Hoạt động thanh tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong quản lý nhà nƣớc,
Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm
2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành Luật Thanh tra đã
có những quy định cụ thể. Để kết quả hoạt động thanh tra có thể đƣợc phát huy
tốt thì trƣớc hết kết quả đó phải có chất lƣợng tốt. Chất lƣợng của kết quả hoạt
động thanh tra phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ cơ sở pháp lý cho hoạt động
thanh tra, trình độ của đội ngũ cán bộ thanh tra, các biện pháp nghiệp vụ đƣợc
sử dụng trong quá trình thanh tra,. trong đó việc thẩm tra, xác minh là một khâu
quan trọng.
Qua nghiên cứu, Luận văn này có thể đƣa ra một số kết luận nhƣ sau: Từ
việc phân tích hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra thấy rằng
hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra có nhiều điểm đặc trƣng,
đặc thù, đƣợc thực hiện bởi cơ quan thanh tra gồm có Chánh thanh tra, ngƣời ra
quyết định thanh tra, ngƣời ra quyết định thành lập Tổ hoặc Đoàn xác minh
khiếu nại, tố cáo; Trƣởng đoàn thanh tra, Tổ trƣờng, trƣởng đoàn xác minh
khiếu nại, tố cáo; Thành viên đoàn thanh tra, thành viên đoàn xác minh khiếu
nại, tố cáo. Thực hiện dựa trên các yêu cầu: Phải đƣợc tiến hành đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục với phƣơng pháp khoa học, hợp lý, đảm bảo tính khách
quan, toàn diện, tƣờng minh, xác đáng, đảm bảo các nguyên tắc trong hoạt động
thanh tra, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra thời gian qua cơ
bản đã đáp ứng đƣợc những yêu cầu đặt ra trong bối cảnh tăng cƣờng hiệu lực,
hiệu quả công tác thanh tra, những yêu cầu của công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong tình hình mới, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy
nhiên, vẫn tồn tại những hạn chế nhƣ hoạt động thẩm tra, xác minh của một số
cuộc thanh tra còn thiếu tính toàn diện, tính kịp thời và tính kế hoạch.
Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra, xác minh thì
cần phải theo những định hƣớng lớn, trong đó tập trung vào ba định hƣớng sau:91
Nâng cao hiệu quả thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra phải đáp ứng
yêu cầu tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc và đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra
trong điều kiện hiện nay; phải gắn với yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức chuyên nghiệp; phải đáp ứng yêu cầu thực tế từ việc bảo đảm thực hiện
đúng các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra, giả quyết khiếu nại, tố cáo theo
hƣớng minh bạch, đơn giản.
Từ đó có các giải pháp sau: Hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt
động thẩm tra, xác minh trong thực hiện thanh tra; nâng cao kỹ năng, năng lực
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ Thanh tra; tăng cƣờng phối hợp,
phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị để tiến hành
thẩm tra, xác minh; tăng cƣờng cơ sở vật chất, thiết bị phƣơng tiện, kinh phí để
phục vụ cho hoạt động thẩm tra, xác minh.
Những giải pháp của luận văn này có thể đóng góp một phần để pháp luật
thanh tra nói chung và pháp luật về hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng ngày
càng đƣợc minh bạch, dân chủ, công bằng phù hợp với thực tiễn để bảo vệ
quyền, lợi ích của ngƣời dân, góp phần giảm bớt khiếu kiện và bức xúc xã hội
trong thời gian tới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 102 trang
102 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 850 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra – Từ thực tiễn thanh tra tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 bộ thanh tra dễ “ngợp” và “choáng”, do đó 
nếu không có bản lĩnh, trình độ thì cán bộ sẽ rất khó khăn khi tiến hành thẩm tra, 
xác minh. Thẩm tra, xác minh các cơ quan cấp dƣới, cán bộ trong cơ quan nhà 
nƣớc khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo, giải quyết khiếu nại, xem xét để 
xử lý kỷ luật theo thẩm quyền hoặc đề nghị xử lý kỷ luật là những nhiệm vụ khó 
khăn, phức tạp, tế nhị trong khi đối tƣợng thanh tra thông thƣờng có vị trí, 
cƣơng vị, kinh nghiệm, quá trình công tác, nhiều trƣờng hợp hơn cán bộ trực 
tiếp thanh tra. 
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế 
Thứ nhất, thẩm quyền của cơ quan thanh tra, của ngƣời ra quyết định 
thanh tra, của Trƣởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra trong hoạt động 
thẩm tra, xác minh chƣa đủ mạnh. Mặc dù trong Luật Thanh tra 2010 so với 
Luật Thanh tra 2004 chuyền từ “quyền đề nghị” sang “quyền yêu cầu” cung cấp 
thông tin, tài liệu nhƣng không kèm theo đó là các chế tài, các biện pháp cụ thể 
đối với ngƣời liên quan đến vụ việc cho nên việc cung cấp thông tin, tài liệu để 
thẩm tra, xác minh nhƣ thế nào vẫn còn hạn chế (ví dụ: nếu bên công an có lệnh 
triệu tập đối với các đối tƣợng liên quan, không tuân thủ sẽ bị cƣỡng chế thì bên 
thanh tra, nếu đối tƣợng liên quan không hợp tác, nhất quyết không gặp cán bộ 
thanh tra thì hiện nay chƣa có chế tài đối với ngƣời liên quan đến vụ việc), 
không bảo đảm cho ngƣời tiến hành thẩm tra, xác minh thực hiện tốt việc thẩm 
tra, xác minh tài liệu, chứng cứ. các chế tài chƣa cụ thể, không đồng nhất. 
Thứ hai, một số quy định của pháp luật về thanh tra hiện nay vẫn chƣa tạo 
sự chủ động cho trƣởng đoàn thanh tra. Ví dụ nhƣ quy định sử dụng con dấu của 
70 
Trƣởng đoàn thanh tra hiện nay chƣa rõ cho nên có những trƣờng hợp mà 
Trƣởng đoàn thanh tra cần thiết phải tiến hành thẩm tra, xác minh qua sử dụng 
biện pháp trƣng cầu giám định thì quy định pháp luật hiện hành vẫn phải là 
ngƣời ra quyết định thanh tra mới đƣợc trƣng cầu. Thực tế các văn bản quy 
phạm pháp luật quy định cụ thể về hoạt động thẩm tra, xác minh chƣa nhiều, 
mới chỉ đề cập trong bƣớc tiến hành của quy trình thanh tra; trình tự tiến hành, 
thụ lý, từng bƣớc phải làm gì chƣa đƣợc rõ ràng, chi tiết; các chế tài chƣa cụ thể, 
không đồng nhất. Việc thẩm tra, xác minh mới chỉ đƣợc quan tâm trong những 
năm gần đây, thể hiện ở một số quy định trong Luật Thanh tra, trong Luật Khiếu 
nại và Luật tố cáo, khi đó những vấn đề liên quan đến thẩm tra, xác minh, thẩm 
quyền ngƣời xác minh mới đƣợc quan tâm, tuy nhiên các quy định này chƣa 
hoàn thiện dẫn đến ý thức thực hiện pháp luật về vấn đề thẩm tra, xác minh 
trong thanh tra chƣa đƣợc cao. 
Thứ ba, ý thức của đội ngũ cán bộ thanh tra khi tiến hành thẩm tra, xác 
minh: Có một số cán bộ khi đi thẩm tra, xác minh không thực hiện đúng các 
nguyên tắc trong hoạt động thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, có thái độ 
hách dịch, quan liêu, cửa quyền gây ức chế cho đối tƣợng thanh tra, cho những 
ngƣời có tài liệu, chứng cứ dẫn đến thái độ chống đối, không hợp tác giải trình 
trong khi những chế tài xử lý chƣa đƣợc quy định rõ. 
Số lƣợng vụ việc ngày càng tăng nhƣng lực lƣợng thẩm tra, xác minh còn 
mỏng và thiếu, trình độ chuyên môn không đồng đều, thiếu chuyên gia giỏi ở 
các ngành chuyên môn kỹ thuật dẫn đến quy trình giải quyết đôi khi gặp khó 
khăn trong vấn đề xác minh, thẩm tra, khi giải quyết phải phối hợp nhiều ban 
ngành nên khó có thể giải quyết nhanh theo đúng tiến độ, nhất là những trƣờng 
hợp có lịch sử về nhà đất phức tạp. Trình độ, năng lực của cán bộ kiểm tra chƣa 
theo kịp và đáp ứng tính chất, quy mô và yêu cầu của công tác thanh tra, nhất là 
trình độ hiểu biết về kinh tế, xã hội, về quản lý kinh tế - xã hội, hiểu biết pháp 
luật. Các quan điểm, chủ trƣơng, chính sách, quy định về kinh tế - xã hội luôn 
thay đổi, trong khi một số cán bộ thanh tra không đƣợc cập nhật, nghiên cứu kịp 
71 
thời, do vậy trình độ nắm, hiểu của cán bộ thanh tra không theo kịp, lạc hậu so 
với tình hình thực tiễn, gây cản trở lâu dài đến hoạt động thẩm tra, xác minh. 
Thứ tư, sự phối hợp, ý thức pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân 
lƣu trữ hồ sơ: từ thực tiễn hoạt động quản lý hồ sơ tài liệu của Việt Nam hiện 
nay dẫn đến việc thẩm tra, xác minh nhiều trƣờng hợp gặp khó khăn vì các 
thông tin, tài liệu bị thất lạc, cán bộ thanh tra muốn tiến hành thẩm tra, xác minh 
nhƣng không có điều kiện để tiếp cận với tài liệu hoặc cơ quan, tổ chức lƣu trữ 
các tài liệu đã không lƣu trữ theo quy định nên không tìm thấy bản gốc để đối 
chiếu, so sánh. Bên cạnh đó, nhiều trƣờng hợp cán bộ thụ lý gặp khó khăn trong 
quá trình thẩm tra, xác minh bởi vấn đề thay đổi địa giới hành chính, trƣớc đây 
của tỉnh bây giờ về thành phố hay ngƣợc lại, dẫn đến việc bàn giao, thu thập hồ 
sơ gặp khó khăn, hay những vụ việc liên quan đến công trình xây dựng, cầu 
đƣờng, khi xây dựng xong rồi mới đi thẩm tra, xác minh thì hiện trạng lúc đó đã 
không còn, khó khăn trong việc thu thập, điều tra thông tin, tài liệu, chứng cứ. 
Thứ năm, kinh phí cho cơ sở vật chất, nguồn tài chính tiến hành thẩm tra, 
xác minh chƣa đƣợc đầu tƣ đúng mức, kinh phí phụ cấp cho các đoàn thah tra 
không ổn định, lâu dài, trang thiết bị làm việc và trang thiết bị đặc thù chƣa đảm 
bảo tính chuyên môn hóa sâu. Mà môi trƣờng làm việc đối với công chức bao 
gồm: Cơ sở vật chất, tinh thần, chế độ chính sách, mối quan hệ giữa lãnh đạo đối 
với nhân viên và giữa nhân viên với nhân viên, khi một trong các yếu tố đó 
không đƣợc đảm bảo làm cho môi trƣờng làm việc không tốt, hà khắc, thiếu 
thốn dẫn đến tâm lý chán nản, trì trệ ảnh hƣởng đến chất lƣợng công việc, cán 
bộ thanh tra chƣa thực sự yên tâm công tác và phục vụ nhân dân. 
72 
Kết luận chƣơng 2 
Hoạt động thanh tra của Thanh tra tỉnh Thái Nguyên góp phần rất quan 
trọng vào công tác quản lý nhà nƣớc, đặc biệt là tham mƣu cho Chủ tịch UBND 
tỉnh Thái Nguyên trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. 
Hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra do Thanh tra tỉnh 
Thái Nguyên thực hiện thời gian qua cơ bản đã đáp ứng đƣợc những yêu cầu đặt 
ra trong bối cảnh tăng cƣờng hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, những yêu 
cầu của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình mới, bảo đảm quyền 
và lợi ích hợp pháp của công dân. Các hoạt động thẩm tra, xác minh đƣợc thực 
hiện nghiêm túc, đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục, quá trình thẩm tra xác 
minh đã luôn bám vào nội dung thanh tra, tuân thủ các nguyên tắc, phƣơng pháp 
công tác thanh tra, phát huy dân chủ, khách quan, công khai. Hơn nữa, UBND 
tỉnh Thái Nguyên và Thanh tra tỉnh là hai cơ quan trực tiếp rất quan tâm đến 
việc tăng cƣờng hoạt động thẩm tra, xác minh thông tin, tài liệu trong hoạt động 
thanh tra 
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc thì hoạt động thẩm tra, xác minh trong 
hoạt động thanh tra của Thanh tra tỉnh Thái Nguyên thời gian qua vẫn tồn tại 
những hạn chế. Điều này chủ yếu thể hiện trên ba nét chính, đó là: hoạt động 
thẩm tra, xác minh của một số cuộc thanh tra còn thiếu tính toàn diện, tính kịp 
thời và tính kế hoạch. Nguyên nhân của những hạn chế đó là: Thẩm quyền của 
cơ quan thanh tra, của ngƣời ra quyết định thanh tra, của Trƣởng đoàn thanh tra, 
thành viên đoàn thanh tra trong hoạt động thẩm tra, xác minh chƣa đủ mạnh; 
một số quy định của pháp luật về thanh tra hiện nay vẫn chƣa tạo sự chủ động 
cho trƣởng đoàn thanh tra; lực lƣợng thẩm tra, xác minh còn mỏng và thiếu, 
trình độ chuyên môn không đồng đều; sự phối hợp, ý thức pháp luật của các cơ 
quan, tổ chức, cá nhân lƣu trữ hồ sơ; kinh phí cho cơ sở vật chất, trang thiết bị, 
nguồn tài chính tiến hành thẩm tra, xác minh chƣa đƣợc đầu tƣ đúng mức. 
Từ thực trạng trên, vấn đề đặt ra cần quan tâm là xác định đúng phƣơng 
hƣớng và các giải pháp tối ƣu để thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh 
nhằm phục vụ, góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động 
thanh tra. 
73 
Chƣơng 3: 
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THẨM TRA, 
XÁC MINH TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA 
3.1. Định hƣớng nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra, xác minh 
trong hoạt động thanh tra 
Trên cơ sở phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện hoạt 
động thẩm tra, xác minh thời gian qua, để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động 
thẩm tra, xác minh nhằm nâng cao chất lƣợng cuộc thanh tra, hiệu lực, hiệu quả 
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, luận văn đƣa ra một số định hƣớng trong 
thời gian tới nhƣ sau: 
Thứ nhất: Nâng cao hiệu quả thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh 
tra phải đáp ứng đƣợc yêu cầu tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc và đổi mới tổ chức, 
hoạt động thanh tra trong điều kiện hiện nay: 
Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc trong thời kỳ xây dựng nhà nƣớc pháp 
quyền, công nghiệp hóa – hiện đại hóa là một trong những yêu cầu, chủ trƣơng 
lớn của Đảng và Nhà nƣớc hiện nay. Nhu cầu về tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc 
đƣợc thể hiện trong nhiều văn bản, nhiều Nghị quyết của Đảng và Nhà nƣớc. Ở 
đây, tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc thể hiện ở: 
Các ngành, các lĩnh vực trong đời sống xã hội phải chịu sự quản lý nhà 
nƣớc. 
Nâng cao năng lực, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ 
quan có thẩm quyền quản lý, đặc biệt là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công 
chức. Trong bối cảnh tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc đối với các đời sống xã hội 
thì cơ quan thanh tra nằm trong hệ thống cơ quan thực thi quyền Hành pháp 
cũng đòi hỏi phải đƣợc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan mình. 
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, bảo đảm 
mọi mọi hoạt động quản lý nhà nƣớc đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính 
phủ, đồng thời khắc phục tình trạng công tác thanh tra, kiểm tra gây khó khăn, 
phiền hà cho hoạt động của các cơ quan hành chính và doanh nghiệp. Xây dựng 
74 
và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan thanh 
tra phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nƣớc. Tiến hành tổng 
rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế 
hiện có của các cơ quan thanh tra; trên cơ sở đó điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, 
quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ 
trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. 
Và ngày 08 tháng 12 năm 2015, Chính Phủ đã ban hành Chiến lƣợc phát 
triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, nội dung Chiến 
lƣợc thể hiện rõ quan điểm: 
Điểm b, Mục 1, Phần II có xác định xây dựng cơ quan thanh tra nhà nƣớc 
có thực quyền, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả dựa trên nguyên tắc khách quan, 
công bằng và từng bƣớc đƣợc đổi mới phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nƣớc 
pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong 
điều kiện hội nhập hiện nay. 
Mục tiêu của Chiến lƣợc cũng chỉ rõ xác lập địa vị pháp lý của các cơ 
quan thanh tra phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về thanh tra, tiếp 
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tăng cƣờng 
tính tập trung, thống nhất, chủ động và tự chịu trách nhiệm trong tổ chức và hoạt 
động của ngành Thanh tra. 
Thứ hai: Nâng cao hiệu quả thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra 
phải gắn với yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp bởi lẽ 
cán bộ thanh tra là đội ngũ công chức. Công tác cán bộ có ảnh hƣởng rất lớn đến 
việc hiệu quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Do đó, việc đổi 
mới về tổ chức, hoạt động của các cơ quan thanh tra cần thiết phải gắn liền với 
đổi mới công tác cán bộ; trong đó tập trung nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, 
công chức thanh tra, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra theo hƣớng 
chuyên nghiệp, kỷ cƣơng, trách nhiệm. Theo Quyết định 136/2001/QĐ-TTg phê 
duyệt chƣơng trình tổng thể cải cách hành chính nhà nƣớc giai đoạn 2001 - 2010, 
trong chƣơng trình Cải cách hành chính giai đoạn 2001- 2010, Nghị quyết 
75 
30c/NQ-CP, ngày 08/11/2011: Ban hành Chƣơng trình tổng thể Cải cách hành 
chính nhà nƣớc giai đoạn 2011 – 2020 đã xác định xây dựng đội ngũ cán bộ, 
công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh 
chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân 
thông qua các hình thức đào tạo, bồi dƣỡng phù hợp, có hiệu quả. Ngoài ra, đội 
ngũ cán bộ thanh tra đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhƣ cái gƣơng cho 
ngƣời ta soi mặt, gƣơng mờ thì không soi đƣợc, do đó, hoạt động thẩm tra, xác 
minh trong thanh tra là rất quan trọng và cần thiết, tính khách quan, tính chính 
xác của các kết luận thanh tra và những đề xuất, kiến nghị trong hoạt động thanh 
tra phụ thuộc phần lớn vào kết quả thẩm tra, xác minh. 
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên nghiệp cũng đƣợc thể hiện 
trong Chiến lƣợc phát triển ngành Thanh tra, trong đó thể hiện rõ: Xây dựng 
ngành Thanh tra, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thanh tra chuyên nghiệp, 
trách nhiệm, kỷ cƣơng, liêm chính nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả 
quản lý nhà nƣớc, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc và 
hội nhập quốc tế. 
Và trong Chiến lƣợc cũng chỉ rõ bên cạnh việc kiện toàn bộ máy biên chế 
thì cần chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ của đội 
ngũ cán bộ, công chức, viên chứ; nâng cao chất lƣợng các mặt công tác, đặc biệt 
là tăng cƣờng hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng và xử lý sau 
thanh tra trên cơ sở các quy định của Luật Thanh tra và các văn bản pháp luật có 
liên quan. 
Có thể thấy, hoạt động thẩm tra, xác minh là những hoạt động nghiệp vụ 
rất cơ bản của cán bộ thanh tra, nó phản chiếu những hoạt động cụ thể của cán 
bộ thanh tra trong thực thi các quyền của mình, gắn với quyền yêu cầu đối tƣợng, 
gắn với quá trình làm việc với các bên, do đó, nâng cao hiệu quả thẩm tra, xác 
minh cũng phải gắn với việc xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên nghiệp. 
Thứ ba: Nâng cao hiệu quả thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra 
là đáp ứng yêu cầu thực tế từ việc bảo đảm thực hiện đúng các nguyên tắc trong 
76 
hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo hƣớng minh bạch, đơn giản, 
tại cơ quan thanh tra phải giải quyết tốt một số yêu cầu sau: 
Một là, hoạt động thẩm tra, xác minh phải đƣợc tiến hành nhanh chóng, 
chính xác, kịp thời. Thực tiễn cho thấy hoạt động này thƣờng bị kéo dài, thậm 
chí rất dài. Điều này không những ảnh hƣởng đến niềm tin của nhân dân đối với 
Nhà nƣớc mà nó còn ảnh hƣởng nhiều đến kết quả các cuộc thanh tra, các hoạt 
động quản lý hành chính bởi xuất phát từ đặc thù của quan hệ hành chính thì 
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cần đƣợc tiến hành càng nhanh càng tốt. 
Hai là, hoạt động thẩm tra, xác minh phải đƣợc tiến hành đúng với quy 
định của pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc thẩm 
tra, xác minh phải đƣợc tiến hành nhanh chóng không đồng nghĩa với việc làm 
ẩu, qua loa mà phải đảm bảo tính tuần tự, tính đúng đắn với các quy định của 
pháp luật. Cơ quan thanh tra, cán bộ thanh tra có thẩm quyền khi tiến hành giải 
quyết khiếu nại, tố cáo vừa phải đảm bảo đúng tiến độ thời gian, vừa phải tuân 
thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật, không thể tự tiện bỏ qua những thủ 
tục bắt buộc mà pháp luật quy định phải làm cũng nhƣ thêm những thủ tục 
không cần thiết khiến cho quá trình thẩm tra, xác minh thêm kéo dài, phức tạp. 
Niêm yết công khai, đầy đủ mọi thủ tục, trình tự giải quyết, lịch công tác tại trụ 
sở làm việc. 
Trong quá trình thanh tra, cán bộ thanh tra cũng nhƣ ngƣời đƣợc giao 
nhiệm vụ tiến hành thẩm tra, xác minh giải quyết (gọi tắt là ngƣời giải quyết) 
phải tôn trọng và đảm bảo các quyền của đối tƣợng thanh tra nhƣ: quyền đƣợc 
đối chất; quyền đƣợc cử ngƣời đại diện; quyền yêu cầu ngƣời giải quyết giải 
quyết đúng trình tự, thủ tục, đúng thời hạn; quyền đƣợc yêu cầu ngƣời giải quyết 
chấm dứt hành vi vi phạm; quyền khiếu nại đối với những hành vi vi phạm của 
ngƣời có thẩm quyền trong quá trình giải quyết (cố tình sử dụng không đúng 
chứng cứ, viện dẫn sai luật, giải quyết không đúng nội dung, đúng thể thức); 
quyền yêu cầu Thủ trƣởng cơ quan cấp trên trực tiếp giải quyết hoặc đôn đốc 
giải quyết, xử lý vi phạm đối với Thủ trƣởng cơ quan cấp dƣới khi ngƣời này có 
77 
những biểu hiện cố tình trì hoãn, kéo dài việc giải quyết hay những vi phạm 
pháp luật khác 
Ba là, giám sát chặt chẽ quá trình thẩm tra xác minh đảm bảo tính chính 
xác, khách quan: Thực tế vừa qua, chất lƣợng thẩm tra, xác minh còn nhiều 
khuyết điểm, hạn chế có nguyên nhân do năng lực, trình độ hoặc do nể nang, 
tình cảm của cán bộ thanh tra, trong khi lại thiếu sự chỉ đạo, giám sát, thiếu sự 
góp ý, vì vậy khi đã tiến hành thanh tra thì trƣởng đoàn thanh tra phải thƣờng 
xuyên theo dõi hoặc phân công đại diện theo dõi, nhất là từ bƣớc thẩm tra, xác 
minh. Mặt khác có thể phối hợp với cán bộ của một số cơ quan khác để theo dõi, 
nếu phát hiện có gì chƣa tốt thì phản ảnh và xử lý kịp thời. 
Trong thời gian qua cũng có những vi phạm, hạn chế và đổi mới công tác 
thanh tra yêu cầu hoạt động thẩm tra xác minh trong thanh tra, giải quyết khiếu 
nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng thời gian tới sẽ phải đáp ứng đƣợc những 
nguyên tắc trên. 
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra, xác minh trong 
hoạt động thanh tra 
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động thẩm tra, xác 
minh trong thực hiện thanh tra 
Thứ nhất, quy định rõ nội dung, thẩm quyền, thủ tục thẩm tra, xác minh 
trong từng giai đoạn tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. 
Quy định rõ về chứng cứ và nguồn chứng cứ trong hoạt động thanh tra. 
Trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hành chính 
có quy định về chứng cứ và nguồn chứng cứ nhƣng trong hoạt động thanh tra thì 
mặc dù có thẩm tra, xác minh, đánh giá bằng chứng nhƣng chƣa có những quy 
định về chứng cứ và nguồn chứng cứ. 
Từ trƣớc đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật mới chỉ quy định quy 
trình các cuộc thanh tra, chƣa có nhiều quy định rõ ràng về hoạt động thẩm tra, 
xác minh. Vì vậy, khi các đoàn thanh tra tiến hành thẩm tra, xác minh đều tự 
tiến hành theo cách thức riêng, theo kinh nghiệm của cán bộ, do đó rất cần thiết 
78 
phải có quy định cụ thể về quy trình thẩm tra, xác minh. Cần nhận thức quy trình 
thẩm tra, xác minh có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động thanh tra, là 
những quy định về trình tự, thủ tục, cách tiến hành của cán bộ trong hoạt động 
nghiệp vụ cụ thể để tìm kiếm chứng cứ xác thực, làm rõ sự thật, là căn cứ để kết 
luận kiểm tra. Nên quy định theo hƣớng quy trình tổng quát gồm ba bƣớc sau: 
Bƣớc 1: Chuẩn bị (gồm chuẩn bị kế hoạch và phân công cán bộ). 
Bƣớc 2: Tiến hành thẩm tra, xác minh (Tiếp cận đối tƣợng kiểm tra, đối 
tƣợng thẩm tra, xác minh, quần chúng nhân dân để thu thập tài liệu, thông tin, 
chứng cứ, giám định, phân tích chứng cứ, giải trình của đối tƣợng kiểm tra, trao 
đổi với các cơ quan, đơn vị, cá nhân liên quan, tiếp tục thẩm tra, xác minh...). 
Đây là bƣớc rất quan trọng, có tính quyết định đến chất lƣợng hoạt động thẩm 
tra, xác minh. 
Bƣớc 3: Tổng hợp kết quả thẩm tra, xác minh (soát xét lại các chứng cứ 
thu thập đƣợc đối chiếu với từng nội dung kiểm tra để nhận xét, đánh giá, tiếp 
tục thẩm tra, xác minh). 
Có thể thấy, hoạt động thẩm tra, xác minh hiện nay đƣợc xem nhƣ các 
thao tác nghiệp vụ của cơ quan thanh tra, do vậy, một số ít còn chƣa thực hiện 
một cách nghiêm chỉnh và hiệu quả vì tính bắt buộc của nó không cao. Trong 
thời gian tới, quy trình thẩm tra, xác minh cần đƣợc quy định thành một văn bản 
pháp luật cụ thể quy định chi tiết về trình tự, phƣơng pháp; quyền và nghĩa vụ 
của đối tƣợng thanh tra, cán bộ thanh tra; trách nhiệm của ngƣời đứng đầu trong 
việc giải quyết khiếu nại, xử lý vi phạm đối với ngƣời có trách nhiệm giải quyết, 
ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ trong quá trình tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn 
thƣ và tiến hành thẩm tra, xác minh; quy định về trình tự, thủ tục đối thoại; 
Và đặc biệt lƣu ý, tăng thẩm quyền yêu cầu cung cấp thông tin cho ngƣời 
ra quyết định thanh tra, quyết định thành lập Đoàn hoặc Tổ xác minh; Trƣởng 
đoàn hoặc Tổ trƣởng; ngƣời thực hiện xác minh (Thành viên đoàn). 
79 
Thứ hai, hoàn thiện quy định về chế tài xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá 
nhân không hợp tác trong quá trình thẩm tra, xác minh, cụ thể hóa chế tài đối 
với ngƣời có liên quan đến vụ việc: 
- Quy định chế tài xử lý nghiêm các trƣờng hợp là đối tƣợng thanh tra, đối 
tƣợng thẩm tra, xác minh cố tình trì hoãn hoặc kéo dài việc cung cấp tài liệu, 
báo cáo, giải trình những vấn đề có liên quan đến nội dung thanh tra 
- Quy định bảo vệ nhân chứng, bảo vệ ngƣời cung cấp thông tin, chứng cứ, 
ngƣời tố giác hành vi vi phạm. 
- Quy định phối hợp trong việc uỷ nhiệm cho cơ quan chức năng thẩm tra, 
xác minh, giám định một số nội dung nhƣ tính hợp pháp, hợp lệ của tài liệu, hoá 
đơn, chứng từ, chữ viết, tiếng nói, hình ảnh... mà lực lƣợng thanh tra không có 
điều kiện xác định. 
- Quy định tổ chức phản biện kết quả thẩm tra, xác minhĐể hạn chế đối 
tƣợng thanh tra cùng các đối tƣợng khác tìm cách hợp thức hoá sai phạm, hoặc 
tiêu huỷ chứng cứ, cần có biện pháp ngăn chặn kịp thời, cần tiến hành thí điểm 
sử dụng một số biện pháp nghiệp vụ của cơ quan bảo vệ pháp luật nhƣ: Niêm 
phong hồ sơ, tài liệu, sổ sách kế toán, tài khoản vào thời điểm cần thiết và giao 
cho một số cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền và trách nhiệm quản lý; Cấm 
chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản có liên quan đến kiểm tra; Khi cần thiết 
phong tỏa tài sản, tiền gửi của đối tƣợng thanh tra (nếu có). 
Hơn nữa, trƣớc tình trạng “thờ ơ”, “vô cảm”, hoặc “thiếu trách nhiệm” 
không giải quyết dứt điểm khiếu nạicủa một bộ phận không nhỏ những ngƣời 
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và những ngƣời tham gia giải quyết 
khiếu nại, tố cáo cho thấy đã đến lúc cần xây dựng một Nghị định về xử lý trách 
nhiệm đối với ngƣời giải quyết khiếu nại, tố cáo, vi phạm pháp luật về khiếu nại, 
tố cáo. Trong đó quy định rõ từng hành vi vi phạm và chế tài xử lý kèm theo, 
quy định về đảm bảo thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi 
hànhđể nhân dân giám sát, theo dõi và có quyền tố cáo khi ngƣời giải quyết 
80 
khiếu nại vi phạm các hành vi đƣợc quy định trong Luật Khiếu nại, Luật cán bộ 
công chức. 
Thứ ba, hoàn thiện các mẫu biểu về việc thực hiện các nội dung thẩm tra, 
xác minh trong hoạt động thanh tra. 
Hiện nay các mẫu biểu này đƣợc kèm theo các Thông tƣ: Thông tƣ số 
05/2014/TT-TTCP quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn 
thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra; Thông tƣ số 
06/2013/TT-TTCP quy định quy trình giải quyết tố cáo; Thông tƣ số 
07/2013/TT-TTCP quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính thì có 
nhiều các mẫu biểu, Ví dụ: Trong Đoàn thanh tra có mẫu biểu yêu cầu cung cấp 
thông tin: Mẫu 08/Thông tƣ 05/2014/TT-TTCP; trong giải quyết khiếu nại có 
mẫu biểu yêu cầu cung cấp thông tin: Mẫu 07/Thông tƣ 07/2013/TT-TTCP; 
trong giải quyết tố cáo có mẫu 11/Thông tƣ 06/2013/TT-TTCP Các mẫu này 
nằm ở các văn bản khác nhau, và trên thực tế, việc thực hiện các mẫu biểu này 
hiện nay vẫn còn một số vƣớng mắc đòi hỏi phải hoàn thiện hơn, sửa đổi, bổ 
sung cùng với quy trình liên quan đến thẩm tra, xác minh trong thanh tra, giải 
quyết khiếu nại, tố cáo. 
3.2.2. Nâng cao kỹ năng, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp 
của cán bộ Thanh tra 
Quy trình thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung phải gắn với 
công cuộc đổi mới bộ máy hành chính hay nói đúng hơn là cải cách những 
ngƣời làm công tác thanh tra, đặc biệt ở cấp cơ sở còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, 
yêu cầu đặt ra là các cấp chính quyền cần phải nâng cao hơn nữa trình độ, năng 
lực, kiến thức, kinh nghiệm và trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ này. 
Việc chuẩn hóa trình độ, năng lực, đạo đức công vụ trong quản lý Nhà 
nƣớc và kiến thức pháp luật, nhất là pháp luật về thanh tra cho đội ngũ cán bộ là 
một trong những giải pháp hàng đầu. Việc chuẩn hóa đội ngũ công chức quản lý 
hành chính nhà nƣớc sẽ bảo đảm cho họ hiểu đƣợc mình là “công bộc” của dân, 
có trách nhiệm trƣớc nhân dân về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nhất 
81 
là trong quá trình thanh tra, xác minh các vụ tranh chấp, làm trái các quy định 
pháp luật gây ra tình trạng tham nhũng đất đai tại địa phƣơng. 
Việc nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ phải 
đƣợc thực hiện thông qua các biện pháp tổng hợp. Những cán bộ đang trong 
biên chế hiện có, cần thƣờng xuyên cử đi đào tạo, bồi dƣỡng các kiến thức 
chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, quản lý nhà nƣớc để đáp ứng yêu 
cầu giải quyết công việc. Đối với cán bộ công chức nằm trong diện quy hoạch 
các chức danh lãnh đạo; trƣớc khi bổ nhiệm yêu cầu phải có đề tài, chuyên đề về 
lĩnh vực mình sẽ phụ trách, để Hội đồng xét bổ nhiệm xem xét hoặc tổ chức thi 
tuyển. Ngoài ra, việc rà soát lại hệ thống giáo trình bồi dƣỡng nghiệp vụ, rèn 
luyện các kỹ năng cho cán bộ thanh tra cũng là cần thiết. Tránh tình trạng bồi 
dƣỡng mà nhƣ không, cấp chứng chỉ nhằm mục đích duy nhất là đủ điều kiện để 
vào ngạch thanh tra viên hay phục vụ cho kỳ thi nâng ngạch. 
Nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm giải quyết công việc thông qua 
việc thƣờng xuyên tổ chức các lớp bồi dƣỡng kiến thức quản lý, kiến thức xã hội 
và kinh nghiệm xử lý các tình huống phát sinh trong hoạt động thẩm tra, xác 
minh. Tăng cƣờng công tác thanh tra công vụ, thanh tra trách nhiệm từ đó có cái 
nhìn sát thực trong đánh giá cán bộ, công chức; kịp thời biểu dƣơng, khen 
thƣởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc; phát hiện và xử lý kịp thời 
những tập thể, cá nhân thiếu trách nhiệm, vi phạm kỷ luật, kỷ cƣơng hành chính, 
nhất là vi phạm các quy định về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại. 
Kỹ năng, năng lực chuyên môn cho cán bộ làm công tác thanh tra khi 
tham gia vào quá trình thẩm tra, xác minh đòi hỏi phải đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng, 
tập huấn không chỉ liên quan đến việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật mà còn 
phải đƣợc thực hành các kỹ năng đó, đƣợc hƣớng dẫn nghiệp vụ cụ thể, ví dụ: 
Nghiệp vụ trong trƣờng hợp yêu cầu đối tƣợng thanh tra giải trình nhƣ nghiệp 
vụ hỏi ngƣời khiếu nại, ngƣời tố cáo, nắm đƣợc tâm lý của từng đối tƣợng... 
Đào tạo kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng sử dụng các quyền trong thanh tra, 
giải quyết khiếu nại, tố cáo để biết và vận dụng tốt rằng trƣờng hợp nào sử dụng 
82 
quyền gì, ví dụ: Khi thấy có sự chênh lệch giữa sổ sách với hàng hóa thực tế 
trong kho thì lúc đấy đòi hỏi ngƣời cán bộ thanh tra phải sử dụng quyền kiểm kê 
tài sản, và khi sử dụng quyền kiểm kê tài sản phải nắm đƣợc tất cả các quy trình 
thực hiện quyền đó, quyền đó là quyền của Trƣởng đoàn thanh tra và ngƣời ra 
quyết định thanh tra, cán bộ thanh tra là thành viên đoàn thanh tra không có 
quyền thực hiện quyền kiểm kê tài sản. Để thực hiện quyền kiểm kê tài sản phải 
ra quyết định kiểm kê tài sản... 
Đào tạo kỹ năng giải trình, cán bộ thanh tra cần phải hiểu đƣợc là khi nào 
yêu cầu họ giải trình bằng văn bản, khi nào yêu cầu họ giải trình trực tiếp và cán 
bộ thanh tra, ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ xác minh phải lập biên bản ghi nội dung 
làm việc giữa cán bộ thanh tra và ngƣời khiếu nại, ngƣời tố cáo...Các kỹ năng 
này đòi hỏi không chỉ đào tạo về mặt lý thuyết mà phải đào tạo thực hành. Ví dụ: 
Ngay trong hoạt động của Thanh tra tỉnh, các cuộc họp giao ban không chỉ là 
các vấn đề liên quan đến công việc hành chính mà bản thân trong Thanh tra tỉnh 
Thái Nguyên và Thanh tra các tỉnh khác cần phải có các cuộc họp thảo luận về 
những vấn đề liên quan đến nghiệp vụ tiến hành các cuộc thanh tra để trao đổi 
kinh nghiệm, công chức có kinh nghiệm kèm cặp những ngƣời cấp dƣới của 
mình hoặc những ngƣời mới vào ngành... 
Thực hiện hai phối hợp quan trọng: Một là, phối hợp tốt với các cơ quan 
chuyên môn trong hệ thống hành pháp, tƣ pháp nhƣ: kiểm toán, cơ quan phòng 
chống tham nhũng, cơ quan tố tụng, cơ quan thuế, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn 
thể chính trị - xã hội để trao đổi và phân tích thông tin, tài liệu, chứng cứ 
trong việc uỷ nhiệm thẩm tra, xác minh một số nội dung cần thiết. Hai là, phối 
hợp tốt với các cơ quan thông tin, ngôn luận. Trong tình hình hiện nay, đây là 
địa chỉ đáng tin cậy, quan trọng và cần thiết để trao đổi cung cấp, tìm kiếm 
chứng cứ. 
Thực hiện tốt năm khâu chủ yếu: Một là, động viên, khơi gợi tinh thần tự 
giác, tự phê bình của đối tƣợng thanh tra; hai là, tổ chức, tiến hành sinh hoạt phê 
bình, góp ý của các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan; ba là, phát động ý 
83 
thức, trách nhiệm, tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân; bốn là, tiếp cận, 
tiếp xúc đối tƣợng thẩm tra, xác minh để thu thập, tiếp nhận, trao đổi thông tin, 
tài liệu, chứng cứ; năm là, tiến hành phân tích chứng cứ tìm ra chứng lý để nhận 
xét có khuyết điểm, vi phạm hay không có vi phạm, mức độ, tính chất, hậu quả, 
nguyên nhân vi phạm và trách nhiệm của đối tƣợng kiểm tra. 
Ngoài ra, một trong các nguyên nhân làm giảm lòng tin của nhân dân vào 
kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp tục khiếu nại, tố cáo vƣợt cấp khi đã 
có kết quả giải quyết của cơ quan hành chính là do sự xuống cấp về đạo đức của 
một bộ phận cán bộ, công chức. Đạo đức nghề nghiệp có liên quan trực tiếp đến 
chất lƣợng giải quyết, để nâng cao đạo đức nghề nghiệp mỗi cơ quan hành chính 
nói chung và cơ quan thanh tra nói riêng phải xây dựng quy định về tiêu chuẩn 
đạo đức của các cán bộ, công chức trong cơ quan hay nói cách khác là xác định 
nghĩa vụ cụ thể cho mỗi cán bộ, công chức trên cơ sở khuôn khổ pháp lý. Hàng 
năm cần xây dựng các tiêu chí và đổi mới phƣơng pháp đánh giá, xếp loại cán 
bộ, công chức đảm bảo tính công bằng, minh bạch, đánh giá đúng ngƣời, đúng 
việc. Ở góc độ vĩ mô, trong thời gian tới cần đổi mới chính sách tiền lƣơng cho 
cán bộ, công chức. Nếu nhƣ ở các quốc gia phát triển, ngƣời cán bộ, công chức 
nhà nƣớc hoàn toàn sống đầy đủ nhờ vào đồng lƣơng của mình thì ở Việt Nam, 
ngay cả những công chức sống trong một địa phƣơng có mức sống trung bình 
khá thì ngƣời công chức cũng không thể sống tốt bằng đồng lƣơng. Bên cạnh 
động cơ và lý tƣởng thỏa đáng, ngƣời công chức phải có đủ lƣơng để nuôi sống 
bản thân và gia đình, có nhƣ vậy thì họ mới yên tâm công tác, phụng sự nhân 
dân, mới công tâm trong quá trình thẩm tra, xác minh, giải quyết vụ việc. 
3.2.3. Đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng và phát triển đội ngũ cán bộ, công 
chức nhằm tạo dựng tính chuyên nghiệp nhạy bén, bản lĩnh chính trị vững 
vàng cho đội ngũ cán bộ của ngành Thanh tra 
Để hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh trong 
thanh tra nói riêng có hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó, việc tuyển chọn, sử dụng cán bộ, công chức là 
84 
một trong những vấn đề cốt yếu, là mục tiêu quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh 
cũng đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc,... công việc thành 
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" . Tuy nhiên, thực tế việc tuyển chọn, 
sử dụng và phát triển đội ngũ công chức luôn là vấn đề khó và phức tạp vì nhiều lý 
do, trong đó chúng ta đã không thực hiện tốt các cơ chế khoa học, khách quan, 
trong việc lựa chọn ngƣời tài dẫn đến việc tuyển chọn gặp nhiều bất trắc và thực tế 
có nhiều công chức yếu kém thiếu đạo đức chui vào bộ máy. Chính vì vậy, việc 
đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra không thể tách rời với công 
tác cán bộ và không thể đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn nếu không xây dựng 
đƣợc đội ngũ cán bộ, công chức ngành Thanh tra chuyên nghiệp, hiện đại. Việc 
đổi mới công tác cán bộ và công tác đạo tạo, bồi dƣỡng nhằm chuyên nghiệp 
hoá đội ngũ thanh tra vừa là yêu cầu, vừa là giải pháp quan trọng. 
Để đáp ứng đƣợc yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay cần đổi mới 
công tác cán bộ và đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ thanh tra nhằm chuyên nghiệp hoá 
đội ngũ cán bộ thanh tra với những giải pháp cụ thể sau: 
Xây dựng thể chế về công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ thanh tra phải 
căn cứ vào thẩm quyền quản lý công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ thanh tra, 
trên cơ sở sự phân cấp của Chính phủ trong công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, 
công chức nói chung đồng thời phải có sự gắn kết với hệ thống đào tạo của 
Đảng và nhà nƣớc để đảm bảo tính rành mạch và không chồng chéo. Thể chế 
của ngành Thanh tra về công tác cán bộ và đào tạo, bồi dƣỡng còn phải đƣợc 
xây dựng thống nhất với tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị 
trong Ngành. 
Xây dựng quy chế đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức ngành Thanh tra: 
Quy chế đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức ngành Thanh tra sẽ là văn bản 
điều chỉnh toàn bộ công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ thanh tra; phân định rõ 
vai trò, nhiệm vụ của Thanh tra Chính phủ, các cơ quan thanh tra và các quản lý 
nhà nƣớc trong đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ thanh tra; quy định những vấn đề 
chung về mục tiêu, chƣơng trình, nội dung, đội ngũ giảng viên, phân cấp, tổ 
85 
chức đào tạo, bồi dƣỡng và chế độ thanh tra, kiểm tra công tác đào tạo, bồi 
dƣỡng cán bộ, công chức của ngành. 
Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức ngành Thanh 
tra: Nghiên cứu xây dựng các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn cho việc 
đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức ngành Thanh tra bám sát nhu cầu của đội 
ngũ cán bộ thanh tra và xác định rõ mục tiêu, đối tƣợng ƣu tiên cho từng giai 
đoạn. Khi các kế hoạch đã đƣợc Lãnh đạo Thanh tra duyệt, cần tổ chức thực 
hiện nghiêm chỉnh để đạt đƣợc các mục tiêu đặt ra. 
Xây dựng hệ thống chƣơng trình, tài liệu: Xây dựng các chƣơng trình đào 
tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức ngành Thanh tra đảm bảo tính hệ thống và 
tính khoa học, theo đúng quy định tại Quy chế đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công 
chức đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 
161/2003/QĐ-TTg và Quy chế thẩm định chƣơng trình, tài liệu đào tạo, bồi 
dƣỡng cán bộ, công chức ban hành kèm theo Quyết định số 52/2004/QĐ-BNV 
ngày 26 tháng 7 năm 2004 của Bộ trƣởng Bộ Nội vụ về việc ban hành Quy chế 
thẩm định chƣơng trình, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ công chức. 
Đáp ứng các yêu cầu và quy định hiện nay, Thanh tra Chính phủ cần hoàn 
thiện các chƣơng trình hiện có và xây dựng thêm một số chƣơng trình để đảm 
bảo hình thành và thực hiện đào tạo, bồi dƣỡng theo 3 loại chƣơng trình sau: 
- Chƣơng trình trang bị kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ quản lý chuyên 
ngành; 
- Chƣơng trình đào tạo, cập nhật cho các chức danh lãnh đạo quản lý; 
- Chƣơng trình nâng cao theo chức danh; bồi dƣỡng kiến thức, kỹ năng 
chuyên sâu theo nhu cầu vị trí công việc. 
3.2.4. Tăng cường phối hợp, phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức 
trong hệ thống chính trị để tiến hành thẩm tra, xác minh 
Khi tiến hành hoạt động thanh tra, nhất là những vấn đề liên quan đến 
nhiều nội dung, có chuyên môn, nghiệp vụ khác nhau, ở các lĩnh vực công tác 
khác nhau thì thƣờng gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng, từ việc thẩm tra, xác 
86 
minh, đến kết luận, xử lý. Trƣớc một sự việc lại có sự đánh giá khác nhau, trong 
nhiều trƣờng hợp phát hiện đƣợc dấu hiệu vi phạm nhƣng không đi đến kết luận, 
xử lý thoả đáng để nhắc nhở, ngăn chặn. Để khắc phục tình trạng trên, nhất là 
trong tình hình mới, khi quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội đang có sự biến đổi 
mạnh mẽ, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa uỷ ban các cấp với các cơ quan 
chức năng của Nhà nƣớc trong quá trình kiểm tra, xem xét, đánh giá. 
Phối hợp trong thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác thanh tra là sự 
gắn kết các mặt công tác với nhau để bổ sung, hỗ trợ cho nhau giữa các cơ quan 
thanh tra nhà nƣớc là chủ thể thẩm tra, xác minh với: 
- Các cơ quan lƣu giữ thông tin, tài liệu: Các cơ quan này phải quản lý sổ 
sách và cơ sở dữ liệu; phân loại, chỉnh lý, xác định giá trị, thống kê, sắp xếp hồ 
sơ, tài liệu; bảo vệ, bảo quản an toàn hồ sơ, tài liệu để phục vụ việc tra cứu, khai 
thác, sử dụng hồ sơ, tài liệu lƣu trữ cung cấp đầy đủ, kịp thời những tài liệu liên 
quan đến vụ việc. 
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân cấp trên của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có 
lƣu giữ thông tin, tài liệu: phải trao đổi, theo dõi thƣờng xuyên thông tin, tài liệu, 
tổ chức, chỉ đạo cấp dƣới cung cấp đầy đủ, chính xác, phát hiện xử lý khi có vi 
phạm. 
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan nhƣ cơ quan giám định, 
UBND địa phƣơng (ví dụ tạm giữ tài sản để kiểm kê, niêm phong...) thì phải có 
trách nhiệm cao, phải kịp thời thông tin, báo cáo khi có vƣớng mắc, vi phạm; 
trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu phải căn cứ vào nhu cầu của cơ quan thanh 
tra phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này. 
Sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan này sẽ góp phần huy 
động mọi nguồn lực, tạo sức mạnh tổng hợp bảo đảm thực hiện thẩm tra, xác 
minh một cách thận trọng, chặt chẽ, giúp cho kết quả thẩm tra, xác minh khách 
quan, trung thực, chính xác dù xét dƣới góc độ nào, qua đó, kết luận vụ việc 
thanh tra tập trung, thống nhất, đồng bộ, khắc phục sự sơ hở, thiếu sót, chủ quan, 
phiến diện, thiếu dân chủ có thể có. 
87 
Việc phối hợp trong hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác thanh tra 
nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu lực, hiệu quả thực hiện hoạt động này trong 
điều kiện nếu chỉ mình chủ thể thẩm tra, xác minh thực hiện thì vừa không đủ 
sức, không đủ lực lƣợng, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm, không bảo đảm 
chất lƣợng, hiệu quả thẩm tra, xác minh... Thực hiện phối hợp dựa trên việc trao 
đổi, cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu các vụ việc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ 
luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo; về lĩnh vực kinh tế - xã hội, nội chính, tài sản 
có liên quan đến công tác thanh tra; thực hiện các biện pháp tác nghiệp đặc thù 
của mỗi cơ quan; thẩm định, kết luận và có ý kiến phúc đáp chủ thể thẩm tra, 
xác minh về các vấn đề, nội dung đƣợc đề nghị phối hợp thẩm tra, xác minh 
3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị phương tiện, kinh phí để phục 
vụ cho hoạt động thẩm tra, xác minh 
Thứ nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật là những yếu tố ảnh hƣởng không nhỏ 
đến hiệu quả hoạt động thanh tra. Trong xu thế phát triển không ngừng của khoa 
học công nghệ, hiện đại hóa nền hành chính nhà nƣớc cần đƣợc coi là một trong 
những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả, chất lƣợng hoạt động của 
ngành Thanh tra. Do đó, nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt 
động của các cơ quan thanh tra, cần tăng cƣờng cơ sở vật chất, kỹ thuật, hỗ trợ 
có hiệu quả các mặt công tác của Ngành. 
Đảm bảo đƣợc cung cấp đầy đủ trang thiết bị, phƣơng tiện làm việc tiên 
tiến, phù hợp tính chất đặc thù của hoạt động thanh tra, mua sắm, bố trí, sử dụng 
các trang thiết bị cần thiết để phục vụ công tác thanh tra nhƣ: máy tính, máy đo, 
khai thác dữ liệu phần mềm, kho lƣu trữ tang vật, tủ đựng hồ sơ... 
Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh việc xây dựng các hệ thống dữ liệu về 
thanh tra, về khiếu nại, tố cáo, về kê khai và xác minh tài sản,... bên cạnh đó 
cũng cần tăng cƣờng trang bị các phƣơng tiện kỹ thuật hiện đại, giúp nâng cao 
chất lƣợng các hoạt động chuyên môn của Ngành. tập trung xây dựng cơ sở hạ 
tầng, đầu tƣ trang thiết bị, phƣơng tiện làm việc hiện đại, phù hợp cho các cơ 
quan thanh tra nhà nƣớc; tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất cho công tác tham 
88 
mƣu, tổng hợp, nghiên cứu, đào tạo, bồi dƣỡng về công tác thanh tra, giải quyết 
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. 
Thứ hai, phƣơng tiện thông tin để phục vụ cho việc tra cứu, lƣu trữ thông 
tin. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình thẩm tra, xác minh vụ 
việc hầu nhƣ còn hạn chế. Thiết nghĩ để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công 
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở các cơ quan thanh tra trong cả nƣớc 
nói chung và ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng thì cần xây dựng một cổng lƣu trữ dữ 
liệu điện tử. Ở đó, mọi văn bản pháp luật liên quan đến đất đai, tài liệu về nguồn 
gốc sử dụng đất phân theo từng khu vực, hồ sơ địa chính qua các thời kỳ, giấy tờ 
về quyền sử dụng đất hiện tại, hiện trạng sử dụng đất, biên bản kiểm kê, chính 
sách, định mức, đơn giá đền bùsẽ đƣợc thu thập, tập hợp và sao lƣu thành 
từng thƣ mục trong hệ thống dƣới sự quản lý chặt chẽ của bộ phận chuyên môn. 
Công dân đƣợc đăng nhập với user riêng của mình để đọc những thông tin 
liên quan đến đất đai công khai trên trang dữ liệu này và có thể gửi vào hòm thƣ 
những tài liệu có liên quan đến nội dung các vụ khiếu nại nhƣ: chứng từ, hóa 
đơn, báo cáotất cả đều đƣợc bảo đảm quyền giữ bí mật. 
Việc tra cứu những tài liệu liên quan qua một cổng thông tin điển tử 
chuyên biệt đảm bảo tính nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm, góp phần rút ngắn 
thời gian và tự động hóa quy trình giải quyết khiếu nại. Các thanh tra viên có thể 
tìm lại hồ sơ, tài liệu một cách khoa học, thuận tiện cho việc xác minh các thông 
tin liên quan đến vụ việc. 
Nhƣ vậy, tại các trụ sở làm việc cũng phải đƣợc trang bị các thiết bị thông 
tin nhằm phục vụ cho công tác lƣu trữ hồ sơ, tài liệu có hiệu quả hơn. Có thể 
trang bị sổ sách bằng máy tính bên cạnh sổ ghi chép bằng giấy nhƣ hiện nay. 
Nâng cao tính bảo mật trong toàn hệ thống thông qua việc phân công ngƣời 
quản lý mạng riêng cho trang dữ liệu này. 
Thứ ba, đảm bảo đƣợc Nhà nƣớc cấp đủ kinh phí để xây dựng trụ sở làm 
việc cho cơ quan thanh tra, đảm bảo đủ phòng làm việc với các trang thiết bị văn 
phòng cho cán bộ; kinh phí xây dựng phòng hỏi cung, kho tang vật; kinh phí 
89 
xăng dầu, tiền công tác phí cho các đoàn thanh tra; chi trƣng cầu giám định về 
những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; kinh phí cho việc thu thập thông 
tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung thanh tra...Bổ sung kinh phí phục 
vụ việc mua sắm, sửa chữa tài sản, máy móc, trang thiết bị, phƣơng tiện làm 
việc, phƣơng tiện đi lại phục vụ công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. 
Bổ sung kinh phí đào tạo, bồi dƣỡng, tập huấn nâng cao nghiệp vụ của các thanh 
tra viên, cán bộ các cơ quan thanh tra nhà nƣớc từ việc trích một phần số tiền từ 
các khoản thu hồi phát hiện qua thanh tra nộp vào ngân sách nhà nƣớc để hỗ trợ 
nâng cao năng lực, khen thƣởng động viên tổ chức, cá nhân có thành tích trong 
công tác thanh tra. 
Ngoài ra, cần huy động nhiều và đa dạng hóa nguồn kinh phí để có cơ sở 
đẩy mạnh và đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ công chức của Ngành, 
nhất là thực hiện đào tạo theo năng lực, cần huy động nhiều và đa dạng hoá 
nguồn kinh phí cho hoạt động này, cụ thể: 
- Nguồn chi từ ngân sách nhà nƣớc cho đào tạo, bồi dƣỡng trong công vụ; 
- Xây dựng các Dự án tăng cƣờng năng lực cho ngành, trong đó có nội 
dung hỗ trợ hoạt động đào tạo, bồi dƣỡng hoặc xây dựng Đề án đào tạo, bồi 
dƣỡng nâng cao năng lực công tác cho cán bộ công chức ngành Thanh tra trình 
Thủ tƣớng phê duyệt. Thực tế cho thấy một Đề án nhƣ vậy rất khả thi và cho 
phép ngành Thanh tra thực hiện theo chƣơng trình mục tiêu; 
- Đóng góp của các cơ quan, tổ chức; 
- Đóng góp của cá nhân đi học 
Các cơ quan thanh tra nhà nƣớc có trách nhiệm sử dụng kinh phí đúng 
mục đích, đúng đối tƣợng theo tiêu chuẩn chế độ chi tiêu tài chính hiện hành, 
thực hiện báo cáo quyết toán kinh phí đã sủ dụng với cơ quan tài chính cùng cấp 
theo quy định của pháp luật. 
90 
KẾT LUẬN 
Hoạt động thanh tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong quản lý nhà nƣớc, 
Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 
2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành Luật Thanh tra đã 
có những quy định cụ thể. Để kết quả hoạt động thanh tra có thể đƣợc phát huy 
tốt thì trƣớc hết kết quả đó phải có chất lƣợng tốt. Chất lƣợng của kết quả hoạt 
động thanh tra phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ cơ sở pháp lý cho hoạt động 
thanh tra, trình độ của đội ngũ cán bộ thanh tra, các biện pháp nghiệp vụ đƣợc 
sử dụng trong quá trình thanh tra,... trong đó việc thẩm tra, xác minh là một khâu 
quan trọng. 
Qua nghiên cứu, Luận văn này có thể đƣa ra một số kết luận nhƣ sau: Từ 
việc phân tích hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra thấy rằng 
hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra có nhiều điểm đặc trƣng, 
đặc thù, đƣợc thực hiện bởi cơ quan thanh tra gồm có Chánh thanh tra, ngƣời ra 
quyết định thanh tra, ngƣời ra quyết định thành lập Tổ hoặc Đoàn xác minh 
khiếu nại, tố cáo; Trƣởng đoàn thanh tra, Tổ trƣờng, trƣởng đoàn xác minh 
khiếu nại, tố cáo; Thành viên đoàn thanh tra, thành viên đoàn xác minh khiếu 
nại, tố cáo. Thực hiện dựa trên các yêu cầu: Phải đƣợc tiến hành đúng thẩm 
quyền, trình tự, thủ tục với phƣơng pháp khoa học, hợp lý, đảm bảo tính khách 
quan, toàn diện, tƣờng minh, xác đáng, đảm bảo các nguyên tắc trong hoạt động 
thanh tra, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. 
Hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra thời gian qua cơ 
bản đã đáp ứng đƣợc những yêu cầu đặt ra trong bối cảnh tăng cƣờng hiệu lực, 
hiệu quả công tác thanh tra, những yêu cầu của công tác giải quyết khiếu nại, tố 
cáo trong tình hình mới, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy 
nhiên, vẫn tồn tại những hạn chế nhƣ hoạt động thẩm tra, xác minh của một số 
cuộc thanh tra còn thiếu tính toàn diện, tính kịp thời và tính kế hoạch. 
Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra, xác minh thì 
cần phải theo những định hƣớng lớn, trong đó tập trung vào ba định hƣớng sau: 
91 
Nâng cao hiệu quả thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra phải đáp ứng 
yêu cầu tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc và đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra 
trong điều kiện hiện nay; phải gắn với yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công 
chức chuyên nghiệp; phải đáp ứng yêu cầu thực tế từ việc bảo đảm thực hiện 
đúng các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra, giả quyết khiếu nại, tố cáo theo 
hƣớng minh bạch, đơn giản. 
Từ đó có các giải pháp sau: Hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt 
động thẩm tra, xác minh trong thực hiện thanh tra; nâng cao kỹ năng, năng lực 
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ Thanh tra; tăng cƣờng phối hợp, 
phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị để tiến hành 
thẩm tra, xác minh; tăng cƣờng cơ sở vật chất, thiết bị phƣơng tiện, kinh phí để 
phục vụ cho hoạt động thẩm tra, xác minh. 
Những giải pháp của luận văn này có thể đóng góp một phần để pháp luật 
thanh tra nói chung và pháp luật về hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng ngày 
càng đƣợc minh bạch, dân chủ, công bằng phù hợp với thực tiễn để bảo vệ 
quyền, lợi ích của ngƣời dân, góp phần giảm bớt khiếu kiện và bức xúc xã hội 
trong thời gian tới. 
92 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Tuấn Anh – Lê Văn Chức (2006), “Tính thống nhất của các 
văn bản pháp luật hiện hành về khiếu nại, giải quyết khiếu nại hành 
chính”, Tạp chí Thanh tra. 
2. Chính phủ (2011), Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/09/2011 quy 
định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra. 
3. Chính phủ (2012), Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 
quy định về cơ quan đƣợc giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên 
ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành. 
4. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố 
cáo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
5. Học viện Hành chính Quốc Gia, Giáo trình Thanh tra và giải quyết 
khiếu nại, tố cáo. 
6. Nguyễn Huy Hoàng (2014), “Định hướng xây dựng chiến lược phát 
triển ngành Thanh tra đến năm 2010, tầm nhìn 2030”, 
www.giri.ac.vn. 
7. Nguyễn Thái Hồng (2011), “Các nguyên tắc trong hoạt động thanh 
tra – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hà Nội. 
8. Khoa Nhà nƣớc và Pháp luật, Tập bài giảng Quy trình và nghiệp vụ 
thanh tra, Học viện Hành chính Quốc gia. 
9. Khoa Nhà nƣớc và Pháp luật, Tập bài giảng Lý luận và Pháp luật về 
thanh tra, Học viện Hành chính Quốc gia năm 2010. 
10. Lê Thị Thu Oanh (2004), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong tổ 
chức và hoạt động của thanh tra ở Việt Nam”, Hà Nội. 
11. Quốc hội (2010), Luật số 56/2010/QH12 ngày 15/11/2010, Luật 
Thanh tra. 
12. Quốc hội (2011), Luật số 02/2011/QH13 ngày 11/11/2011, Luật 
Khiếu nại. 
93 
13. Quốc hội (2011), Luật số 03/2011/QH13 ngày 11/11/2011, Luật Tố cáo. 
14. Quốc hội (2013), Luật số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013, Luật Đất đai. 
15. Quốc hội (2013), Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 
16. Thanh tra Chính phủ (2013), Thông tƣ số 07/2013/TT-TTCP ngày 31 
tháng 10 năm 2013 quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành 
chính. 
17. Thanh tra Chính phủ (2013), Thông tƣ số 06/2013/TT-TTCP ngày 30 
tháng 9 năm 2013 quy định quy trình giải quyết tố cáo. 
18. Thanh tra Chính phủ (2014), Thông tƣ số 05/2014/TT-TTCP ngày 16 
tháng 10 năm 2014 quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác 
của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra. 
19. Thanh tra tỉnh Thái Nguyên (2014), Báo cáo số 203/BC-TTr tổng kết 
công tác thanh tra năm 2013 và phƣơng hƣớng nhiệm vụ năm 2014. 
20. Thanh tra tỉnh Thái Nguyên (2015), Báo cáo số 220/BC-TTr tổng kết 
công tác thanh tra năm 2014 và phƣơng hƣớng nhiệm vụ năm 2015. 
21. Thanh tra tỉnh Thái Nguyên (2016), Báo cáo số 243/BC-TTr tổng kết 
công tác thanh tra năm 2015 và phƣơng hƣớng nhiệm vụ năm 2016. 
22. Trần Văn Truyền (2009), “Xây dựng văn hóa thanh tra và chuẩn mực 
đạo đức cán bộ thanh tra”, Thanh tra Chính Phủ. 
23. Trần Quốc Trƣợng (2015), “Hồ Chí Minh với công tác thanh tra”, 
www.thanhtra.com.vn. 
24. Trƣờng Cán bộ Thanh tra (2012), Giáo trình Thanh tra viên. 
25. Thủ tƣớng Chính phủ (2015), Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 
08/12/2015 về việc Ban hành Chiến lƣợc phát triển Ngành Thanh tra 
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 
26. Nguyễn Nhƣ Ý (1999), “Đại từ điển Tiếng Việt”, Nhà xuất bản Văn 
hóa, Thông tin. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_tham_tra_xac_minh_trong_hoat_dong_thanh_tra_tu_thuc.pdf luan_van_tham_tra_xac_minh_trong_hoat_dong_thanh_tra_tu_thuc.pdf