Luận văn Thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long

Loại này bao gồm những thành ngữ có cấu trúc so sánh. Mô hình tổng quát của thành ngữ so sánh giống như cấu trúc so sánh thông thường khác: A so sánh B. Ở đây A là vế được so sánh, B là vế đưa ra để so sánh, còn từ so sánh thường là: như, bằng, tựa, hệt,.Thông thường, A thường là một hình ảnh, tính chất, trạng thái, hoàn cảnh còn B là một hình ảnh biểu trưng như: con người, động vật-thực vật, sự vật, các hiện tượng tự nhiên hay các bộ phận trên cơ thể con người,

pdf36 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2619 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn thạc sĩ Thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long Nguyễn Thuỵ Thuỳ MỤC LỤC -----o0o----- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………….….……..4 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài……………………………………….…………….5 3. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………….…..7 4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………….….….8 5. Đóng góp của luận văn…………………………………………………….….8 6. Bố cục của luận văn……………………………………………………..…….9 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÀNH NGỮ VÀ VĂN HỌC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG…..………………………………..……….…10 1.1. Khái quát về thành ngữ………………………………………………...…..…10 1.1.1. Khái niệm thành ngữ………………………………………………….….…..10 1.1.1.1. Quan niệm của các nhà nghiên cứu văn học…………………….….10 1.1.1.2. Quan niệm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ……………………....11 1.1.2. Giá trị biểu đạt của thành ngữ……………………………………….…........14 1.1.2.1. Giá trị biểu đạt của nội dung………………………………….….....14 1.1.2.2. Giá trị biểu đạt của hình thức…………………………………..…...26 1.1.3. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ ……………………………………………...28 1.1.3.1. Những điểm giống nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ……..….28 1.1.3.2. Những điểm khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ…….…...40 1.2. Khái quát về văn học đồng bằng sông Cửu Long…………………………...48 1.2.1. Lực lượng sáng tác……………..……………………………..………….…..48 1.2.2. Đặc điểm của văn học đồng bằng sông Cửu Long…………………….……..49 1.2.2.1. Nội dung……………………………………………………..……...49 1.2.2.2. Nghệ thuật ……………………………………………….………....50 1.3. Tiểu kết ….………………….……………………………………….………...51 Chương 2. VIỆC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG………...............................................….……………..52 2.1. Tình hình và xu hướng vận dụng thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long ...………………………………………………………………......52 2.1.1. Tình hình sử dụng thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long…………………………………………………………….…………………...52 2.1.2. Xu hướng vận dụng thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long….……………………….……………………………………..…...55 2.1.2.1. Sử dụng nguyên dạng…………………………………………..…...56 2.1.2.2. Sử dụng cải biên………………………………………………….....64 2.1.2.3. Sử dụng liên thành ngữ………………………………………...……87 2.2. Tiểu kết…………………………………………………………………..…….90 Chương 3. GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA THÀNH NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ……………………………………...91 3.1. Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long..........................................................................................................91 3.1.1. Đặc điểm cấu tạo của thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long …………………………………………………………………….…......91 3.1.1.1 Vần………………………………………………………………......92 3.1.1.2. Nhịp ……………………………………………………………..….94 3.1.1.3. Cấu trúc sóng đôi …………………………………………..….…....96 3.1.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long ………………………………………………………...…….……..…….99 3.1.2.1. Nghĩa biểu trưng………………………………………………..…...99 3.1.2.2. Khuôn thành ngữ…………………………………………...….….103 3.2. Giá trị biểu đạt của thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long ……………………………………………………………………........106 3.2.1. Miêu tả thiên nhiên, cảnh vật đồng bằng sông Cửu Long ……………….....106 3.2.1.1. Thiên nhiên hoang vu, vắng vẻ, heo hút…………………..…….....107 3.2.1.2. Khung cảnh thời chiến tranh………………………….….…….….110 3.2.1.3. Thiên nhiên dân dã và hữu tình……………………………..……..112 3.2.1.4. Thiên nhiên trù phú và tràn đầy sức sống……………….…………115 3.2.2. Phản ánh hiện thực xã hội đồng bằng sông Cửu Long ….……………….....118 3.2.2.1. Cuộc sống gian khổ, mất mát từ chiến tranh………………...….…118 3.2.2.2. Cuộc sống gia đình không trọn vẹn………………………..……....120 3.2.2.3. Cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn dù vất vả mưu sinh……..……....122 3.2.2.4. Cuộc sống phức tạp với lối sống tiêu cực thời cơ chế thị trường….124 3.2.3. Xây dựng hình ảnh con người đồng bằng sông Cửu Long .………………...127 3.2.3.1. Ngoại hình…………………………………………………….…...127 3.2.3.2. Cảnh ngộ, thân phận……………………………………….………129 3.2.3.3. Hành động………………………………………………………....132 3.2.3.4. Tâm trạng, trạng thái…………………………….………………..134 3.2.3.5. Tính cách…………………………………………...……………...137 3.3. Tiểu kết ……………………………………...……….…………………........140 KẾT LUẬN…………………………………………………………………….…141 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….…144 NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN ………………………………………………………..149 PHỤ LỤC…………………………………………………………………………150 3.1. Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ trong truyện ngắn ĐBSCL Giá trị biểu đạt của thành ngữ đã được phát huy triệt để trong các sáng tác văn chương nghệ thuật. Qua những truyện ngắn ĐBSCL đã khảo sát, chúng ta thấy thành ngữ được sử dụng rất đa dạng và nhuần nhị, tạo nên hiệu quả nghệ thuật bất ngờ. Để thấy được cái hay cái đẹp của những thành ngữ trong các tuyển tập truyện ngắn nói trên, chúng ta có thể đi sâu hơn tìm hiểu về đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của những thành ngữ này. 3.1.1. Đặc điểm cấu tạo của thành ngữ trong truyện ngắn ĐBSCL Chu Xuân Diên đã từng nhận xét: “Tiếng Việt, trong lời ăn tiếng nói hàng ngày cũng như trong ngôn ngữ nghệ thuật thường hay thiên về cấu tạo những câu hài hòa, cân đối, nhịp nhàng. Tính chất nhịp nhàng, hài hòa cân đối cả về thanh điệu lẫn ý nghĩa là một tính chất rất phổ biến trong tục ngữ nước ta” [13; 310]. Không riêng gì tục ngữ, tính chất hài hòa, nhịp nhàng cả về thanh điệu lẫn ý nghĩa cũng chính là một đặc trưng nổi bật của thành ngữ. Tính cân đối, nhịp nhàng có được là nhờ vào các yếu tố cấu tạo trong thành ngữ. Khi nói đến đặc điểm cấu tạo của thành ngữ là chúng ta nói đến những yếu tố ngoại hình như: vần, nhịp, cấu trúc sóng đôi. Nhờ các yếu tố vần- nhịp- cấu trúc sóng đôi trong thành ngữ, câu văn trở nên nhịp nhàng, cân đối, phù hợp với mục đích diễn đạt, miêu tả mọi hình ảnh, tính chất, trạng thái, hoàn cảnh,…theo dụng ý nghệ thuật của tác giả trong từng trường hợp riêng. 3.1.1.1. Vần Khảo sát những tuyển tập truyện ngắn ĐBSCL, chúng tôi nhận thấy phần lớn thành ngữ này đều có vần. Sự hiệp vần trong thành ngữ làm cho câu văn chứa thành ngữ có sự hài hòa cân đối cả về thanh điệu lẫn ý nghĩa, mượt mà, suôn sẻ và mạch lạc hơn. Đặc điểm khuôn vần của thành ngữ trong phạm vi ngữ liệu khảo sát có hai loại cơ bản: vần liền và vần cách. a/ Vần liền: Như chúng ta biết, vần liền là vần của yếu tố sau trong vế thứ nhất hiệp với vần của yếu tố đầu trong vế thứ hai. Trong những tuyển tập truyện ngắn khảo sát, chúng tôi nhận thấy vần liền thường xuất hiện ở vị trí giữa hai vế của thành ngữ. Ví dụ: (a) “ Nhưng thông thường hễ xa mặt thì cách lòng, con Miên cũng đâu phải hạng “chim sa cá lặn” gì. Mấy năm trời lén lút gặp gỡ, thằng nọ cũng nản, đem lòng yêu một con hoa khôi trường Gia Long” [1; 348] (Những người hiện đại- Lê Thị Thanh Minh) (b) “Trước lời hiềm khích, bới bèo ra bọt, có ít xích ra nhiều về một số thiếu sót của chánh quyền địa phương phát ra từ cửa miệng những kẻ chuyên lê gót đặt chân tới hết đám nhậu nhẹt này mang sang cuộc đờn ca lâm ly khác, ông cũng ngơ đi.” [3; 87] (Nghĩ kỹ đi, hiền huynh- Huỳnh Tâm Chí) (c) “Chẳng đứa nào dám đụng vào giỏ tôm. Bà Ngọ tự làm lấy đem lên bàn thờ cúng ông Ngọ: “Ông ơi! Ông có linh thiêng hãy về đây chứng giám cho lòng thành của đứa con tàn tật và phù hộ độ trì cho nó.” [4; 333] (Lòng mẹ- Trần Hồng Long) (d) “Họ có vẻ yêu mến ông thiệt tình. Bằng cớ là ông không còn chức quyền đã mấy năm và với cái bệnh ngặt nghèo không có triển vọng quay về với quan trường, vậy mà họ vẫn đến với ông, nhiều khi đông nghẹt. Không như cái câu ưa thích của cha cô khi luận bàn về thế thái nhân tình: “Hết xôi rồi việc”. [3; 184] (Cõi người- Lâm Thị Thanh Hà) b/ Vần cách: Khác với vần liền, vần cách là sự láy lại phần vần của một âm tiết mà giữa chúng có ít nhất một âm tiết chen vào. Nhìn chung, thành ngữ có chứa vần cách trong những tuyển tập truyện ngắn ĐBSCL chủ yếu là vần cách một âm tiết và vần cách hai âm tiết trở lên ● Vần cách một âm tiết. Ví dụ : (a) “Có thể là do tâm lý có tịch rục rịch, nên hắn có cảm giác nhiều người biết chuyện và vợ hắn đã nghi ngờ. Nhưng…lấy cớ gì để ly dị vợ đây?” [4; 14] (Khoảng trống- Hoàng Dương Thu Anh) (b) “Rồi bà gọi Huệ lại, nhỏ nhẻ khuyên lơn: “Con đừng buồn! Má con coi vậy chớ cũng mau nguội lắm. Để rồi bà trị cái thằng kia- bà chỉ sang Vĩnh mà không có vẻ giận chút nào- Mầy lại sắp đi nữa phải không? Vậy đó, chỉ có bọn đàn bà con gái tụi tao là khổ thôi! Trăm dâu đổ đầu tằm!” [1; 434] (Khoảnh khắc hoa quỳnh nở- Ngô Vĩnh Nguyên) ● Vần cách nhiều âm tiết Vần cách nhiều âm tiết là sự láy lại phần vần của một âm tiết mà giữa chúng có nhiều âm tiết chen vào. (a) “Lực thắng xe lại, buông thỏng tay, ngồi thẳng người. Té ra tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Đã phải chạy đường vòng để tránh nhìn cái trụ ximăng với cổng rào gai gợi nhớ. Mà vẫn gặp, bừng mở lại trong anh những ngày đầu quen Nguyệt Yến” [1 ; 600] (Sau chiến tranh- Quang Thắng) (b) “Ngược lại đằng khác, những hôm không có rượu trông ông cứ lử đử lừ đừ như ông từ vào đền, còn nếu được vài ba hột vô người lại thấy tươi tỉnh và thần thái khoái hoạt hẳn lên.” [3; 426] (Miễu Ông Đời- Lê Nguyên Ngữ) (c) “Anh được thả sau ngày giải phóng. Anh về thăm lại quê hương Hà Nội một thời gian rồi giã biệt nơi chôn nhau cắt rốn, trở về sống với bà mẹ miền Nam nặng ơn cứu tử” [4; 263] (Huyền thoại bên tôi- Nguyễn Thị Thanh Huệ) Tóm lại, vần là một yếu tố ngữ pháp quan trọng của thành ngữ trong truyện ngắn ĐBSCL. Cách gieo vần trong những sáng tác này thật phong phú và đa dạng. Nhưng dù được gieo như thế nào đi chăng nữa thì vần trong thành ngữ cũng góp phần đáng kể trong việc cấu tạo phát ngôn và biểu nghĩa, làm cho câu văn trở nên trôi chảy và mạch lạc, êm tai. 3.1.1.2. Nhịp Cũng như vần, nhịp là yếu tố quan trọng làm nên đặc trưng ngữ điệu của thành ngữ cũng như đóng vai trò nổi bật trong việc cấu thành sắc thái ý nghĩa, khiến cho thành ngữ vừa ổn định về mặt cấu trúc vừa giàu nhạc điệu. Nhịp không chỉ góp phần đáng kể trong việc cấu tạo phát ngôn, hình thành chức năng cú pháp và chức năng biểu nghĩa mà còn làm nên một hiệu ứng thú vị là giúp cho thành ngữ trở nên ấn tượng, dễ đọc, dễ thuộc, êm tai và khắc sâu vào trí nhớ người tiếp nhận. Ngoài ra, cấu trúc ngữ nghĩa của thành ngữ cũng chịu ảnh hưởng bởi nhịp điệu. Nếu phân nhịp chính xác thì ta sẽ hiểu đầy đủ ý nghĩa nội dung của thành ngữ. Ngược lại, nếu ngắt nhịp sai sẽ dẫn đến hiểu lệch lạc không đúng. Khảo sát trong những tuyển tập truyện ngắn ĐBSCL, có thể thấy thành ngữ có hai kiểu ngắt nhịp: ngắt nhịp theo vần và ngắt nhịp theo cấu trúc đối ứng . + Ngắt nhịp theo vần Cách ngắt nhịp thành ngữ chỗ gieo vần sẽ đảm bảo cho ý nghĩa của thành ngữ chính xác hơn (tuy không phải lúc nào cũng đúng). Ví dụ: (a) “Ngẫm ra chồng tôi quả có lý. Chuyện mở rộng một con đường, xây một khu chế xuất, phát triển một nơi giải trí vui chơi hiện đại có gì là ảnh hưởng đến cuộc sống tay làm hàm nhai của họ” [1 ; 680] (Xóm nghèo- Nguyễn Ngọc Tuyết) (b)“Cùng nhau hứa hẹn ngày nên vợ nên chồng, đẹp mặt mẹ cha. Rồi dẫn nhau về Châu Đốc , thăm danh lam thắng cảnh quê chồng. Ngờ đâu, vào một đêm sau mấy ngày Thương ra khơi, trời mưa to gió lớn, tôi lo âu sợ sệt.” [3 ; 298] (Mưa thời con gái- Tôn Thất Lang) Xin mượn ý kiến của Triều Nguyên để nói rõ hơn về vấn đề này: “…vị trí của nhịp được đặt sau chỗ gieo vần đầu tiên. Đây là quy cách chung của hiện tượng nhịp ở số tục ngữ có gieo vần, bất luận đó là vần liền, vần cách một âm tiết, vần cách hai âm tiết…bất luận đó là những câu tục ngữ có cấu trúc chia hai, ba vế cân đối hay có cấu trúc không cân đối.”. [52; 139] + Ngắt nhịp theo cấu trúc đối ứng (cấu trúc sóng đôi) Về cách ngắt nhịp theo cấu trúc đối ứng, tác giả Triều Nguyên cũng cho rằng: “Những câu tục ngữ có cấu trúc 2-2, 3-3, 4-4,…cân đối thường là chúng đối ứng nhau (theo dạng tương đồng hay tương phản) thì nhịp được đặt ở giữa cấu trúc cân đối này.” [52; 143] Như vậy, đối với những câu có vần, nhịp thường nảy sinh trên cơ sở kết cấu nhiều vế. Nhịp điệu có thể xuất hiện ở những vế có số tiếng đều nhau hoặc không đều nhau. Tùy vào số lượng âm tiết tham gia trong thành ngữ, tục ngữ mà có các nhịp như 2/2, 3/3, 4/4 hay 2/2, 3/3, 3/3,… Với cách ngắt nhịp theo vần hoặc theo cấu trúc sóng đôi, nội dung ý nghĩa thành ngữ có thể được hiểu một cách chính xác. Ví dụ: (a) “Các con nên biết rằng nhà má nuôi cộng sản từ hồi Tây, từ kháng chiến đánh Tây tới giờ, nhà má chứa bộ đội co chừng một trăm lần. Các con tới ở đây nên coi nhà má như nhà mình, chớ giữ ý giữ tứ kiểu đó là má giận” [3 ; 140] (Người khách đến thăm vườn nhà tôi- Anh Đức) (b) “Thật ra thì nhiệm vụ thơ ký của tôi cũng chẳng có việc gì để làm nên tôi thường thay phiên với Long chèo ghe hoặc nấu cơm. Còn thầy thì khi chiều tà bóng xế, hoặc lúc gió mát trăng thanh, thầy cũng chèo ghe đôi độ đường cho dãn gân dãn cốt.” [3 ; 512] (Thầy tôi- Viễn Phương) (c) “Ngày đó, cô Út tôi hội đủ những điều kiện mà bất kỳ người con gái nào cũng ao ước: nhan sắc, gia đình thế gia vọng tộc, chồng giàu có, tài hoa. Nết ghen dữ dằn của cô đã phá nát gia đình êm ấm. Dượng Út không chịu được nổi phải bỏ lên Tây Nguyên rồi chết nơi rừng thiêng nước độc” [3; 253] (Giọt buồn ký ức- Nguyễn Thị Kỳ) Với những thành ngữ được sử dụng trong các ngữ cảnh trên, để hiểu được chính xác ý nghĩa của từng thành ngữ cũng như những nội dung, thông tin mà tác giả gởi gắm, chúng ta chỉ có thể ngắt nhịp thành ngữ theo cấu trúc sóng đôi: giữ ý/ giữ tứ; chiều tà/ bóng xế, gió mát/ trăng thanh, thế gia/ vọng tộc, rừng thiêng/ nước độc. Có thể nói, vần và nhịp vừa hài hòa nhau trong thành ngữ, vừa đảm nhận cả chức năng ngữ pháp và ngữ nghĩa của cả phát ngôn. Cả hai yếu tố này đã làm cho câu văn thêm mượt mà, uyển chuyển, nhịp nhàng và dễ đọc, dễ nhớ. 3.1.1.3. Cấu trúc sóng đôi Cùng với vần và nhịp, cấu trúc sóng đôi là thủ pháp quan trọng tạo nên tính cân đối, nhịp nhàng của thành ngữ tiếng Việt nói chung cũng như thành ngữ trong các sáng tác của các nhà văn ĐBSCL nói riêng. Cấu trúc sóng đôi được nhận thấy dễ dàng qua cấu trúc hình thức của thành ngữ. Trong các tuyển tập truyện ngắn ĐBSCL, cấu trúc sóng đôi của thành ngữ thể hiện ở hai dạng phổ biến: sóng đôi bộ phận và sóng đôi phát ngôn. a/ Sóng đôi bộ phận: Với hình thức sóng đôi lặp lại cú pháp, đồng thời nhấn mạnh về ý nghĩa của các cụm từ sử dụng từ nối và cặp từ đối ứng kết hợp với láy từ và láy vần, dạng cấu trúc sóng đôi bộ phận đã giúp cho nhịp điệu thành ngữ trở nên cân đối, đồng thời tạo ra tính uyển chuyển cho câu văn. Ví dụ: (a). “Ba tôi mất trong một tai nạn đụng xe khi tôi vừa lên tám, mẹ một mình quyết tâm bám trụ đất Cần Thơ nuôi ba anh em ăn học. Mẹ tôi ngày càng đen đủi, gầy đi, phải “giật gấu, vá vai” để chúng tôi có những bữa ăn đạm bạc và cùng được đến trường học.” [3 ; 295] (Mưa thời con gái- Tôn Thất Lang) (b) “Ra khỏi bến một lúc nhằm khu ngoại ô thưa nhà, xe đang chạy ngon trớn bỗng giần giật mấy cái, rồi rề sát lề đường, im bặt. Đáng đời cho cái tội ham đi xe mới. Suốt từ chiều, canh đúng chiếc xe “láng cón” này rời bến, tôi mới chịu mua vé! Ai ngờ tốt mã rã đám” [4 ; 258] (Huyền thoại bên tôi- Nguyễn Thị Thanh Huệ) (c) “Hai Cán do dự. Chị Năm Bé mở miệng nói xong rồi tần ngần. Đúng là mời vậy không tiện. Đàn bà giá mà ban đêm ban hôm có chứa đàn ông trong nhà thế nào chòm xóm cũng lời ra tiếng vào” [4; 154] (Đò đã dời bến- Đặng Tấn Đức) Chính nhờ việc sử dụng những thành ngữ có cấu trúc sóng đôi bộ phận, tác giả đã mang đến sự lưu loát, liên tục cho những câu văn đóng vai trò là lời thoại, lời tâm sự hay dòng suy nghĩ của nhân vật. Hơn nữa, với cách dùng thành ngữ theo kiểu cấu trúc này, câu văn trở nên sinh động, gợi tả hơn với những cặp hình ảnh có tác dụng miêu tả súc tích, hình tượng những trạng thái, tính chất, cảnh huống, hành động khác nhau. b/ Sóng đôi phát ngôn Qua những tuyển tập truyện ngắn khảo sát, chúng tôi nhận thấy kiểu sóng đôi phát ngôn là một hình thức thường thấy không chỉ trong thành ngữ tiếng Việt mà còn xuất hiện khá nhiều trong phạm vi ngữ liệu đã khảo sát. Ở cấu trúc sóng đôi này, hai hoặc nhiều phát ngôn trong đó bao gồm các đối tượng riêng lẻ sẽ liên kết thành một phát ngôn phức hợp gần chủ đề hoặc chung chủ đề. Chẳng hạn: (a) “Nói thì dễ nhưng những người tay đã lỡ nhúng chàm như chúng tôi thì khó hòa nhập lại với đời thường lắm. Nghèo đói, thất nghiệp và định kiến xã hội nào có buông tha chúng tôi. Rồi ma dẫn lối, quỷ đưa đường sẽ dắt chúng tôi về đường cũ.” [3; 498] (Nợ trần gian- Hoài Tường Phong) (b) “Trước khi về đây, tôi tưởng quê mình còn nghèo lắm, không ngờ mới hơn mười năm mà thành phố mình đã thay da đổi thịt, đâu đâu cũng rạng rỡ tiếng nói tiếng cười của trẻ thơ” [3; 533] (Bèo giạt hoa trôi- Hoài Phương) (c) “ Một đêm như bao đêm khác, cô ngồi quạt cho cha và bất chợt nhìn sang cậu sinh viên đang xanh xao mê mệt trong giấc ngủ giả để quên đau, trong đầu cô bỗng bật ra ý nghĩ, rằng có lẽ hạnh phúc lớn nhứt của đời người là được sống bình yên khỏe mạnh, còn lại những cái khác, những cái thường làm cho người ta nhức đầu chóng mặt, đổ mồ hôi sôi nước mắt, rốt cuộc chỉ là thứ yếu mà thôi.” [3; 186] (Cõi người- Lâm Thị Thanh Hà) (d) “Kiếp này, hắn đã lỡ là một con quỷ dữ. Phải, hắn sẽ trở về với quỷ, bất chấp luật pháp, bất chấp viễn cảnh núi đao sông kiếm sẽ banh xác hắn dưới mười tầng địa ngục.” [4; 53] (Chuyện đồng bằng- Nguyễn Kim Châu) Trong những ngữ cảnh trên, thủ pháp cấu trúc sóng đôi phát ngôn của thành ngữ đã phát huy hết giá trị biểu đạt của mình.Bản thân mỗi thành ngữ tuy bao gồm những hình ảnh, tình huống, hoạt động khác nhau “ma dẫn lối”- “quỷ đưa đường”, “núi đao”- “sông kiếm”,” thay da”- “đổi thịt” nhưng khi sóng đôi với nhau thì chúng lại chứa đựng nhiều ý nghĩa khái quát hơn, sâu sắc hơn. Như vậy, mỗi thành ngữ với cấu trúc sóng đôi tuy chứa đựng những đối tượng riêng biệt, cụ thể nhưng lại có khả năng miêu tả những trạng thái, khái niệm, tính chất, hoạt động,….mang tính biểu trưng và khái quát ở một tầm cao hơn mà không cần dùng đến hư từ. Đó chính là đặc điểm nổi bật nhất của thành ngữ có cấu trúc sóng đôi. Thủ pháp nghệ thuật sóng đôi trong cấu trúc thành ngữ thật sự là một phương thức tạo nghĩa hiệu quả, đem đến những giá trị độc đáo trên trang viết của người nghệ sĩ. 3.1.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ trong truyện ngắn ĐBSCL 3.1.2.1. Nghĩa biểu trưng Không có gì quá đáng khi cho rằng: Thành ngữ là những bức tranh nho nhỏ về hiện thực cuộc sống, trong đó những vật thực, việc thực được vẽ nên bằng nhiều gam màu tươi tắn. Nghĩa của thành ngữ là nghĩa biểu trưng. Từng cái cụ thể, riêng lẻ trong cuộc sống đã đi vào thành ngữ và được nâng lên thành cái phổ biến, khái quát để trở thành những hình ảnh biểu trưng hết sức sinh động và gợi tả. Tính biểu trưng của thành ngữ giúp chúng chứa đựng những khái niệm thâm thúy, đầy chất triết lí nhưng câu chữ hết sức giản dị, ngắn gọn. Nếu ở hiện thực, biểu trưng được tính với cấp số cộng thì trong văn chương nó lại lên đến cấp số nhân vì văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Chính đặc điểm này đã tạo nên một thế giới biểu trưng vô cùng đa dạng và phong phú trong văn chương. Đi sâu tìm hiểu tính biểu trưng của thành ngữ trong những truyện ngắn ĐBSCL, chúng ta thấy những hình ảnh biểu trưng này chính là những tín hiệu thẩm mỹ chứa đựng bên trong những xúc cảm, thái độ của tác giả gởi gắm vào tác phẩm nói chung cũng như từng hình ảnh, tính chất, trạng thái nói riêng. Đọc những tuyển tập truyện ngắn ĐBSCL, chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ. Chúng có thể là những hình ảnh có thực trong cuộc sống hoặc chỉ là những hình ảnh tưởng tượng trong tâm trí con người, bao gồm các loại nhỏ như: con người, động-thực vật, cảnh thiên nhiên, khí hậu, sự vật, hiện tượng, hoạt động,… ● Hình ảnh biểu trưng là con người Có thể kể đến những thành ngữ: gái một con, hình ảnh ông từ vào đền, mẹ góa con côi, ông ăn chả, bà ăn nem, người dưng (nước lã), Từ Hải…. (a) “Để coi, lúc mẹ thằng Thanh ẳm nó về đây, nó mới lên hai chớ mấy. Rồi mấy năm sau, mẹ nó rớt nước mắt gởi con lại cho ông, bước đi bước nữa. Làm thế nào được. Mẹ góa con côi.” [5; 283] (Chiếc độc bình cổ- Nguyễn Ngọc Tuyết) (b) “-Dám thưa ông Tộc trưởng, chúng tôi không phải là kẻ thâm nho, tài hèn chỉ đáng làm môn đệ của ông, nhưng ông đã dạy, tôi xin mạn phép vâng lời, nhờ ông không chấp cho chuyện trước cửa Lỗ Ban múa búa.” [3; 691] (Trao thân con khỉ mốc- Phi Vân) (c) “Trong xóm còn có cô Huệ bị chồng bỏ theo bồ nhí. Thôi thì “ông ăn chả bà ăn nem”, cô đã lao vào con đường ăn chơi sa đọa, kiếm tiền bằng “vốn tự có”” [3; 703] (Ông Chín xóm tôi- Lê Xuân Bột) ● Hình ảnh biểu trưng là động- thực vật Có thể nói, đây là là những hình ảnh biểu trưng xuất hiện rất nhiều trong các tuyển tập khảo sát. + Đó là những hình ảnh con vật như: con gà, vịt, mèo, chó, cóc, trâu, chim, én, cá, rùa, chuột, cọp, hùm, mểnh, quạ, tu hú, tôm, rồng, khỉ, cò, cua, ngựa, bò, sóc, voi, tằm, ong… Một số ngữ cảnh như: (a) “Cũng lạ, cái tác phong hung hăng con bọ xít, quậy quạt lung tung ấy của tôi chẳng làm ai trong trường mếch lòng cả. Chắc họ đều hiểu tôi là thằng phổi bò ruột ngựa, tôi múa may để cho hả cái thanh niên tính quá dư thừa của mình chớ nào có ẩn ý chơi trội hơn các chú bác, anh em” [5; 324] (Chuyện ghét chuyện thương- Lương Hiệu Vui) (b) “Vị mặt đen mặt bộ giáp bạc, tay cầm đại đao, râu hùm hàm én, đôi mắt sáng quắt, dung nhan không thua gì Bao Công mà ta thường gặp ở các tuồng ngài xử án bọn tham quan ô lại. [5; 66] (Quan gác cửa- Vũ Đức Nghĩa) (c) “Trống ngực tôi đập thình thịch. Bực thật! Tôi đâu phải là loại con trai nhát gái, không biết cách ăn nói: vậy mà đứng trước em tôi như gà mắc tóc” [1; 225] (Bông mai giữa Đồng Tháp Mười- Lê Thanh Huệ) + Đó là những hình ảnh thực vật như: tre miễu, dây mơ- rễ má, mai, chồi, lộc, gừng, hoa, cỏ, lá môn, dưa hấu, dừa, tre, măng, mùng tơi, trầu …. Ví dụ: (a) Họ là những người còn sót lại từ trong quá khứ bất động, để rồi nó sống lại trong đầu đứa trẻ là hia Kim, sau này tôi nghe hia kể mãi. Khi dây mơ rễ má bắt đầu phát triển, làm một chuyến lênh đênh giữa biển cũng rất vất vả, cuối cùng ai ở đâu như quen đó”[2; 254] (Tro bụi trên sông- Ngô Khắc Tài) (b) “Ngay cả xã và các làng phụ cận cũng không có lấy một trường tiểu học! Hương chức hội tề nhiều ông còn dốt đặc cán mai, tập được một chữ ký tên đã là khá lắm.” [1; 14] (Tiếng gọi ngàn- Đoàn Giỏi) ● Hình ảnh biểu trưng là sự vật Chẳng hạn như: lửa, đèn, ván, thuyền, mực tàu, giấy, hòm, khóa, quần, áo, vách, bát, sông, chợ, chiếu, rượu, gạo, củi, guốc, đàn, đao, búa, hủ (nếp), nhà, vườn, chùa, quán, đình, chày, cối, thớt, khói, hương,… Một số ngữ cảnh: (a) “Nhưng nghĩ tới lúc nhà vắng con, tối lửa tắt đèn kêu hù hơ hù giựt cũng không có, nội chịu sao nổi, con!” [1; 404] (Nhà không có đàn ông- Dạ Ngân) (b) “…đặc sắc nhất, đáng đồng tiền bát gạo nhất chỉ có màn xiếc phóng dao của cô gái câm lúc nào cũng mặc bộ võ phục màu trắng và gã thanh niên có khuôn mặt điển trai nhưng đen đúa, lầm lì” [4; 46] (Chuyện đồng bằng- Nguyễn Kim Châu) (c) “- Tiêu cực nhiều quá mà mầy làm báo cũng không dám đưa lên nhựt trình cho dân coi, dân củng cố lại niềm tin với Đảng. - Có chuyện nên đưa, có chuyện muốn đưa lên giấy trắng mực đen phải cân nhắc, thận trọng chứ ba?” [4; 142] (Tiếng bước chân- Anh Động) ● Hình ảnh biểu trưng là những hiện tượng tự nhiên, thiên nhiên: đất, trời, , sấm, sét, núi, biển, nắng, mưa, sóng, chớp, gió, ngày, đêm, chiều,... Ví dụ: (a) “Chú Tư Đẳng từng nghĩ: Ắt thấy là người khai sáng một thứ Đạo gì đó, chẳng qua “Phong vân chưa gặp hội” nên còn ẩn tích mai danh, chưa có mặt cứu đời. [1; 14] (Tiếng gọi ngàn- Đoàn Giỏi) (b) Kiếp này, hắn đã lỡ là một con quỷ dữ. Phải, hắn sẽ trở về với quỷ, bất chấp luật pháp, bất chấp viễn cảnh núi đao sông kiếm sẽ banh xác hắn dưới mười tầng địa ngục.” [4; 53] (Chuyện đồng bằng- Nguyễn Kim Châu) (c) Hai giọt nước mắt chợt lăn dài trên đôi gò má đã ít nhiều nắng táp mưa sa. “ Ta đã may mắn…”.[3;193] ● Hình ảnh biểu trưng là bộ phận cơ thể con người: phổi, ruột, tay, chân, miệng, mắt, đầu gối, gan, lòng, bụng, mũi,… Ví dụ: (a) “Nếu trị sớm mà nó chết thì tao bị vạ lây. Còn khi nó đã nhắm mắt xuôi tay trước mặt mọi người mà tao cứu được, mầy nghĩ xem, cái chuyện ấy lớn cỡ nào?” [4; 177] (Thầy Năm Mọi- Phạm Thường Gia) (b) “Ông bà Bảo là chỗ ơn nghĩa. Hồi anh chị mới chân ướt chân ráo về đây đã được ông bà giúp đỡ hết sức vô tư” [4; 124] (Thẻ nhang của mẹ- Phương Đông) (c) “Người ta cho rằng Tư Khanh bạo mồm bạo miệng như vậy mà không sao bởi vì có thời Tư Khanh là cơ sở cách mạng, ông đã từng nuôi giấu nhiều cán bộ trong đó có Năm Bé và Hai Giáo” [5; 19] (Người chạy trốn quá khứ- Mai Bửu Minh) Qua những hình ảnh biểu trưng trên, chúng ta có thể thấy được sự tài ba của các tác giả khi vận dụng một cách khéo léo thành ngữ: mỗi hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ là một tín hiệu thẩm mỹ không phải lúc nào cũng mang một nội dung ý nghĩa rập khuôn hoặc mang sắc thái tính chất giống nhau mà nó phụ thuộc vào những ngữ cảnh khác nhau qua ngòi bút của nhiều tác giả. Sự biến hóa thú vị của các hình ảnh biểu trưng đã mang đến giá trị biểu đạt đặc sắc cho truyện ngắn ĐBSCL. 3.1.2.2. Khuôn thành ngữ Thành ngữ tiếng Việt có những khuôn hình riêng và thường mang tính biểu trưng cao. Nghĩa biểu trưng của thành ngữ là thành phần ý nghĩa ẩn đằng sau cấu trúc bề mặt ngôn từ. Nhìn chung, những thành ngữ loại này thường được hình thành bằng con đường liên tưởng thông qua phương thức ẩn dụ và phương thức so sánh. Từ đó, chúng ta có hai khuôn hình thành ngữ: thành ngữ ẩn dụ và thành ngữ so sánh. Các thành ngữ ẩn dụ hay thành ngữ so sánh có ý nghĩa biểu trưng sẽ được xây dựng trên cơ sở của hình ảnh nhất định. Qua thành phần nghĩa đen có những hình ảnh cụ thể ấy, chúng ta phải thực hiện quy tắc suy ý theo phương thức tư duy ẩn dụ hoặc so sánh để rút ra điều cuối cùng mang tính trừu tượng (nghĩa bóng) mà người viết muốn truyền đạt. Qua khảo sát thành ngữ trong các tuyển tập truyện ngắn ĐBSCL, chúng ta thấy vốn thành ngữ này nằm trong hai khuôn hình: thành ngữ ẩn dụ và thành ngữ so sánh. a/ Thành ngữ ẩn dụ Trong vốn thành ngữ ở các tuyển tập truyện ngắn ĐBSCL, loại thành ngữ ẩn dụ được xây dựng trên cơ sở miêu tả một sự kiện, một hiện tượng bằng cụm từ nhưng biểu hiện ý nghĩa một cách ẩn dụ. Tìm hiểu loại thành ngữ ẩn dụ trong vốn thành ngữ này, có thể thấy hình ảnh, sự kiện, hiện tượng biểu trưng có thể là con người, là động vật-thực vật, sự vật, các hiện tượng tự nhiên hay các bộ phận trên cơ thể con người Chẳng hạn như các ngữ cảnh sau: (a) “Vợ ông, một người đàn bà ghen nổi tiếng, không coi việc làm của chồng là hành động vì tình thương và trách nhiệm mà là mưu mẹo của cọp nuôi mểnh, bù cắc nuôi gà con. Sợ mang tiếng ác, bà không nói thẳng mà nói rằng nuôi hát bội trong nhà xui xẻo lắm, như nuôi ong tay áo” [3; 239] (Một nghệ sĩ- Trang Thế Hy) (b) “Cả cái xóm Lộ Tẻ và khu vực doanh trại quân đội quanh đây ai cũng đồn rằng anh trị bệnh heo bò rất “mát tay”. Tuy nhiên phải nhìn nhận nghề nào cũng có mặt trái của nó. Dù tốt nhịn vợ, anh đôi lúc cũng đâm khó chịu khi phải chiều chuộng một gã trai tơ say rượu hay một ông già trái tính lẩm cẩm. Làm dâu trăm họ mà” [4; 123] (Thẻ nhang của mẹ- Phương Đông) (c) “Nhà tôi vô phước. Trời ơi, con làm nhục cha nhục mẹ chi vậy hỡi con!...Sanh con tưởng gả được chỗ môn đăng hộ đối, ai dè họ khi mình đến đỗi này…” [3; 692] (Trao thân con khỉ mốc- Phi Vân) b/ Thành ngữ so sánh Loại này bao gồm những thành ngữ có cấu trúc so sánh. Mô hình tổng quát của thành ngữ so sánh giống như cấu trúc so sánh thông thường khác: A so sánh B. Ở đây A là vế được so sánh, B là vế đưa ra để so sánh, còn từ so sánh thường là: như, bằng, tựa, hệt,...Thông thường, A thường là một hình ảnh, tính chất, trạng thái, hoàn cảnh còn B là một hình ảnh biểu trưng như: con người, động vật-thực vật, sự vật, các hiện tượng tự nhiên hay các bộ phận trên cơ thể con người,… Sự hiện diện của thành ngữ so sánh trong các tuyển tập truyện ngắn ĐBSCL khá đa dạng, không phải lúc nào cũng đầy đủ ba thành phần trong cấu trúc. Chúng có thể có các kiểu: ● A so sánh B: Đây là dạng đầy đủ của thành ngữ so sánh. Chẳng hạn: chậm như rùa, chắc như cua gạch, đẹp như tranh, đỏ như máu, đỏ như son, đứng sừng sững như ông phỗng, hiền như bụt đất, im thư thóc, lạnh như băng, lử đử lừ đừ như ông từ vào đền, mạnh như trâu, mặt lanh như tiền, mượt như nhung, nhanh như sóc, nhăn như khỉ ăn gừng, ốm như cò ma, rét như cắt, run như cầy sấy, thẳng như ruột ngựa, trắng như bông, trắng như tuyết, trơ như đá, xưa như trái đất, trần như nhộng,… Có thể kể đến các trường hợp sau: (a) “Chị đẹp vậy, hiền dịu vậy nên chả trách đám thanh niên trong làng mê chị như điếu đổ” [3; 72] (Chị bán trầu- Nguyễn Kim Châu) (b) “Chị Út chỉ tay vào Tám Xia hỏi: Con chú tính sao? Tám Xia bị cú đòn đột ngột, chỉ dà dà, tôi sẽ tính. Cả cuộc họp nhao lên. Cán bộ phải gương mẫu thì dân mới theo chứ. Tám Xia lúng túng như gà mắc đẻ, mặt cúi xuống đỏ bừng, ú ớ” [3; 172] (Chị Út- Hoàng Hà) ● Ø so sánh B: Trường hợp này, thành phần A vắng mặt. Khi đi vào hoạt động trong câu nói, thành ngữ kiểu này sẽ được nối thêm với A một cách tuỳ nghi. Trong các tuyển tập đã khảo sát, dạng thành ngữ khuyết vế được so sánh xuất hiện hơn gấp nhiều lần so với dạng đầy đủ các thành phần. Chẳng hạn: như bắt được vàng, như con thoi, như gà mắc tóc, như hình với bóng, như ngựa chứng, như ngựa bất kham, như ống đồng ống trúm, như mê như tỉnh, như thấu tim đen, như tiếng sét bên tai, như sao Hôm sao Mai,…. (a) “Nhưng khi thấy đạn bắn đứt mão long trì của Phàn Lê Huê rớt phịch xuống đất và bay lên tiện đứt luôn tàu dừa, lá tre rơi lả tả, thấy những người phía trước bỗng mọp xuống và chạy túa ra hai bên như nước vỡ bờ không ai ngăn cản được, kể cả Phàn Lê Huê, thì anh Bảy Rô hiểu ngay, quăng đao chạy tạt ra khỏi vòng chiến” [3; 154] (Anh Bảy Rô- Trần Thanh Giao) (b) “Hai chúng tôi gần nhau trong một căn phòng nhưng lại xa cách vời vợi như sao Hôm sao Mai, không có bất cứ một cớ gì để gặp nhau, để nói với nhau, dù chỉ một lời xã giao” [2; 553] (Dòng sông đêm lặng chảy- Hồ Tĩnh Tâm) (c)Mắt dượng Bảy nheo nheo, hấp háy sau cặp kiếng cận dày cộm: “Cũng may. Còn vậy là tốt. Không bị lột sạch là may lắm rồi. Bọn ma cô thị thành gặp nông dân chân đất ra chợ như bắt được vàng!” [2; 516] (Một đoạn đời tôi- Nguyễn Thanh Sơn) MỤC LỤC -----o0o----- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………….….……..4 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài……………………………………….…………….5 3. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………….…..7 4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………….….….8 5. Đóng góp của luận văn…………………………………………………….….8 6. Bố cục của luận văn……………………………………………………..…….9 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÀNH NGỮ VÀ VĂN HỌC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG…..………………………………..……….…10 1.1. Khái quát về thành ngữ………………………………………………...…..…10 1.1.1. Khái niệm thành ngữ………………………………………………….….…..10 1.1.1.1. Quan niệm của các nhà nghiên cứu văn học…………………….….10 1.1.1.2. Quan niệm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ……………………....11 1.1.2. Giá trị biểu đạt của thành ngữ……………………………………….…........14 1.1.2.1. Giá trị biểu đạt của nội dung………………………………….….....14 1.1.2.2. Giá trị biểu đạt của hình thức…………………………………..…...26 1.1.3. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ ……………………………………………...28 1.1.3.1. Những điểm giống nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ……..….28 1.1.3.2. Những điểm khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ…….…...40 1.2. Khái quát về văn học đồng bằng sông Cửu Long…………………………...48 1.2.1. Lực lượng sáng tác……………..……………………………..………….…..48 1.2.2. Đặc điểm của văn học đồng bằng sông Cửu Long…………………….……..49 1.2.2.1. Nội dung……………………………………………………..……...49 1.2.2.2. Nghệ thuật ……………………………………………….………....50 1.3. Tiểu kết ….………………….……………………………………….………...51 Chương 2. VIỆC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG………...............................................….……………..52 2.1. Tình hình và xu hướng vận dụng thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long ...………………………………………………………………......52 2.1.1. Tình hình sử dụng thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long…………………………………………………………….…………… ……...52 2.1.2. Xu hướng vận dụng thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long….……………………….……………………………………..…...55 2.1.2.1. Sử dụng nguyên dạng…………………………………………..…...56 2.1.2.2. Sử dụng cải biên………………………………………………….....64 2.1.2.3. Sử dụng liên thành ngữ………………………………………...……87 2.2. Tiểu kết…………………………………………………………………..…….90 Chương 3. GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA THÀNH NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ……………………………………...91 3.1. Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long..........................................................................................................91 3.1.1. Đặc điểm cấu tạo của thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long …………………………………………………………………….…......91 3.1.1.1 Vần………………………………………………………………......92 3.1.1.2. Nhịp ……………………………………………………………..….94 3.1.1.3. Cấu trúc sóng đôi …………………………………………..….…....96 3.1.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long ………………………………………………………...…….……..…….99 3.1.2.1. Nghĩa biểu trưng………………………………………………..…...99 3.1.2.2. Khuôn thành ngữ…………………………………………...….….103 3.2. Giá trị biểu đạt của thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long ……………………………………………………………………........106 3.2.1. Miêu tả thiên nhiên, cảnh vật đồng bằng sông Cửu Long ……………….....106 3.2.1.1. Thiên nhiên hoang vu, vắng vẻ, heo hút…………………..…….....107 3.2.1.2. Khung cảnh thời chiến tranh………………………….….…….….110 3.2.1.3. Thiên nhiên dân dã và hữu tình……………………………..……..112 3.2.1.4. Thiên nhiên trù phú và tràn đầy sức sống……………….…………115 3.2.2. Phản ánh hiện thực xã hội đồng bằng sông Cửu Long ….……………….....118 3.2.2.1. Cuộc sống gian khổ, mất mát từ chiến tranh………………...….…118 3.2.2.2. Cuộc sống gia đình không trọn vẹn………………………..……....120 3.2.2.3. Cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn dù vất vả mưu sinh……..……....122 3.2.2.4. Cuộc sống phức tạp với lối sống tiêu cực thời cơ chế thị trường….124 3.2.3. Xây dựng hình ảnh con người đồng bằng sông Cửu Long .………………...127 3.2.3.1. Ngoại hình…………………………………………………….…...127 3.2.3.2. Cảnh ngộ, thân phận……………………………………….………129 3.2.3.3. Hành động………………………………………………………....132 3.2.3.4. Tâm trạng, trạng thái…………………………….………………..134 3.2.3.5. Tính cách…………………………………………...……………...137 3.3. Tiểu kết ……………………………………...……….…………………........140 KẾT LUẬN…………………………………………………………………….…14 1 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….…144 NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN ………………………………………………………..149 PHỤ LỤC…………………………………………………………………………15 0

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflv_ngon_ngu_hoc_26__7619.pdf