Luận văn Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du

Xuất phát từ quan điểm “thiên nhân nhất hợp”, “thiên nhân tương cảm”, các nhà thơ các nhà thơ tìm về với thiên nhiên một cách trọn vẹn bằng cách hòa mình vào cảnh, họ thiết lập mốt quan hệ vô cùng khăng khít, tìm được niềm vui, sự động viên, chiều chuộng từ thiên nhiên. Ở Nguyễn Du, không phải vậy. Ông tách mình ra khỏi thiên nhiên và xem nó như một đối tượng để khám phá, để giải bày tâm trạng. Nhưng rồi ông nhận ra thiên nhiên nhiều khi vô tâm, thờ ơ với con người, quay lưng trước nỗi đau của con người, không tương giao với con người. Người thì buồn mà cỏ vẫn xanh, người thì tiêu điều mà xuân vẫn cứ tươi đẹp. Trong cuộc mưu sinh đầy vất vả, khổ đau, nhiều khi con người cần sự vỗ về, cảm thông nhưng thiên nhiên nào đáp ứng. Xuân đến với ai kia chứ không hề đến với kẻ tha hương, người đã buồn thương mà bóng chiều, mây đen cứ giăng mắc khắp lối khiến lòng người càng não nề Thiên nhiên với Nguyễn Du là vậy, lạnh lùng và tàn nhẫn. Cả 2 bao giờ cũng song hành nhưng không bao giờ hòa hợp. Nó hiển hiện rõ trước mắt con người nhưng không phải để xoa dịu nỗi buồn; không lắng nghe và chia sẻ mà lúc nào cũng vô tình trước nỗi đau của thi nhân. Đây là nét khác biệt của Nguyễn Du với các nhà thơ trước và sau ông

pdf152 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 2699 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Du. Đó là bóng liễu âm u trong đêm xuân: Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm Tiểu song khai xứ liễu âm âm (Xuân dạ) (Đêm tối đen tìm đâu ra ánh sáng mùa xuân Trước song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u) (Đêm xuân) Là cảnh tuyết rơi mù mịt nơi thôn xóm nhỏ: Liêm thúy tiêu các tây phong động Tuyết ám cùng khôn hiểu giác ai (Thu chí) (Gió tây lay động bức rèm trên gác nhỏ Tuyết rơi mịt mù nơi thôn xóm hẻo lánh, tiếng tù và buổi sớm bi thương) (Thu sang) Là cây cỏ xơ xác mỗi độ thu về: Bạch lộ vi sương thu khí thâm 115 Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm (Thu dạ II) (Móc trắng thành sương hơi thu lạnh già Cây cỏ quanh thành bên sông thảy đều tiêu điều) (Đêm thu II) Tiêu tác ba tiêu nhất viện phong (Ngẫu đề) (Gió đầy cả phòng, tàu chuối tiêu điều xào xạc) (Tình cờ làm thơ) Khi có nỗi ưu tư, sầu bi trong tâm hồn, con người thường thốt lên những lời cảm thán và than thở. Nhưng một khi những nỗi sầu ấy lên đến tột cùng mà không thể giải tỏa, con người thường thốt ra nhưng câu hỏi lớn, những câu hỏi không cần lời đáp mà cũng không ai có thể giải đáp được. Nguyễn Du rất hay dùng câu hỏi để biểu lộ tình cảm, tâm trạng của mình. Dường như những từ ngữ bi ai kia chưa đủ làm nhẹ cõi lòng ông. Sử dụng câu hỏi không cần câu trả lời cũng là yếu tố tạo nên giọng trầm buồn trong thơ Nguyễn Du: Ông buồn vì mùa xuân không ở với ông; Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai? (Quỳnh Hải nguyên tiêu) (Xuân ở Quỳnh Hải từ đâu lại ?) (Đêm rằm ở Quỳnh Hải) Tha nhật xuân phong hà xứ lai? (Ngẫu hứng III) (Mai mốt gió xuân biết từ nơi nào đến? Bất tri thanh đế nại nhân hà? (Tạp ngâm I) (Không biết chúa xuân sẽ làm được gì người?) Ông đau buồn vì phải cách xa quê nhà, phải lang thang phiêu bạt: Chinh hồng ảnh lý gia hà tại 116 (Ngẫu hứng II) (Trong bóng con chim hồng đang bay xa, nhà ta ở đâu?) Dường như nỗi niềm của Nguyễn Du quá lớn, chừng đó câu hỏi vẫn chưa đủ. Kết cấu của bài thơ Đường chia 4 phần đề, thực, luận, kết. Ông sử dụng cả hai câu kết để đặt câu hỏi thay vì dùng nó để kết thúc vấn đề theo lẽ thường. Hỏi nhưng cũng là câu trả lời: Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp Tất cánh phiêu linh hà xứ qui? (Tự thán) (Một nhánh có bồng trước gió tây thổi gấp Cuối cùng sẽ trôi dạt về đâu? (Than thân) Cộng chỉ hoa mai báo tiêu thức Xuân tằng hà đáo dị hương nhân? (An Huy đạo trung) (Cùng nhau chỉ hoa mai báo tin xuân Nhưng xuân có bao giờ đến với người từ nơi đất khách?) (Trên đường An Huy) Những câu hỏi này có tác động rất lớn đến người đọc. Nó làm cho người đọc cảm thấy hụt hẫng vì ông không kết lại vấn đề nhưng lẽ thường mà họ chờ đợi. Câu hỏi đó không phải đặt cho riêng ông mà còn cho cả độc giả. Cái giọng bi của tác giả trong câu thơ đã xâm chiếm toàn bộ cảm giác của con người. Người ta có thể cảm nhận được giọng đau thương trong những câu hỏi của Nguyễn Du. Tóm lại, trong thơ Nguyễn Du không có ý vị ung dung siêu thoát của một kẻ đã rũ sạch chuyện đời. Ông đứng ở tư thế của một người vì quá đau đời mà ngửa mặt lên nhìn trời thốt lên lời thơ ai oán, hờn giận. Suốt cuộc đời mình, Nguyễn Du ôm một mối sầu lớn: “Thiên tế trường ưu vị tử tiền” (Trước khi chết vẫn còn lo chuyện ngàn năm) nên giọng thơ ông tràn đầy chất bi. 117 Bên cạnh giọng trầm buồn, thơ chữ Hán của Nguyễn Du còn có giọng triết lý. Chất triết lý này xuất phát từ những trăn trở dai dẳng và nhức nhối của thi nhân. Mỗi hình ảnh, mỗi câu thơ lại gieo vào lòng người đọc bao nỗi xúc động, nghẹn ngào. Giọng triết lý thể hiện những chiêm nghiệm, suy nghĩ sâu sắc của Nguyễn Du về con người và cuộc sống. Ông nhận ra sự hữu hạn của kiếp người trước vòng tuần hoàn vô tận của vũ trụ; nhận thấy cuộc đời mông lung, vô định không có cái gì là chắc chắn. Điều này biểu hiện thành một nỗi niềm u uẩn không tên mà ông cố đè nén. Trong 3 tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du sử dụng rất nhiều hình ảnh để thể hiện cái nhìn của ông về cuộc sống. Ông coi cuộc đời là phù sinh (cuộc sống tạm bợ), phù thế (cuộc đời thay đổi), phù vân (mây nổi), phù vinh (vinh quang trống rỗng), phù danh (tiếng tăm hảo huyền), phù bình (cuộc sống như bèo trôi)... Nguyễn Du không chỉ có cái nhìn chung chung về cuộc đời mà đã khái quát thành những quan niệm và nâng lên thành triết lý. Cảm nhận về cuộc đời của Nguyễn Du mang màu sắc ảm đạm, xám tối. Ông không chỉ quan tâm đến bản thân mà còn trải lòng ra với những mảnh đời đau khổ đang kêu gào. Nguyễn Du ý thức về nỗi khổ của con người. Thi nhân cảm nhận cả không gian và thời gian đều truy bức con người. Giọng điệu thơ xót xa khi nhà thơ đồng nhất đời người với “khoảnh khắc”, “thoáng chốc”. Cuộc sống đối với ông là không chắc chắn. Cảm thức bãi bể nương dâu xuất hiện rất nhiều trong thơ ông: Phù thế kỉ kinh tang lỗ biến (Tái thứ nguyên vận) (Cuộc đời đã trải qua bao phen ruộng dâu biến thành ruộng muối) (Họa lại bài nguyên vận) Thông qua rất nhiều hình thiên nhiên, Nguyễn Du thể hiện cái nhìn của mình về cuộc đời. Hình ảnh mây xuất hiện dày đặc trong thơ chữ Hán. Mây là hiện thân của nỗi “sầu vũ trụ”, nỗi “sầu vạn thuở”, khiến con người nhức nhối và tê tái. 118 Nhưng cũng có “mây” để ám chỉ sự tạm bợ, dễ đổi thay và dễ tan biến. Nguyễn Du ví cuộc đời này giống như đám mây nổi trên trời: Tha hương thân thế thác phù vân (Thu nhật ký hứng) (Thân thế nơi đất khách gửi gắm đám mây nổi) (Ngày thu gởi hứng) Đôi khi ông ví cuộc đời giống như cánh bèo mặt nước; Lạc ngạch phiêu bình thốt tự mưu (Hoàng hà trở lao) (Cành rụng béo trôi không tự mưu toan được gì) (Bị nước lũ sông Hoàng Hà làm nghẽn đường) Hay như chiếc lá giữa dòng: Thiên địa biên chu phù tự diệp (Chu hành tức sự) (Chiếc thuyền con trôi nổi như chiếc lá trong trời đất) Bởi vậy, ông “xem việc đời như mây nổi trong đáy mắt”. Tất cả những danh lợi, giàu sang, quyền hành trên đời sẽ tiêu tan. Mọi thứ chỉ là tạm bợ, ngắn ngủi: Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi (Đại tác cửu thú tư qui I) (Danh lợi như đám mây buổi sáng, thay đổi ngay trước mắt) (Làm thay người đi thú lâu năm nhớ nhà) Hay: Thế gian phù quí đẳng phù vân (Đồ trung ngẫu hứng) (Giàu sang trên đời chỉ là mây nổi) (Ngẫu hứng giữa đường) Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh thiên nhiên mang tính chất triết lý không phải để lí luận mà để thể hiện cái nhìn của ông về hiện thực. Nguyễn Du 119 muốn nắm khám phá và nắm bắt được qui luật của đất trời cũng như qui luật của cuộc đời. Giọng điệu nghệ thuật là một trong những yếu tố của hình thức tác phẩm. Nó bộc lộ cái chủ quan của nhà thơ trong các sáng tác. Giọng điệu nghệ thuật là sản phẩm tinh diệu của sự kết hợp thế giới quan, quan niệm thẫm mỹ và tình cảm của tác giả. Giọng điệu là nơi nhận biết tài năng của tác giả và giá trị của tác phẩm. Giọng bi và giọng triết lý của Nguyễn Du khi miêu tả các bức tranh thiên nhiên được hình thành từ những yếu tố cơ bản là hệ thống hình ảnh, từ ngữ và hệ thống câu hỏi. 3.3 . Bút pháp 3.3.1 Miêu tả chân thực Các nhà thơ trung đại chưa xem thiên nhiên là một khách thể độc lập mà đến với cảnh vật chủ yếu bằng cách hòa mình vào trong cảnh. Tìm về thiên nhiên, thi nhân đã thiết lập mối quan hệ vô cùng thân thiết và cởi mở. Tuy nhiên cũng có những lúc, con người đã tách mình ra khỏi thiên nhiên, xem nó như một đối tượng khách quan để khám phá. Từ đó, bên cạnh thiên nhiên mang tính ước lệ, theo những khuôn mẫu có sẵn vẫn còn có những tác giả nhìn cảnh vật một cách khách quan, thật như nó vốn có - Nguyễn Du là một tác giả như thế. Dưới cái nhìn của ông, thiên nhiên hiện lên rất chân thực và sinh động, 3 tập thơ chữ Hán là một minh chứng. Riêng tả cảnh thì Nguyễn Du cũng theo truyền thống có sẵn trong văn học Trung Quốc cũng như trong văn học Việt Nam. Tuy vẫn có những chỗ mang tính chất công thức, ước lệ và tượng trưng, nhưng các yếu tố thực của đời sống dần được nhà thơ chú ý khai thác. Như vậy, ngoài việc tuân thủ những quy phạm vốn có của nền văn học trung đại, Nguyễn Du cũng miêu tả chân thực về thiên nhiên – đây là công cụ đắc lực để vẽ nên những bức tranh thiên nhiên vô cùng khách quan. Những hình ảnh, màu sắc và âm thanh mà Nguyễn Du đưa vào bức tranh của mình đều xuất phát từ sự quan sát nhạy cảm, tinh tế chứ không hề dựa trên những 120 nguyên tắc cổ điển trong việc miêu tả thiên nhiên và con người trong đó. Chẳng hạn, âm thanh náo nức của hội đua thuyền, tiếng ếch nhái kêu trong đêm vắng, tiếng gió thổi xào xạt, cả tiếng động bởi những chú chim bay qua cũng được thi nhân tái hiện lại rất sinh động. Không những thế, thiên nhiên dưới con mắt của Nguyễn Du hiện lên vô cùng dữ dội và nguy hiểm, rừng núi thâm sâu ẩn trong đó là sự rình rập của thú dữ, sông nước thì hiểm trở, thác lũ cuồn cuộn vồ lên như muốn nhấn chìm tất cả. Hiện thực trần trụi của thiên nhiên đã được Nguyễn Du khai thác một cách triệt để. Từ đó, ta thấy bức tranh thiên nhiên mà Nguyễn Du miêu tả không chỉ đẹp mà còn rất thực: Càn khôn dư thảo ốc, Phong vũ túc cô chu. Thu dạ ngư long trập, Thâm sơn mi lộc du. (Biệt Nguyễn đại lang) (Trong trời đất còn một nhà tranh Giữa gió mưa đỗ con thuyền đơn côi Đêm thu cá rồng ẩn nấp Núi sâu hươu nai dạo chơi) (Từ biệt anh Nguyễn) Nguyễn Du đưa vào bức tranh tất cả những gì ông đã chứng kiến, đã thật sự mắt thấy tai nghe. Nhà thơ đã thâu tóm toàn bộ cảnh vật xung quanh trong một cuộc chia tay giữa ông và anh vợ của mình. Một mái nhà tranh thấp thoáng giữa đất trời bao la, trên dòng sông hòa cùng gió bụi là chiếc thuyền nhỏ đơn côi. Hình ảnh cá rồng trong đêm thu hay đàn hươu nai dạo trong núi sâu là những hình ảnh vô cùng thực tế, do nhà thơ quan sát và ghi lại không hề bị ảnh hưởng bởi bút pháp ước lệ, tượng trưng. Không gian vào một buổi chiều trên sông Thanh Quyết được Nguyễn Du vẽ nên chân thực và sinh động: Phù kiều tận xứ xuất bình điền 121 Lịch lịch thanh sơn tại nhãn tiền Cổ kính tiều qui minh nguyệt đảm, Triều môn ngư tống tịch dương thuyền Mang mang viễn thủy tam xuân thụ, Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên. (Thanh Quyết giang vãn diếu) (Chỗ cuối chiếc cầu là đồng ruộng hiện ra, Trước mắt thấy rõ từng đợt núi xanh. Trên lối cũ tiều phu gánh củi trở về dưới trăng, Nhà chài đẩy thuyền ra lúc thủy triều dâng buổi xế chiều, Mờ mịt dòng sông xa lẫn trong cây cối mùa xuân, Nhà lác đác giữa khói sóng hai bờ,) (Buổi chiều trên sông Thanh Quyết) Nguyễn Du có khả năng bao quát cảnh vật khá tốt, chỉ bấy nhiêu câu thơ mà bao nhiêu hình ảnh của cuộc sống hiện lên với nhiều hình nhiều vẻ khác nhau. Cuối chiếc cầu bắc qua sông là đồng ruộng, hướng mắt về hướng xa xa trước mặt là từng dãy núi xanh hiện lên trong trời chiều. Trên con đường mòn là hình ảnh con người trở về sau một ngày làm việc, thấp thoáng trên bầu trời trăng đã bắt đầu lên, lúc bác tiều phu trở về bên bữa cơm chiều cùng gia đình cũng là lúc ngư phủ phải ra khơi, dòng sông không còn được vẻ tươi sáng mà mờ mịt dần bởi khói chiều đang buông tất cả những hình ảnh đó bước vào thơ hết sức tự nhiên và dung dị. Nguyễn Du không hề cầu kì, không trau chuốt cho bức tranh, nó thực như cuộc đời thường vậy. Nguyễn Du đã vẽ trong thơ chữ Hán nhiều bức tranh rất thực và thuần túy là những bức họa xinh đẹp, không ước lệ, không ngụ tình. Những bức tranh bằng thơ có khi tươi tắn, có khi sầu mộng được nhìn bằng cái nhìn khách quan và được viết với lối văn rất thật. Chỉ cần một vài nét phác họa thiên nhiên hiện lên thật hài hòa và trung thực. Hình ảnh vầng trăng, ngọn gió, đám cỏ, mùa thu hay mùa xuân trong thơ Nguyễn Du ngoài những lúc làm nền để thi nhân bộc lộ tâm tư, tình cảm 122 của mình, tức là đôi khi miêu tả chúng có mang dấu ấn chủ quan của tác giả thì nhiều lúc nó cũng rất thực. Đó có thể là không gian mênh mông, bát ngát của đất trời vào lúc chính thu, vạn vật cũng hòa chung vào sự đổi mới, trời thu lồng lộng, trúc vươn cao thâu góp gió, sắc vàng đã tràn về trên khắp lối đi: Mạc mạc thu quang bát nguyệt thâm, Mang mang thiên khí bán tình âm. Thu phong cao trúc minh thiên lại, Linh vũ hoàng hoa bố địa câm. (Tạp ngâm III) (Tháng tám lặng lẽ ánh thu già, Khí trời mêng mông nửa tạnh ráo nửa âm u. Trúc cao đón gió, sáo trời thổi, Hoa vàng được mưa, như rắc vàng trên mặt đất) Đôi khi cùng nói về mùa thu nhưng không phải miêu tả về cái đẹp, độ tươi sáng mỗi khi thu về mà Nguyễn Du còn nhận ra cả vẻ thu hiu hắt, tư lự, cô quạnh. Cảnh vật đôi khi mang dáng điệu sầu mộng nhưng không phải bởi tâm trạng người ngắm mà đó chính là cảnh thực, rất thu: Phồn tinh lịch lịch độ như ngân, Đông bích hàn trùng bi cánh tân. Vạn lý thu thanh thôi lạc điệp, Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân. (Thu dạ) (Sao nhiều rõ mồn một, móc trắng như bạc, Vách phía đông tiếng côn trùng mùa lạnh nghe buồn bã xót xa. Muôn dặm tiếng thu dục lá rụng, Một trời màu lạnh quét sạch đám mây nổi,) (Đêm thu) 123 Ngoài ra, còn rất nhiều hình ảnh thiên nhiên được nhìn dưới con mắt khách quan, rất thực của thi nhân. Đó có thể là vầng trăng tròn trên đỉnh núi: Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh (Ký Hữu) (Một vầng trăng tròn trên núi Hồng) (Gởi bạn) Cũng có thể là một ánh trăng tà trong đêm: Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên (Dạ tọa) (Trăng tà không sáng sao đầy trời) (Đêm ngồi) Nguyễn Du không chỉ tả thực những cảnh đẹp của làng quê Việt Nam mà còn miêu tả rất cụ thể những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội của đất nước Trung Hoa, khiến cuộc sống con người luôn nơm nớp trong nỗi sợ hãi, kinh hoàng. Những hình ảnh thiên nhiên kì vĩ, núi cao hiểm trở, sông sâu lắm thác nhiều ghềnh, những con đường khe đá cheo leo, con đường dài đầy bụi đỏ là những hình ảnh rất thực, phổ biến trong các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, đặc biệt là những bài thơ trong Bắc hành tạp lục – thơ đi sứ của Nguyễn Du. Núi tiếp núi, sông liền sông cứ hiện lên đậm nét trong, con người hiện lên thật nhỏ bé giữa cả vùng không gian rộng lớn, hiểm trở: Tây Việt sơn xuyên đa hiểm hi Hành hành tòng thử hướng thiên nhai Băng nhai quái thạch nộ tương hướng Thủy điểu sa cầm hiệp bất phi (Chu hành tức sự) (Núi sông miền Tây Việt nhiều hiểm trở Từ đây cứ đi, đi mãi về chân trời Vách núi lở, những hòn đá kì quái giận dữ nhìn nhau Chim nước, chim bãi dạn người không bay đi) 124 Đây thực sự là những điều Nguyễn Du tai nghe, mắt thấy chứ không phải thi nhân vẽ lên bằng trí tưởng tượng hay hư cấu nghệ thuật. Ở một bài thơ khác thi nhân lại nhận ra bộ mặt hung thần của tự nhiên. Sự thịnh nộ của thủy thần, thêm vào đó là địa hình hiểm trở của cả sông núi tạo nên một bức tranh sống động và hùng vĩ, khiến người đọc cũng có cảm giác sợ hãi y như là mình đang đứng trước khung cảnh đó vậy. Hình ảnh con thuyền lọt tỏm giữa muôn rặng núi và đang lướt nhanh trên sông đang mùa lũ cứ ám ảnh người đọc: Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn, Vạn sơn trung đoạn nhất sà bôn. Phù vân sạ tán thạch dung sấu, Tân lạo sơ sinh giang thủy hồn. (Minh Giang chu phát) (Bắt đầu ra cửa sông tiếng tiêu tiếng trống kêu ầm ĩ, Một con thuyền lướt nhanh giữa muôn rặng núi. Mây nổi chợt tan dáng núi gầy đi. Lụt mới đổ về nước sông đục ngầu) (Thuyền ra đi trên sông Minh Giang) Trong thơ chữ Hán, thiên nhiên nhiều khi được Nguyễn Du miêu tả một cách cụ thể và chân thật. Dưới con mắt của ông, thiên nhiên hiện lên thật khách quan. Đó có thể là những cảnh vật gần gũi thân quen: một ngọn gió, một buổi chiều, một đám cỏ; là âm thanh xào xạc của tàu chuối gió đưa, tiếng ếch nhái nỉ non trong đêm vắng; là màu đỏ thắm của hoa lựu trên núi, màu vàng rực của hoa cúc trước sân, màu xanh hoang dại của rừng núi bạt ngàn... Nhưng có lúc thiên nhiên hiện lên với bộ mặt hung tợn và nguy hiểm; khắc nghiệt và dữ dội khiến lòng người lo lắng và sợ hãi. Như vậy, thiên nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du tồn tại một cách độc lập, thật như những gì nó vốn có. Tuy nhiên, nói đến thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du mà chỉ thừa nhận phương diện khách quan như trên e rằng chưa trọn vẹn. Thơ là tiếng nói tâm hồn của thi sĩ, là những trang nhật kí tâm trạng của thi nhân. Đặc biệt đối với 125 Nguyễn Du – một “sầu nhân” giữa cuộc đời - thì điều này lại càng đúng hơn bao giờ hết. Trong khi miêu tả thiên nhiên, ngoài yếu tố khách quan thì dấu ấn chủ quan của tác giả là không thể phủ nhận. Ngoài việc sử dụng phương thức miêu tả chân thực thì tả cảnh ngụ tình cũng là một đặc trưng cần được khai thác khi nghiên cứu nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. 3.3.2. Tả cảnh ngụ tình Tả cảnh ngụ tình vốn là bút pháp nghệ thuật hết sức quen thuộc trong văn học trung đại Trung Quốc và Việt Nam. Đến nay không ai có thể trả lời được rằng bút pháp này được hình thành từ bao giờ nhưng ta thấy rõ biểu hiện của nó ở chỗ nó thường dùng những hình ảnh, hiện tượng thiên nhiên để thể hiện tâm trạng của chủ thể cảm nhận, quan sát những hình ảnh, hiện tượng ấy và bất kì điều gì, khi qua lăng kính cảm nhận của mỗi con người thì đều mang dấu ấn chủ quan của riêng họ. Trong thơ ca trung đại Trung Quốc nói chung và thơ Đường nói riêng, bút pháp nghệ thuật này được sử dụng hết sức phổ biến, có lẽ là do ảnh hưởng của quan niệm triết học “Thiên nhân nhất thể” rất phổ biến trong thời trung đại. Và tác dụng lớn nhất của nó mà ai cũng có thể cảm nhận được đó chính là làm cho cảnh và tình trong mỗi bài thơ hòa quyện với nhau, làm cho mỗi bài thơ có hồn, tinh tế và hàm súc hơn. Cũng có lẽ vì vậy đọc thơ Đường buộc người đọc phải đồng sáng tạo cùng tác giả để hiểu rõ những giá trị của mỗi bài thơ. Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng đậm nét của văn hóa phương Bắc. Đặc biệt trong lĩnh vực văn chương. Bản thân Nguyễn Du sinh ra và trưởng thành cùng với nền văn học trung đại, những nguyên tắc, chuẩn mực về sáng tác văn chương được Nguyễn Du tuân thủ và vận dụng vào trong 3 tập thơ chữ Hán một cách linh hoạt. Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du rất đa dạng, tài tình và phong phú. Chính vì điều đó mà giá trị các tác phẩm của Nguyễn Du được nâng lên tầm cao mới. Truyện Kiều của ông là một minh chứng hùng hồn nhất. Từ lâu, nó đã trở thành như một quyển thơ phổ thông của nước ta, từ bậc cao sang quyền quý, đến bậc văn nhân, trí thức cho đến tầng lớp bình dân ít học cũng biết đến thậm chí rất thích. Tóm lại, Truyện Kiều có vị trí vững chắc như ngày hôm nay là bởi nó mang một giá 126 trị toàn vẹn về mọi mặt: nội dung, tư tưởng, triết lý và cả nghệ thuật tả cảnh rất điêu luyện của Nguyễn Du. Không chỉ riêng Truyện Kiều, thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của cụ Nguyễn. Đặc biệt là lối tả cảnh ngụ tình, một bút pháp chủ yếu được Nguyễn Du sử dụng nhằm để bộc lộ nỗi lòng của mình. Được thể hiện mình trong môi trường thiên nhiên là một nhu cầu của các nhà nho thời trung đại. Tình yêu cái đẹp thuần khiết của cảnh vật vốn là tính sẵn có của nghệ sĩ. Chính điều đó đã góp phần đưa các nhà thơ trung đại về với thiên nhiên một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, mỗi thi nhân đến với thiên nhiên bằng nhiều lí do khác nhau. Nhưng tựu trung lại, các nhà thơ trung đại đến với thiên nhiên và xem nó như một đối tượng để chiêm ngưỡng, ngâm vịnh, là nơi để di dưỡng tinh thần, ở nơi đó tâm hồn họ trở nên thanh thoát và thoải mái hơn. Nguyễn Du không tìm thấy được điều đó khi trở về với tự nhiên. Đứng trước thiên nhiên, Nguyễn Du không mấy khi tìm được cảm giác bình yên như thế, thiên nhiên đối với Nguyễn Du chỉ như là một môi trường mà ông muốn gởi gắm những tâm sự, những trăn trở của bản thân mình. Có người nhận xét, trong thơ chữ Hán Nguyễn Du bút pháp tả cảnh ngụ tình được sử dụng tối đa là vì vậy. Không phải Nguyễn Du không nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng chẳng phải Nguyễn Du từ chối hòa nhập vào thiên nhiên. Có lẽ cuộc đời Nguyễn Du quá nhiều đau khổ, không chỉ là những bất hạnh của riêng bản thân mình mà là nỗi đau của nhân tình thế thái, sự biến đổi mạnh mẽ của sơn hà tất cả những điều đó cứ như những nhát dao cứa rát tâm hồn vốn đa sầu, đa cảm của thi nhân. Bởi thế, ông không có những phút giây thanh thản đề ngắm nhìn vẻ đẹp của thiên nhiên, ông không tìm thấy được ánh sáng niềm vui trong cuộc đời cũng là điều dễ cảm thông. Với Nguyễn Du, thiên nhiên không phải là đối tượng chỉ để ngắm nhìn, khám phá mà trên thực tế ông xem đó là môi trường để suy tư, để trăn trở bộc lộ những suy nghĩ, day dứt của bản thân. Bút pháp tả cảnh ngụ tình được Nguyễn Du 127 vận dụng một cách triệt để trong thơ, đây là nghệ thuật đã trở thành một nét phổ biến và độc đáo trong thơ cổ. Đây là lối tả cảnh mang tính chủ quan, một lối miêu tả đặc trưng trong các tác phẩm của Nguyễn Du. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của con người. Nói một cách khác, Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Nguyễn Du cũng đã thú nhận lối tả cảnh chủ quan của mình : Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Truyện Kiều) Trong 3 tập thơ chữ Hán, rất nhiều lần sự xuất hiện của thiên nhiên chính là hồi quang tâm sự của thi nhân. Nguyễn Du vốn là một con người mang nhiều ưu tư với thời thế, cuộc đời, sâu thẳm trong tâm hồn thi nhân ngổn ngang những đắng cay tủi nhục của đời người. Xuất thân trong một gia đình đức cao vọng trọng đương thời, tuổi thơ đẹp đẽ, cao sang không kéo dài được bao lâu, bất hạnh đã ập đến với Nguyễn Du; 13 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ vào người anh trai cùng cha khác mẹ, năm 19 tuổi đỗ tú tài cũng là lúc gia đình anh trai bị bọn kiêu binh phá sạch. Năm 21 tuổi làm một chức quan thấp, làm quan chưa được 2 năm thì triều đình Lê – Trịnh sụp đổ. Cuộc đời 10 năm gió bụi của nhà thơ bắt đầu từ đó, cuộc sống tha hương ,lầm than, đói rách, bệnh tậtcứ bám riết lấy nhà thơ. Đến lúc ra làm quan cho triều Nguyễn những tưởng cuộc đời ông từ đây sẽ có chút gì tươi sáng nhưng thói nhiễu nhương, đen bạc chốn quan trường làm ông không được phút giây nào thanh thản cuộc đời vốn đã đầy rẫy khổ đau, lại thêm một tâm hồn vốn luôn nhạy cảm trước mọi nỗi đau thời cuộc khiến trái tim ông lúc nào cũng chất chứa sầu bi. Với một tâm hồn tràn ngập những tâm sự như thế với một ánh mắt chất chứa bao nỗi niềm như thế thử hỏi nhìn cảnh vật nào mà không ẩn tình vào trong đó. Trong rất nhiều bài thơ, cảnh vật chỉ xuất hiện với vai trò làm nền cho những tâm sự của tác giả. Nhiều bức tranh thi nhân vẽ nên hoàn toàn bằng những nét buồn 128 bã đến thê lương. Chắc chắn rằng, cảnh vật cũng có nhiều khi héo hắt, nhạt nhòa nhưng không đến mức não nề đến thế này: Cô thành nhật mộ khởi âm vân, Thanh thảo man man đáo hải tần. Khoáng dã biến mai vô chủ cốt, Thù phương độc thác hữu quan thân. (Ngẫu đắc) (Phương xa một mình gửi cái thân làm quan, Chiều tà trên thành lẻ loi mây đen nổi. Cỏ non xanh rờn lan tận bờ bể, Trên đồng ruộng khắp nơi vùi xương vô chủ) Bức tranh được bao phủ bởi một màu đen tối, ảm đạm đến ghê người. Chiều về đã cho thấy không gian cô quạnh, nhà thơ đưa mắt lên trời chỉ thấy một màu đen của mây, hướng cái nhìn xuống mặt đất lại bắt gặp màu xanh rờn xâm chiếm cả một vùng. Nhìn về phía cánh đồng thì lại càng làm cho con người ta rùng mình bởi những nấm mồ vô chủ lạnh lẽo đến nao lòng. Cảnh ở đây được nhìn qua lăng kính chủ quan của một kẻ làm quan xa xứ, bị bề dưới lên mặt coi khinh. Chỉ còn mỗi văn chương là người bạn tâm giao từ thuở thiếu thời mà khi về già cũng không còn được mối khăng khít để thi nhân trút bầu tâm sự, điều này khiến thi nhân càng trở nên trống vắng, bơ vơ, tâm hồn càng cô đơn, sầu tủi bảo sao cảnh vật không mang nét buồn: Sự lai đồ lệ gian kiêu ngã, Lão khứ văn chương diệc tị nhân. (Khi gặp việc bọn đầy tớ, lính hầu đều lên mặt với ta, Già đến rồi, văn chương cũng xa lánh người) Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du thường gắn liền với mùa. Xuân, hạ, thu, đông lần lượt thay thế nhau kéo theo đó là tuổi già tóc bạc, khiến con người nhạy cảm trước thời gian. Hai mùa xuất hiện nhiều nhất trong thơ Nguyễn Du là mùa xuân và mùa thu. Chúng lần lượt đi vào trang thơ với những khung cảnh và nỗi 129 niềm riêng. Đặc biệt là khi đất trời vào xuân, lòng thi nhân lại lâng lâng một nỗi niềm khó tả. Xuân trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du không lấy gì tươi tắn, rực rỡ. Từ cổ chí kim xuân bao giờ cũng đem đến cho con người cảm xúc dạt dào hay niềm vui bất tận. Xuân về trăm hoa đua nở, nắng xuân ấm áp. Nhưng trong thơ Nguyễn Du, nắng xuân rất ít viếng thăm. Nếu như mùa thu trong thơ ông thường đi liền với tuổi già, tóc bạc thì mùa xuân lại gắn liền với nỗi buồn lưu lạc và bệnh tật. Mùa xuân là mùa của sum họp và đoàn viên. Còn Nguyễn Du thì phải chịu cảnh xa nhà, anh em li tán, tấm thân như ngọn cỏ bồng lìa gốc, mặc gió cuốn đi, nỗi buồn li hương cứ ám ảnh mãi tâm trí nhà thơ. Không vui được cùng xuân đã đành, Nguyễn Du bỏ mặc cho mùa xuân hờ hững trôi ngang: Bế môn bất kí xuân thâm hiểm (Đóng cửa chẳng phường xuân sớm hay muộn). Cũng có lúc ông đón nhận mùa xuân nhưng tâm trạng buồn thì nhìn cảnh chẳng bao giờ đẹp nên xuân của Nguyễn Du chỉ toàn là xuân đêm, xuân muộn, xuân lữ thứ cảnh xuân cũng u uất như lòng người. Bức tranh xuân có lúc cũng lộng lẫy với cả một trời hoa đào nhưng sao ta cảm thấy tiêu điều, thê lương đến vậy : Đào hoa đào diệp lạc phân phân Môn yểm tà phi nhất viện bần (U cư I) (Hoa đào lá đào rụng bời bời Cửa che xiêu vẹo một gian nhà nghèo) (Ở nơi u tịch) Ngày xuân đã vậy, đêm xuân lại càng não nề hơn: Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm Tiểu song khai xứ liễu âm âm (Xuân dạ) (Đêm đen tối tìm đâu ra ánh sáng màu xuân Trước song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u) (Đêm xuân) 130 Mùa xuân của đất trời chắc chắn không khi nào buồn đến thế. Nhưng xuân trong thơ Nguyễn Du được khúc xạ qua tâm hồn thi nhân, một con người ôm cả “khối sầu”, loay hoay mãi vẫn không tìm được lối đi cho mình thì lấy đâu ra niềm vui mà bảo xuân phơi phới. Tình trong thơ Nguyễn Du không chỉ bộc lộ khi thu về, xuân đến mà còn được gởi gắm theo vầng trăng, gửi vào cơn gió, gửi cả vào đám mây bồng bềnh trên cao. Nguyễn Du đã từng bộc bạch: “Nhất sinh u tứ vị tằng khai” (Suốt đời ôm mối sầu chưa từng gỡ ra được). Cho đến hết cuộc đời, những ưu tư, trăn trở ấy Nguyễn Du vẫn chưa thể dứt ra được. Bản thân thi nhân luôn mang trong mình một nỗi buồn cố hữu nên ta cũng không thể phân định rạch ròi rằng cảnh vật khiến người buồn hay chính con người đã thổi nỗi buồn vào cảnh, nhưng có một điều chắc chắn rằng có rất nhiều lúc người và cảnh đã hòa hợp với nhau. Chỉ có điều sự hòa hợp ấy không có tiếng cười mãn nguyện, không có được phút giây trùng phùng hạnh phúc mà chỉ là sự gặp gỡ nhau trong một khúc ca buồn, một điệu nhạc buồn của cả người và cảnh. Không phải Nguyễn Du không yêu cảnh vật, mà có lẽ đến thời của ông, cuộc đời nhiều đau khổ, không chỉ là nỗi đắng cay của bản thân mà còn “những điều trông thấy” như những vết dao cắt cứa vào tâm hồn thi nhân. Vì thế, Nguyễn Du không có được những giây phút thảnh thơi để có thể ngắm được cảnh đẹp của thiên nhiên cho đúng nghĩa với thú vui tao nhã này. Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du phong phú và độc đáo. Nó có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Bên cạnh việc đưa những hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng để thể hiện những suy nghĩ, quan niệm của mình. Nguyễn Du đã sử dụng chất liệu đời thường đưa vào bức tranh là một bước kế thừa và tiếp bước những nhà thơ trước. Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du như một bức tranh thủy mạc, nhiều khi chỉ một mảnh trời, một ánh trăng, một cành liễu, một dòng nước hay một áng mây hoàng hôn Cách lựa chọn hình ảnh, từ ngữ và câu thơ của Nguyễn Du tạo nên giọng điệu đặc sắc, lôi cuốn tâm hồn người đọc như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất đã ban 131 cho cảnh thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi tấc dạ. Phương thức miêu tả thiên nhiên chân thực và tả cảnh ngụ tình cũng là một thành công của Nguyễn Du trong 3 tập thơ chữ Hán, giúp người đọc nhìn nhận, khám phá được tài năng, suy nghĩ và tình cảm của thi nhân. 132 KẾT LUẬN Lịch sử văn học dân tộc tự hào vì có những nhà thơ tài hoa. Nguyễn Du cũng là một trong số đó. Người ta biết đến Nguyễn Du bởi kiệt tác Truyện Kiều là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng thật sự là một thành công xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của ông. Điều này Nguyễn Lộc cũng đã khẳng định : “Truyện Kiều là diễn âm, lỡ tay mà thành kiệt tác, còn thơ chữ Hán mới đích là sáng tác, nên xem nó là phát ngôn viên chính thức của Nguyễn Du”. Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã thể hiện gần như trọn vẹn tâm tình, suy nghĩ của nhà thơ trong suốt cả một chặng đường dài, trải qua bao biến cố của bản thân cũng như thời cuộc. Đó là cuốn nhật ký tâm trạng mà thế hệ hậu sinh qua đó có thể hiểu cụ thể hơn, sâu sắc hơn về Nguyễn Du, về những gì đã làm nên một nhà thơ lớn, một người nghệ sĩ vĩ đại của mọi thời đại. Thành công trong thơ chữ Hán được thể hiện qua nhiều phương diện khác nhau, thiên nhiên cũng là một yếu tố đặc sắc được nhiều người quan tâm. Thông qua những bức tranh thiên nhiên giúp chúng ta hiểu thêm về tài năng cũng như đời sống tâm hồn Nguyễn Du. Nguyễn Du đã dành cho thiên nhiên một vị trí đặc biệt. Thiên nhiên trong con mắt của Nguyễn Du hiện lên vô cùng sinh động và chân thực. Cảnh vật gần gũi, quen thuộc của cuộc sống có mặt trên khắp các trang thơ, Mặc dù, thiên nhiên hiện lên với những gam màu hết sức nhẹ nhàng, tĩnh lặng nhưng có một sức hút lạ kì, lôi cuốn sự chú ý của người đọc. Thiên nhiên trong thơ chữ Hán không phải chỉ là những nét chấm phá mà hiện rõ như muốn chứng minh nó đang tồn tại giữa cõi đời. Đó là những hình ảnh khách quan của thế giới hiện thực, không vì tâm trạng mà Nguyễn Du nhìn nó khác đi. Ông nhận ra cả vẻ đẹp dịu dàng, tươi xinh cũng như sự hung dữ, táo tợn của thiên nhiên. Đây là điều đáng ghi nhận trong bút pháp miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du. Thơ Nguyễn Du viết về thiên nhiên đã bộc lộ tình yêu chân thành, niềm say mê tha thiết với cảnh vật xung quanh, đồng thời qua đó cũng thể hiện năng lực cảm nhận vô cùng tinh tế của thi nhân. Nguyễn Du đã có những tiếp biến nhất định trong vấn đề cảm nhận và miêu tả thiên nhiên so với các nhà thơ trung đại trước đó. Các 133 bậc tiền bối quan niệm thiên nhiên là môi trường để di dưỡng tinh thần, nên cảnh vật hiện lên trong thơ thuần hậu, khoáng đạt và hiền hòa. Riêng với Nguyễn Du, ngoài điều đó ra, thiên nhiên còn là môi trường để suy tư, vì thế một mảng thiên nhiên hiện lên với dáng vẻ buồn bã, chật hẹp, u tịch. Có thể, cảnh thật không phải lúc nào cũng buồn đến vậy nhưng dưới con mắt của một con người nặng trĩu tâm sự thì điều đó cũng không có gì khó hiểu. Bút pháp tả cảnh ngụ tình cũng được Nguyễn Du khai thác tối đa. Xuất phát từ quan điểm “thiên nhân nhất hợp”, “thiên nhân tương cảm”, các nhà thơ các nhà thơ tìm về với thiên nhiên một cách trọn vẹn bằng cách hòa mình vào cảnh, họ thiết lập mốt quan hệ vô cùng khăng khít, tìm được niềm vui, sự động viên, chiều chuộng từ thiên nhiên. Ở Nguyễn Du, không phải vậy. Ông tách mình ra khỏi thiên nhiên và xem nó như một đối tượng để khám phá, để giải bày tâm trạng. Nhưng rồi ông nhận ra thiên nhiên nhiều khi vô tâm, thờ ơ với con người, quay lưng trước nỗi đau của con người, không tương giao với con người. Người thì buồn mà cỏ vẫn xanh, người thì tiêu điều mà xuân vẫn cứ tươi đẹp. Trong cuộc mưu sinh đầy vất vả, khổ đau, nhiều khi con người cần sự vỗ về, cảm thông nhưng thiên nhiên nào đáp ứng. Xuân đến với ai kia chứ không hề đến với kẻ tha hương, người đã buồn thương mà bóng chiều, mây đen cứ giăng mắc khắp lối khiến lòng người càng não nề Thiên nhiên với Nguyễn Du là vậy, lạnh lùng và tàn nhẫn. Cả 2 bao giờ cũng song hành nhưng không bao giờ hòa hợp. Nó hiển hiện rõ trước mắt con người nhưng không phải để xoa dịu nỗi buồn; không lắng nghe và chia sẻ mà lúc nào cũng vô tình trước nỗi đau của thi nhân. Đây là nét khác biệt của Nguyễn Du với các nhà thơ trước và sau ông. Nguyễn Du đã có những thành công nhất định trong việc miêu tả thiên nhiên Thơ chữ Hán. Qua đó, chúng ta có thể hiểu thêm về tài năng và thế giới nội tâm phong phú, phức tạp của thi nhân. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du là sự kết hợp giữa việc lựa chọn chất liệu, hình ảnh; giọng điệu; phương thức miêu tả chân thực kết hợp với tả cảnh ngụ tình đã tạo nên bức tranh thiên nhiên đặc sắc không lẫn lộn với bất cứ ai. 134 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Sĩ Cẩn (1984), Mấy vấn đề dạy văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục. 2. Nguyễn Huệ Chi (1983), Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam thời kì cổ - cận đại, Nxb Tác phẩm mới. 3. Trương Chính, Lê Thước (1965), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn học, Hà Nội. 4. Trương Chính (1997), Văn học Việt Nam trung đại, Tuyển tập Trương Chính 5. ( Tập 1), Nxb Văn bản Hà Nội. 6. Ngô Viết Dinh (Chủ biên) (2000), Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh niên. 7. Xuân Diệu (2001), Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập 1, Nxb trẻ. 8. Xuân Diệu ( 2000), Ba thi hào dân tộc, Nxb thanh niên. 9. Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, (1998) Nxb Giáo dục. 10. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩ hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nxb Văn học. 11. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nxb Văn học. 12. Đỗ Đức Dục (1984), Tuyên ngôn sáng tác Nguyễn Du, Tạp chí Văn học số 2. 13. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (2000), Nguyễn Du tác phẩm và lịch sử văn bản, Nxb TPHCM. 14. Trịnh Bá Đĩnh (2001), Nguyễn Du về tác giả tác phẩm, Nxb giáo dục. 15. Trần Văn Giàu(1998), Triết học và tư tưởng, Nxn TPHCM. 16. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa. 17. Hồ Sĩ Hiệp, Lâm Quế Phong (1997), Lê Thánh Tông – Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn nghệ TPHCM. 18. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, Nxb Lao động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây. 19. Cao Thị Liên Hương (2010), Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán, Luận văn thạc sĩ, Đại học SP TPHCM. 135 20. Hà Ngọc Hòa (biên soạn) (2006), Nguyễn Khuyến – Nhà thơ của làng quê Việt Nam, Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp Hồ Chí Minh. 21. Nguyễn Phạm Hùng (1996) Văn học Lý Trần nhìn từ thể loại, Nxb Giáo dục. 22. Đỗ Văn Hỷ (1993), Người xưa bàn về văn chương, Nxb Khoa học xã hội. 23. Lê Đình Kị (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb giáo dục Hà Nội. 24. Lê Đình Kị (1990), Nguyễn Du qua thơ chữ Hán, Kiến thức ngày nay số. 25. Đinh Gia Khánh (2005), Điển cố văn học, Nxb Văn học, Hà Nội. 26. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Lê Cao Cường (1978), Văn học Việt Nam thế kỉ X đến thế kỉ XVIII, Nxb ĐH và TCCN. 27. Đặng Thanh Lê (1990), Văn học Việt Nam, Nxb KHXH Hà Nội. 28. Mai Quốc Liên (1996), Nguyễn Du toàn tập (Tập 1) Nxb Văn học Trung tâm nghiên cứu quốc học. 29. Nguyễn Lộc(1990), Nguyễn Du và cuộc đời, Nxb Đà Nẵng. 30. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục, TP. HCM. 31. Phương Lựu (chủ biên)(2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 32. Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục Hà Nội. 33. Phương Lựu (1985), Tinh hoa lí luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục Hà Nội. 34. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lí – Trần, diện mạo và đặc điểm, Nxb Đại học quốc gia TPHCM. 35. Đặng Thai Mai ( 1977), Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học, Nxb KHXH. 36. Mác và Ăng –ghen về văn học nghệ thuật (1963), Nxb sự thật Hà Nội. 37. Mác và Ăng –ghen và những vấn đề văn học (1968), Bản dịch trong tư liệu của trường Đại học Sư phạm TPHCM. 38. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục Hà Nội. 136 39. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1985 – 1986), Các nhà văn nói về văn, NXb Tác phẩm mới Hà Nội. 40. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn, tư tưởng và phong cách. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 41. Nguyễn Đăng Na (2007) Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 42. Nhiều tác giả (1996), Kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du (1965 – 1967), Nxb Khoa học xã hội. 43. Phùng Quí Nhâm (1991),Thẫm định văn học, Nxb Văn nghệ. 44. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ, Nxb trẻ. 45. Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du người tình và tình người, Nxb Khoa học xã hội. 46. Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức (1969), Các thể thơ ca và hình thức phát triển hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, Nxb KHXH Hà Nội. 47. Bùi Mạnh Nhị (1984), Bức tranh thế giới của con người trung cổ, Nxb Văn nghệ. 48. Nguyễn Thị Nương (2007), Sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du qua bài thơ tự thuật, Nghiên cứu văn học số 5. 49. Hồng Phương (Dịch và tuyển chọn) (2002), Điển tích xưa, Nxb Văn học. 50. Vũ Tiến Quỳnh (1977), Phê bình và bình luận văn học Nguyễn Du, Nxb Văn nghệ TPHCM. 51. Lưu Lực Sinh (2002), Từ điển điển cố Trung Hoa, Nxb Văn hóa thông tin. 52. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – quan niệm con người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội. 53. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du – từ thơ chữ Hán đến kiệt tác Truyện Kiều, Nxb Trẻ - Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM. 54. Nguyễn Hữu Sơn, Đoàn Thị Thu Vân.(1997), Về con người ca nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục Hà Nội. 55. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du từ thơ chữ Hán đến kiệt tác. 137 56. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb TPHCM. 57. Trần Đình Sử (1996) Lí luận phê bình văn học, Nxb hội nhà văn Hà Nội. 58. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb GD, Hà Nội. 59. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 60. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại – tác gia – tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 61. Bùi Duy Tân (2007), (chủ biên), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (Thế kỉ X – XIX), 2 tập, Nxb giáo dục Hà Nội. 62. Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh (2001), Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác giả tác phẩm, Nxb GD. 63. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb Khoa học xã hội. 64. Chương Thâu (1980), Trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb Văn học Hà Nội. 65. Trần Nho Thìn(2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa. 66. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thế giới thi ca Nguyễn Du, Nxb Kinh thi. 67. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương thẫm mỹ và văn hóa, Nxb Giáo dục. 68. Thơ văn Nguyễn Trãi (1980), Nxb Giáo dục. 69. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam TK X – XIV, Nxb Văn học. 70. Phạm Quang Trung (1999), Thơ trong con mắt người xưa, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 71. Hoàng Hữu Yên (1992), Giảng văn văn học trung đại Việt Nam (Tập 1), Nxb Giáo dục. 72. Lê Thu Yến (1998), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du. 73. Lê Thu Yến (2003), Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, Nxb giáo dục. 74. Lê Trí Viễn (2006), Một đời dạy văn viết văn, tập 2, Nxb Giáo dục. 138 75. Lê Trí Viễn (1982), Những bài giảng văn ở đại học, Nxb Giáo dục. 76. Lê Trí Viễn (1997), Đến với thơ hay, Nxb Giáo dục. 77. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển của lịch sử văn học Việt Nam, Nxb giáo dục. 78. Lê Trí Viễn, Đoàn Thị Thu Vân (1993), Học tập thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục. 139 PHỤ LỤC Bảng 1: Bảng thống kê các hình ảnh `Stt Tên Bài Thơ Hình Ảnh Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Gió 1 Quỳnh Hải nguyên tiêu Trăng tròn Xuân 2 Xuân nhật ngẫu hứng Xuân Mai lạnh 3 Vị Hoàng doanh Bóng chiều 4 Sơn cư mạng hứng Bóng trăng Xuân lạnh Xuân lạnh 5 U cư II Trăng Xuân lạnh Trời chiều 6 Mạn hứng II Chiều tối Gió bồng 7 Xuân dạ Trăng Xuân đêm Sóng lạnh 8 Lưu biệt Nguyễn đại lang Mảnh trăng Gió tây 9 Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam qui Trăng Gió mát 10 Thu chí Thu Tuyết lạnh Gió tây 11 Thu dạ I Tiếng thu Trời lạnh Mây nổi 12 Thu dạ II Hơi thu Chiều Thu lạnh Mây khói 13 Tạp ngâm Xuân 14 Bát muộn Thu vắng 15 Đại nhân hý bút Vẻ xuân Gió bụi 16 Hoàng Mai kiều vãn diếu Trăng Bóng chiều Gió 17 Dao vọng Càn hải từ Màu thu Trời chiều Cây lạnh, trời lạnh 18 Tái du Tam Điệp sơn Mắt thu Trời lạnh Mây 19 Độ Phú Nông giang cảm tác Xuân 140 `Stt Tên Bài Thơ Hình Ảnh Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Gió 20 Họa hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt chư hữu” chi tác Ánh trăng 21 Ký mộng Trăng tà Gió lạnh 22 Thôn dạ Trăng sáng 23 Ký hữu Trăng sáng Gió thu 24 Ký Huyền hư tử Trăng Gió tây 25 Ký giang bắc Huyền Hư Tử Cuối thu Gió tây 26 Biệt Nguyễn đại lang I Đêm thu Gió mưa 27 Biệt Nguyễn đại lang II Trăng sáng Mây 28 Biệt Nguyễn đại lang III Đêm trăng Gió thu 29 Đạo ý Trăng 30 Hành lạc từ Xuân Chiều tối 31 Lam giang Thu 32 Khai song Tứ thu 33 Đối tửu Xuân thay đổi 34 Sơn thôn xuân Chiều 35 Tạp thi II Trăng sáng Mây trắng 36 Ngọa bệnh II Trăng mong ước Xuân lạnh Xuân lạnh 37 Dạ hành Trăng tà Mây núi 38 Tạp ngâm I Sắc thu Gió tây 39 Tạp ngâm II Trăng 141 `Stt Tên Bài Thơ Hình Ảnh Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Gió 40 Tạp ngâm III Thu già Núi lạnh 41 Ký hữu Trăng tròn 42 Sơ nguyệt Trăng như hộp gương 43 Ngẫu hứng I Trăng sáng Gió lạnh Gió tây 44 Thanh minh ngẫu hứng xuân Gió đông 45 Mộ xuân mạn hứng xuân 46 Thanh Quyết giang vãn diếu Trăng Xế chiều 47 Đồng Lung Giang Trăng xế Thu Chiều Khóm tre lạnh 48 Đồng Lư lộ thượng dao sài sơn Ánh trăng Mưa thu Mây 49 Vọng phu thạch 50 Quỉ Môn đạo trung Trăng lặn Xuân Lạnh Chân mây 51 Xuân tiêu lữ thứ 52 Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành Trăng lặn Gió 53 Thu chí Mảnh trăng Thu 54 Ngẫu thư công quán bích I Xuân qua 55 Ngẫu thư công quán bích II Xuân tàn 56 Ngẫu thư công quán bích III Trăng Trời tàn Mây trôi Gió thổi 57 Ngẫu hứng (kì nhị) 58 Ngẫu đề Trăng 59 Tân thu ngẫu hứng Vẻ thu Mây trắng 60 Dạ tọa Trăng tà Thu Gió 61 Bất mị Đêm lạnh 62 Trệ khách Trống lạnh 142 `Stt Tên Bài Thơ Hình Ảnh Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Gió 63 Ưc gia huynh Hoa lạnh 64 Độ Long Vĩ Giang Gió tây 65 Ninh Công thành Mây trắng 66 Tạp thi I Mây trắng 67 Phúc thực đình Đông lạnh 68 La Phù giang các độc tọa Bóng mây 69 Ngẫu hứng II Thu Mây vàng Gió thu 70 Lạng Sơn đạo trung Mây trắng 71 Điệu khuyển Núi lạnh 72 Tặng nhân Xuân Thu Mây xuân 73 Tạp ngâm Tiếng thu Mây trắng 74 Giang đầu tản bộ I Sắc thu Bóng chiều Mây trắng Gió 75 Giang đầu tản bộ I Màu thu Chiều tà Khói mây 76 Ngẫu đắc Chiều tà Mây đen 77 Thành hạ khí mã Hơi thu Trời chiều Thu lạnh 78 Vọng Thiên Thai tự Thu Mây trắng 79 Giản công bộ Thiêm sự Trần I Thu Cát lạnh Mây trắng Gió mát 80 Giản công bộ Thiêm sự Trần II Trăng sáng Thu Thu lạnh Mây 81 Thu nhật ngẫu hứng Tiếng thu Mặt trời lặn Trời lạnh Mây nổi Gió tây 82 Sơn trung tức sự Mây trắng 83 Độ Linh Giang Vẻ thu 84 Nễ Giang khẩu hương vọng Thu Lạnh 85 Y nguyên vận kí Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên Gió tây 86 Đại tác cửu thú tư qui I Thu Gió thu 143 `Stt Tên Bài Thơ Hình Ảnh Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Gió 87 Đại tác cửu thú tư qui II Trăng Thu Khí lạnh Mây trắng Gió bụi 88 Thăng Long I Trăng sáng 89 Thăng Long II Mảnh trăng 90 Quỉ Môn quan Gió lạnh Mây xanh 91 Lang Thành đaọ trung Chiểu xuống Mây 92 Nam Quan đạo trung Mưa xuân Xương lạnh Mây 93 Trấn Nam Quan Mây biếc 94 Minh Giang chu phát Mặt trời xế Mây nổi 95 Vọng Quan Âm miếu Chiều Mây ngừng trôi. 96 Thái Bình thành hạ văn xuy địch Trăng Sông lạnh Gió tây 97 Sơn Đường dạ bạc Trăng Mặt trời xế Gió mạnh 98 Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu Chiều tà Khói lạnh 99 Hạ than hỷ phú Chiều tà 100 Thương Ngô tức sự Mây nổi 101 Thương Ngô mộ vũ Xế chiều 102 Thương Ngô Trúc Chi caI Gió đông 103 Thương Ngô Trúc Chi caII Ánh sáng lạnh 104 Thương Ngô Trúc Chi caIII Mây thẫn thờ 105 Thương Ngô Trúc Chi ca IV Mây trắng 106 Thương Ngô Trúc Chi ca IX Gió 107 Thương Ngô Trúc Chi ca XIII Gió 144 `Stt Tên Bài Thơ Hình Ảnh Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Gió 108 Dương Phi cố lý Mây Gió đông 109 Quế Lâm Cù Các bộ Cỏ thu Bóng chiều Hương khói lạnh 110 Quế Lâm công quán Xuân 111 Vọng Tương Sơn tự Chiều tà Mây chiều 112 Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch Gió thu Mây nổi 113 Tương giang dạ bạc Trăng sáng Chiều hôm Mây nổi 114 Tương Đàm tiều Tam Lư đại phu I Thu Gió thu 115 Trường Sa giả Thái Phó Chiều tà 116 Sơ thu cảm hứng I Thu Gió thu 117 Sơ thu cảm hứng II Ve sầu lạnh Gió tây 118 Sở vọng Thu Bóng xế Gió 119 Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I Mùa thu 120 Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ II Tứ thu Chiều Mây chiều 121 Tương Âm dạ Trăng sáng Sắc thu 122 Đăng Nhạc Dương lầu Nước thu Mây nổi Gió tây 123 Hoàng hạc lâu Trăng trong Gió 124 Hán Dương vãn diễu Trời chiều 125 Nhiếp Khẩu đạo trung Khí thu Mây nổi Gió thu 126 Tín Dương tức sự Thu đến Gió tây 127 Ngẫu hứng Hơi thu Mấy trắng 128 Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu Mây rời rạc 145 `Stt Tên Bài Thơ Hình Ảnh Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Gió 129 Độ Hoài hữu cảm Văn Thừa Tướng Chiều tà 130 Hà Nam đạo trung khốc thử Tiết thu Gió 131 Cựu Hứa Đô Lạnh 132 Âu Dương Văn Trung công mộ Cỏ thu Bóng chiều 133 Bùi Tấn công mộ Thu 134 Hoàng Hà Thu 135 Hoàng Hà trở lao Trời thu Mây nổi 136 Đồng Tước đài Cỏ thu Gió lạnh Gió 137 Thất thập nhị nghi trủng Cỏ thu Gió thổi 138 Hàm Đan tức sự Thu Chiều 139 Tô Tần Đình Thu muộn 140 Dự Nhượng kiều chủy thủ hành Gió lạnh Mây Gió tây 141 Dự Nhượng kiều Cỏ thu Gió lạnh 142 Kinh Kha cố lý Thu Nước sông lạnh Gió thu 143 Lưu Linh mộ Gió bụi 144 Kỳ Lân mộ Chiều Gió lạnh Gió 145 Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ Chiều Mây chiều 146 Đông A sơn lộ hành Trời rét Mây 147 Sở Bá Vương mộ II Xuân đến Gió mưa 148 Từ Châu đạo trung Tuyết lạnh Mây trắng Gió 149 Nhị Sơ cố lý Xuân 150 Từ Châu đê thượng vọng Cỏ thu Chiều Mây chiều 151 Từ Châu dạ Trăng Đông lạnh 146 `Stt Tên Bài Thơ Hình Ảnh Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Gió 152 Á phụ mộ Thu Thu lạnh Mây nổi 153 Tổ Sơn đạo trung Chiều tà 154 Nhạc Vũ Mục mộ Khói chiều 155 An Huy đạo trung Xuân Mây trắng 156 Tiềm Sơn đạo trung Mây ráng 157 Tây Hà dịch Xuân 158 Sở kiến hành Gió rét 159 Đồ Trung ngẫu hứng Xuân 160 Hoàng Mai đạo trung Sóng xuân Tuyết lạnh 161 Tự thán Chiều Gió chiều 162 U cư I Gió tây 147 Bảng 2: Bảng thống kê màu sắc và hình ảnh ước lệ, tượng trưng Stt Tên Bài Thơ Màu Sắc Hình ảnh ước lệ tượng trưng Trắng Xanh Vàng Đỏ - Hồng Đen 1 Xuân nhật ngẫu hứng Cỏ 2 Vị Hoàng doanh Trời, núi 3 Tụ thán I Cỏ bồng 4 Mạn hứng II Cỏ bồng 5 Sơn cư mạn hứng Nhạn 6 Thu chí Lá 7 Thu dạ I Sương móc, tóc bạc Núi 8 Trệ khách Chim hồng 9 Thu dạ II Sương móc 10 Hoàng Mai kiều vãn diếu Biển Bóng chiều đỏ 11 Dao vọng Càn hải từ Trời 12 Độ Phú Nông giang cảm tác Núi, cỏ 13 Họa hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt chư hữu” chi tác Nước biển 14 Ký hữu Trúc 15 Ký giang bắc Huyền Hư Tử Sương Hoa 16 Độ Long Vĩ giang Chim hồng 17 Biệt Nguyễn đại lang II Chim hồng, chim nhạn 18 Khai song Nệm Chim bằng 148 Stt Tên Bài Thơ Màu Sắc Hình ảnh ước lệ tượng trưng Trắng Xanh Vàng Đỏ - Hồng Đen 19 Đối tửu Rêu 20 Ninh Công Thành mây 21 Tạp thi I Mây 22 Mạn hứng Chim âu 23 Tạp thi II Mây 24 Dạ hành Chim âu 25 Tạp ngâm I Hoa cúc Tùng 26 Tạp ngâm II Núi Hoa cúc 27 Tạp ngâm III Hoa Trúc 28 Sơ nguyệt Sương móc 29 Ngẫu hứng II Cỏ bồng 30 Thanh minh ngẫu hứng Cỏ 31 Thanh Quyết giang vãn diếu Mây Núi Chim hồng 32 Đồng Lung Giang Đàn cò Núi Chim âu 33 Đồng Lư lộ thượng dao kiến sài sơn Màu , Áo xanh (người làm quan) 34 Lạng Sơn đạo trung Mây 35 Xuân tiêu lữ thứ Cỏ bồng 36 Thu chí , chim âu Cỏ Chim âu 37 Mộng đắc thái liên Sen 38 Ngẫu hứng (kì nhị) Hoa lau Xanh Hoa cúc 39 Tống nhân Liễu 40 Tân thu ngẫu hứng Mây Cây 41 Tái thứ nguyên vận trúc hoa 42 Tạp ngâm Mây 43 La Phù giang các độc tọa Mây 149 Stt Tên Bài Thơ Màu Sắc Hình ảnh ước lệ tượng trưng Trắng Xanh Vàng Đỏ - Hồng Đen 44 Tặng nhân Mây, Cúc 45 Giang đầu tản bộ I Rau tần 46 Giang đầu tản bộ II Cây Chim âu 47 Ngẫu đắc Cỏ Mây 48 Vọng Thiên Thai tự Mây Núi Lá 49 Giản công bộ Thiêm sự Trần I Mây Núi 50 Giản công bộ Thiêm sự Trần II Núi 51 Thu nhật ngẫu hứng lá 52 Sơn trung tức sự Mây Cỏ 53 Độ Linh Giang Bãi cỏ Lá 54 Nễ Giang khẩu hương vọng Sóng Biển 55 Đại tác cửu thú tư qui II Mây Hoa mai 56 Quỉ Môn quan Xương Mây 57 Nam Quan đạo trung Núi 58 Trấn Nam Quan Mây 59 Thương Ngô Trúc Chi ca IV Mây Núi 60 Thương Ngô Trúc Chi ca IX Liễu Hoa lựu đỏ 61 Thương Ngô Trúc Chi ca XIII Liễu 62 Tương giang dạ bạc Cây Hoa lan, hoa chỉ 63 Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I Cây tùng 64 Đăng Nhạc Dương lầu Chim hồng, chim nhạn 65 Hán Dương vãn diễu Rau tần 66 Nhiếp Khẩu đạo trung Mây 67 Ngẫu hứng Mây 68 Hà Nam đạo trung khốc thử Núi Chim hồng 150 Stt Tên Bài Thơ Màu Sắc Hình ảnh ước lệ tượng trưng Trắng Xanh Vàng Đỏ - Hồng Đen 69 Cựu Hứa Đô 70 Âu Dương Văn Trung công mộ Tùng 71 Hoàng Hà trở lao Mây đỏ Chim âu 72 Kê Thị trung từ Trúc 73 Thất thập nhị nghi trủng Tùng 74 Đào hoa Đàm Lý Thanh Liên cựu tích Tùng 75 Tái thứ nguyên vận Trúc Hoa Tùng 76 Ngô gia đệ cựu ca cơ Sen 77 Ngũ nguyệt quan canh độ Hoa lan 78 Bất tiến hành Sóng Núi Hoa lan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthien_nhien_trong_tho_chu_han_nguyen_du_7864.pdf
Luận văn liên quan