Luận văn Thẩm quyền của tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk

Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là cấp xét xử đầu tiên và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án hành chính, Việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính được khách quan, chính xác sẽ giảm thiểu được việc kháng cáo, kháng nghị, rút ngắn được thời gian giải quyết vụ án và củng cố lòng tin của nhân dân với cơ quan xét xử. Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là chức năng, nhiệm vụ của TAND theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND. Trong quá trình này, TA cấp sơ thẩm thực hiện những quyền hạn của mình để xem xét, đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện và nhân danh nhà nước đưa ra một phán quyến khách quan, công bằng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước. Cùng với sự phát triển của đất nước và sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật TTHC, những năm qua việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính của TAND tỉnh Đăk Lăk đã có những kết quả đáng khích lệ: Tỷ lệ án giải quyết luôn đạt và vượt chỉ tiêu giải quyết theo quy định của Ngành, chất lượng xét xử các vụ án hành chính ngày càng được cải thiện, không có bản án nào tuyên không rõ dẫn đến khó thi hành, tỷ lệ án sơ thẩm bị hủy và sửa án đã từng bước được khống chế. Tuy nhiên, cũng như các TAND địa phương khác, công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính tại TAND tỉnh Đăk Lăk không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành TAND. Để góp phần nâng cao chất lượng thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính, luận văn đã tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính và99 những quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính. Luận văn cũng làm rõ thực trạng thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk thông qua các phương pháp khảo sát thực tế, phân tích tổng hợp, phỏng vấn các Thẩm phán, Hội thẩm có nhiều kinh nghiệm trong công tác xét xử vụ án hành chính. Trên cớ sở phản ảnh trung thực những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong công tác, Luận văn đã phân tích, đánh giá làm rõ những nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến thực trạng thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Từ đó, đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để nâng cao chất lượng thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính. Những kết quả đạt được trong luận văn thể hiện nỗ lực, cố gắng của tác giả, sự giúp đỡ nhiệt tình và có trách nhiệm của các thầy cô, các nhà khoa học, các đồng chí đồng nghiệp là Thẩm phán Tòa Hành chính TAND tỉnh Đăk Lăk, các Thẩm phán TAND các địa phương trong tỉnh và đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn khoa học luận văn này. Do điều kiện công tác bận rộn và khả năng nghiên cứu của tác giả còn hạn chế, luận văn này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tác giả luận văn rất mong được sự thông cảm và đóng góp ý kiến chân thành của các nhà khoa học và các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn./.

pdf101 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 523 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thẩm quyền của tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật TTHC năm 2015 nhằm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tranh tụng theo tính thần cải cách tư pháp. Hiện nay cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành văn bản hướng dẫn việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại nên các Thẩm phán gặp nhiều khó khăn khi lập hồ sơ vụ án. 2.3.3. Kinh nghiệm trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính Xét xử vụ án hành chính tại phiên tòa là nhiệm vụ rất khó khăn của Hội đồng xét xử. Để có một phán quyết khách quan, công bằng, Hội đồng xét xử phải làm rõ tất cả các tình tiết của vụ án nhằm xác định sự thật khách quan 76 trong vụ án. Kinh nghiệm cho thấy, thực hiện tốt việc hỏi tại phiên tòa là công việc quan trọng, quyết định đến chất lượng xét xử vụ án hành chính nói chung và vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm nói riêng. Mặc dù đối tượng khởi kiện vụ án hành chính rất rộng và chưa có một thống kê nào xác định được có bao nhiêu loại văn bản hoặc hành vi hành chính có thể bị khởi kiện tại TA hành chính, tuy nhiên, để giải quyết bất cứ vụ án hành chính nào Thẩm phán cũng cần phải làm rõ tính hợp pháp hay không hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện. Trên cơ sở đối tượng cần chứng minh trong vụ án, Thẩm phán phải chuẩn bị kế hoạch hỏi các đương sự tại phiên tòa. Cần lưu ý đặc điểm của người bị kiện trong vụ án hành chính là người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ chuyên môn cao trong cơ quản quản lý hành chính nhà nước nên Thẩm phán phải đầu tư, chuẩn bị chu đáo các câu hỏi để tránh sự lúng túng (do Thẩm phán không có kiến thức chuyên ngành). Để xác định tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, Hội đồng xét xử dựa vào yêu cầu khởi kiện, sự phản biện của người bị kiện và ý kiến của người có quyền, nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ của vụ án, đối chiếu với quy định của pháp luật có liên quan để làm rõ các vấn đề: Thẩm quyền ban hành quyết định, hình thức văn bản, trình tự ban hành văn bản, thời hạn ban hành, căn cứ và nội dung của văn bản. Trường hợp đối tượng khởi kiện là quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn phải xem xét thời hiệu ban hành quyết định (pháp luật quy định nếu còn thời hiệu xử lý vi phạm hành chính thì hình thức xử phạt khác với trường hợp đã hết thời hiệu xử lý vi phạm). 77 Tiễn kết Chương 2 Trong Chương 2 của Luận văn, tác giả đã nêu và phân tích làm rõ tình hình khiếu kiện và thực trạng thực hiện thẩm quyền thụ lý, xét xử vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm tại TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016. Trên cơ sở phân tích làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc trong công tác cùng những nguyên nhân dẫn tới thực trạng, tác giả cũng rút ra một số bài học kinh nghiệm để nâng cao chất lượng công tác xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Cùng với việc phân tích các nguyên nhân khách quan, chủ quan của thực trạng, tác giả cũng đưa ra một số ý kiến cá nhân để góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật TTHC. Những nội dung của Chương 2 là tiền đề, là cơ sở để tác giả đề xuất các giải pháp tại Chương 3 của Luận văn. 78 Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK LĂK 3.1. Tình hình khiếu kiện hành chính trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính trong những năm tới trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk 3.1.1. Cơ sở khiếu kiện Đăk Lăk là tỉnh có những lợi thế to lớn về tự nhiên và con người, đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, về hệ động thực vật đa dạng, phong phú. Thực hiện Kết luận số 60 - KL-TW ngày 27/11/2009 của Bộ Chính trị và Quyết định số 87/2010/ QĐ - Ttg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đắk Lắk đang nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu xây dựng tỉnh Đắk Lắk trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng Tây Nguyên và xây dựng TP Buôn Ma Thuột trở thành đô thị trung tâm vùng Tây Nguyên và là TP trực thuộc Trung ương trước năm 2020. Những năm qua, Đăc Lăk chủ trương xây dựng, phát triển nền kinh tế vững mạnh và toàn diện trên mọi lĩnh vực: Nông lâm ngư nghiệp; điện năng và ngành công nghiệp (đặc biệt là khai thác khoáng sản) và tiểu thủ công nghiệp; thương mại - dịch vụ - du lịch. Trong những năm tới, trong điều kiện đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương chủ Đảng, Đắk Lắk là điểm đến quan trọng thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong khi đó, cơ chế quản lý kinh tế và cải cách hành chính của đất nước nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng đang từng bước được hoàn thiện, nhiều chính sách pháp luật của nhà nước về quản lý đất đai, bồi thường, giải phóng mặt bằng, quản lý thị trường, quản lý thuế đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để đáp ứng xu thế phát triển và hội nhập của đất nước. Tuy 79 nhiên, trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội của địa phương, việc áp dụng chính sách pháp luật của nhà nước vào điều kiện thực tế của tỉnh Đắk Lắk không thể tránh khỏi những bất cập và những tình huống mới phát sinh dẫn đến việc khiếu kiện hành chính. Điều này cho thấy tình hình khiếu kiện hành chính trong những năm sắp tới trên địa bản tỉnh Đắk Lắk sẽ ngày càng nhiều và phức tạp. Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, trình độ dân trí ngày càng được nâng lên. Người dân Tây Nguyên ngày càng hiểu biết pháp luật, hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp luật để phát huy được quyền dân chủ của công dân và tham gia tích cực vào đời sống chính trị - xã hội. Bên cạnh đó, việc ban hành Luật TTHC năm 2015 đã tạo sự thuận lợi rất lớn cho cơ quan, tổ chức, các cá nhân trong việc thực hiện quyền khởi kiện hành chính. Những yếu tố trên cho phép dự báo tính hình khiếu kiện hành chính trên địa bàn tỉnh Đắk Lăk ngày càng tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp của khiếu kiện. 3.1.2. Nội dung khiếu kiện Trong những năm tới, tình hình khiếu kiện hành chính tại TAND hai cấp trên địa bản tỉnh Đắk Lăk sẽ diễn ra rất phức tạp, làm gia tăng về số lượng thụ lý vụ án hành chính tại TA. Các khiếu kiện sẽ tập trung vào một số lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước nhưng chủ yếu tập trung vào những khiếu kiện trong lĩnh vực quản lý đất đai, lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực thuế và dịch vụ du lịch... Trong thời đại Internet và công nghệ số, số đơn gửi qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án sẽ tăng nhiều. Việc xử lý đơn khởi kiện sẽ phức tạp hơn. Người khởi kiện vụ án hành chính không chỉ là cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước mà còn là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sinh sống, làm việc tại tỉnh Đăk Lăk. Người khởi kiện sẽ phong phú, đa dạng hơn 80 về sắc tộc, quốc tịch như người Kinh, người dân tộc thiểu số, người nước ngoài... Người khởi kiện không chỉ một, hai hoặc nhiều người mà có thể nhiều cơ quan, tổ chức. Do điều kiện kinh tế - xã hội những năm tới phát triển hơn về mọi mặt nên đối tượng khiếu kiện sẽ phức tạp hơn. Người khởi kiện có thể kiện nhiều quyết định hành chính hoặc nhiều hành vi hành chính, có thể vừa kiện cả quyết định hành chính và hành vi hành chính trong các lĩnh vực. Ví dụ: Người khởi kiện có thể vừa kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính và quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, vừa kiện hành vi cưỡng chế hành chính; hoặc vừa kiện quyết định thu hồi đất và quyết định bồi thường giải phóng mặt bằng, vừa kiện hành vi cưỡng chế thu hồi đất. Lĩnh vực khởi kiện sẽ rất đa dạng, từ quản lý đất đai, quản lý thuế, quản lý thị trường, lĩnh vực xây dựng, khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực cạnh tranh, khiếu kiện việc lập danh sách cử tri... Do người khởi kiện ngày càng nắm vững quy định pháp luật nên mâu thuẫn trong tranh chấp hành chính ngày càng gay gắt, phức tạp đòi hỏi Hội đồng xét xử phải không ngững nâng cao năng lực bà bản lĩnh nghề nghiệp. Theo quy định của Luật TTHC năm 2015, khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện thuộc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh. Hiện tại số lượng thụ lý vụ án hành chính của TAND cấp tỉnh đã tăng nhiều và sẽ tăng mạnh hơn trong những năm tới, số lượng thụ lý vụ án hành chính của Tòa án cấp tỉnh sẽ tăng mạnh hơn do nhu cầu quản lý hành chính, kinh tế, xã hội trên địa bản không ngừng tăng lên. Trên đây là những dự báo về tình hình khiếu kiện hành chính trên địa bản tỉnh Đăk Lăk trong những năm tới. Dự báo này cho thấy trách nhiệm của TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk trong việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính trong 81 những năm tới rất nặng nề và khó khăn. Để thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử sơ thẩm vụ án hành chính trong những năm tới, TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk cần có sự chuẩn bị đầy đủ về các yếu tố như năng lực của đội ngũ Thẩm phán, năng lực quản lý chỉ đạo, điều hành, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác. Đây chính là các yếu tố nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án. 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính 3.2.1. Tăng cường nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính Trong hoạt động xét xử nói chung và xét xử vụ án hành chính nói riêng, Hội đồng xét xử (với vai trò trung tâm là Thẩm phán) có quyền “cầm cân, nảy mực”, nhân danh Nhà nước ra phán quyết về một vụ án, phán quyết này được Nhà nước bảo đảm thi hành. Để nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử các vụ án hành chính, bảo đảm cho phán quyết khách quan, công bằng, Hội đồng xét xử phải nhận thức được rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác này, từ đó xác định trách nhiệm của mình khi giải quyết các khiếu kiện hành chính. Khiếu kiện hành chính phát sinh một cách khách quan trong quá trình thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, do cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện khi nhận thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị thiệt hại bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Hội đồng xét xử phải làm rõ tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, những vi phạm, thiếu sót của cơ quan quản lý được phát hiện, chấn chính để củng cố nhằm khôi phục trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện. Như vậy, việc giải quyết vụ án hành chính vừa mang ý nghĩa khắc phục những sai phạm, yếu kém trong công tác quản lý 82 hành chính, vừa nhằm mục đích nâng cao năng lực, hiệu quả của bộ máy hành chính, góp phần ổn định và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Do đối tượng khiếu kiện hành chính là quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan quản lý hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý hành chính nhà nước cho nên một số Thẩm phán có tâm lý nể nang, thiên vị cho phía bị kiện dẫn tới việc xét xử thiếu khách quan. Hậu quả của phán quyết sai lầm không chỉ làm thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của đương sự mà điều quan trọng là sai phạm, thiếu sót của cơ quan hành chính Nhà nước không được khắc phục, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân với cơ quan quyền lực Nhà nước. Vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm cần nhận thức rõ ràng, đầy đủ mục đích, ý nghĩa của công tác xét xử các vụ án hành chính, thấy được xét xử các vụ án hành chính là nhiệm vụ, quyền hạn là trách nhiệm thiêng liêng, cao cả để bảo vệ công lý, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ nhân dân. Để nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xét xử các vụ án hành chính, TAND tối cao với trách nhiệm quản lý các TAND về mặt tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm3, cần tiến hành các biện pháp nhằm tăng cường giáo dục đạo đức, ý thức trách nhiệm cho Thẩm phán và Hội thẩm, như tiếp tục tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn giáo dục, vận động viết bài trên website của TAND tỉnh Đăk Lăk, tổ chức các cuộc vận động học tập và làm theo tấm dương đạo đức và những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngành TAND... giúp cho Thẩm phán, Hội thẩm nhận thức đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Ngành cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xét xử. Thẩm phán và Hội thẩm cũng cần nỗ lực 83 học hỏi, kịp thời nắm bắt những quy định được sửa đổi, bổ sung hoặc mới ban hành. Từ đó, Thẩm phán, Hội thẩm nhận thức đầy đủ về giới hạn, phạm vi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của minh và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật trong quá trình xét xử các vụ án hành chính. Về phía các đương sự, việc nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xét xử các vụ án hành chính giúp cho họ thực hiện nghiêm chỉnh, các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Đương sự chấp hành giấy triệu tập, cung cấp đầy đủ chứng cứ... sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động xét xử của TA, góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án để các phán quyết của TA được khách quan, kịp thời. Để đương sự nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xét xử các vụ án hành chính, Thẩm phán có trách nhiệm giải thích đồng thời phổ biến, hướng dẫn cho đương sự thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ trong các giai đoạn tố tụng. 3.2.2. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát của Tòa án nhân dân cấp trên đối với Tòa án nhân dân cấp dưới Để nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính, đòi hỏi TAND các cấp nói chung và TAND tỉnh Đăk Lăk phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý chỉ đạo, điều hành, tăng cường sự kiểm tra giám sát của TAND cấp trên với TAND cấp dưới trong công tác xét xử vụ án hành chính. Theo Luật Tổ chức TAND năm 2014, TAND được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc “độc lập theo thẩm quyền xét xử”; TAND tối cao có nhiệm vụ “Giám đốc việc xét xử của các TA khác, tổng kết thực tiễn xét xử của các TA, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Quản lý các TAND và TA quân sự về tổ chức; Tổ chức công tác đào tạo; bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác của TAND” . Tại các Tòa án, Chánh án có nhiệm vụ “Tổ chức công tác xét xử của Tòa án nhân dân; chịu trách 84 nhiệm tổ chức thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ; Chánh án TAND cấp tỉnh phải: “Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm, các chức danh khác của TA tỉnh và TAND cấp huyện” [14]. Vì vậy, việc tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và tăng cường kiểm tra giám sát của TAND cấp trên đối với TAND cấp dưới có vai trò, ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công tác xét xử nói chung và công tác xét xử các vụ án hành chính nới riệng. Việc tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và kiểm tra giám sát trong nội bộ TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk được thực hiện qua một số nội dung sau đây: Thứ nhất, bố trí đủ biên chế cho Tòa hành chính TAND tỉnh và các TAND cấp huyện; tăng cường những Thẩm phán có tinh thần trách nhiệm, có trình độ năng lực chuyên môn và giàu kinh nghiệm làm công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính. Trong điều kiện các vụ án nói chung và các vụ án hành chính nói riêng được thụ lý ngày càng nhiều và càng phức tạp, biên chế của TAND các cấp còn hạn chế; tình trạng Thẩm phán phải làm việc quá tải đang xảy ra tại nhiều TAND địa phương. Điều này dẫn tới hệ lụy là Thẩm phán không có nhiều thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án để nâng cao chất lượng xét xử. Việc bố trí đủ biên chế giúp chia sẻ bớt áp lực, căng thẳng về công việc của Thẩm phán, tạo điều kiện cho họ nghiên cứu, chuẩn bị kỹ càng trước khi đưa vụ án ra xét xử Thứ hai, mặc dù Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử nhưng vẫn phải chịu sự quản lý của Chánh án TAND cấp mình và chịu sự quản lý về tổ chức của TAND tối cao, do đó, TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk cần thực hiện đúng Chỉ thị, Kế hoạch chương trình công tác hàng năm của TAND tối cao. Trên cơ sở chỉ tiêu nghiệp vụ của Chương trình công tác và điều kiện thực tế của đơn vị mình, các TAND cấp huyện đề ra những biện pháp phù hợp, sát 85 đúng nhằm thực hiện nhiệm vụ mà TAND cấp tỉnh đặt ra. Các TAND phải thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo và quản lý công tác trong toàn Ngành. Thứ ba, Chánh án TAND (đặc biệt là cấp huyện) phải có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, đầy đủ theo yêu cầu công tác. Căn cứ vào tính chất của vụ án, năng lực, sở trường, trình độ của Thẩm phán yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, Chánh án TAND phân công việc thụ lý giải quyết vụ án, bảo đảm thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật, bảo đảm cho vụ án được giải quyết kịp thời, khách quan, công bằng. Việc lãnh đạo, chỉ đạo phải sâu sát, trực tiếp (nghe báo cáo và trực tiếp nghiên cứu hồ sơ) để nắm được tình hình, diễn biến cũng những khó khăn, vướng mắc trong công tác để kịp thời chỉ đạo hoặc có biện pháp hỗ trợ. Chánh án TAND các cấp cần duy trì việc tổ chức giao ban định kỳ hoặc đột xuất nhằm phân tích đánh giá những kết quả đạt được, giải quyết những tồn tại, vướng mắc trong công tác và đề ra biện pháp chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém làm hạn chế đến chất lượng công tác để từ đó tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành nhằm nâng cao hiệu quả công tác. Thứ tư, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử nhưng vẫn phải chịu sự quản lý của Chánh án TAND cấp mình và chịu sự quản lý về tổ chức của TAND tối cao.. Do vậy, ở mỗi cấp TAND, các Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thư ký TA phải quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ngành, tuân thủ sự quản lý, chỉ đạo của Chánh án TAND địa phương. Thứ năm, theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014, TAND cấp dưới phải chịu sự kiểm tra, giám sát về nghiệp vụ của TAND cấp trên. Quy định này không làm mất đi sự độc lập trong xét xử của Thẩm phán và Hội 86 thẩm mà còn bảo đảm cho vụ án hành chính được xét xử kịp thời, xét xử đúng quy định pháp luật, hạn chế việc hủy, sửa, cải án kéo dàu thời gian giải quyết, ảnh hưởng đến uy tín của TA và quyền lợi hợp pháp của đương sự. Sự kiểm tra, giám sát của TAND cấp trên đối với TAND cấp dưới thể hiện qua việc nắm tình hình số liệu thụ lý, tiến độ và kết quả xét xử, kiểm tra việc lập hồ sơ, thủ tục giải quyết, giải đáp, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho TAND cấp dưới. Thực tế cho thấy, công tác kiểm tra, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của TAND tỉnh Đăk Lăk đối với các TAND cấp huyện đã mang lại những hiệu quả tích cực. Thông qua việc kiểm tra, giám sát, Thẩm phán nhận ra những thiếu sót, sai phạm của mình để khắc phục nên chất lượng công tác xét xử được nâng lên, Thẩm phán sẽ rút được những bài học kinh nghiệm về nghiệp vụ và có ý thức nâng cao trách nhiệm của bản thân trong công tác xét xử các vụ án hành chính. Vì vậy, tăng cường hơn nữa sự kiểm tra, giám sát về nghiệp vụ của TAND cấp trên đối với TAND cấp dưới là yếu tố quan trong để nâng cao chất lượng xét xử vụ án hành chính. Lãnh đạo TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk cần chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thông tin báo cáo, thỉnh thị ý kiến của TAND cấp trên về nghiệp vụ xét xử. Lãnh đạo TAND cấp trên cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát nghiệp vụ của TAND cấp dưới nhằm phát hiện những tồn tại, thiếu sót để kịp thời khắc phục, sửa chữa; đồng thời tăng cường hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường thông báo rút kinh nghiệm cho các TAND trong công tác xét xử. 3.2.3. Nâng cao năng lực, trình độ, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm và bản lĩnh công tác của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm Làm thay đổi nhận thức của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm về công tác xét xử vụ án hành chính, nâng cao trình độ và rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, 87 kinh nghiệm, bản lĩnh trong công tác cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm là giải pháp quan trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng xét xử. Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy của pháp luật và được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử. Hội thẩm là người có phẩm chất đạo đức, có lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín, có kiến thức pháp luật và hiểu biết xã hội được bầu để tham gia xét xử theo sự phân công của Chánh án. Thực tế cho thấy, mặc dù việc bổ nhiệm Thẩm phán hoặc bầu Hội thẩm được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục và điều kiện do pháp luật quy định nhưng vẫn còn tình trạng một số Thẩm phán thiếu năng lực và kinh nghiệm công tác, một số Hội thẩm không am hiểu pháp luật hoặc nể nang, thiếu kiên quyết trong việc bảo vệ công lý dẫn tới vụ án được giải quyết thiếu khách quan. Nâng cao năng lực, trình độ của Thẩm phán, Hội thẩm cần được TAND các cấp và TAND tỉnh Đăk Lăk tiến hành và duy trì thường xuyên với một số nội dung sau đây: Thứ nhất, việc bổ nhiệm Thẩm phán, bầu Hội thẩm phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Những người dự tuyển ký thi tuyển chọn Thẩm phán phải có đủ điều kiện, tiêu chuẩn quy định tại các Điều 67 và 68 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán là kỳ thi quốc gia rất quan trọng và cần thiết nên cần phải tổ chức nghiêm trang, công bằng. Từ khâu xét tuyển hồ sơ đến việc thi tuyển đều phải nghiêm túc, cần nghiêm khắc loại bỏ tình trạng “nể nang”, “châm chước” dẫn tới hậu quả Thẩm phán được bổ nhiệm không có đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ. Việc chọn, bầu Hội thẩm cũng cần phải thực hiện nghiêm túc, tuân thủ đúng điều kiện, thủ tục do Luật Tổ chức TAND quy định, tránh tình trạng chọn người thân quen không đủ điều kiện hoặc bầu theo cảm tính nhằm bảo đảm khách quan và tuyển được người có năng lực hơn. 88 Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, ý thức tổ chức kỷ luật; rèn luyện đạo đức và lối sống đúng đắn, trong sạch cho Thẩm phán, Hội thẩm Quán triệt và động viên Thẩm phán, Hội thẩm thực hiện tốt các văn kiện của Đảng như Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc “học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, kết hợp với thực hiện cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức TAND” gắn với phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” và “Tất cả để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” nhằm xây dựng đội ngũ Thẩm phán "Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm". Ngoài việc trau dồi đạo đức của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm, Chánh án TAND phải quan tâm, động viên đúng mức để đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm duy trì và phát huy tinh thần tận tụy, yêu ngành yêu nghề, tinh thần hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Thứ ba, nhằm bảo đảm cho đội ngũ Thẩm phán có đủ năng lực, trình độ, kỹ năng công tác, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, Chánh án TAND tỉnh Đăk Lăk cần thực hiện tốt Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Việc cử cán bộ đi đào tạo cơ bản, cử tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ phải được cân nhắc tính đến yếu tố công bằng, tránh để tình trạng người làm được việc thì cứ làm mãi, không có cơ hội đi học; còn người yếu kém làm không được việc, thì cứ đi học mãi. Mặt khác, TAND tỉnh cũng cần rà soát, kiểm tra, đánh giá năng lực của Thẩm phán nhằm phát hiện những điểm thiếu sót, hạn chế của họ để có kế hoạch, đào tạo, bồi dưỡng. Ví dụ: Thường xuyên tổ chức những phiên tòa rút kinh nghiệm hoặc yêu cầu nhận xét, đánh giá việc giải quyết những vụ án hành 89 chính phức tạp do Thẩm phán khác hoặc Tòa án khác đã xét xử;... để kiểm tra năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm. Trên cơ sở đó lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đúng trọng tâm để thiết thực nâng cao năng lực, kinh nghiệm công tác của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm. Đối với đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cũng cần lưu ý đến chất lượng, tính thiết thực của chương trình, nội dung, phương pháp truyền đạt, đội ngũ giáo viên, cũng như chất lượng thực chất của việc dạy và học; không nên chạy theo điểm số, thành tích và càng không được phép thương mại hóa bằng cấp, chứng chỉ. Hậu quả sẽ tai hại hơn rất nhiều nếu đào tạo cho ra sản phẩm là những người đã được bằng cấp hóa mà năng lực chuyên môn vẫn yếu. Nhưng trong lĩnh vực hoạt động tư pháp thì ảnh hưởng tiêu cực của nó sẽ rất tai hại. Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng: Để nâng cao nâng lực xét xử của Thẩm phán, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần phải thiết thực, phù hợp với việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Thẩm phán, Hội thẩm. Trong điều kiện đất nước ngày cảng tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, số lượng các vụ án hành chính phức tạp và có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng, đội ngũ Thẩm phán không chỉ cần bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử mà còn cần chú trọng nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác như kỹ năng sử dụng các phương tiện, thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động xét xử. Bên cạnh việc cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng, TAND tỉnh cũng cần tổ chức những cuộc duy trì tổ chức các đợt tập huấn, các cuộc họp, sinh hoạt chuyên môn thường xuyên trong cơ quan nhằm nhắc nhở, chấn chỉnh, rút kinh nghiệm công tác xét xử. Ngoài ra, TANDTC cần thực hiện chính sách khuyến khích tự đào tạo và có kế hoạch về việc đào tạo chuyên sâu thêm cho đội ngũ Thẩm phán, kể 90 cả hỗ trợ đi đào tạo ở nước ngoài. Đồng thời, có thể tăng cường hợp tác quốc tế để tổ chức các lớp học tại chỗ mời chuyên gia về truyền đạt kiến thức mới. 3.2.4 Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính Thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng đặc biệt là tại phiên tòa sơ thẩm không chỉ góp phần để Hội đồng xét xử xét xử vụ án khách quan, đúng pháp luật mà còn kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật của TA trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Chính vì vậy phải bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong TTHC đặc biệt là tại phiên tòa sơ thẩm. Thực hiện quan điểm chỉ đạo về cải cách tư pháp của Đảng về “đẩy mạnh tranh tụng tại phiên tòa”, thể chế hóa quy định tại khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp năm 2013 về “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Tuy nhiên, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng không đồng nhất với việc thay thế hoàn toàn mô hình xét hỏi sang mô hình tranh tụng mà cần phải tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong thủ tục TTHC, thì nguyên tắc tranh tụng được thể hiện ngay từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc xét xử. Để duy trì những nội dung hợp lý của mô hình TTHC, cần xác định rõ trách nhiệm chứng minh thuộc về đương sự (bao gồm người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), TA chỉ có nghĩa vụ xác minh thu thập chứng cứ và xét hỏi khi cần thiết. Thủ tục TTHC cần phải tạo điều kiện để đương sự thực hiện quyền tranh tụng như: Quy định chặt chẽ về quyền, nghĩa vụ, thủ tục cung cấp chứng cứ, chứng minh; coi trách nhiệm thu thập chứng cứ của đương sự là nội dung trọng tâm. Thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự do thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định, nhưng phải trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử ở cấp sơ thẩm, trừ trường hợp có trở ngại khách quan mà không thể giao nộp chứng cứ đúng thời hạn. Chứng cứ do đương sự giao nộp phải được đương sự 91 chụp, sao thành nhiều bản. Khi nhận được chứng cứ, TA thông báo cho phía bên kia biết chứng cứ do đương sự nộp. Nếu phía bên kia yêu cầu được chuyển giao chứng cứ thì yêu cầu các bên giao nhận cho nhau, việc giao nhận phải lập thành văn bản. Việc chuyển chứng cứ cũng có thể do TA chuyển bản sao, bản chụp cho phía bên kia, kèm theo yêu cầu đương sự đưa ra ý kiến về việc chấp nhận hay không chấp nhận chứng cứ đó, đồng thời gửi bản sao tài liệu này đến VKSND cùng cấp đối với những trường hợp VKS tham gia phiên tòa hoặc có yêu cầu. Thẩm phán quy định thời hạn nhất định yêu cầu đương sự phải có ý kiến bằng văn bản đối với chứng cứ do bên kia nộp. Trường hợp đương sự không có ý kiến thì được xem như đã chấp nhận chứng cứ do phía bên kia cung cấp. Trong trường hợp cần phải thẩm tra lại chứng cứ mà đương sự cung cấp thì TA có thể hoãn phiên tòa. Phiên họp xem xét chứng cứ để đảm bảo việc thụ lý vụ việc được công khai, minh bạch, đúng pháp luật, các bên được trình bày, được biết chứng cứ của nhau cũng như đảm bảo tính có căn cứ, sự tồn tại của quyền, lợi ích cần được bảo vệ. Phiên họp để công khai công bố các chứng cứ và xem xét các chứng cứ các bên đưa và cung cấp cho TA; tại phiên họp, đương sự phải có nghĩa vụ cam đoan đã cung cấp đầy đủ chứng cứ mà mình có đến thời điểm mở phiên họp để bảo vệ yêu cầu của mình. Tại phiên họp các bên đương sự trao đổi về căn cứ pháp lý giải quyết sự việc. Đây cũng là nội hàm của “Đối thoại” đã được quy định trong Luật TTHC. Đương sự có quyền cung cấp bổ sung chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án cho đến khi kết thúc việc xét xử sơ thẩm. 3.2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong quần chúng nhân dân và các cá nhân, tổ chức có liên quan Từ năm 1996, TA hành chính được thành lập với nhiệm vụ thụ lý giải quyết các khiếu kiện hành chính. Khái niệm “xét xử vụ án hành chính” tuy 92 không còn xa lạ với người dân Việt Nam nhưng không it người dân vẫn chưa nhận thức đúng và đầy đủ về khái niệm này. Trong những năm gần đây, tình trạng khiếu nại và khởi kiện hành chính ngày càng tăng nhưng một số cơ quan, tổ chức, cá nhân vẫn có quan niệm vụ án hành chính là vụ án “kiện quan”. Việc giải quyết vụ án hành chính chỉ luôn nhằm bảo vệ cho “quan” với tư cách là cơ quan nắm quyền, người dân chỉ là những “con kiến” không được quan tâm, bảo vệ. Vì lý do này mà tranh chấp hành chính tuy rất phổ biến nhưng người dân không mặn mà với việc khởi kiện tại TA. Nếu quá trình TA giải quyết vụ án có yêu cầu họ giúp đỡ, hỗ trợ (như cung cấp tài liệu vật chứng liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc ra làm chứng tại TA...) thì không được họ tích cực ủng hộ, dẫn tới việc giải quyết vụ án không thuận lợi, thời gian giải quyết vụ án kéo dài, việc xác định sự thật khách quan trong vụ án gặp khó khăn. Do đó, làm thay đổi nhận thức và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho người dân có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết trong việc xét xử các vụ án hành chính. Đây là nhiệm vụ không kém phần khó khăn mà TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk phải thực hiện. Để giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho người dân đối với công tác xét xử các vụ án hành chính, TAND tỉnh cần phải áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp, như phổi hợp với các cơ quan tổ chức xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TTHC, tuyên truyền, giáo dục pháp luật tại phiên tòa, tổ chức các phiên tòa hành chính lưu động... Việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật tại các phiên tòa là một trong những chức năng, nhiệm vụ của TA. Thông qua việc xét xử công khai các vụ án hành chính, người dân theo dõi, quan sát, đánh giá các hoạt động của Hội đồng xét xử, nắm được trình tự, thủ tục tố tụng và nội dung giải quyết vụ án qua việc hỏi, trả lời, tranh luận tại phiên tòa. Từ đó, nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân. Việc TA đưa ra xét xử kịp thời, đúng pháp luật các vụ án 93 hành chính sẽ góp phần tạo ra sự thay đổi lớn lao trong nhận thức của người dân, tạo lòng tin của dân với TA. Đặc biệt, việc xét xử lưu động các vụ án hành chính sẽ làm cho nhiều người dân có điều kiện được theo dõi phiên tòa, làm cho họ thấy gần gũi, hiểu biết pháp luật hơn; họ có thể thực hiện đúng những quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng kế hoach tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TTHC cũng là một biện pháp TAND các cấp cần thực hiện để giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho người dân. Hình thức truyên truyền, giáo dục pháp luật được thực hiện rất phong phú, như: Tổ chức các cuộc vận động nhằm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật TTHC, tổ chức các buổi nói chuyện, viết các bài đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng, xây dựng mạng lưới tuyên truyền giáo dục pháp luật sâu rộng đến tận thôn, xóm, ấp, bản, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người v.v.. Thông qua đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xét xử vụ án hành chính; hiểu được trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết vụ án hành chính. 3.2.6. Bảo đảm cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm Trang bị đầy đủ và đồng bộ cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật cho các chủ thể làm công tác xét xử; quan tâm hơn nữa các chế độ ưu đãi và tôn vinh những người làm công tác xét xử là một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng công tác xét xử vụ án hành chính. Cơ sơ vật chất, phương tiện, kỹ thuật có tác động rất lớn hoạt động xét xử nói chung và xét xử các vụ án hành chính nói riêng. Nếu điều kiện làm việc: Phòng làm việc, trang thiết bị, dụng cụ cần thiết cho thao tác nghiệp vụ của thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội thẩm... được bố trí đầy đủ, hiện đại không 94 chỉ đáp ứng được yêu cầu công tác mà còn tạo ra không khí thoải mái, tự tin, yên tâm cống hiến, phục vụ nhân dân. Cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại (như phần mềm nhận, xử lý đơn khởi kiện, quản lý án) giúp cho hoạt động xét xử được nhanh chóng, thuận tiện và khoa học. Chánh án TAND không phải khó khăn, vất vả trong việc quản lý toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hành chính: Những đơn khởi kiện nào chưa đủ điều kiện thụ lý hoặc phải chuyển cho tòa án khác, những vụ án nào được đưa ra xét xử, vụ án nào quá hạn chưa được xử lý, bản án nào bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị... Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thuận tiện tra cứu văn bản pháp luật, án lệ, tham khảo khinh nghiệm trong công tác xét xử các vụ án. Mặt khác, nếu hội trường xét xử được trang bị hiện đại có thể truyền đi kịp thời những diễn biến tại phiên tòa để góp phần phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, giúp họ hiểu đúng và làm đúng quy định của pháp luật. Như vậy, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc hiện đại có vai trò rất lớn cho công tác xét xử. Với cơ quan TAND tỉnh Đăk Lăk trong điều kiện hiện nay, cơ sở vật chất còn quá thiếu thốn. Thậm chí trụ sở, các trang thiết bị văn phòng, phương tiện đi lại còn quá khó khăn, chưa đảm bảo đáp ứng được yêu cầu công tác. TAND các cấp trên địa bản tỉnh cần được trang bị thêm các phương tiện kỹ thuật hiện đại giúp cho việc nhận đơn, thụ lý vụ án, xác minh, thu thập chứng cứ được nhanh chóng, chính xác. Nhiệm vụ đặt ra cho UBND và TAND tỉnh Đăk Lăk hiện nay không chỉ là hiện đại hóa trang thiết bị để nâng cao chất lượng xét xử (các vụ án nói chung và xét xử vụ án hành chính nói riêng), mà nhiều TAND cấp huyện còn phải đặc biệt chú ý sửa, nâng cấp trụ sở làm việc nhằm đảm bảo tính tôn nghiêm của các cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước. Vì vây, UBND, TAND tỉnh Đăk Lăk cần quan tâm, trang bị kịp thời, đầy đủ trang thiết bị và các phương tiện hiện đại để phục vụ công tác, như các phần mềm quản lý án, máy tính xách tay, máy ghi âm, ghi hình, phương tiện 95 thông tin, phương tiện liên lạc... Ngoài ra, cũng cần bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng áp dụng công nghệ thông tin vào công tác xét xử. Thực tế cho thấy, khi công nghệ thông tin đã được ứng dụng rộng rãi và phát huy hiệu quả tích cực trong việc quản lý hồ sơ, giải quyết các vụ án đã giúp cho Thẩm phán, Hội thẩm xét xử vụ án được thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. TAND tỉnh Đăk Lăk cũng cần cập nhật những kỹ thuật tiên tiến, tương ứng với trình độ phát triển của xã hội và yêu cầu của công tác xét xử để đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm. Về tiền lương và chế độ ưu đãi đối với Thẩm phán, Hội thẩm cũng như Thaamt tra viên, Thư ký TA, TAND tối cao cần phải quan tâm đặc biệt đối với những người làm công tác xét xử. Trước hết, do đặc thù công việc của họ quá vất vả và chịu nhiều áp lực nên cần có sự ưu đãi. Khi đồng lương cán bộ làm công tác xét xử còn quá thấp, không đảm bảo cuộc sống, trong khi công việc lại thường xuyên bị cảm dỗ bởi những lợi ích vật chất được đưa đến từ phía các đương sự sẽ không tránh khỏi những băn khoăn. Vì vậy, muốn khắc phục một cách cơ bản tình trạng cán bộ bị đồng tiền thao túng, thì việc cải thiện tiền lương và các chế độ trợ cấp cho những cán bộ làm công tác tư pháp là một trong những giải pháp rất cơ bản. Làm sao để mỗi cán bộ đều toàn tâm, toàn ý phục vụ công tác, không phải lo lắng nhiều đến việc kiếm sống, lúc ấy tình trạng xét xử sai lệch, thiếu công bằng chắc chắn sẽ được đẩy lùi một bước cơ bản. Đảng, Nhà nước và mọi người dân đều tin tưởng vào sự khách quan, trung thực, chí công, vô tư của Hội đồng xét xử. Ngành TAND tỉnh Đăk Lăk cần đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cán bộ ngành Tòa án: “Phụng công thủ pháp, chí công, vô tư”. Thẩm phán và Hội thẩm là những người phải gánh vác trách nhiệm vô cùng lớn lao, nhân danh Nhà nước để bảo vệ công lý, bảo vệ 96 lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và của mọi người dân nên Nhà nước và xã hội yêu cầu họ phải luôn gương mẫu. Để bảo đảm trang thiết bị, phương tiện, kỹ thuật cho hoạt động xét xử, bên cạnh việc đầu tư nâng cấp thiết bị, trang bị thêm những máy móc, phương tiện kỹ thuật cần thiết, UBND, TAND tỉnh Đăk Lăk có thể khuyến khích sự giúp đỡ vô tư về trang thiết bị, về kỹ thuật tiên tiến từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài (không nhằm mục đích can thiệp vào quá trình giải quyết công tác chuyên môn của Tòa án). 3.2.7 Giải pháp đối với các cơ quan quản lý hành chính địa phương Kiến nghị các cơ quan quản lý hành chính nhất là chính quyền địa phương thuộc UBND cấp huyện khi thực hiện nhiệm vụ thẩm quyền thẩm quyền của mình cần áp dụng đúng các quy định của pháp luật. Việc giải quyết khiếu nại tố cáo cần giải quyết dứt điểm. Để hạn chế đến mức thấp nhất những khiếu kiện, Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải làm tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ đồng thời không ngừng tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân, thực hiện tốt công tác dân vận, có như vậy mới thực sự gần dân. Khi có khiếu nại, tố cáo phát sinh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải giải quyết kịp thời, đúng pháp luật sẽ sớm chấm dứt vụ việc, ngược lại nếu không giải quyết ngay, hoặc giải quyết không đúng thì vụ việc sẽ trở lên phức tạp, tiếp khiếu lên cấp trên hoặc phát sinh thành điểm nóng, gây mất ổn định, ảnh hưởng xấu đến sự đoàn kết của cộng đồng dân cư, bỏ lọt tội phạm, thiệt hại về tính mạng, tài sản, danh dự, uy tín của công dân và Nhà nước. Chính vì vậy mà Uỷ ban nhân dân cấp huyện cần hết sức coi trọng và làm tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở thuộc phạm vi trách nhiệm của mình. Ngoài ra, thực hiện tốt công tác này còn giúp các cơ quan Nhà nước kịp thời phát hiện những sai lầm, hạn chế trong hoạt động của mình để uốn nắn, sửa chữa nhằm nâng cao 97 hiệu quả quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, để hạn chế những khiếu kiện, cấp cơ sở cũng cần thường xuyên kiểm tra, xem xét những hoạt động quản lý của mình. Tiễn kết Chương 3 Xét xử vụ án hành chính có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính Nhà nước. Để nâng cao chất lượng công tác xét xử, cần phải dự báo chính xác về tình hình thụ lý cũng như tính chất mức độ của các khiếu kiện hành chính trong những năm tới để có sự chuẩn bị đầy đủ. Trong Chương 3 của luận văn, tác giả đã làm rõ cơ sở và nội dung của dự báo về tình hình thụ lý và tính chất mức độ của các khiếu kiện hành chính trong những năm tới trên địa bản tỉnh Đăc Lăk, đồng thời làm rõ những giải pháp để nâng cao chất lượng công tác xét xử vụ án hành chính. Tại Tòa án nhân dân tỉnh Đăc Lăk. Đây là những vấn đề tác giả rút ra quan nghiên cứu thực trạng của công tác xét xử vụ án hành chính trên địa bản tỉnh Đăc Lăk trong những năm gần đây. 98 KẾT LUẬN Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là cấp xét xử đầu tiên và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án hành chính, Việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính được khách quan, chính xác sẽ giảm thiểu được việc kháng cáo, kháng nghị, rút ngắn được thời gian giải quyết vụ án và củng cố lòng tin của nhân dân với cơ quan xét xử. Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là chức năng, nhiệm vụ của TAND theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND. Trong quá trình này, TA cấp sơ thẩm thực hiện những quyền hạn của mình để xem xét, đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện và nhân danh nhà nước đưa ra một phán quyến khách quan, công bằng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước. Cùng với sự phát triển của đất nước và sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật TTHC, những năm qua việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính của TAND tỉnh Đăk Lăk đã có những kết quả đáng khích lệ: Tỷ lệ án giải quyết luôn đạt và vượt chỉ tiêu giải quyết theo quy định của Ngành, chất lượng xét xử các vụ án hành chính ngày càng được cải thiện, không có bản án nào tuyên không rõ dẫn đến khó thi hành, tỷ lệ án sơ thẩm bị hủy và sửa án đã từng bước được khống chế... Tuy nhiên, cũng như các TAND địa phương khác, công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính tại TAND tỉnh Đăk Lăk không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành TAND. Để góp phần nâng cao chất lượng thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính, luận văn đã tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính và 99 những quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính. Luận văn cũng làm rõ thực trạng thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk thông qua các phương pháp khảo sát thực tế, phân tích tổng hợp, phỏng vấn các Thẩm phán, Hội thẩm có nhiều kinh nghiệm trong công tác xét xử vụ án hành chính. Trên cớ sở phản ảnh trung thực những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong công tác, Luận văn đã phân tích, đánh giá làm rõ những nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến thực trạng thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Từ đó, đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để nâng cao chất lượng thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính. Những kết quả đạt được trong luận văn thể hiện nỗ lực, cố gắng của tác giả, sự giúp đỡ nhiệt tình và có trách nhiệm của các thầy cô, các nhà khoa học, các đồng chí đồng nghiệp là Thẩm phán Tòa Hành chính TAND tỉnh Đăk Lăk, các Thẩm phán TAND các địa phương trong tỉnh và đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn khoa học luận văn này. Do điều kiện công tác bận rộn và khả năng nghiên cứu của tác giả còn hạn chế, luận văn này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tác giả luận văn rất mong được sự thông cảm và đóng góp ý kiến chân thành của các nhà khoa học và các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn./. 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ chính trị, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới ”. 2. Bộ chính trị, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 “ Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”. 3. Bộ chính trị, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 ”. 4. Bộ Chính trị, Thông báo kết luận số 230-TB/TW ngày 26.3.2009 về sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 5. Bộ Chính trị, Kết luận số 60 - KL-TW ngày 27/11/2009, Hà Nội. 6. Nguyễn Đức Chính “Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật TTHC Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành “Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật”- Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014. 7. Học viện Hành chính Quốc gia, Giáo trình Luật Hành chính và Tài phán hành chính Việt Nam (2008); Nhà xuất bản Chính trị, năm 2008, Hà Nội. 8. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012 – 2016), Báo cáo Tổng kết công tác các năm. 9. Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lăk (2012 - 2016) Các Bản án hành chính sơ thẩm, phúc thẩm, các quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính. 10. Phòng 10-Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012 – 2016), Báo cáo Tổng kết công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, Kinh doanh thương mại, Lao động. 101 11. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lăk, Một số Thông báo rút kinh nghiệm của trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, Kinh doanh thương mại, Lao động. 12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp năm 2013; Nhà xuất bản Chính trị, năm 2013, Hà Nội. 13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014; Nhà xuất bản Chính trị, năm 2014, Hà Nội. 14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật Tố tụng hành chính năm 2010; Nhà xuất bản Chính trị, năm 2010, Hà Nội. 15. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà nội- năm 2015 16. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996; 17. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 87/2010/QĐ - Ttg về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020. 18. Trung tâm Thông tin khoa học – Viện Nghiên cứu lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội – 2010, Pháp luật về Tố tụng hành chính một số nước và kinh nghiệm tham khảo đối với Việt Nam 19. Nguyễn Văn Thuân (2016), Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 12 trang 28, Thẩm quyền của Tòa án theo Luật TTHC năm 2015, Hà Nội. 20. Từ điển tiếng Việt thông dụng, (1996), NXB Giáo dục, Hà Nội 21. Từ điển Luật học, (2006), Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội 22. Vũ Thị Hòa (2011), “ Đối tượng khởi kiện và thẩm quyền xét xử theo Luật tố tụng hành chính 2010” Tạp chí kiểm sát, số 8, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_tham_quyen_cua_toa_an_nhan_dan_trong_xet_xu_so_tham.pdf
Luận văn liên quan