Giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi
ro đạo đức là một trong những nội dung không thể thiếu trên đường phát triển
của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trên cơ sở những nội dung đã trình bày
trong chương I và chương II, m ột số đề xuất cho việc cải thiện thực trạng thông
tin trên thị trường đã được đưa ra và đề cập trong chương III.
88 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3170 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu khá ổn định chỉ giảm đi chút ít như TRI (cổ phiếu
TRI, Công ty cổ phần nước giải khát Sài Gòn, đã có những phiên tăng giá với
giá trị giao dịch vượt cả REE vươn lên đứng đầu), SGH (công ty cổ phần Sài
Gòn Hotel),…
Như vậy, sau ba năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có
21 cổ phiếu và các loại trái phiếu chính phủ tham gia niêm yết. Chỉ số VN-
Index đạt mức cao nhất 571,04 điểm vào ngày 25/6/2001, giảm đến mức kỷ lục
130,90 điểm ngày 24/10/2002 và sau đó tăng dần rồi ổn định quanh mức 150
điểm. Có nhiều nguyên nhân giải thích cho sự biến động rất mạnh của VN-
Index trong đó có nguyên nhân liên quan đến sự bất cân xứng về thông tin do
sự chưa hoàn thiện của hoạt động thông tin và công bố thông tin của thị trường
gây ra. Phần tiếp theo của luận văn sẽ đề cập chi tiết hơn về vấn đề này.
2. Những dấu hiệu về thông tin không cân xứng, lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
52
2.1. Những hạn chế trong việc công bố thông tin và quản lý công
bố thông tin là nguyên nhân xuất hiện thông tin không cân xứng.
Từ khi hoạt động đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất
nhiều bất cập trong việc công bố thông tin và quản lý công bố thông tin. Đây là
một trong những nguyên nhân quan trọng khiến nhiều nhà đầu tư cảm thấy
không bình đẳng trong giao dịch và đã quay lưng lại với thị trường. Chất lượng
thông tin kém được thể hiện qua các biểu hiện sau:
Công bố thông tin chậm.
Việc chậm công bố thông tin thể hiện trước tiên trong cách thức công bố.
Tờ bản tin thị trường do Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh cung cấp được truyền qua fax tới các công ty chứng khoán rồi từ các
công ty này mới tới tay nhà đầu tư. Một số công ty chứng khoán phô tô lại rồi
phát cho các nhà đầu tư, một số khác dán lên bảng tin để các nhà đầu tư đọc.
Việc công bố thông tin qua mạng Internet, trừ kết quả giao dịch ra, còn rất
chậm gây nên sự bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư ở gần và xa trung tâm giao
dịch.
Đối với nghĩa vụ công bố thông tin của các công ty niêm yết, Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước đã có quy định khá rõ về nghĩa vụ công bố thông tin
của các công ty niêm yết, thể hiện ở các điều 32, 33, 34 trong quy chế thành
viên, niêm yết,công bố thông tin và giao dịch chứng khoán (ban hành kèm theo
Quyết định số 79/2000/QĐ-UBCK). Tuy nhiên, tình hình công bố thông tin
của các công ty này chưa hoàn toàn đúng như các quy định. Nhìn chung, từ khi
hoạt động đến nay, các công ty đều tuân thủ nhưng vẫn có nhiều biểu hiện nộp
báo cáo chậm với những lý do không mấy thuyết phục. Điển hình là việc công
bố báo các tài chính năm 2002 của các công ty Bibica, Halong Canfoco và
Gemadept khi các công ty này viện dẫn ra những lý do thiếu thuyết phục để
giải thích cho việc chậm trễ trên như: công ty có nhiều chi nhánh nên không
tập hợp báo cáo kịp, kế toán trưởng đi vắng, công ty kiểm toán chậm ra báo
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
53
cáo… Đối với các thông tin về nghị quyết đại hội đồng cổ đông hay hội đồng
quản trị, các kết hoạch, dự án, hợp đồng kinh doanh, hợp tác làm ăn, thay đổi
nhân sự… cũng không được công bố kịp thời thậm chí quên công bố ra công
chúng.
Thông tin không đầy đủ và không rõ ràng.
Hiện tượng thông tin liên quan đến giao dịch còn thiếu rõ ràng là điều đã
được nhiều nhà đầu tư và báo chí đề cập nhiều. Sự thiếu minh bạch này chủ
yếu diễn ra ở các giao dịch đặc biệt như giao dịch thoả thuận, giao dịch cổ
phiếu quỹ, giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài.
Giao dịch mua bán cổ phiếu quỹ của chính tổ chức niêm yết là một
thông tin quan trọng bởi thông tin này liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh của tổ chức và ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường. Tuy nhiên,
việc công bố những thông tin này của trung tâm giao dịch chứng khoán còn
chưa đầy đủ. Chẳng hạn, trong bản cáo bạch niêm yết chứng khoán của Công
ty Cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (LAFOOCO) ghi rõ cơ xấu sở
hữu cổ phần của công ty như sau:
Nhà nước: 30%
Cán bộ công nhân viên trong công ty: 16.43%
Cổ đông ngoài công ty: 23.57%
Cổ đông nước ngoài: 30%
Trong cơ cấu sở hữu này không có công ty cỏ phần Chế biến hàng Xuất
khẩu Long An, như vậy LAFOOCO không có cổ phiếu quỹ. Tuy vậy,
LAFOOCO lại đăng ký và đã thực hiện bán lại 30470 cổ phiếu quỹ và thông
tin này được đăng trên tờ bản tin thị trường của Trung tâm giao dịch Chứng
khoán ngày 12/12/2000.
Không chỉ riêng LAFOOCO mà tại nhiều công ty, hiện tượng số lượng
cổ phiếu quỹ tại thời điểm niêm yết khác xa với thông tin công bố trong bản
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
54
cáo bạch cũng đã xuất hiện và được giới báo chí lên tiếng phản đối. Vậy những
gì công bố trên bản cáo bạch đã thực sự tin cậy? Nếu đúng như vậy thì các
công ty này đã mua lại cổ phiếu khi nào và tại sao việc mua bán này lại không
được cáo bạch?
Bên cạnh đó, thông tin diễn biến giao dịch cũng không được cung cấp
đủ. Theo cách công bố thông tin hiện hành, nhà đầu tư chỉ biết được ba mức
giá giao dịch tốt nhất, toàn bộ các mức giá còn lại không được hiển thị và nhà
đầu tư chỉ có thể căn cứ vào mức giá và khối lượng khớp lệnh dự kiến để đánh
giá thị trường. Ngoài ra, trừ giá dự kiến khớp lệnh là chính xác, khối lượng
khớp lệnh dự kiến lại là con số có thể không chính xác, không đầy đủ và không
cập nhật. Lý do là công ty chứng khoán lấy được thông tin về giá dự kiến khớp
lệnh, còn lại các thông tin về khôi lượng dự kiến khớp lệnh, các công chứng
khoán phải tự nhập vào theo thông tin của đại diện thông báo nên nhiều khi
không được cập nhật kịp thời. Sự không nhất quán trong cách sắp xếp thông tin
của tờ bản tin thị trường mà thông tin quan trọng nhất thường được đưa ra
ngoài mục cũng là điều cần bàn tới.
Quản lý công bố thông tin và giám sát các công ty niêm yết còn yếu.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã xảy ra nhiều vụ tai tiếng, đặc biệt
vào khoảng cuối quý I và đầu quý II năm 2003, có liên quan đến hoạt động và
báo cáo tài chính của các công ty niêm yết. Điển hình là vụ gian lận thuế giá trị
gia tăng của Công ty Halong Canfoco, khoản lỗ bất ngờ tại Công ty REE, khúc
mắc về tài chính của Công ty Bibica, chia cổ tức sai nguyên tắc của Công ty cơ
khí Bình Triệu và sự giảm vốn cổ đông một cách khó hiểu tại Công ty Gilimex.
Điều này cho thấy việc giám sát các công ty niêm yết còn nhiều yếu kém.
Theo cơ cấu tổ chức hiện nay, Phòng Quản lý niêm yết trực thuộc Trung
tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị được phân công
trách nhiệm theo dõi tình hình hoạt động của các tổ chức niêm yết. Trên cơ sở
đó, kết hợp với sự hỗ trợ của Phòng Giám sát Thị trường với chức năng giám
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
55
sát hoạt động diao dịch và thu nhập các tin đồn có liên quan đến thị trường
hoặc các tổ chức niêm yết, Phòng Quản lý niêm yết sẽ có những yêu cầu cụ thể
với các tổ chức niêm yết về công bố thông tin định kỳ, tức thời hoặc theo yêu
cầu. Khi phát hiện trong hoạt động của các tổ chức niêm yết có biểu hiện
không lành mạnh, Phòng Quản lý niêm yết sẽ báo cáo với Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán hoặc Thanh tra của UBCKNN để có hướng giải quyết.
Tuy nhiên trong thời gian qua, việc giám sát và quản lý hoạt động của
các tổ chức niêm yết vẫn còn phụ thuộc nhiều vào báo cáo và thông tin một
chiều từ phía các tổ chức niêm yết mà thiếu đi các nghiệp vụ giám sát, kiểm tra
để đối chiếu, từ đó thiếu những phát hiện hoặc cảnh báo kịp thời cho nhà đầu
tư về những sai phạm hoặc khúc mắc trong hoạt động của các tổ chức niêm yết.
Bằng chứng là hầu như các vụ việc xảy ra ở các công ty niêm yết như đã đề
cập trên đây đều do các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư hay báo chí phát
hiện ra, sau đó cơ quan quản lý mới biết và có phản ứng. Điều đáng nói là
trước khi các vụ việc xảy ra, UBCKNN cũng đã có cử đoàn thanh tra xuống
kiểm tra tình hình hoạt động của các tổ chức niêm yết.
Những vấn đề trên đây, mặc dù còn chưa đầy đủ và hệ thống, nhưng đã
cho thấy thực trạng vấn đề thông tin và quản lý thông tin trên thị trường chứng
khoán Việt Nam còn rất hạn chế và lỏng lẻo. Theo tôi, thực trạng trên xuất phát
từ nhiều nguyên nhân như: cách thức tổ chức và truyền tải thông tin chưa gọn
và chưa phân định rõ chức năng, nhiệm vụ; hoạt động giám sát các công ty
niêm yết chưa chặt chẽ và toàn diện; chế tài xử phạt còn chưa nghiêm; và
nghiệp vụ chuyên môn của các nhân viên chưa cao và thiếu tính chuyên
nghiệp. Thực trạng đó sẽ dẫn đến nhiều biểu hiện không bình đẳng trong việc
tiếp nhận và xử lý thông tin giữa các nhà đầu tư dẫn đến sự bất bình đẳng trong
giao dịch. Điều đó sẽ dẫn đến một hậu quả tất yếu là lòng tin của một số nhà
đầu tư bị suy giảm và chuyển vốn đầu tư sang các lĩnh vực khác.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
56
2.2. Chênh lệch giữa giá phát hành lần đầu (hoặc giá khi phát
hành thêm) với giá giao dịch thị trường của chứng khoán.
Thực tiễn hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy giá
của các chứng khoán vào thời điểm niêm yết thường cao hơn giá giao dịch của
các phiên tiếp theo. Điều này cũng đã xảy ra đối với chứng khoán REE vào
thời điểm cuối năm 2002 khi công ty này phát hành thêm chứng khoán. Vậy
đâu là lời giải thích cho hiện tượng trên?
Có hai nguyên nhân chính có thể kể đến đó là:
Hiệu ứng loãng cổ phiếu: nếu cổ phiếu được định giá chính xác thì việc
mua bán nó sẽ là những giao dịch phi lợi nhuận ròng (zero-NPV transactions).
Kết quả là các cổ đông nhận được một mức giá “công bằng” cho những cổ
phần nhỏ hơn. Do vậy, giá cổ phiếu phát hành thêm phải thấp hơn ngay từ khi
định giá.
Tác động của thông tin nội bộ: Mô hình Myers-Majluf
Chúng ta đã biết rằng trị giá của một doanh nghiệp được xác định bằng
giá trị hiện thời (A) và giá trị hiện tại ròng của các cơ hội đầu tư (NPV):
V = A + NPV
Giả sử các nhà đầu tư không biết giá trị A và họ ước đoán giá trị đó là
AH với xác suất p và AL với xác suất 1 – p. Vì vậy giá trị A theo kỳ vọng của
các nhà đầu tư là:
E(A) = pAH + (1-p)AL
So với giới đầu tư, những người quản lý công ty biết rõ giá trị thực sự
của doanh nghiệp. Các cơ hội đầu tư cần một số vốn I0 và tạo ra giá trị R1,
NPV = R1 – I0.
Giả sử NPV > 0, rõ ràng đây là một dự án đầu tư tốt. Giả sử tiếp rằng
công ty không còn vốn tự có để tài trợ cho dự án và phải phát hành cổ phiếu.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
57
Trong điều kiện thông tin không cân xứng, doanh nghiệp phải phát hành đủ số
cổ phiếu n sao cho:
0
1 I
Nn
RAn
Trong đó N là số cổ phiếu hiện có trước khi phát hành thêm.
Vì các nhà đầu tư không biết giá trị tài sản đích thực của công ty nên họ
ước đoán giá trị đó ở mức E(A). Do đó công ty phải phát hành một lượng cổ
phiếu n’ sao cho:
0
1
'
)(' I
Nn
RAEn
Nhận xét: Vì n’ phụ thuộc vào E(A) chứ không phải giá trị thực A nên
bán cổ phiếu ở một mức giá trung bình đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp
có tài sản cao hơn mức trung bình phải bán ở mức giá thấp hơn thực tế trong
khi các doanh nghiệp có tài sản thấp hơn mức trung bình lại bán ở mức giá cao
hơn thực tế. Do vậy, trong điều kiện thông tin không cân xứng sẽ xảy ra hiện
tượng không cân bằng trong việc xác định giá cổ phiếu. Như đã trình bày trong
chương I, sẽ có hai kiểu cân bằng: cân bằng chung và cân bằng riêng tuỳ theo
điều kiện thông tin hiện có trên thị trường. Vận dụng lý thuyết dấu hiệu thị
trường trong trường hợp này ta sẽ rút ra kết luận: khi một công ty phát hành cổ
phiếu, giá cổ phiếu của công ty đó có thể giảm vì bản thân chính sách định giá
của công ty đã bộc lộ rằng cổ phiếu đó được định giá cao hơn thực tế.
Quan sát giá các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam (xem
phụ lục 1) ta thấy hầu hết các cổ phiếu đều giảm giá sau thời điểm niêm yết,
đặc biệt các cổ phiếu REE, HAP, TMS còn có những thời điểm sụt giá mạnh
ngay sau quyết định huy động thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Tất
nhiên, việc diễn biến giá cả chứng khoán này (ở những phiên giao dịch đầu tiên
sau khi niêm yết hoặc sau khi phát hành thêm cổ phiếu) còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố nhưng một điều không thể phủ nhận được, như đã trình bày trên
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
58
đây, là tham gia của thông tin không cân xứng gây nên sự bất bình đẳng và
không chính xác trong việc xác định giá cổ phiếu. Do hạn chế về nguồn thông
tin nên tôi đã không tách riêng được tác động của thông tin không cân xứng,
mà cụ thể là thông tin nội bộ, đến việc xác định giá cả trên.
2.3. Giá cả cổ phiếu và chỉ số VN-Index không phản ánh đúng tình
hình sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết và thực tế giao dịch thị
trường.
Một thực tế nữa được các nhà đầu tư thực sự quan tâm đó là hiện tượng
biến động giá cổ phiếu không phản ánh đúng tình hình sản xuất kinh doanh của
các công ty niêm yết. Theo quy luật thị trường, giá cả biểu hiện giá trị của hàng
hoã, tuy có dao động nhưng bao giờ cũng xoay quanh giá trị. Tuy nhiên, trên
thị trường chứng khoán Việt Nam giá cả và giá trị nhiều khi không diễn biến
theo quy luật trên. Đương nhiên, giá cả chứng khoán còn phụ thuộc vào cung
cầu thị trường, và điều này đã được thể hiện trong thời gian đầu của thị trường
khi giá cổ phiếu tăng liên tục do cầu lớn hơn cung rất nhiều. Tuy nhiên, điều
đáng quan tâm là có những trường hợp khi công ty niêm yết công bố những
thông tin tốt và đưa ra kết hoạch đầu tư khả thi, đáng lẽ giá cổ phiếu sẽ tăng thì
thực tế lại giảm. Và ngược lại, khi một số công ty công bố các thông tin xấu
(lợi nhuận đạt qúa thấp, phải điều chỉnh lại kế hoạch kinh doanh, hoãn công bố
báo cáo tài chính…) thì giá cổ phiếu của các công ty này lại tăng lên. Trường
hợp của Công ty Cơ khí Bình Triệu và Công ty Bánh Kẹo Biên Hoà, Công ty
Savimex là những minh chứng cụ thể. Sự phi lý này của thị trường có thể được
giải thích bởi chất lượng về thông tin kém dẫn đến những biểu hiện không
công bằng trong giao dịch chứng khoán.
Đối với chỉ số VN-Index, do khối lượng giao dịch quá thấp nên chỉ cần
có vài lô cổ phiếu với trị giá khoảng 10 triệu VND là có thể làm thay đổi chiều
hướng của cả thị trường trị giá mấyngàn tỷ đồng, biểu hiện ngay qua việc VN-
Index thay đổi một vài điểm. Chẳng hạn vào phiên giao dịch ngày 25/11/2002,
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
59
chỉ với 5 lô cổ phiếu GMD khớp lệnh tại giá 35900 đồng (giảm 1100 đồng so
với phiên trước) đã kéo chỉ số VN-Index xuống còn 175,24 điểm, giảm 1,23
điểm so với phiên trước đó. Ngay ngày hôm sau, cũng chỉ cần hai lô GMD
khớp lệnh tại giá 36900 đồng (tăng 1000 đồng) đã đẩy chỉ số này lên đến
176,47 điểm, tăng 1,23 điểm so với phiên trước đó.
Thực trạng quy mô thị trường nhỏ còn dẫn đến hiện tượng làm giá trên
thị trường. Theo thống kê của báo “Đầu tư chứng khoán” số 177, ngày
28/4/2003, kể từ đầu năm 2003 tới thời điểm đó đã có 74 phiên giao dịch với
khối lượng giao dịch khớp lệnh bình quân khoảng 91000 cổ phiếu mỗi phiên,
giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên chưa đến 2 tỷ đồng. Trong khi đó, vào
năm 2001, mặc dù mới có 10 cổ phiếu niêm yết nhưng khối lượng giao dịch
bình quân đạt gần 118000 cổ phiếu mỗi phiên, giá trị giao dịch đạt bình quân
trên 6 tỷ đồng. Năm 2002, các con số tương ứng là 20 loại cổ phiếu, 126000 cổ
phiếu giao dịch mỗi phiên và giá trị giao dịch mỗi phiên đạt 3 tỷ đồng. Như
vậy, so với năm 2001 và 2002, năm 2003 có quy mô giao dịch giảm đáng kể.
Vào thời điểm đó, trong số 21 cổ phiếu niêm yết, chỉ có một số loại có khối
lượng giao dịch hàng ngày được coi là khá như REE, SAM, GMD hay BBC
tuy nhiên mức độ giao dịch vẫn rất thấp. Nhiều cổ phiếu khác chỉ giao dịch với
mức độ cầm chừng. Quy mô giao dịch thấp dẫn đến những biểu hiện làm giá,
một biểu hiện không lành mạnh dẫn đến không cân bằng trong thông tin và
giao dịch.
Thực tế, hoạt động làm giá đã diễn ra và được thực hiện bằng cách đặt
lệnh mua bán liên tục một vài loại cổ phiếu hay đặt mua, bán với số lượng rất
nhỏ (1 đến 2 lô) nhưng với mức giá sàn hoặc trần gần thời điểm khớp lệnh…
Cả hai cách trên đều nhằm tác động đến giá đóng cửa của cổ phiếu khiến cho
giá cổ phiếu tăng giảm rất mạnh vào phiên cuối, kéo theo sự biến động tương
tự của VN-Index. Quan sát biểu đồ chỉ số VN-Index có thể thấy rõ sự biến
động bất thường của chỉ số này. Cụ thể, trong 3 phiên từ ngày 28/3/2003 đến
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
60
1/4/2003, VN-Index giảm trên 10 điểm (từ 150,53 xuống còn 139,64) nhưng
ngay sau đó lại tăng lại với mức độ gằn bằng lúc suy giảm (150,22 điểm) vào
ngày 4/4/2003. Hiện tượng một số loại cổ phiếu tăng đến giá trần hoặc giảm
xuống giá sàn so với giá đóng cửa của ngày giao dịch trước đó mà khối lượng
giao dịch chỉ tử 1 đến 2 lô cũng không khó nhận ra.
Những biểu hiện trên đây của thị trường chứng khoán Việt Nam vừa là
dấu hiệu, vừa là kết quả của hiện tượng thông tin không cân xứng trên thị
trường. Nguyên nhân của hiện tượng trên một phần xuất phát từ thực tế trầm
lắng của thị trường nên quy mô giao dịch quá nhỏ, một phần khác do sự quản
lý, giám sát thiếu chặt chẽ các công ty niêm yết, chế tài xử phạt chưa nghiêm
đối với những vi phạm nguyên tắc và quy định của thị trường.
2.4. Những dấu hiệu giao dịch nội gián – Một biểu hiện của rủi ro
đạo đức.
Đối tượng quan trọng nhất của các công ty niêm yết luôn là những người
có quyển lợi và trách nhiệm đối với công ty. Những người này bao gồm: cổ
đông sáng lập,cổ đông kiểm soát, những người có liên quan trực tiếp về hiệu
quả kinh doanh của công ty như kế toán trưởng, hoặc những người có quan hệ
huyết thống, thân thiện với những đối tượng trên. Do những người này luôn có
thể biết trước những thông tin liên quan đến cổ phiếu niêm yết mà công chúng
không thể biết hoặc không thể biết sớm được nên họ là những người rất quan
trọng đối với các cổ đông. Bên cạnh đó, một số đối tượng là nhân sự của các cơ
quan quản lý thị trường cũng có khả năng tiếp cận và xử lý thông tin từ doanh
nghiệp trước khi công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những
thông tin dạng này được gọi là thông tin nội gián (nội bộ). Giao dịch liên quan
đến việc sử dụng thông tin này gọi là giao dịch nội gián.
Giao dịch nội gián là hậu quả của thông tin không cân xứng. Nói cách
khác, đó chính là rủi ro đạo đức mà các cổ đông của công ty niêm yết phải
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
61
gánh chịu hậu qủa. Trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đã có nhiều dấu
hiệu của hiện tượng này.
Có nhiều dấu hiệu cho thấy xuất hiện giao dịch nội gián cổ phiếu REE.
Một tuần trước khi Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
đăng thông tin về báo cáo tình hình hoạt động năm 2002 của REE, khối lượng
giao dịch cổ phiếu REE có chiểu hướng giảm và các lô chào bán lớn đều rơi
vào các mức giá thấp hơn giá tham chiếu. Sau đó, báo cáo tài chính năm 2002
của REE trở thành một trong những vụ gây nhiều thắc mắc nhất trong hơn ba
năm hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Điều đáng nói là sau khi
REE gây ra thát vọng trong đại họi cổ đông thường niên và công bố lợi nhuận I
năm 2003 chỉ bằng 1/3 so với cùng kỳ năm 2002, thì khối lượng chào bán cổ
phiếu REE không tăng nhiều như dự đoán.
Ngoài ra, trong năm 2002 báo cáo tài chính hàng quý của REE đã công
bố số doanh thu và lợi nhuận trước thuế như sau (với số làm tròn, đơn vị : Tỷ
VNĐ. Nguồn: www.fsc.com.vn):
Doanh thu Lợi nhuận trước thuế
Quý I 75 11,6
Quý II 115,5 16,6
Quý III 109,7 12,9
Như vậy, tổng ba quý công ty đạt 300,2 tỷ đồng doanh thu, tăng 33% và
lợi nhuận trước thuế 41,1 tỷ đồng, tăng 11.5%. so với kế hoạch cả năm 2002,
doanh thu đạt 93%, lợi nhuận trước thuế đạt 84,3%. Tuy nhiên, trong báo cáo
tài chính quý IV, REE áo lỗ 4,6 tỷ đồng với nguyên nhân thua lỗ trong mảng
thầu cơ điện lạnh (ME) (trong khi kế hoạch dự tính sẽ lãi 20 tỷ đồng). Rõ ràng
sự chênh lệch lớn như vậy là điều không bình thường. Nó hàm chứa hai điều
nghi ngờ: hoặc là những báo cáo tài chính ba quý đầu của REE có dụng ý đẩy
giá cổ phiếu giả tạo nhằm tạo điều kiện có lợi cho công ty, hoặc là khoản lỗ
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
62
trong mảng thầu ME là để che giấu những hoạt động tài chính không lành
mạnh. Dù như thế nào thì các cổ đông REE cũng hoàn toàn có quyền nghi ngờ
về việc họ đang gánh chịu rủi ro đạo đức do lãnh đạo công ty REE gây ra. Điều
đáng nói thêm là trước khi REE gửi báo cáo quý IV cho cơ quan quản lý, cổ
phần REE liên tục xuống giá. Do vậy, những dấu hiệu mua bán nội gián cổ
phiếu REE là có cơ sở.
Hiện tượng tương tự cũng xảy ra đối với cổ phiếu SAV. Khối lượng giao
dịch SAV tăng đột biến (gấp 5-10 lần lượng giao dịch trung bình) trong những
phiên giao dịch một tuần trước khi SAV công bố kết quả kinh doanh quý I năm
2003. Điều đáng nói là lượng cung SAV cũng tăng xấp xỉ với lượng đặt mua
trong thời điểm này.
Quan sát biểu đồ chứng khoán các công ty niêm yết ta có thể nhận thấy
có không ít chứng khoán đượcgiao dịch với số lượng tăng đột biến. Hiện tượng
này cho thấy dấu hiệu đầu cơ hoặc giao dịch nội gián. Quan sát kỹ hơn, kết hợp
với thu thập thông tin thị trường có thể nhận ra dấu hiệu giao dịch nội gián
trong một số giao dịch đó bởi sự gia tăng số lượng giao dịch đó thường được
theo sau bởi những thông tin quan trọng liên quan đến cổ phiếu đó. Tuy nhiên
cũng chưa có căn cứ chính xác để khẳng định chắc chắn các giao dịch trên là
nội gián một phần vì tính chất biểu hiện chưa rõ, một phần vì giá cổ phiếu còn
chịu sự chi phối của quá nhiều yếu tố khác.
Về phương diện pháp luật, khung pháp lý hiện nay của thị trường chứng
khoán Việt Nam chưa ngăn chặn hiệu quả việc giao dịch bằng thông tin nội
gián. Theo quy chế công bố thông tin hiện hành, nhiều công ty niêm yết vẫn
cho rằng có thể công bố thông tin cho giới báo chí những gì đã được Trung tâm
Giao dịch công bố. Thực tế là thời gian xử lý thông tin tại Trung tâm Giao dịch
từ khi nhận được thông tin của doanh nghiệp đến khi được đưa lên website
hoặc Bản tin thị trường chứng khoán thường mất 2-3 ngày. Khoảng thời gian
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
63
đó đủ để những thông tin chính thức trở thành thông tin nội gián cho một số cá
nhân kiếm lời.
Tóm lại, trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay còn tồn tại
nhiều hạn chế về mặt pháp lý và giám sát kiểm tra thị trường dẫn đến nhiều
biểu hiện của rủi ro đạo đức. Những người chịu hậu quả trước tiên của thực
trạng này không ai khác chính là các nhà đầu tư. Vấn đề trước mắt và lâu dài
để ổn định sự hoạt động và phát triển của thị trường là cần phải hoàn thiện các
quy định liên quan đến việc quản lý, giám sát các hoạt động của công ty niêm
yết và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Có như vậy, nhà đầu tư mới yên tâm
hoạt động trên thị trường.
3. Những tác động của vấn đề thông tin không cân xứng, lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đến hoạt động của thị trường chứng
khoán Việt Nam
Qua phân tích trên đây cùng với tình hình diễn biến thực tế trên thị
trường chứng khoán Việt Nam, ta có thể nhận thấy ảnh hưởng của thông tin
không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đến hoạt động của thị
trường. Thông tin không cân xứng là trọng tâm của vấn đề bởi đó chính là
nguyên nhân xảy ra lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Sự xuất hiện của
thông tin không cân xứng khiến nhà đầu tư do dự trong việc lựa chọn chứng
khoán. Trong khi đó, rủi ro đạo đức đòi hỏi nhà đầu tư phải thường xuyên nắm
bắt được hoạt động của công ty niêm yết. Những yếu tố đó đang ảnh hưởng
đến hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, thể hiện cụ thể ở một số
phương diện sau:
Lựa chọn chứng khoán và khối lượng giao dịch
Do thiếu thông tin để xác định giá cả chứng khoán nhằm phân biệt
chứng khoán tốt và chứng khoán xấu nên nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn trong
việc lựa chọn chứng khoán. Thực tế cho thấy, hiện tại trên Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 15000 tài khoản của nhà
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
64
đầu tư nhưng thực tế chỉ có từ 1500 đến 3000 tài khoản thường xuyên giao
dịch. Ngoài ra, trong thời gian đầu khi thị trường chứng khoán còn khan hiếm
hàng hoá, giá tất cả các chứng khoán đều tăng không ngừng nên việc lựa chọn
chứng khoán trở nên không quá quan trọng. Tuy nhiên, khi số lượng chứng
khoán niêm yết tăng lên thì vấn đề này đã được các nhà đầu tư quan tâm hơn
rất nhiều. Do đó, giá cả chứng khoán không còn tăng đều đặn như trước, đồng
thời lượng giao dịch chứng khoán cũng trở nên thất thường. Trong khoảng thời
gian quý I và đầu quý II năm 2003, theo thống kê của Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, có tới hơn 90% số tài khoản hiện có
giao dịch cầm chừng, có tính chất thăm dò. Trong số 21 loại cổ phiếu niêm yết,
có nhiều loại giao dịch rất ít, thậm chí không giao dịch trong nhiều phiên mặc
dù cung chứng khoán vẫn duy trì đều đặn. Nhiều nhà đầu tư không đánh giá
được chất lượng các loại chứng khoán nên giao dịch thường bị chi phối nhiều
bởi yếu tố tâm lý và tập trung vào một số loại cổ phiếu có giá cả ổn định.
Biến động giá cả không bình thường
Thông tin không cân xứng có thể xuất hiện với nhiều đặc điểm khác
nhau nhưng cuối cùng đều biểu hiện trong giao dịch thông qua quy mô và giá
cả. Như đã trình bày trên đây, sự thiếu thông tin khiến các nhà đầu tư do dự và
làm giảm khối lượng giao dịch. Trong khi đó, sự không bình đẳng về thông tin
trong đó một nhóm người có thông tin tốt hơn những nhà đầu tư khác sẽ thực
hiện những giao dịch bất thường khiến giá cả biến động phức tạp, không tuân
theo quy luật khách quan và không phản ánh chính xác tình hình hoạt động
kinh doanh của công ty niêm yết.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
65
Chương III
Đề xuất phương hướng giải quyết vấn đề thông
tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch
và rủi ro đạo đức trên thị trường
chứng khoán Việt Nam
Qua những nội dung đã trình bày trên đây có thể thấy rằng khi người
mua và người bán cùng biết nhiều về chất lượng của hàng hoá thì họ sẽ chấp
nhận mức giá hợp lý đích thực, thị trường sẽ có nhiều vụ giao dịch và thực hiện
tốt chức năng lưu thông hàng hoá. Tương tự, nếu những người mua bán chứng
khoán có thể phân biệt được những công ty tốt và những công ty tồi, họ sẽ trả
giá đầy đủ giá trị của những chứng khoán do các công ty tốt phát hành. Kết quả
là những chứng khoán tốt sẽ được giao dịch nhiều hơn. Thị trường chứng
khoán khi đó có khả năng chuyển vốn tới các công ty hoạt động tốt với những
cơ hội đầu tư sinh lời cao nhất. Vì vậy, nếu không còn thông tin không cân
xứng thì sẽ lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức cũng mất theo. Trên cơ sở đó
kết hợp với thực tế hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã được
trình bày trong chương II, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế tình
trạng thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
1. Khuyến khích thành lập các công ty sản xuất và bán thông tin
Giải pháp cho vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong các thị
trường tài chính là đưa ra thông tin có tác dụng loại bỏ thông tin không cân
xứng và cho phép những người cung cấp vốn có thông tin đầy đủ về những cá
nhân hay những công ty cần tài trợ cho các hoạt động đầu tư. Một cách để thu
thập thông tin này là có các công ty chuyên thu thập và đưa ra thông tin giúp
phân biệt các công ty tốt với các công ty hoạt động kém.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
66
Đương nhiên, để các công ty như thế được thành lập và hoạt động một
cách có tổ chức và hiệu quả thì pháp luật phải đi trước một bước. Vì vậy, các
cơ quan quản lý cần nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai các văn bản pháp
luật liên quan đến sự thành lập, tổ chức và hoạt động của các công ty cung cấp
thông tin chuyên nghiệp. Việc làm này không chỉ có ý nghĩa trong việc hạn chế
tác động tiêu cực của thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức mà còn giúp tăng cường tính chuyên nghiệp và hiệu quả cho thị trường
chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung.
Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng việc cung cấp thông tin theo cách
này chưa giải quyết một cách triệt để vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức trên thị trường chứng khoán do sự tồn tại của hiện tượng “người đi xe
không tốn tiền”. Đó là vấn đề xảy ra khi những người không chi tiền mua
thông tin vẫn có thể hưởng lợi từ thông tin mà người khác đã mua bằng cách
đầu tư theo. Vì vậy đây là biện pháp có tính lâu dài, làm nền tảng lý luận và
thực tiễn để tăng cường hiệu quả cho các biện pháp áp dụng song song dưới
đây.
2. Tăng cường sự điều hành của chính phủ để làm tăng thông tin
trên thị trường chứng khoán.
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường tính công bằng
về thông tin trên thị trường chứng khoán. Trong giai đoạn đầu, Chính phủ có
thể tác động bằng các biện pháp mang tính hành chính như thanh tra, giám sát
việc công bố thông tin chặt chẽ, lập ra các bộ phận thu thập, phân tích sơ bộ và
công bố thông tin cho giới đầu tư… Tuy nhiên, sự can thiệp của Chính phủ cần
theo xu hướng tăng dần các biện pháp có tính chất khuyến khích các công ty
công bố thông tin chính xác và kịp thời và giảm dần các biện pháp hành chính
không cần thiết.
Một điều không thể thiếu đối với thị trường chứng khoán Việt Nam hiện
nay là Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước cùng các cơ quan liên quan cần ban
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
67
hành những quy định chi tiết và đầy đủ hơn về việc công bố thông tin của các
công ty niêm yết để đảm bảo tính chính xác và đầy đủ, kịp thời và thống nhất.
Song song với điều đó là các biện pháp chế tài đảm bảo việc thực thi nghiêm
chỉnh các quy định trên. Cụ thể, cần phải có một ban giám sát tài chính có trình
độ chuyên môn cao và hoạt động độc lập để kiểm tra tình hình hoạt động và
các báo cáo tài chính của các công ty niêm yết dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế
từ đó phát hiện những điểm bất bình thường ở các công ty niêm yết để khuyến
cáo và cảnh báo cho nhà đầu tư. Có như vậy lòng tin của nhà đầu tư, một yếu
tố rất quan trọng trên thị trường chứng khoán, mới được khôi phục và duy trì.
3. Khuyến khích thành lập các trung gian tài chính, đặc biệt là các
quỹ đầu tư chứng khoán.
Đầu tư chứng khoán là một hoạt động đòi hỏi sự phân tích chính xác, kịp
thời và chuyên nghiệp. Tuy nhiên một thực tế đang diễn ra trên thị trường
chứng khoán Việt Nam là các nhà đầu tư còn rất hạn chế về khả năng thu thập
và xử lý thông tin. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân:
Thứ nhất, nhà đầu tư tham gia thị trường phần lớn là có quy mô nhỏ nên
việc tìm kiếm thông tin bị giới hạn. Thông tin thiếu cập nhật, thiếu chính xác
và thiếu tính toàn diện. Thực ra, họ có thể giành được thông tin tốt hơn nhưng
chi phí để đạt được điều đó thường không nhỏ so với quy mô vốn còn hạn hẹp.
Kết quả là lợi nhuận thu về sẽ không xứng đáng với chi phí tìm kiếm thông tin.
Nguyên nhân thứ hai là tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư chưa cao
khiến cho việc xử lý thông tin còn nhiều hạn chế. Đối với nhà đầu tư nhỏ phân
tích tốt hơn thông tin là cả một vấn đề.
Hai thực tế này cũng giải thích vì sao hình thức đầu tư giá trị hầu như
chưa xuất hiện trên thị trường chứng khoán Việt Nam đồng thời đó cũng là
nhân tố tăng thêm sự không cân xứng về thông tin trên thị trường.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
68
Một cách đơn giản và hiệu quả để giải quyết hạn chế trên là đầu tư qua
các trung gian tài chính như các quỹ đầu tư, các quỹ tương trợ, quỹ đầu tư
chứng khoán… Các trung gian tài chính này hoạt động trên cơ sở huy động
vốn bằng cách nhận tiền gửi hoặc phát hành chứng khoán rồi dùng tiền thu
được đầu tư vào các lĩnh vực khác, trong đó có thị trường chứng khoán. Do
được chuyên môn hoá và hoạt động có tổ chức nên họ có nhiều ưu thế trong
việc khai thác thông tin. Với trình độ chuyên môn cao, quan hệ rộng và khả
năng tài chính mạnh, các trung gian tài chính luôn là những người có được
thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và đầy đủ. Kết hợp với trình độ
phân tích tài chính chuyên nghiệp, việc phân tích, tổng hợp số liệu và lựa chọn
phương án đầu tư của các tổ chức này có chất lượng rất cao. Chính nhờ những
lợi thế đó mà các tổ chức này luôn là những người hạn chế tốt hơn vấn đề
thông tin không cân xứng và do đó giảm được đáng kể lựa chọn đối nghịch, và
rủi ro đạo đức trong hoạt động đầu tư tài chính nói chung và đầu tư chứng
khoán nói riêng. Do vậy, các nhà đầu tư nhỏ có thể đầu tư thông qua các tổ
chức này (bằng cách cho vay, mua chứng chỉ quỹ đầu tư, thuê quản lý quỹ…)
để tận dụng lợi thế về thông tin.
Vì thế, trong điều kiện hiện nay các cơ quan quản lý cần khuyến khích
việc thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán. Điều này đặc biệt phù hợp với điều
kiện của Việt Nam hiện nay vì số lượng nhà đầu tư nhỏ than gia thị trường
chứng khoán chiếm tỷ lệ lớn. Các quỹ đầu tư, với vai trò là nhà đầu tư có tổ
chức sẽ thu hút rất tốt những nguồn vốn nhỏ tham gia thị trường thông qua
quỹ. Thị trường khi đó sẽ hoạt động chuyên nghiệp hơn, quy mô hơn và công
bằng hơn. Đồng thời chính quy luật cạnh tranh của thị trường khi đó sẽ thúc
đẩy các công ty niêm yết hoạt động hiệu quả hơn và có trách nhiệm hơn trong
việc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư. Như vậy, vấn đề thông tin không cân
xứng sẽ được giải quyết phần nào và nhờ đó, rủi ro đạo đức và lựa chọn đối
nghịch cũng dần giảm theo.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
69
Kết luận
Thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là
những vấn đề rất phức tạp, nhậy cảm và có vai trò quan trọng trong các giao
dịch kinh tế, đặc biệt là các giao dịch tài chính. Chính vì lý do đó, đề tài đã
hướng vào việc nghiên cứu những biểu hiện của những vấn đề đó trên thị
trường chứng khoán Việt Nam với mục đích phát hiện và hạn chế thực trạng
thông tin không cân xứng trên thị trường, và theo đó, lựa chọn đối nghịch và
rủi ro đạo đức cũng giảm dần.
Chương I của luận văn đề cập đến những lý luận chung về thị trường
chứng khoán và thông tin không cân xứng. Dựa trên những nghiên cứu về học
thuyết thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức của
một số nhà kinh tế học trên thế giới, tôi đã trình bày những lý luận cơ bản về
học thuyết, trong đó quan trọng nhất là cách đạt đến cân bằng thị trường và tác
động của những vấn đề trên đến hoạt động của thị trường tài chính. Trong điều
kiện thông tin không cân xứng, thị trường sẽ xuất hiện một trong hai kiểu cân
bằng: cân bằng chung và cân bằng riêng. Cân bằng chung đạt được khi bên
cung cấp vốn hoặc dịch vụ tài chính không thể phân loại khách hàng và do đó
chào bán các hợp đồng tài chính ở một mức giá trung bình như nhau cho mọi
đối tượng. Thị trường đạt được cân bằng tại nhiều điểm trên một đường cung.
Ngược lại, cân bằng riêng xảy ra khi người bán có thể phân loại khách hàng
theo mức độ rủi ro thì các hợp đồng sẽ được chào bán ở nhiều mức giá khác
nhau tương ứng với từng mức độ rủi ro của khách hàng.
Thị trường chứng khoán là nơi các giao dịch tài chính có mức độ nhậy
cảm với thông tin rất cao. Qua việc khảo sát thực tế hoạt động của thị trường
chứng khoán Việt Nam từ khi hoạt động đến nay, tôi nhận thấy việc công bố
thông tin trên thị trường còn nhiều bất cập. Những hạn chế đó bắt nguồn từ cả
yếu tố khách quan và chủ quan. Từ phương diện chủ quan, công tác tổ chức và
giám sát thị trường chưa tốt đồng thời cơ chế luật pháp còn nhiều hạn chế dẫn
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
70
đến việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư không được đầy đủ, kịp thời, và
thiếu thống nhất trong cách thức công bố. Từ góc độ khách quan, thị trường
chứng khoán Việt Nam hình thành mới hơn ba năm hoạt động. Trong bối cảnh
nền kinh tế chưa thực sự phát triển. Mặt khác, cổ phiếu, trái phiếu công ty chưa
phải là một công cụ huy động vốn quan trọng của các công ty. Vì lẽ đó, công
tác thông tin trên thị trường chứng khoán chưa thực sự được các công ty coi
trọng. Những hạn chế đó đã dẫn đến chất lượng thông tin trên thị trường còn
thấp và kết quả là đã có nhiều biểu hiện của lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức trên thị trường.
Giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi
ro đạo đức là một trong những nội dung không thể thiếu trên đường phát triển
của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trên cơ sở những nội dung đã trình bày
trong chương I và chương II, một số đề xuất cho việc cải thiện thực trạng thông
tin trên thị trường đã được đưa ra và đề cập trong chương III. Hướng vào việc
cân bằng hoá thông tin giữa các nhà đầu tư trên thị trường, luận văn đưa ra ba
giải pháp chính: khuyến khích việc thành lập các công ty sản xuất và bán thông
tin; tăng cường sự điều hành của chính phủ; và tạo điều kiện thuận lợi cho các
trung gian tài chính, đặc biệt là các quỹ đầu tư chứng khoán, tham gia vào thị
trường chứng khoán. Đương nhiên, để giải quyết tốt vấn đề thông tin không
cân xứng, nhiều biện pháp nhỏ khác cần phải được áp dụng đồng thời.
Mặc dù đã cố gắng nhiều trong việc tham khảo tài liệu, tìm kiếm thông
tin và sự giúp đỡ của các thầy cô, bạn bè nhưng luận văn vẫn còn những vấn đề
chưa giải quyết xong. Một trong những hạn chế đó là việc vận dụng các mô
hình toán kinh tế để tách riêng tác động của thông tin không cân xứng tới hoạt
động của thị trường, trên cả phương diện lý thuyết và thực tế. Dẫu sao, tôi hy
vọng luận văn sẽ đóng góp phần nào cho việc hoàn thiện công tác thông tin
trên thị trường chứng khoán Việt Nam và sẽ là một tài liệu tham khảo cho
những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
71
Phụ lục 1
Biểu đồ chỉ số cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam từ thời điểm niêm yết đến ngày1/12/2003
(Nguồn:
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
72
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
73
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
74
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
75
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
76
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
77
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
78
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
79
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
80
Phụ lục II
Các hệ số tài chính của các công ty niêm yết trên Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh 9 tháng đầu năm 2002
(Nguồn: Công ty Chứng khoán Đệ Nhất)
Chỉ tiêu REE SAM HAP TMS LAF SGH CAN
I. Hệ số khả năng thanh toán
1. Khả năng thanh
toán hiện thời 2.16 3.47 3.91 0.91 1.32 4.15 3.00
2. Khả năng thanh
toán nhanh 1.14 2.41 3.44 0.91 0.34 4.10 1.86
II. Hệ số cán cân nợ
1. Tỷ số nợ 33.58% 21.69% 18.93% 60.85% 71.17% 9.84% 37.83%
2. Tỷ số nợ trên vốn
chủ sở hữu 50.56% 27.70% 23.35% 155.43% 246.86% 10.92% 60.84%
3. Nợ quá hạn/tổng dư
nợ ngắn hạn - - - - - - -
III. Hệ số hoạt động
1. Vòng quay tài sản
vốn 0.70 0.82 0.97 0.61 1.71 0.38 0.99
2. Vòng quay TSCĐ 5.79 1.98 3.57 0.92 18.85 0.61 3.07
3. Vòng quay TSLĐ 1.58 1.41 1.34 1.80 1.89 1.00 1.45
4. Vòng quay hàng
tồn kho 3.35 4.62 11.02 - 2.55 - 3.83
5. Kỳ thu tiền bình
quân 74 114 127 78 26 82 105
6. Kỳ trả tiền bình
quân 93 71 60 212 14 113 33
7. Cán cân tín dụng
thương mại 0.79 1.60 2.11 0.37 1.91 0.72 3.23
IV. Hệ số doanh lợi
1. Tỷ lệ góp vốn 20.95% 33.37% 14.66% 22.59% 9.24% 42.24% 21.72%
2. Tỷ lệ lợi nhuận 12.10% 22.78% 9.18% 15.51% 5.82% 17.92% 9.19%
3. Doanh lợi tiêu thụ 13.71% 24.03% 9.18% 10.70% 3.23% 18.83% 8.32%
4. Doanh lợi tài sản 9.56% 19.81% 8.94% 6.52% 5.54% 7.13% 8.20%
5. Doanh lợi vốn chủ
sở hữu 14.39% 25.30% 11.02% 16.65% 19.22% 7.91% 13.20%
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
81
6. Doanh lợi vốn Cp 17.68% 37.82% 31.53% 28.80% 34.40% 9.59% 18.19%
V. Hệ số cổ phần
1. Thu nhập mỗi cổ
phần 1,768 3,782 3,153 2,880 3,440 959 1,819
2. Thư giá mỗi cổ
phần (VNĐ/Cp) 12,285 14,950 28,604 17,301 17,895 12,117 13,780
3. Doanh thu mỗi cổ
phần (VNĐ/Cp) 12,897 15,743 34,355 26,912 106,426 5,092 21,859
4. Tiền mặt mỗi cổ
phần (VNĐ/Cp) 644 663 5,756 6,051 1,498 814 362
5. Ngân quỹ ròng mỗi
cổ phần(VNĐ/CP) 1,664 4,951 3,207 4,162 3,387 1,366 2,731
VI. Hệ số đo lường rủi ro nội tại
1. Độ nghiêng cán cân
định phí 1.73 1.46 1.60 1.46 1.59 1.74 2.36
2. Độ nghiêng cán cân
nợ 1.00 1.01 1.18 1.13 1.72 1.00 1.08
3. Độ nghiêng cán cân
tổn hợp 1.73 1.48 1.88 1.64 2.73 1.74 2.55
Chỉ tiêu DPC BBC TRI GIL BTC BPC BT6
I. Hệ số khả năng thanh toán
1. Khả năng thanh
toán hiện thời 2.87 1.19 1.66 1.19 1.33 17.48 1.50
2. Khả năng thanh
toán nhanh 1.95 0.42 1.28 0.93 0.52 14.05 0.80
II. Hệ số cán cân nợ
1. Tỷ số nợ 33.87% 51.03% 45.83% 62.47% 68.19% 6.74% 61.12%
2. Tỷ số nợ trên vốn
chủ sở hữu 51.21% 104.21% 84.60% 166.45% 214.34% 7.23% 157.21%
3. Nợ quá hạn/tổng dư
nợ ngắn hạn - - - - - - -
III. Hệ số hoạt động
1. Vòng quay tài sản 1.56 0.86 1.37 1.88 0.90 0.93 0.52
2. Vòng quay TSCĐ 7.43 1.97 3.71 7.15 8.34 3.46 1.85
3. Vòng quay TSLĐ 1.97 1.54 2.18 2.55 1.01 1.27 0.72
4. Vòng quay hàng
tồn kho 6.13 2.37 9.68 11.90 1.65 6.49 1.54
5. Kỳ thu tiền bình
quân 70 39 90 58 67 117 181
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
82
6. Kỳ trả nợ bình quân 19 65 62.98 72 79 15 157
7. Cán cân tín dụng
thương mại 3.62 0.60 1.42 0.81 0.85 7.62 1.15
IV. Hệ số doanh lợi
1. Tỷ lệ góp vốn 10.32% 24.61% 33.00% 12.66% 11.72% 21.06% 19.60%
2. Tỷ lệ lợi nhuận 5.41% 4.48% 4.30% 6.79% 2.49% 15.95% 14.16%
3. Doanh lợi tiêu thụ 4.77% 2.79% 3.85% 6.89% 2.45% 17.63% 11.40%
4. Doanh lợi tài sản 7.43% 2.41% 5.28% 12.95% 2.20% 16.40% 5.92%
5. Doanh lợi vốn chủ
sở hữu 11.24% 4.92% 9.75% 34.49% 6.91% 17.58% 15.22%
6. Doanh lợi vốn cổ
phần 13.40% 7.85% 13.13% 67.16% 8.56% 23.89% 20.64%
V. Hệ số cổ phần
1. Thu nhập mỗi cổ
phần(VNĐ/CP) 1,340 785 1,313 6,716 856 2,389 2,064
2. Thư giá mỗi cổ
phần (VNĐ/CP) 11,927 15,966 13,461 19,472 12,394 13,586 13,564
3. Doanh thu mỗi cổ
phần (VNĐ/CP) 28,116 28,160 34,096 97,503 35,007 13,551 18,108
4. Tiền mặt mỗi CP
(VNĐ/CP) 2,225 1,407 479 8,648 552 438 414
5. Ngân quỹ ròng mỗi
CP (VNĐ/CP) 2,716 1,632 2,301 7,416 1,498 3,993 3,202
VI. Hệ số đo lường rủi ro nội tại
1. Độ nghiêng cấn cân
định phí 1.91 5.50 7.68 1.86 4.71 1.32 1.38
2. Độ nghiêng cán cân
nợ 1.17 1.79 1.11 1.08 1.00 1.00 1.22
3. Độ nghiêng cán cân
tổng hợp 2.24 9.86 8.54 2.02 4.71 1.32 1.69
Chỉ tiêu GMD AGF SAV TS4 KHA MAR
I. Hệ số khả năng thanh toán
1. Khả năng thanh toán hiện
thời 1.94 1.58 1.34 1.89 1.02 1.74
2. Khả năng thanh toán nhanh 1.94 1.11 0.68 1.63 0.66 1.20
II. Hệ số cán cân nợ
1. Tỷ số nợ 39.83% 57.09% 54.57% 42.92% 62.46% 44.10%
2. Tỷ số nợ trên vốn chủ sở
hữu 66.20% 137.84% 120.13% 75.20% 166.41% 78.88%
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
83
3. Nợ quá hạn /tổng dư nợ
ngắn hạn - - - - - -
III. Hệ số hoạt động
1. Vòng quay tài sản 0.63 2.37 0.81 1.64 1.61 0.97
2. Vòng quay TSCĐ 2.56 9.42 3.00 8.09 2.98 2.74
3. Vòng quay TSLĐ 0.84 3.16 1.10 2.05 3.51 1.49
4. Vòng quay hàng tồn kho - 10.69 2.24 15.19 9.94 4.82
5. Kỳ thu tiền bình quân 122 55 68 110 36 81
6. Kỳ trả nợ bình quân 225 19 117 61 75 83
7. Cán cân tín dụng thương mại 0.54 2.85 0.58 1.80 0.48 0.97
IV. Hệ số doanh lợi
1. Tỷ lệ lợi nhuận gộp 30.28% 14.41% 13.67% 16.07% 11.19% 20.27%
2. Tỷ lệ lợi nhuận thuần 26.82% 4.58% 2.64% 6.96% 4.92% 11.07%
3. Doanh lợi tiêu thụ 23.81% 4.76% 4.17% 7.35% 4.45% 10.46%
4. Doanh lợi tài sản 15.04% 11.27% 3.36% 12.03% 7.18% 10.11%
5. Doanh lợi vốn chủ sở hữu 25.00% 27.21% 7.40% 21.08% 19.12% 18.09%
6. Doanh lợi vốn cổ phần 51.82% 40.98% 9.65% 26.19% 25.86% 27.61%
V. Hệ số cổ phần
1. Thu nhập mỗi cổ phần
(VNĐ/Cp) 5,182 4,098 965 2,619 2,586 2,761
2. Thư giá môic cổ phần
(VNĐ/CP) 20,730 15,058 13,039 12,420 13,528 15,268
3. Doanh thu mỗi cổ phần
(VNĐ/CP) 21,760 86,058 23,160 35,647 58,098 26,397
4. Tiền mặt mỗi cổ phần
(VNĐ/CP) 13,919 903 4,084 307 2,179 3,357
5. Ngân quỹ ròng mỗi cổ phần
(VNĐ/CP) 6,548 3,757 1,354 3,057 4,131 3,468
VI. Hệ số đo lường rủi ro nội tại
1. Độ nghiêng cán cân định phí 1.13 3.15 5.18 2.31 2.28 1.83
2. Độ nghiêng cán cân nợ 1.00 1.24 1.42 1.00 1.16 1.08
3. Độ nghiêng cán cân tổng
hợp 1.13 3.91 7.38 2.31 2.63 1.97
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
84
Phụ lục III
Xếp hạng tài chính các công ty niêm yết tại Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
(Nguồn: Công ty Chứng khoán Đệ Nhất)
2000 2001 STT Mã NY Ngành Tổng TS Vốn CSH Điểm Loại Tổng TS Vốn CSH Điểm Loại
1 REE CN 271,47 183,69 147 A 343,18 256,91 150 A
2 SAM CN 164,70 154,50 153 A 183,13 149,80 156 AA
3 HAP CN 29,72 20,62 163 AA 39,72 24,50 162 AA
4 TMS DV 80,98 30,80 123 BB 66,41 34,37 146 A
5 LAF CN 60,13 32,51 142 A 97,48 31,94 90 B
6 SGH DV 24,97 21,54 146 A 22,81 21,34 141 A
7 CAN CN 59,14 33,76 143 A 66,36 39,27 153 A
8 DPC CN 37,20 16,14 73 CC 28,18 18,70 129 BB
9 BBC CN 107,17 32,98 108 BB 162,87 82,57 99 B
10 TRI CN 73,79 37,85 149 A 86,93 54,62 157 AA
11 GIL CN 45,19 20,45 146 A 59,63 31,94 165 AA
12 BTC CN 25,11 11,57 111 BB 43,93 15,59 100 B
13 BPC CN 48,69 45,27 162 AA 52,74 48,96 148 A
14 BT6 XD 153,69 78,38 131 A 176,12 71,33 130 BB
15 GMD DV 378,08 218,64 166 AA 429,65 261,15 160 AA
16 AGF CN 126,22 53,06 141 A 127,14 52,36 151 A
17 SAV CN 97,37 48,22 142 A 114,08 49,84 125 BB
18 TS4 CN 50,43 27,01 117 BB 24,81 16,84 147 A
19 KHA CN 49,61 20,76 125 BB 60,23 21,70 127 BB
20 HAS XD 72,69 11,59 100 B 85,85 15,59 100 B
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
85
Danh mục tài liệu tham khảo
Tài liệu trong nước
1. Báo “Đầu tư chứng khoán” từ số 1 đến số 300.
2. Báo “Chứng khoán Việt Nam” số 2,6,7,8,9 năm 2003.
3. Giáo trình “Thị trường chứng khoán” trường đại học Ngoại
Thương Hà nội, NXB giáo dục 1998, tác giả PGS. TS. Đinh Xuân Trình.
Tài liệu nước ngoài
1. Akerlof, George, 1970, “The Market for ‘Lemons’: Quality
Uncertainty and the Market Mechanism,”
2. Caplin, Andrew, and John Leahy, 1999, “Durable Goods
Cycles,” Nghiên cứu của NBER Số 6987. 29
3. Eberly, Janice, 1994, “Adjustment of Consumers’ Durables
Stocks: Evidence from Automobile Purchases,”.
4. Hendel, Igal, and Alessandro Lizzeri, 1999, “Adverse Selection
in Durable Goods Markets,” American Economic Review.
5. Leahy, John, and Joseph Zeira, 1999, “The Timing of Purchases
and Aggregate Fluctuations,” Đại học Boston.
6. Stiglitz, Joseph, 1997, Economics, New York: W. W. Norton &
Co.. Stolyarov, Dmitriy, 1999, “Stationary Equilibrium in Secondary Markets
with Transaction Costs: Holding Patterns for Durable Goods,” Đại học
Michigan.
7. Arnott, R., Greenwald and J.E. Stiglitz (1994), “Information and
conomic Effeciency,"
8. Arnott, R. and J.E. Stiglitz (1988), Randomization with
Asymmetric information,"
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
86
9. Bennardo, A. (1997), “Competitive Equilibria and Second Best
llocations of Multicommodity Economies with Moral Hazard: The Case of
Perfectly Veriable Trades,"
10. Bennardo, A. and P.A. Chiappori (1998), Competition, Positive
Products and Market Clearing under Asymmetric Information," Đại học
Chicago.
11. Bisin, A. and P. Gottardi (1998), “General Competitive Analysis
with Asymmetric Information,"
12. Bisin, A. and D. Guatoli (1997), “Inefficiency of Competitive
Equilibrium with Asymmetric Information and Financial Intermediaries," Đại
học New York.
13. Greenwald B.C. and J.E. Stiglitz (1986), “Externalities in
Economies with Imperfect Information and Incomplete Markets,".
14. Lisboa, M.B. (1997),”Moral Hazard and Non-linear Pricing in
Large Economies without Aggregate Uncertainty,” Đại học Stanford.
15. Magill, M. and M. Quinzii (1998), “Equity, Options and
Efficiency in the Presence of Moral Hazard,".
16. Wilson, C. (1977), “A Model of Insurance Markets with
Incomplete Information," Journal of Economic Theory, Hoa Kỳ.
Các website
1. www.tvcstock.com
3. www.saigonnet.vn
4. www.vietstock.com.vn
5. Uỷ ban chứng khoán nhà nước: www.ssc.gov.vn
6. Thị trường chứng khoán trên VNN: www.stockmarket.vnn.vn
7. Hướng dẫn đầu tư chứng khoán tại Việt Nam:
www.ttck.bizland.com
8. Báo đầu tư chứng khoán: www.vir.com.vn
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
87
9. Công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư BSC: www.bsc.com.vn
10. Công ty chứng khoán Sài Gòn SSI: www.saigonsecurities.com
11. Công ty chứng khoán Đệ Nhất: www.fsc.com.vn
12. Ngân hàng thế giới tại Việt Nam: www.worldbank.org.vn
13. Bộ tài chính Việt Nam: www.mof.gov.vn
14. Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam:
www.techcombank.com.vn
15. Ngân hàng TMCP Đông Á: www.eab.com.vn
16. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín: www.sacombank.com
17. Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam: www.vib.com.vn
18. Ngân hàng TMCP Á Châu: www.acb.com.vn
19. Ngân hàng Công Thương Việt Nam: www.icb.com.vn
20. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: www.vietcombank.com.vn
21. Ngân hàng TMCP Quân Đội: www.militarybank.com.vn
22. Cty CP bảo hiểm Bảo Long: www.nharong.com
23. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam: www.baoviet.com.vn
24. Thị trường chứng khoán Mỹ
www.nyse.com
www.nasdaq.com
www.amex.com
25. Thị trường chứng khoán Nhật Bản: www.tse.or.jp
26. Thị trường chứng khoán Đức: www.deutsche-boerse.com
27. Thị trường chứng khoán Pháp: www.bourse-de-paris.fr
28. Thị trường chứng khoán London:
www.londonstockexchange.com
29. Thị trường chứng khoán Singapore: www.ses.com.sg
30. Thị trường chứng khoán Úc: www.asx.com.au
31. Thị trường chứng khoán Kuala Lumpur: www.klse.com.my
32. Thị trường chứng khoán Hồng Kông: www.sehk.com.hk
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
88
33. Thị trường chứng khoán Thái Lan: www.set.or.th
34. Thị trường chứng khoán Hàn Quốc: www.kse.or.kr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn THÔNG TIN KHÔNG CÂN XỨNG, LỰA CHỌN ĐỐI NGHỊCH VÀ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.pdf