng nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ để đáp ứng được những nhu cầu ngày càng khắt khe của
nền kinh tế và để tồn tại được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, nhất
là trong thời gian tới khi có sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài.
Hiện nay, tuy trình độ cán bộ ngân hàng đã được nâng cao so với thời
gian trước đây, nhưng tỉ lệ rủi ro tín dụng do trình độ chuyên môn yếu
kém của nhân viên ngân hàng nói chung và cán bộ thẩm định nói riêng
vẫn còn rất cao. Những rủi ro tín dụng này không những gây thiệt hại lớn
về kinh tế cho Ngân hàng mà còn ảnh hưởng rất nhiều tới uy tín của Ngân
hàng, điển hình là vụ Epco- Minh Phụng trước đây. Bên cạnh những rủi
ro do trình độ của cán bộ, ngân hàng còn phải đối mặt với thực tế là nhiều
khoản tín dụng được cấp xuất phát từ quyền lợi cá nhân, phe phái mà
không có tính liêm khiết, khách quan.
Để cải thiện tình trạng trên đòi hỏi nỗ lực rất lớn của toàn bộ ngân hàng.
Cụ thể, Ngân hàng Ngoại thương cần phải:
Tổ chức lại một cách cụ thể và khoa học các phòng ban trong ngân
hàng, yêu cầu mọi thành viên trong ngân hàng tôn trọng và tuân thủ chặt
chẽ các nguyên tắc tín dụng đã đề ra về huy động vốn, cho vay... cho tới
bảo lãnh, thẩm định. Đây chính là điều kiện tiên quyết để tiến hành các
nghiệp vụ tín dụng lành mạnh, đạt kết quả cao. Do hoạt động thẩm định
có khả năng rủi ro rất cao nên để thẩm định có hiệu quả cần phải có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong Ngân hàng cũng
như giữa các ngân hàng với nhau, và với các Bộ, ngành có liên quan
khác.
Con người là yếu tố trung tâm quyết định tới chất lượng thẩm định dự án
tín dụng đầu tư. Vì thế, việc xây dựng tốt đội ngũ cán bộ có ý nghĩa rất
lớn. Cán bộ thẩm định phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
Về trình độ chuyên môn: các cán bộ thẩm định phải có đủ trình độ
và hiểu biết về kinh tế thị trường, về pháp luật và đặc biệt là có kiến thức
sâu về lĩnh vực tài chính, ngân hàng và dự án đầu tư. Mặt khác, họ phải
có những hiểu biết nhất định về khai thác và xử lý thông tin trên máy
tính, sử dụng thành thạo các phần mềm hỗ trợ phân tích thẩm định dự án
đầu tư cũng như các chương trình quản lý hiện đại. Hiện nay, cùng với sự
mở rộng của mạng lưới thông tin quốc tế qua Internet, cán bộ thẩm định
cần phải biết khai thác nguồn thông tin vô tận này( Đây chính là một hạn
chế trong trình độ của đội ngũ cán bộ).
Về đạo đức nghề nghiệp: Cán bộ tín dụng phải có phẩm chất trung
thực, tinh thần trách nhiệm cao, có tính kỷ luật và lòng nhiệt tình trong
công việc, tâm huyết với nghề, có ý thức tự rèn luyện bồi dưỡng, không
vì lợi ích riêng mà ảnh hưởng đến lợi ích chung.
Để có được đội ngũ cán bộ như vậy, Ngân hàng Ngoại thương cần:
Tăng cường tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo và đào tạo lại cán bộ
thẩm định tín dụng, tạo điều kiện cho họ nâng cao trình độ, kiến thức và
năng lực kinh nghiệm làm việc. Đặt ra những yêu cầu chuyên môn bắt
buộc, đòi hỏi đội ngũ này phải có kiến thức sâu sắc về lĩnh vực tài chính
doanh nghiệp, tài chính ngân hàng, có khả năng phân tích tài chính. Xây
dựng hệ thống các quy tắc, chuẩn mực về trình độ đối với cán bộ thẩm
định để làm tiêu chuẩn tuyển chọn cũng như các kế hoạch để bồi dưỡng,
đào tạo.
Mở các cuộc thi tìm hiểu về thẩm định dự án tín dụng đầu tư, đưa
ra các vấn đề khó cũng như các tình huống phức tạp để nâng cao khả
năng ứng phó của cán bộ. Đối với những cán bộ đạt giải cao, ngân hàng
nên đề ra những biện pháp khích lệ như thưởng bằng hiện vật hay cho
nhân viên đó học một khoá bồi dưỡng nghiệp vụ ở nước ngoài.
Tổ chức tập huấn 100% cán bộ tín dụng về những quy chế tín dụng
mới ban hành theo luật các tổ chức tín dụng.
Thực hiện phân công công việc theo năng lực, kinh nghiệm của
mỗi người, phân quyền đề nghị cấp tín dụng theo trình độ, kinh nghiệm.
Kiên quyết thực hiện điều chuyển những cán bộ không đáp ứng được yêu
cầu công việc.
Phân công các cán bộ tín dụng giỏi, có kinh nghiệm kèm cặp
hướng dẫn những cán bộ còn trẻ, chưa có kinh nghiệm. Đây là cách thiết
thực nhất để nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên bởi nó cho phép kết hợp
cụ thể giữa lý thuyết và thực tiễn.
Ngân hàng cũng cần có chính sách thu hút và ưư đãi các chuyên
gia giỏi để phục vụ hoặc tham gia cố vấn, làm cộng tác viên cho hoạt
động thẩm định. Đồng thời khuyến khích việc nghiên cứu khoa học, đề
xuất sáng kiến mới trong lĩnh vực thẩm định dự án đầu tư để phổ biến và
ứng dụng trong toàn hệ thống
Hàng tháng, hàng quý tổ chức các buổi hội thảo để tổng hợp tình
hình thẩm định nhằm đánh giá, rút kinh nghiệm. Những vướng mắc, tồn
tại phát sinh trong quá trình thẩm định sẽ được đưa ra bàn bạc công khai
nhằm tìm ra giải pháp tốt nhất. Chính qua những buổi hội thảo này kinh
nghiệm của cán bộ thẩm định sẽ được nâng cao đáng kể.
4. Phát huy vai trò tư vấn của Ngân hàng đối với chủ đầu tư.
Hiện nay tín dụng đầu tư ở Việt Nam vẫn chưa mấy phát triển, trong số
các chủ đầu tư đi vay vốn thì doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm tỉ trọng
chủ yếu. Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng này là do các doanh nghiệp
vẫn còn nhiều bỡ ngỡ khi lập ra các dự án đầu tư. Đa số các doanh
nghiệp khi đi vay vốn lần đầu đều không biết làm thế nào để lập một bộ
hồ sơ hoàn chỉnh, những bộ hồ sơ do họ lập ra còn rất nhiều thiếu sót,
điều này không những làm mất thời gian của doanh nghiệp phải lập đi lập
lại nhiều lần mà còn mất thời gian của cán bộ thẩm định. ở các nước phát
triển, khi lập dự án đầu tư, doanh nghiệp có thể nhờ vào sự hỗ trợ của các
công ty tư vấn. Nhưng trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam vẫn còn
chậm phát triển thì vẫn chưa có công ty nào chuyên đứng ra làm các dịch
vụ như vậy. Do đó, vai trò tư vấn của Ngân hàng đối với chủ đầu tư là
hết sức cần thiết. Việc tư vấn như vậy sẽ giúp được doanh nghiệp xây
dựng được dự án đầu tư, lựa chọn được loại hình sản phẩm phù hợp.
Bên cạnh đó, nhờ vào mối quan hệ rộng rãi của Ngân hàng với các tổ
chức kinh tế, xã hội khác, Ngân hàng có thể dễ dàng thu thập được các
thông tin về thị trường, giá cả và định hướng chiến lược của Nhà nước
trong thời gian sắp tới.
Đối với cán bộ Ngân hàng làm công tác cố vấn cho chủ đầu tư, họ phải
có trình độ và hiểu biết những vấn đề chủ yếu sau:
Am hiểu về chế độ quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Biết cách tập hợp và sử dụng thông tin, có nghệ thuật thương lượng để
giảI quyết vấn đề.
Tinh thông về nghiệp vụ ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực thẩm
định dự án tín dụng đầu tư.
Có kiến thức về quản trị dự án đầu tư. Nắm vững quy trình soạn
thảo dự án đầu tư khả thi và các phương pháp thẩm định tiên tiến
Trong điều kiện hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn cần phải giải quyết,
Ngân hàng không thể tập trung nhiều nguồn lực cho việc tư vấn cho
khách hàng. Nhưng Ngân hàng có thể phối hợp với các tổ chức quốc tế
như Quỹ phát triển dự án sông MeKong (do World Bank tàiI trợ để giúp
phát triển một cách toàn diện nền kinh tế các nước Việt Nam, Lào,...),
MPDF, SME...Theo đó, các doanh nghiệp được các tổ chức quốc tế giúp
đỡ tư vấn miễn phí trong việc thành lập, xây dựng dự án kinh doanh khả
thi. Phía Ngân hàng Ngoại thương sẽ tiến hành thẩm định và cho vay
bằng vốn của mình. Việc hợp tác như vậy sẽ tạo ra thuận lợi rất lớn cho
doanh nghiệp và cả bản thân Ngân hàng. Nếu dự án được lập phù hợp
với các tiêu chí của Ngân hàng thì việc thẩm định sẽ bớt khó khăn rất
nhiều.
5. Về trang thiết bị kỹ thuật:
Trang thiết bị là phương tiện vật chất quan trọng giúp ngân hàng có thể
áp dụng được các phương pháp thẩm định hiện đại. Như vậy, các trang
thiết bị này phải đáp ứng được yêu cầu truy cập, xử lý lượng thông tin
lớn, chính xác trong thời gian ngắn, thực hiện được những tính toán phức
tạp. Do đó, ngân hàng cần trang bị những thiết bị tiên tiến cho công tác
thẩm định. Trước mắt, Ngân hàng cần trang bị cho mỗi cán bộ thẩm định
một máy vi tính hiện đại, máy vi tính này phải được nối mạng cục bộ
trong hệ thống Ngân hàng và mạng quốc tế để tạo điều kiện cho cán bộ
truy cập và tìm kiếm thông tin. Về lâu dài, Ngân hàng cần phải mua các
phần mềm quản lý, lưu trữ thông tin, phần mềm hỗ trợ thẩm định để giúp
cán bộ thẩm định nhanh chóng xử lý, đánh giá thông tin, tính toán và lập
tờ trình chính xác.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THẨM ĐỊNH DỰ ÁN TÍN DỤNG ĐẦU TƯ.
Những giải pháp nêu trên nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thẩm
định tại Ngân hàng Ngoại thương. Tuy nhiên để thực hiện tốt các giải
pháp đó, ngoài nỗ lực của bản thân Ngân hàng Ngoại thương, còn cần có
sự phối hợp giúp đỡ của các cơ quan Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước,
các bộ, các ngành hữu quan để tạo dựng một môI trường kinh tế, pháp lý
thuận lợi. Để hỗ trợ cho các biện pháp trên, tôi xin đề xuất một số kién
nghị như sau:
1. Kiến nghị đối với Nhà nước và các bộ, ngành liên quan:
Môi trường kinh tế- chính trị- xã hội ổn định là tiền đề cho hoạt
động đầu tư. Do đó, các chính sách vĩ mô của Nhà nước phải hướng tới
xây dựng một môi trường kinh doanh ổn định, hấp dẫn đầu tư cả trong và
ngoài nước. Trước mắt, Nhà nước cần nhanh chóng tạo môi trường pháp
lý ổn định, đặc biệt là các quy chế pháp luật liên quan đến đầu tư, sản
xuất kinh doanh, tài chính kế toán, xử lý tranh chấp...điều này tạo điều
kiện cho doanh nghiệp yên tâm đầu tư kinh doanh, ngân hàng có cơ sở
pháp lý vững chắc xử lý những vấn đề liên quan đến thẩm định tín dụng.
Nhà nước cần quy định rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của các
bộ, ngành, chính quyền địa phương theo hướng tách biệt giữa chức năng
quản lý Nhà nước với chức năng hoạt động kinh doanh nhằm tránh tình
trạng các cơ quan này can thiệp quá sâu vào quá trình thẩm định của ngân
hàng. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách hệ thống tài chính-
ngân hàng theo hướng mềm dẻo hơn, trao quyền độc lập và tự chủ hơn
nữa cho khu vực này.
Ổn định giá trị, tỷ giá đồng Việt Nam: Đây không những là ổn định
so với sức mua của đồng tiền mà còn ổn định so với các ngoại tệ khác.
Như đã biết, công tac thẩm định dự án tín dụng đầu tư phải dựa trên một
loạt các giả định trong tương lai, các kết quả thẩm định chỉ có thể chính
xác nếu như các giả định này gần giống như thực tế. Nếu như giá trị của
đồng tiền không ổn định thì rõ ràng là cơ sở giả định của ngân hàng đã
sụp đổ, như vậy công tác thẩm định chắc chắn không thể đạt kết quả như
mong muốn.
Mặt khác, phần lớn các máy móc thiết bị trong các dự án đầu tư đều phải
nhập khẩu. Dự án đi vào hoạt động phải sau một thời gian tương đối dài
mới có thể thu hồi vốn và tái tạo ra ngoại tệ để trả nợ. Như vậy, để đảm
bảo khả năng hoàn trả nợ, thu hồi vốn của các nhà đầu tư đòi hỏi tỉ giá
của đồng Việt Nam so với các loại ngoại tệ phải tương đối ổn định.
Một nhược điểm của công tác tín dụng ở Việt Nam là thông tin
phục vụ cho tín dụng vẫn còn hạn chế, lại thiếu các công ty chuyên đánh
giá, phân loại và xếp hạng doanh nghiệp. Điều này khiến cho các ngân
hàng khi muốn cho doanh nghiệp vay vốn sẽ buộc phải tìm hiểu từ đầu về
tình hình hoạt động và tài chính của doanh nghiệp đó. Như vậy ngân hàng
vừa tốn kém thời gian và chi phí, hoạt động lại không hiệu quả. Để tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác tín dụng của ngân hàng, Nhà nước nên
thành lập các công ty, trung tâm tư vấn chuyên mua bán thông tin, công
ty phân loại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có chính
sách khuyến khích phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của các
công ty dịch vụ đánh giá tài sản thế chấp, công ty kiểm toán.
Phần lớn các máy móc thiết bị trong các dự án đầu tư đều phải
nhập khẩu từ nước ngoài. Đó có thể là các máy móc thiết bị mới nguyên
hoặc cũng có thể đã qua sử dụng. Tuy nhiên việc định giá các loại máy
móc thiết bị này là rất khó khăn, đặc biệt là các cán bộ ngân hàng vốn ít
am hiểu về kỹ thuật. Không chỉ ngân hàng gặp khó khăn trong lĩnh vực
này mà bản thân chủ đầu tư nhiều khi cũng rất mơ hồ. Nếu đối tác nước
ngoài không có thiện chí thì bên Việt Nam rất dễ bị thua thiệt. Trên thực
tế đã có nhiều trường hợp bên Việt Nam phải nhập máy móc “phế thải”
của nước ngoài với giá cắt cổ. Như vậy, để bảo vệ quyền lợi của bên Việt
Nam, nhà nước nên thành lập một trung tâm hỗ trợ kỹ thuật chuyên xem
xét, định giá máy móc, công nghệ. Cán bộ làm công tác này phải là
những người có trình độ cao, những chuyên gia trong lĩnh vực kỹ thuật
công nghệ.
Nhà nước cần phối hợp với Bộ Tài chính để ban hành quy định về
tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các thành phần kinh tế, để tăng
cường hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ chuẩn mực của công tác
hạch toán kế toán, đưa báo cáo lưu chuyển tiền tệ vào hệ thống báo cáo
tài chính bắt buộc, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ thẩm định khi điều
tra, đánh giá tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Bên
cạnh đó, cũng cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc theo định kỳ đối
với tất cả các doanh nghiệp, qua đó nâng cao tính trung thực, chính xác
của các số liệu, đảm bảo độ tin cậy của các báo cáo tài chính. Đồng thời,
Nhà nước cũng phải qui định các biện pháp, chế tài xử lý nghiêm những
trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin không chính xác.
Đề nghị Nhà nước phối hợp với các bộ, ngành tạo hành lang thông
thoáng cho các hoạt động đấu giá, đấu thầu, kinh doanh bất động sản, và
ban hành các quy định về mức tiêu hao nguyên nhiên liệu v.v. trong các
lĩnh vực cụ thể để tạo đIều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng trong việc
thẩm định mức vốn đầu tư, doanh thu, và chi phí sản xuất hàng năm.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư vay vốn, ngân hàng đã
đưa ra rất nhiều hình thức đảm bảo thanh toán như thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh v.v. Tuy nhiên trong điều kiện khung pháp luật chưa hoàn chỉnh như
hiện nay thì sự thông thoáng trên lại là một rủi ro rất lớn đối với Ngân
hàng. Để giúp Ngân hàng hoạt động hiệu quả và cũng là đẩy mạnh sự
phát triển của nền kinh tế, Nhà nước cần phải nghiên cứu, chỉnh sửa và
hoàn thiện các chính sách cụ thể về thế chấp tài sản, cầm cố và bảo lãnh.
Nhà nước nên dàn trải rủi ro một cách công bằng giữa các bên, tránh bắt
người cho vay phải chịu rủi ro như hiện nay.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng phải đưa ra những biện pháp để ngăn chặn
hành vi lừa đảo của khách hàng. Một rủi ro rất lớn đối với ngân hàng là
nhiều khách hàng không thiện chí đã sử dụng cùng một tài sản thế chấp
để đi vay vốn nhiều nơi.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước cần căn cứ vào chính sách kinh tế vĩ mô trong từng
thời kỳ để định hướng cho hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương
mại: ưu tiên phát triển ngành nào, thành phần nào, khu vực trọng đIểm
nào v.v. Từ đó, các ngân hàng có hướng đầu tư thích hợp, xác định hạn
mức tín dụng cho các lĩnh vực phù hợp với kế hoạch của Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước cần ban hành một cẩm nang chung về quy trình
thẩm định và nội dung thẩm định dự án tín dụng đầu tư. Đó là cơ sở tổng
hợp tài liệu thẩm định dự án của các cơ quan khoa học, Bộ Kế hoach&
đầu tư, của các ngân hàng phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay, đồng
thời hoà nhập dần với thông lệ quốc tế. Từ cẩm nang chung này, tuỳ theo
yêu cầu cụ thể của từng ngân hàng hay theo những mục đích khác nhau
mà các ngân hàng có thể vận dụng linh hoạt quy trình thẩm định cho ngân
hàng mình.
Ngân hàng Nhà nước cần phải đưa ra các chế tài, biện pháp cụ thể buộc
các Ngân hàng, tổ chức tín dụng nghiêm chỉnh chấp hành các cơ chế, thể
lệ, quy trình tín dụng, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa
các ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần tăng cường
công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ, xử lý nghiêm những trường hợp vi
phạm.
Ngân hàng Nhà nước cũng cần nâng cao chất lượng hơn nữa hoạt động
của Trung tâm phòng ngừa rủi ro CIC. Bước đầu CIC đã đạt được một số
kết quả nhất định, nhưng để trở thành nguồn cung cấp thông tin quan
trọng và đáng tin cậy, CIC cần phải giải quyết những vấn đề sau:
Cần bắt buộc các tổ chức tín dụng trên lãnh thổ Việt Nam tham gia
vào CIC, đồng thời đề ra những qui chế về việc trao đổi, thu thập thông
tin giữa các thành viên và các chi nhánh của CIC.
Đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ chuyên trách và trang bị các
phương tiện hiện đại cho hoạt động thu thập và xử lý thông tin
Tăng cường sự hợp tác giữa CIC với các cơ quan quản lý kinh tế
và các đầu mối cung cấp thông tin quan trọng như Tổng cục Thống kê,
Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Uỷ ban Vật giá Chính phủ, Bộ
Thương mại,... để cập nhật những tin tức mới nhất về thị trường, về các
quy định chính sách của Nhà nước.
Mở rộng quan hệ với các trung tâm, tổ chức tài chính trên thế giới,
đăng ký thành viên đối với các tổ chức chuyên thu thập và xử lý thông
tin. Qua đó, CIC sẽ luôn được thông báo về những thay đổi và biến động
trên
thị trưòng quốc tế, sẽ luôn nắm vững được tình hình của các doanh
nghiệp nước ngoài muốn làm ăn với Việt Nam.
KẾT LUẬN
Ngân hàng là một ngành kinh doanh rất phức tạp và chứa đựng nhiều rủi
ro. Hoạt động của các ngân hàng không những có ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau mà còn có ảnh hưởng đến toàn nền kinh tế. Nếu ngân hàng hoạt
động ổn định, hiệu quả thì sẽ tạo ra động lực phát triển cho nền kinh tế.
Ngân hàng cung cấp rất nhiều dịch vụ để phục vụ cho các mục tiêu phát
triển của nền kinh tế như thanh toán, bảo lãnh, thuê mua tài chính...
Trong đó, nghiệp vụ nguyên thuỷ và quan trọng nhất của ngân hàng là tín
dụng.
Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được đầu tư
vào nhiều lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như hoá dầu, dệt may, thuỷ
sản v.v. Trong đó, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Ngân
hàng chú trọng đầu tư vào các ngành sản xuất, chế biến kinh doanh hàng
xuất khẩu, thay thế nhập khẩu. Đặc biệt Ngân hàng luôn khuyến khích
những dự án có hiệu quả kinh tế cao, sử dụng công nghệ kỹ thuật tiên
tiến, góp phần thực hiện mục tiêu Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất
nước.
Tuy nhiên, để lựa chọn được những dự án như vậy, đòi hỏi công tác thẩm
định dự án tín dụng đầu tư của Ngân hàng phải có hiệu quả cao. Trên
thực tế, hoạt động thẩm định của Ngân hàng vẫn còn nhiều vướng mắc.
Làm sao để nâng cao chất lượng công tác thẩm định vẫn là một câu hỏi
mà Ngân hàng phải trả lời trong thời gian tới.
Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu với những luận
cứ về lý luận và thực tiễn, khoá luận đã thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Khái quát hoá những vấn đề có tính lý luận về thẩm định dự án tín
dụng đầu tư của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
- Khoá luận đã phân tích thực trạng công tác thẩm định dự án tín
dụng đầu tư. Từ đó rút ra những thành công cũng như thất bại trong
công tác thẩm định của Ngân hàng Ngoại thương
- Đưa ra những giải pháp và đề xuất những kiến nghị đối với những
bên liên quan để nâng cao hiệu quả thẩm định trong thời gian tới.
Thẩm định dự án tín dụng đầu tư là một nghiệp vụ rất khó khăn vì nó đòi
hỏi cán bộ thẩm định phải có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực, không
chỉ về tín dụng, về thế chấp, bảo lãnh mà còn liên quan đến kỹ thuật công
nghệ. Bên cạnh đó, do nền kinh tế Việt Nam còn yếu kém, thiếu hụt
những công cụ thẩm định nên việc khắc phục hạn chế trong thời gian
ngắn là hết sức khó khăn. Do tính chất phức tạp như vậy nên những vấn
đề mà khoá luận đề ra không tránh khỏi có những hạn chế. Tôi rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của những người quan tâm.
Một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Thầy giáo - GS. NGƯT Đinh
Xuân Trình, người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện chuyên đề này. Xin chân thành cảm ơn Ban lãnh
đạo, các cán bộ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tạo điều kiện, giúp
đỡ tôi hoàn thành khoá luận này
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngân hàng thương mại - Edward Weed - NXB thống kê 1993
2. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - Fredic Miskin - NXB
Khoa học kỹ thuật 1995
3. Phân tích kinh tế các hoạt động đầu tư - Viện Ngân Hàng Thế
Giới (WBI).
4. Quản trị dự án đầu tư trong nước và quốc tế - PGS-TS Võ Thanh
Thu - NXB Thống kê 1996
5. Phân tích và quản lý các dự án đầu tư - Nguyễn Ngọc Mai -
NXB Khoa học kỹ thuật 1995
6. Phân tích & thẩm định dự án đầu tư - TS Phước Minh Hiệp -
NXB Thống Kê
7. Review Guide- Principles of Advanced Credit Assessment -
Deutsche Bank 1994
8. Evaluating the Risks - ADC Gardner Workbook
9. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Ngoại Thương năm 1999,
2000, 2001
10. Tạp chí Ngân hàng năm 2001
11. Báo cáo thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn của Ngân hàng
Ngoại Thương
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
Chương 1: Những vấn đề chung về dự án đầu tư và thẩm định dự án tín
dụng đầu tư. 1
I. Khái niệm chung về dự án đầu tư 1
1.1. Khái niệm về dự án đầu tư. 1
1.2. Nội dung của dự án đầu tư 4
II. Thẩm định dự án tín dụng đầu tư. 6
2.1. Khái niệm 6
2.2. Mục đích, ý nghĩa, yêu cầu của thẩm định dự án tín dụng đầu tư.
2.3. Quy trình thẩm định dự án đầu tư. 8
III. Hoạt động tín dụng đầu tư theo dự án của ngân hàng
2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư theo dự án 26
3. Hiệu quả kinh tế của hoạt động tín dụng đầu tư theo dự án 29
Chương 2: Thực trạng hoạt động thẩm định dự án tín dụng đầu tư của
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. 32
I. Khái quát về Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 32
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại Thương
Việt Nam 32
2. Tình hình hoạt động của Ngân hàng Ngoại Thương trong những
năm gần đây 33
II. Thực trạng công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại Ngân hàng
Ngoại Thương Việt Nam. 41
1. Quy trình thẩm định của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
Thẩm định hồ sơ pháp lý 41
Phân tích tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
42
Thẩm định dự án đầu tư mới 44
Thẩm định điều kiện đảm bảo tiền vay 51
Phần kết luận 53
2. Đánh giá chung về hoạt động thẩm định tại Ngân hàng Ngoại
Thương Việt Nam. 53
Những mặt đã đạt được 54
Những tồn tại trong công tác thẩm định 57
Nguyên nhân của những tồn tại 61
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thẩm định dự án
tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. 68
I. Những định hướng trong hoạt động tín dụng đầu tư và công tác thẩm
định. 68
1. Những định hướng trong hoạt động tín dụng đầu tư. 68
Chiến lược huy động vốn 68
Định hướng trong công tác cho vay 69
2. Định hướng trong công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư. 71
II. Những hạn chế trong giải pháp hiện hành 71
III. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thẩm định dự án tín dụng
đầu tư tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. 73
1. Xây dựng hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng. 73
2. Phương pháp thẩm định 78
3. Tổ chức và nhân sự 85
4. Phát huy vai trò tư vấn của Ngân hàng đối với chủ đầu tư 88
5. Về trang thiết bị kỹ thuật 90
IV. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án tín dụng
đầu tư. 90
2. Kiến nghị đối với nhà nước, các bộ, các ngành có liên quan 91
3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước 93
Kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn-Thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.pdf