Luận văn Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện nay

Các KCN đang ngày càng tỏ rõ ưu thế không thể thay thế trên con đường CNH, HĐH đất nước. KCN góp phần tạo ra một lượng hàng hoá xuất khẩu và tiêu dùng có giá trị kinh tế cao, giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ những người lao động, hạn chế tối đa ô nhiễm môi trường. KCN là nơi tiếp thu công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua phát triển các KCN mà kết cấu hạ tầng cả về kinh tế và xã hội nhanh chóng được hình thành. Thu hút đầu tư vào KCN, chúng ta sẽ có được một thế hệ những người lao động mới, bản lĩnh, năng động, sáng tạo. Họ là lực lượng tiên phong trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào các ngành kinh tế mũi nhọn.

pdf89 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2488 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuê nhà xung quanh KCN. Nhà cho thuê chủ yếu là nhà tạm, chật chội, thiếu nước sinh hoạt, thiếu không khí sạch và điều kiện vệ sinh tối thiểu. Hơn nữa, áp lực công việc theo dây chuyền công nghiệp buộc người lao động phải cố hết sức để đảm bảo năng suất lao động, thêm vào đó là muốn tăng thu nhập. Về đời sống tinh thần, người lao động ở các KCN sinh hoạt rất tù túng, suốt ngày ở các nhà máy, nếu có chút ít thời gian họ không biết đi đâu và làm gì. Cùng với sự phát triển tràn lan của các sản phẩm văn hóa trong cơ chế thị trường hiện nay khiến họ rất dễ hấp thu những mặt trái của xã hội. Do đó, để tránh những hiện tượng trên có thể xảy ra, tỉnh cần có những chính sách đối với người lao động như tạo điều kiện về nhà ở cho công nhân thuê, tạo môi trường văn hoá lành mạnh để đảm bảo đời sống tinh thần cho công nhân, giúp họ tái sản xuất sức lao động. Đồng thời đảm bảo an ninh trật tự cũng như các điều kiện để chăm sóc sức khoẻ cho người lao động và chuyên gia tại khu vực họ thuê nhà ở. Việc quy hoạch các KCN cũng cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tế. Đặc biệt phải lưu ý đến ý kiến của các nhà đầu tư khi đến khảo sát để quyết định đầu tư. Hiện nay, công tác vận động xúc tiến đầu tư của tỉnh chỉ dừng lại ở phạm vi trong nước, việc vận động đầu tư nước ngoài chỉ thông qua các Đại sứ quán và Bộ kế hoạch và đầu tư mà chưa đi vận động đầu tư ở nước ngoài. Vì vậy cần có kế hoạch ra nước ngoài để vận động các nhà đầu tư thông qua các Đại sứ quán và các thương vụ của Việt Nam ở các nước. Đổi mới chính sách thuế theo hướng vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và thu lợi nhuận cao vừa tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tỉnh cần đẩy mạnh ngăn ngừa và xử lý một cách kiên quyết tệ tham nhũng. Một nghiên cứu cho thấy nhiều nhà đầu tư nước ngoài được phỏng vấn đã nói rằng họ thà hoạt động trong một môi trường không có tham nhũng ngay cả khi nó đắt hơn bởi vì ở đó họ biết rõ chi phí là những gì và họ có thể lập ngân sách cho chúng và có thể giải thích cho các cổ đông. Trong khi tình trạng tham nhũng lan tràn ở một số môi trường rẻ hơn là không thể dự báo được, có thể trở nên rất tồi tệ và không thể lý giải cho các cổ đông cũng như các cơ quan chức năng. Tỉnh cần có hình thức khen thưởng và hỗ trợ kinh phí cho những tổ chức, cá nhân vận động được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các KCN. Tỉnh cần tích cực hỗ trợ doanh nghiệp KCN. Thực tế cho thấy, tiếng nói quảng bá của nhà đầu tư thành công trong thực hiện dự án tại các KCN sẽ có sức thuyết phục rất lớn trong việc vận động thu hút các nhà đầu tư khác. 3.1.3. Thu hút đầu tư phải gắn với quản lý nhà nước Việc thể chế hoá chủ trương và thực thi các văn bản pháp luật liên quan đến các KCN cần được thực hiện nghiêm túc.Trong quá trình các dự án triển khai ở KCN cần phải bảo đảm thực hiện theo đúng quy hoạch tổng thể đã được phê duyệt. Các dự án đi vào hoạt động cần phảo có đầu mối xử lý những vướng mắc, khó khăn phát sinh. Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cần có sự kiểm tra, giám sát nhằm hạn chế tình trạng vi phạm những quy định đối với doanh nghiệp KCN như không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, sản xuất kinh doanh không đúng với giấy phép đăng ký, gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác, việc giám sát các doanh nghiệp KCN trong việc sử dụng lao động nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động là việc rất quan trọng. Để giúp chính phủ quản lý hoạt động của các KCN trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ngoài các bộ, ngành trung ương và các UBND tỉnh, chính phủ đã quyết định thành lập Ban quản lý KCN cấp tỉnh. Đây là cơ quan quản lý trực tiếp các KCN trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh, thực hiện cơ chế quản lý "một cửa, tại chỗ". Ban quản lý KCN cấp tỉnh thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về đầu tư, xây dựng, thương mại, lao động... Một số nội dung quản lý thuộc lĩnh vực chuyên ngành như hải quan, công an, thuế vụ thực hiện theo phương thức các cơ quan này đặt đại diện đủ thẩm quyền giải quyết trực tiếp tại từng KCN. Ban quản lý KCN cấp tỉnh trực tiếp làm đầu mối và xử lý các vấn đề cụ thể theo quy định. Trong thời gian qua, Ban quản lý KCN Nghệ An đã tổ chức lại bộ máy quản lý theo quyết định của chính phủ và bước đầu đã làm tương đối tốt chức năng quản lý nhà nước của mình theo cơ chế "một cửa, tại chỗ". Ban quản lý KCN Nghệ An đã tích cực hướng dẫn hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp KCN có thể hoạt động hiệu quả, giảm chi phí tối đa. Ban đã giúp đỡ doanh nghiệp giải quyết nhiều khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai dự án, đã tổ chức các hoạt động đa dạng hỗ trợ doanh nghiệp được các nhà đầu tư ghi nhận như một đóng góp tích cực trong công cuộc cải cách hành chính, thúc đẩy đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước ở các KCN Nghệ An vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, yếu kém. Việc đổi mới Ban quản lý các KCN Nghệ An để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới là hết sức cần thiết. Đổi mới phải theo hướng gọn nhẹ, kiên trì nguyên tắc "một cửa, tại chỗ", tính độc lập cao, phân công nhiệm vụ rõ ràng, khả năng xử lý mau lẹ. Ban quản lý phải đủ trình độ và năng lực điều hành, quản lý những doanh nghiệp cùng với các sản phẩm đòi hỏi chất lượng cao của các ngành công nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Thời gian tới, cần tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước của các KCN Nghệ An. Vì đây là đối tượng quản lý nhà nước đặc biệt có tính đặc thù (ban quản lý KCN cấp tỉnh chỉ được thành lập ở tỉnh nào có đủ điều kiện, do thủ tướng chính phủ quyết định thành lập và bổ nhiệm trưởng ban). Cần gắn chặt hơn nữa sự chỉ đạo của UBND tỉnh và sự phối hợp của các ban, ngành với Ban quản lý KCN. Khi KCN có nhiều doanh nghiệp hoạt động thì cần tăng cường sự hỗ trợ, hướng dẫn của cấp trên. 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An 3.2.1. Cải thiện môi trường đầu tư 3.2.1.1. Tạo môi trường pháp lý thông thoáng Môi trường đầu tư vào các KCN tỉnh Nghệ An vẫn ít hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Một trong những rào cản ảnh hưởng đến môi trường đầu tư Nghệ An là môi trường pháp lý. Vì vậy, tỉnh cần xây dựng chiến lược và các lĩnh vực đầu tư vào các KCN một cách cụ thể hơn để các nhà đầu tư lựa chọn lĩnh vực và dự án đầu tư đúng theo định hướng phát triển KCN của tỉnh. Tiếp tục cụ thể hoá cơ chế chính sách của nhà nước, đưa ra những chính sách ưu đãi cụ thể đối với từng ngành, từng lĩnh vực, từng KCN nhằm tạo ra sức hấp dẫn các nhà đầu tư, phù hợp với điều kiện thực tế tại các KCN của tỉnh và có tính khả thi cao. Xây dựng cơ chế hỗ trợ cả về nhân lực và vật lực nhằm tạo ra "cú huých" thúc đẩy nội lực từ bên trong và tăng sức hấp dẫn thu hút đầu tư từ bên ngoài. Tỉnh cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung các chính sách ưu đãi đầu tư, cơ chế hỗ trợ cho các doanh nghiệp KCN để kích thích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường về năng lực tài chính cho doanh nghiệp để trước hết doanh nghiệp có thể tồn tại, đứng vững và thích nghi trong cơ chế thị trường, sau là tăng sức cạnh tranh. Các doanh nghiệp KCN cần được hỗ trợ trong việc thành lập mới, hỗ trợ một phần lãi suất vay vốn tín dụng, hỗ trợ đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp đạt chứng chỉ quản lý chất lượng ISO... Tỉnh cần ban hành cơ chế khuyến khích vận động và tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư trong nước nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vận động đầu tư và thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư vào các KCN. Có chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với các nhà đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng hoặc đầu tư theo hình thức BOT (hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao), tôn vinh khen thưởng cho các nhà đầu tư hoặc các tổ chức, cá nhân có công lao vận động được nguồn vốn đầu tư vào các KCN của tỉnh. Quy định chế độ ưu đãi khi nhà đầu tư đang thực hiện dự án đầu tư tại tỉnh mà vận động về cho tỉnh thêm dự án đầu tư khác. Quy định chế độ ưu đãi cho các doanh nghiệp tham gia hợp tác đầu tư với nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt ưu tiên trong việc vay vốn để tham gia liên doanh. 3.2.1.2. Xây dựng kết cấu hạ tầng Kinh nghiệm thực tiễn ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới cho thấy nơi nào có cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật tốt thì nơi đó có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và ngược lại. Vì vậy, tỉnh phải coi xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào các KCN như là điều kiện tiên quyết, bắt buộc không chỉ đối với đòi hỏi trước mắt mà cả lâu dài, không chỉ tạo tiền đề cho thu hút đầu tư mà cho sự phát triển vững chắc của các KCN. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào và ngoài hàng rào KCN đồng bộ, hoàn chỉnh, giá cả hợp lý càng đáp ứng được nhiều yêu cầu trước mắt và lâu dài để thực hiện dự án. Khó có nhà đầu tư nào dễ dàng chấp nhận trường hợp đã thuê đất rồi mà không có đường vào tiếp cận đất đã thuê hoặc đất được thuê vẫn còn thuộc sở hữu của người dân vì chưa được bồi thường giải toả hay phải chờ 6-8 tháng sau mới có mặt bằng và còn chưa kể đến điện, nước, bưu điện, nhà máy xử lý nước thải... cũng chưa sẵn sàng. Dù có chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư cao đến mức nào đi nữa, mà như vậy chỉ làm xấu thêm môi trường đầu tư. Tỉnh cần thực hiện đầu tư kết cấu hạ tầng trong KCN để phục vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh như kho tàng, bến bãi, điện, nước, xử lý chất thải, phòng chống cháy nổ, giao thông nội khu. Có thể nói, hệ thống kết cấu hạ tầng tại các KCN Nghệ An còn rất yếu kém. Ngoài KCN Bắc Vinh được đầu tư xây dựng khá tốt, các KCN còn lại kết cấu hạ hạ tầng chưa được đầu tư bao nhiêu, thường thì khi có dự án mới tiến hành giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng nên thời gian thực hiện dự án kéo dài. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này vẫn là thiếu vốn. Vì vậy, để giải quyết vấn đề này, tỉnh cần có những chính sách để huy động vốn đầu tư vào kết cấu hạ tầng KCN bằng nhiều nguồn như ngân sách trung ương, địa phương, vay ưu đãi, nguồn vốn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong đó, biện pháp quan trọng là kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước làm chủ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Hơn nữa, Nghệ An là tỉnh nghèo, nếu không có sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước thì giá thuê đất trong khu KCN sẽ rất cao so với bên ngoài khu, do đó sẽ rất khó thu hút đầu tư để lấp đầy các KCN này. Để có một giá thuê đất hợp lý, hấp dẫn, có khả năng cạnh tranh trong thu hút đầu tư, tỉnh cần có kiến nghị với trung ương có cơ chế hỗ trợ đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu tại các KCN. Các khoản hỗ trợ đầu tư này không thu hồi trực tiếp mà tạo tiền đề thu hút đầu tư. Ngoài hạ tầng trực tiếp phục vụ sản xuất, cần chú ý tới hạ tầng xã hội như khu vui chơi giải trí, nhà ở cho người lao động và chuyên gia, điều kiện khám, chữa bệnh cho người lao động... gần các KCN để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất tại KCN. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng như thông qua hợp đồng hợp tác liên doanh. Những nơi mà nhà đầu tư tự bỏ vốn xây dựng kết cấu hạ tầng thì có kế hoạch chi trả hoặc động viên thích đáng để đảm bảo quyền lợi cho họ. Trong hàng rào các KCN, tỉnh nên tập trung nguồn lực hoàn thiện hạ tầng từng KCN, tránh đầu tư dàn trải mà trước hết là hoàn thiện hạ tầng KCN Bắc Vinh, Nam Cấm và Cửa Lò. Tiện ích về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào KCN, đặc biệt là giao thông đường bộ, đường thuỷ, hàng hải, hàng không, phòng cháy, chữa cháy chuyên nghiệp...là các điều kiện cơ bản đảm bảo cho các dự án đầu tư sau khi hoàn thành công việc xây dựng, lắp đặt nhà máy được an toàn, hoạt động thông suốt, lâu dài và được sinh lợi. Sau khi nhà máy cho ra hàng loạt sản phẩm thì khâu phân phối lưu thông giữ vai trò quyết định. Vận chuyển hàng hoá đi tiêu thụ khắp nơi, quan hệ xuất nhập khẩu vât tư nguyên liệu, hàng hoá với nước ngoài, việc đi lại giao dịch của chuyên gia và nhà đầu tư... với thời gian và chi phí thấp nhất trở thành những đắn đo cân nhắc có tính chất sống còn của những dự án đầu tư. Hơn nữa còn có những nhu cầu về ăn ở, sinh hoạt của đông đảo công nhân và chuyên gia đang làm việc tại các KCN. Vì vậy, ngoài cố gắng của địa phương huy động vốn đầu tư xây dựng nhà ở, các công trình phúc lợi, dịch vụ... và xây dựng mới, nâng cấp, mở rộng các đường giao thông tại các khu đô thị liền kề ngoài hàng rào KCN thì cần tập trung mọi nỗ lực hỗ trợ của các ngành trung ương có liên quan đẩy mạnh đầu tư xây dựng, hoàn thành sớm nhất các công trình giao thông then chốt của tỉnh. Tỉnh cần tập trung đầu tư để hoàn thành mạng giao thông phục vụ nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế (cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không) đồng bộ và thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá giữa các vùng với cả nước và quốc tế. Kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào KCN tuy không phục vụ trực tiếp nhưng gián tiếp giúp các doanh nghiệp trong KCN nối liền với thị trường bên ngoài nên có vai trò rất quan trọng. Tỉnh cần tiếp tục nâng cấp các tuyến quốc lộ, xây dựng mới tuyến đường tây Nghệ An, đường vành đai phía tây quốc lộ 48, đường nối quốc lộ 48 với quốc lộ 45 Thanh Hoá, đường Xiêng Thù (Kỳ Sơn)- Yên Tĩnh (Tương Dương), đường Châu Thôn (Quế Phong)- Tân Xuân (Tân Kỳ) nối với đường Hồ Chí Minh. Xây dựng một số tuyến đường ngang nối với trục đường Hồ Chí Minh. Tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện các tuyến tỉnh lộ quan trọng và nâng cấp một số tuyến đường huyện lộ lên tỉnh lộ, xây dựng xong đường quốc lộ 7 nối quốc lộ 48. Nâng cấp và đồng bộ hoá giao thông nội thị, hoàn thành cơ bản giao thông nông thôn. Đẩy nhanh tốc độ nâng cấp và mở rộng cảng Cửa Lò để tàu có trọng tải từ 1- 1,5 vạn tấn có thể ra vào thuận lợi và nâng năng lực hàng hoá thông qua cảng khoảng 2 triệu tấn/năm. Gắn việc mở rộng và nâng cấp các tuyến đường ra vào cảng, xây thêm một số bến mới để nâng công suất cảng đạt khối lượng luân chuyển hàng hoá ngày càng lớn. Tiếp tục nâng cấp sân bay Vinh, tăng thêm các tuyến nội địa và mở thêm một số đường bay quốc tế. Mở rộng, nâng cấp quốc lộ 1A đoạn Vinh- Hoàng Mai, nghiên cứu khôi phục, nâng cấp, mở mới một số tuyến đường sắt phục vụ vận tải hàng hoá. Hoàn thành các nhà máy nước Vinh, Nam cấm, Cửa Lò. Phát triển các ngành dịch vụ, các ngành sản xuất phụ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN như dịch vụ tư vấn đào tạo, tư vấn pháp luật, bưu chính viễn thông, hệ thống điện, các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp trong KCN và dịch vụ sửa chữa, bảo hiểm, ngân hàng, phòng cháy chữa cháy. Để tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư, nhà nước cần tập trung vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN. Bổ sung nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để đầu tư đảm bảo đến năm 2010 thực hiện xong việc san lấp và giải phóng mặt bằng, hoàn thành các hạng mục công trình hạ tầng chủ yếu để bàn giao cho doanh nghiệp đã được cấp phép đầu tư, nâng mức tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển hạ tầng KCN trong cơ cấu chi ngân sách nhà nước. 3.2.1.3. Cải cách thủ tục hành chính Nhà nước ta coi cải cách hành chính là bước đột phá để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội. Theo đó, ngày 17/9/2001 thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 136/QĐ- TTg phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010 tạo cơ sở để thực hiện công tác cải cách hành chính một cách đồng bộ và nhất quán. Trong đó có việc đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tăng cường năng lực các cơ quan hành chính nhà nước; đảm bảo việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh; cung cấp thông tin đầy đủ về chính sách, pháp luật của nhà nước cho mọi người, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và giữ gìn kỷ cương xã hội. Tiếp tục cải cách các thủ tục hành chính, ban hành cơ chế kiểm tra đánh giá cán bộ công chức, viên chức trong việc tiếp nhận và giải quyết công việc của dân và doanh nghiệp; mở rộng thực hiện cơ chế "một cửa", quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm cá nhân khi thi hành công vụ. Cải cách bộ máy hành chính thông qua điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ trong các cơ quan hành chính cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới. Ban hành và áp dụng các quy định mới về phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương, nâng cao thẩm quyền và trách của chính quyền địa phương, gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính,tổ chức và cán bộ. Cải cách bộ máy chính quyền địa phương, phương thức quản lý và lề lối làm việc của các cơ quan hành chính các cấp. Theo tinh thần đó, tỉnh Nghệ An cần đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo thuận lợi và giảm chi phí cho hoạt động của các nhà đầu tư khi vào các KCN từ đó thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư. Trong thời gian tới, cần tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa Ban quản lý các KCN với UBND tỉnh và các sở, ban, ngành có liên quan; phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan trực tiếp đến đầu tư vào các KCN. Thực hiện chế độ giao ban định kỳ giữa các cơ quan quản lý có liên quan, duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa Ban quản lý các KCN với các nhà đầu tư để kịp thời xử lý những vướng mắc phát sinh do thủ tục hành chính gây ra. Tỉnh cần tiếp tục cải tiến mạnh mẽ thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động thu hút đầu tư vào các KCN theo hướng đơn giản hoá các hình thức và thủ tục cấp phép đầu tư, mở rộng việc cho phép áp dụng hình thức đăng ký đầu tư đối với các dự án trong danh mục cần khuyến khích đầu tư, tăng tính tự giác và tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư. Kiên quyết bãi bỏ những quy định không cần thiết hoặc làm cản trở đến hoạt động đầu tư vào các KCN. Tỉnh cần quy định rõ ràng công khai hơn các thủ tục hành chính trên cơ sở đã đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục không cần thiết. Kiên quyết xử lý nghiêm khắc những trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực, vô trách nhiệm của các cán bộ có liên quan đến hoạt động đầu tư vào KCN. Mọi vi phạm, không thực hiện nghiêm túc những quy định, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước và của tỉnh đều phải làm rõ trách nhiệm theo quy định của pháp luật, không loại trừ người đó ở cương vị nào. Thủ tục hành chính là vấn đề các nhà đầu tư rất quan tâm vì nó liên quan đến chi phí và cơ hội đầu tư. Vấn đề trọng yếu nhất của thủ tục hành chính của tỉnh Nghệ An hiện nay tập trung ở tư tưởng, trình độ và trách nhiệm của đội ngũ những người thực hiện chính sách. Hiện nay, các khâu giải quyết các thủ tục đầu tư và vướng mắc trong quá trình đầu tư còn quá nhiều cửa, phân tán, chồng chéo và tỏ ra kém hiệu quả, nguyên nhân cơ bản vẫn là do còn quá nhiều đầu mối. Để thực hiện tốt hơn việc thu hút đầu tư vào các KCN, tỉnh Nghệ An cần tiến hành cải cách quản lý nhà nước trong cấp phép đầu tư, tăng cường hơn nữa thủ tục một cửa để các nhà đầu tư nhanh chóng triển khai dự án. Cần thu gọn các thủ tục đầu tư vào các KCN về một đầu mối là Ban quản lý các khu công nghiệp. Đây là nơi chịu trách nhiệm giải quyết các trình tự, thủ tục cấp phép cũng như cung cấp thông tin liên quan đến đầu tư vào các KCN. Khi nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đàu tư vào KCN, chỉ cần đến Ban quản lý là có được những thông tin từ kinh tế đến kỹ thuật, được trả lời những vấn đề chưa rõ và có sự hướng dẫn cụ thể. Khi nhà đầu tư xin được đầu tư thì thủ tục phải nhanh gọn, từ khâu thẩm định đến cấp phép dự án, cho thuê đất, đền bù giải phóng mặt bằng, thực thi các chính sách ưu đãi. Trong quá trình đầu tư, có những vướng mắc phát sinh thì Ban quản lý cùng với nhà đầu tư bàn bạc và tìm mọi biện pháp để nhanh chóng tháo gỡ, như vậy vừa làm cho các nhà đầu tư có thể mở rộng đầu tư và thu hút các nhà đầu tư mới. 3.2.1.4. Hoàn thiện chính sách liên quan đến thu hút đầu tư Môi trường đầu tư của Nghệ An còn thiếu sức cạnh tranh, khả năng thu hút đầu tư nước ngoài còn yếu, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Một trong những yêu cầu cần thiết là hoàn thiện các chính sách liên quan đến thu hút đầu tư. Thời gian qua, tỉnh đã ban hành chính sách ưu đãi đầu tư vào KCN, có chính sách cụ thể cho từng KCN. Tuy nhiên, hiện nay cần phải xem xét, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Chính sách đất đai phải hướng tới tạo thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư, nhất là việc triển khai các dự án sản xuất kinh doanh. Có thể miễn, giảm tiền thuê đất trong một thời gian nhất định, tiền thuê đất phải rẻ hơn các khu công nghệ cao, có chính sách cho thuê đất dài hạn (20-50 năm). Đặc biệt, cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong giải phóng mặt bằng. Các cấp chính quyền có trách nhiệm đẩy nhanh tốc độ giải phóng mặt bằng, giải quyết dứt điểm việc đền bù để triển khai dự án đúng tiến độ. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài thuê đất để xây dựng kết cấu hạ tầng các KCN để cho nhà đầu tư thứ cấp thuê lại. Có chính sách ưu đãi về thuế phù hợp với quy định của pháp luật theo hướng tạo ra sự thông thoáng cho nhà đầu tư. Giảm mức thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam và người nước ngoài đang làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có chính sách thuế khuyến khích sản xuất phụ tùng, linh kiện, tiến tới xây dựng được ngành công nghiệp sản xuất nguyên chiếc. Cải tiến hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư theo hướng phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Các chính sách thuế phải khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi hơn để các doanh nghiệp hướng mạnh vào xuất khẩu, áp dụng công nghệ hiện đại. Giảm thuế suất nhập khẩu đối với các bán thành phẩm, linh kiện, chi tiết để sản xuất và lắp ráp nhằm khuyến khích sản phẩm nội địa hoá. Có các quy định cụ thể về thuê và tuyển dụng lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp KCN trực tiếp chủ động tuyển chọn, thuê và sử dụng lao động. Có chính sách, cơ chế phù hợp để các nhà đầu tư có điều kiện vay vốn thuận lợi, đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn trong nước và thị trường vốn nước ngoài, khai thông các giao dịch bảo đảm (bảo lãnh, thế chấp...). Để tạo sức hút các thành phần kinh tế đầu tư vào các KCN, cần có chính sách tạo vốn thông qua tín dụng ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận các khoản vay ưu đãi, dài hạn. Tỉnh cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KCN khi vay vốn ở các ngân hàng thương mại nhà nước trên địa bàn tỉnh, có chính sách hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp KCN trong thời gian đầu mới thành lập. Ưu đãi đầu tư không chỉ đối với các nhà đầu tư vào hạ tầng của KCN, mà còn phải có chính sách ưu đãi đầu tư đối với doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh ở KCN tuỳ vào đặc điểm ngành kinh doanh có được ưu tiên hay không mà có chính sách hỗ trợ ưu đãi phù hợp. 3.2.2. Đẩy mạnh hoạt động vận động xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp Hiện nay, nhiệm vụ xúc tiến đầu tư vào các KCN ở các địa phương do địa phương tự đảm nhận. Thực tế cho thấy, tỷ lệ lấp đầy ở các KCN địa phương tỷ lệ thuận với công tác xúc tiến đầu tư vào các KCN ở địa phương đó. ở Nghệ An, vận động xúc tiến đầu tư vào KCN được giao cho trung tâm xúc tiến đầu tư Nghệ An và Ban quản lý các KCN Nghệ An. Thời gian qua, trung tâm xúc tiến đầu tư Nghệ An đã tham mưu cho UBND tỉnh lập danh mục dự án, các lĩnh vực và địa bàn ưu tiên đầu tư để kêu gọi đầu tư. Tổ chức quảng bá giới thiệu tiềm năng, các cơ hội đầu tư và các cơ chế chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư của tỉnh khi đầu tư vào các KCN. Hoạt động này được thực hiện bằng các ấn phẩm, trang tin điện tử và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư trong nước nhằm tiếp cận với các nhà đầu tư, tích cực quan hệ với các công ty tư vấn trong nước để xúc tiến đầu tư. Ban quản lý các KCN Nghệ An đã thông qua các mối quan hệ cá nhân và tổ chức trong tỉnh để mời gọi đầu tư, ban đã thiết lập website với địa chỉ www.naniza.org.vn để cung cấp thông tin về các KCN đến với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, công tác xúc tiến đầu tư vào các KCN Nghệ An hiện nay còn rất hạn chế và kém chuyên nghiệp. Hầu hết các hoạt động xúc tiến đầu tư hiện đang được tiến hành gồm tài liệu giới thiệu chung về đầu tư, chính sách ưu đãi chung và ưu đãi đặc thù của tỉnh, danh mục ngành nghề, dự án kêu gọi đầu tư, trang thông tin điện tử website, tổ chức các cuộc tiếp xúc, tìm hiểu thị trường đối tác đầu tư trong và ngoài nước, tổ chức các cuộc giao ban định kỳ với sự có mặt của các sở, ban, ngành và các nhà đầu tư; các phương tiện xúc tiến đầu tư khác như CD Rom, video... Song những hoạt động này mới chỉ làm được ở mức cho có lệ mang tính hình thức. Công tác xúc tiến đầu tư chưa được xây dựng có hệ thống, chủ yếu mang tính thời vụ và đặc biệt chưa có nguồn kinh phí ổn định, lâu dài để duy trì các hoạt động. Trong khi đó, hoạt động theo dõi, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho các đối tác tiềm năng còn nhiều hạn chế. Kinh phí xúc tiến đầu tư vào các KCN hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của UBND tỉnh về tầm quan trọng của công tác này. Hơn nữa đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự chuyên nghiệp, chưa đủ trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó, sự phối hợp trong công tác vận động thu hút đầu tư giữa các cơ quan ban ngành trong tỉnh vẫn chưa được thực hiện đồng bộ. Nghệ An muốn nâng cao vai trò hoạt động vận xúc tiến đầu tư vào KCN cần thực hiện rất nhiều công việc. Thứ nhất, đổi mới về nội dung và phương thức vận động xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp với từng KCN, từng loại hình doanh nghiệp đầu tư vào KCN. Thứ hai, cần tổ chức xây dựng và thiết lập mạng thông tin từ Ban quản lý KCN Nghệ An với Bộ Kế hoạch và đầu tư, các sở, ban, ngành có liên quan trong tỉnh, các KCN khác trong cả nước, các bộ ngành trung ương để cập nhật, trao đổi thông tin phục vụ hoạt động thu hút đầu tư. Thứ ba, thường xuyên tổ chức đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư tại Ban quản lý các KCN Nghệ An và trung tâm xúc tiến đầu tư Nghệ An. Thứ tư, tổ chức các chuyến đi khảo sát, học tập, trao đổi kinh nghiệm xúc tiến đầu tư vào KCN ở các tỉnh và nước ngoài. Trước mắt, tỉnh Nghệ An cần chủ động bố trí kinh phí và tổ chức vận động xúc tiến đầu tư qua trung tâm xúc tiến đầu tư và Ban quản lý các KCN. 3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp Nguồn nhân lực cho KCN bao gồm cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân có tay nghề cao. Việc đào tạo nguồn nhân lực giữ vị trí rất quan trọng trong quá trình phát triển các KCN, góp phần vào sự nghiệp CNH, HĐH. Đối với Nghệ An, đào tạo nguồn nhân lực vừa cấp bách vừa lâu dài. Đào tạo nghề phải tăng nhanh cả về quy mô, chất lượng hiệu quả và tạo ra cơ cấu lao động hợp lý cho các thời kỳ phát triển công nghiệp, ưu tiên đào tạo trước mắt cho các ngành then chốt. Tỉnh cần đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá công tác đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn lực, đa dạng hoá các loại hình đào tạo nghề, các loại hình trường lớp và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người lao động có cơ hội học nghề, tìm kiếm việc làm tại các KCN. Cần có sự quan tâm, hỗ trợ bằng chính sách cụ thể của tỉnh để phát hiện, thu hút đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ kỹ thuật đầu ngành. Hàng năm, tỉnh cần có ngân sách hỗ trợ, gửi con em đi đào tạo ở những trung tâm có chất lượng cao trong và ngoài nước về phục vụ ở các KCN. Phối hợp với các cơ sở đào tạo để khuyến khích con em Nghệ An học lực tốt sau khi ra trường trở về quê hương công tác. Có chính sách tiếp nhận và hỗ trợ người lao động đã được đào tạo một cách thoả đáng. Bên cạnh đó, tỉnh cần có chính sách bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định chính sách, am hiểu luật pháp, tinh thông nghiệp vụ, có trình độ tin học, ngoại ngữ tốt để phục vụ cho các dự án đầu tư nước ngoài. Với sự hỗ trợ của ngân sách, nguồn quỹ khuyến công hàng năm cũng cần có các chương trình đào tạo khởi sự doanh nghiệp để giúp đỡ con em trong tỉnh muốn thành lập doanh nghiệp để kinh doanh và làm giàu chính đáng. Tỉnh cần xây dựng đề án quy hoạch mạng lưới dạy nghề đến năm 2015. Theo đó, đề án cần vạch ra mục tiêu là phấn đấu đến năm 2015 xây dựng được 2 hệ thống dạy nghề hoàn chỉnh: hệ thống dạy nghề đại trà (gồm các trung tâm dịch vụ việc làm, trường dạy nghề dân lập, trung tâm dạy nghề của các đoàn thể, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp) và hệ thống trường, trung tâm dạy nghề chất lượng cao. Từ 2 hệ thống đào tạo này sẽ tăng cơ hội học nghề cho các mọi đối tượng có nhu cầu, từ đó tỉnh sẽ từng bước phổ cập nghề, đào tạo được nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cung ứng cho thị trường lao động, chủ yếu là các KCN. Mặc dù những năm gần đây, các KCN Nghệ An chưa có nhu cầu cao về lao động vì số doanh nghiệp KCN ít nhưng về sau này khi các KCN được lấp đầy việc thiếu hụt nguồn lao dộng sẽ xảy ra nếu không có sự chú ý chuẩn bị trước như một số tỉnh đã vấp phải (Đồng Nai, Bình Dương). Để đạt được yêu cầu về lao động cho các KCN trong thời gian tới, Nghệ An cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: - Củng cố và nâng cấp các trường dạy nghề trọng điểm của tỉnh. Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường kỹ thuật, dạy nghề của tỉnh như trường kỹ thuật Việt- Hàn, trường kỹ thuật Việt- Đức, trường dạy nghề số 1, trường đại học sư phạm kỹ thuật Nghệ An, các trung tâm dạy nghề và tiếp tục mở rộng các trung tâm đào tạo khác. - Đa dạng hoá các hình thức đào tạo nghề để đáp ứng mọi nhu cầu của mọi tầng lớp trong xã hội. Khuyến khích các hình thức liên kết, liên doanh trong đào tạo nghề, thiết lập và tăng cường mỗi quan hệ chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo nghề với doanh nghiệp, giữa đào tạo nghề và các cấp học, bậc học khác. Đảm bảo không lãng phí tiền của và sức lực của người học nghề. Thực hiện phương châm "gắn đào tạo nghề theo nhu cầu và địa chỉ sử dụng". Có thể xây dựng các trường đào tạo nghề chịu sự lãnh đạo của Ban quản lý các KCN, có sự tham gia của các doanh nghiệp KCN dưới dạng góp vốn bằng tiền và cơ sở vật chất kỹ thuật. Các kỹ sư, chuyên viên giỏi của các doanh nghiệp KCN có thể tham gia giảng dạy để đào tạo chuyên gia, công nhân theo địa chỉ, theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp. Ban quản lý các KCN cần chủ động liên kết với các cơ sở đào tạo để giúp đỡ việc tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp. Điều này cho phép nâng cao chất lượng lao động, tạo điều kiện cho công nhân gắn kết hơn với doanh nghiệp. Trong những năm tới, các ngành nghề đào tạo mà các KCN của tỉnh cần là cơ khí chế tạo máy, điện tử, tin học, may mặc, sản xuất giấy, hoá chất, da giày, chế biến nông sản và sản xuất vật liệu xây dựng. 3.2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư vào khu công nghiệp Đây là một giải pháp rất quan trọng nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các KCN. Tỉnh cần thực hiện phân công, phân cấp cho các ngành, các cấp để xử lý trước, trong và sau khi cấp giấy phép đầu tư, tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành để kiểm tra, giám sát việc đầu tư các dự án vào các KCN trên địa bàn tỉnh. Ban quản lý các KCN Nghệ An là cơ quan quản lý trực tiếp các KCN. Ban quản lý KCN Nghệ An được thành lập tại quyết định số 107/1999/QĐ-TTg ngày 23/4/1999 của thủ tướng chính phủ. Với chức năng nhiệm vụ được quy định tại quyết định số 122/2001/UBND ngày 20/12/2001 của UBND tỉnh Nghệ An. Ban quản lý các KCN đảm nhận việc trợ giúp miễn phí các nhà đầu tư trong và ngoài nước hình thành dự án đầu tư vào KCN; tiếp nhận thẩm định hồ sơ, dự án, cấp, điều chỉnh và thu hồi giấy phép đầu tư, quyết định phê duyệt dự án, chấp thuận dự án đầu tư, tổ chức thực hiện dự án đầu tư và quản lý hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Bộ máy tổ chức của Ban quản lý các KCN Nghệ An gồm có 1 trưởng ban, 2 phó ban, 4 phòng và công ty phát triển KCN Nghệ An . Văn phòng Ban là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Ban quản lý các KCN, giúp trưởng ban điều hành các hoạt động của Ban quản lý đảm bảo đồng bộ, liên tục và hiệu quả. Văn phòng thực hiện các nội dung công tác là tổng hợp, hành chính quản trị, tổ chức cán bộ và tài vụ của cơ quan. Phòng quản lý đầu tư và xuất khập khẩu có chức năng chủ yếu là tham mưu, giúp trưởng ban trong lĩnh vực vận động thu hút đầu tư, tiếp nhận và thẩm định hồ sơ dự án, cấp điều chỉnh, thu hồi giấy phép đầu tư, quản lý các dự án đầu tư trong quá trình xây dựng cơ bản để hình thành doanh nghiệp, cùng với phòng quy hoạch môi trường đề xuất, lập hồ sơ các dự án ngoài hàng rào KCN. Phòng quản lý quy hoạch và môi trường có chức năng tham mưu cho lãnh đạo ban trong việc quản lý quy hoạch, xây dựng và môi trường ở các KCN. Phòng quản lý doanh nghiệp và lao động có chức năng chính là tham mưu cho lãnh đạo ban trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp và việc thực hiện bộ luật lao động trong các KCN, theo dõi và quản lý các công ty hạ tầng; đề xuất với lãnh đạo những giải pháp hỗ trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp KCN. Công ty phát triển KCN Nghệ An được thành lập tại quyết định số 297/QĐ.UB- TTCQ ngày 17/01/2003, là đơn vị trực thuộc Ban quản lý các KCN Nghệ An, hoạt động theo hình thức sự nghiệp kinh tế có thu, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Nhiệm vụ của công ty phát triển KCN Nghệ An thực hiện theo quy định tại điều 14, nghị định 36/CP ngày 24/7/1997 của chính phủ về việc ban hành quy chế KCN, KCX và khu công nghệ cao. Trọng tâm nhất là nhiệm vụ huy động các nguồn vốn để xây dựng hạ tầng các KCN, thu hút các nhà đầu tư vào thuê đất để xây dựng nhà máy. Ban quản lý các KCN cần có quan điểm "coi khó khăn của các doanh nghiệp là khó khăn của chính mình", đồng hành, sát cánh cùng doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, giải quyết các vướng mắc. Mọi cơ chế, chính sách hoàn thiện để quản lý hoạt động của ban phải trên tinh thần vì doanh nghiệp. Vì vậy ban có thể xây dựng mạng thông tin nội bộ và nối mạng vi tính với các KCN, thành lập, khuyến khích các tổ chức ngành nghề hoạt động như hiệp hội các doanh nghiệp KCN để sinh hoạt trao đổi, tìm kiếm thị trường. Ban chủ động thay đổi cơ chế hoạt động để phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ban cần bố trí lại cơ cấu nhân sự cho phù hợp với yêu cầu công việc trong điều kiện mới. Bố trí đại diện Ban quản lý ở các KCN nhằm gắn hoạt động của Ban quản lý với cơ sở, tiếp nhận thông tin, theo dõi tình hình, thay mặt Ban quản lý giải quyết những vấn đề đột xuất và cấp bách trong phạm vi cho phép, giảm bớt khối lượng tác nghiệp tại trụ sở chính của Ban quản lý để nâng cao năng lực nghiên cứu, tham mưu của phòng nghiệp vụ và cũng là giúp các nhà đầu tư tiết kiệm thời gian, tiền bạc... Ban quản lý chủ động triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp với các cơ quan quản lý, các tổ chức xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước. Hoàn thiện mối quan hệ Ban quản lý các KCN Nghệ An với các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Việc hoàn thiện mối quan hệ này nhằm giúp ban giải quyết nhanh gọn các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của các KCN. Ban cần đưa ra những quy chế phối hợp với công an tỉnh, ngân hàng nhà nước tỉnh, cục thuế, công ty điện lực, sở y tế, bưu điện tỉnh, hải quan tỉnh, sở kế hoạch và đầu tư, sở công nghiệp, sở giao thông vận tải, sở khoa học công nghệ, sở tài nguyên và môi trường và chính quyền các địa phương có KCN bao gồm Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Cửa Lò, Nghĩa Đàn. Trong các quy chế này, cần định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ cụ thể trong việc giải quyết những vấn đề phát sinh sao cho không bị chồng chéo mà nhanh gọn, dứt điểm. Sau mỗi năm thực hiện, Ban quản lý cần chủ động tổ chức các hội nghị rút kinh nghiệm, lắng nghe ý kiến đóng góp của các ban, ngành và sửa đổi, bổ sung thường xuyên các quy chế này cho phù hợp với từng thời kỳ. Trong mối quan hệ với các doanh nghiệp KCN, Ban quản lý cần thực hiện tốt hơn nữa việc theo dõi và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền giải quyết dứt điểm việc đền bù, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất cho KCN nhằm tạo điều kiện cho các công ty hạ tầng KCN đẩy nhanh tiến độ xây dựng để giao đất cho các dự án. Ban cần xây dựng đề án tổng thể về quản lý môi trường ở các KCN. Có thực hiện tốt những vấn đề ấy, các KCN Nghệ An mới có thể thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư đến kinh doanh. 3.2.5. Quy hoạch các khu công nghiệp Có thể nói, quy hoạch các KCN có ảnh hưởng lớn đến thu hút đầu tư. Việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nhằm làm cho các KCN phù hợp hơn với yêu cầu tình hình mới. Định hướng xây dựng các KCN phải phù hợp với quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết của tỉnh. Trước hết, quy hoạch KCN phải trên cơ sở nhận thức đầy đủ Nghệ An là một tỉnh trung tâm của vùng Bắc Trung bộ. Do đó, ngay từ đầu việc xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch phải thể hiện sự nhất quán, có tính khoa học cao. Khi quy hoạch phát triển công nghiệp nói chung và các KCN nói riêng, phải chú ý đến quy hoạch tổng thể và yêu cầu nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường. Quy hoạch phát triển các KCN phải gắn với xu thế đô thị hoá tất yếu của các vùng nông thôn ven thành phố Vinh, thị trấn Hoàng Mai, thị trấn Nghĩa Đàn và thị xã Cửa Lò. Trong tương lai, các thị trấn Hoàng Mai, Nghĩa Đàn sẽ trở thành thị xã. Vì vậy cần có định hướng hoặc đồng thời quy hoạch ưu tiên phát triển trước kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, khu dân cư đô thị mới liền kề ngoài hàng rào KCN. Tạo điều kiện khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ đời sống vật chất, tinh thần của người lao động và hoạt động của các doanh nghiệp KCN. Cụ thể như cơ sở dạy nghề, nhà ở cho công nhân và chuyên gia, cửa hàng thực phẩm, bách hoá, trạm y tế, nhà trẻ, công trình phúc lợi, vui chơi giải trí và các dịch vụ cần thiết khác. Như vậy, khi duyệt dự án quy hoạch một KCN cần phải xem xét về nhiều mặt như quy hoạch diện tích đủ để xây dựng kết cấu hạ tầng, khu nhà ở cho chuyên gia, nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp, hệ thống xử lý nước thải và các dịch vụ khác kèm theo. Việc kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch KCN với quy hoạch khu đô thị, khu dân cư và các dịch vụ phục vụ là hết sức cần thiết. Nó cho phép chính quyền địa phương tăng thêm nguồn tài chính do có thể khai thác quỹ đất và các lợi ích khác từ sự phát triển KCN. Quy hoạch khu đô thị, khu dân cư, khu dịch vụ không nhất thiết đi liền với từng KCN mà có thể liên kết phục vụ cho nhiều KCN trên cùng địa bàn. Việc quy hoạch đầu tư phát triển hạ tầng KCN chủ yếu do công ty kinh doanh hạ tầng KCN thực hiện. Tuy nhiên tỉnh cũng cần xem xét các chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển hạ tầng, nhất là cơ chế tạo vốn. Như việc miễn giảm tiền thuê đất, hỗ trợ vốn vay ưu đãi, nới lỏng điều kiện vay, khuyến khích các công ty chủ động huy động vốn từ nhiều kênh khác nhau. Từ đó, doanh nghiệp giảm tối đa mức phí sử dụng hạ tầng KCN. Khi điều kiện tài chính cho phép, tỉnh trực tiếp tham gia đầu tư hạ tầng KCN bằng vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhằm chủ động trong việc gọi vốn và thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư vào KCN. Song song với việc đầu tư xây dựng hạ tầng KCN, cần phải khuyến khích các thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp đầu tư hạ tầng KCN đầu tư phát triển khu dân cư theo quy hoạch. Chú trọng các dự án phục vụ người thu nhập thấp, nhà ở cho công nhân thuê, các dịch vụ phục vụ KCN. Cần có định hướng xây dựng KCN miền núi và các huyện nông thôn, tránh tình trạng phân bố không đồng đều và sự nhập cư quá đông của lao động ngoại thành vào các khu đô thị. Quy hoạch các KCN cần kết hợp nhiều yếu tố để đảm bảo tính khả thi khi xây dựng. Trong điều kiện ngân sách hạn chế, KCN nên quy hoạch ở những vùng đất hoang hoá, rộng lớn, thưa thớt dân cư để vừa ít tốn ngân sách đền bù, giải phóng mặt bằng, vừa tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Quy hoạch KCN phải gắn chặt với việc bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy, nếu sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường thì hiệu quả của sản xuất nhiều khi không bù đắp được tác hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thông giao thông, hệ thống dịch vụ phục vụ KCN một cách khoa học. KCN Nam Cấm nằm trên vùng đất hoang hoá, sản xuất nông nghiệp không có hiệu quả, dân cư thưa thớt nên việc đền bù, giải phóng mặt bằng có nhiều thuận lợi. KCN Bắc Vinh nằm trong thành phố Vinh nên việc giải phóng mặt bằng, đền bù, giải toả hết sức khó khăn cả về phía nhà đầu tư và người dân trong vùng quy hoạch. Vì vậy, cần mở rộng diện tích KCN Nam Cấm, ổn định diện tích quy hoạch KCN Bắc Vinh mới có thể dồn vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng. Hạn chế mở rộng KCN Cửa Lò vì nó có thể ảnh hưởng xấu đến khu du lịch biển. KCN Phủ Quỳ và Hoàng Mai nằm trên vùng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả nên cần xem xét lại về quy mô diện tích và địa điểm quy hoạch. Kết luận chương 3 Mục tiêu phát triển các KCN Nghệ An đến năm 2010 là nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp KCN đồng thời lấp đầy diện tích các KCN Bắc Vinh, Nam Cấm, Cửa Lò và 50% KCN Phủ Quỳ. Muốn đạt mục tiêu ấy, tỉnh cần khai thác tối đa mọi nguồn vốn để đầu tư vào KCN. Trong quá trình thu hút đầu tư, cần đa dạng hoá các hình thức thu hút. Bên cạnh việc tạo môi trường đầu tư thuận lợi, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để tạo sức mạnh tổng hợp. Thu hút đầu tư cần có sự cân nhắc lựa chọn dự án. Không vì mục tiêu lấp đầy KCN mà tiếp nhận nhiều dự án quy mô nhỏ, manh mún, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, tiếp nhận những dự án lớn mà chủ đầu tư không đủ trình độ và năng lực để thực hiện dự án. Vì vậy, việc thu hút đầu tư phải gắn với quản lý các KCN. Có như vậy các KCN mới phát triển ổn định bền vững. Để thu hút tối đa nguồn vốn trong nước, đồng thời tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thích hợp. Đó là tạo môi trường pháp lý thông thoáng, xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN đồng bộ, cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện chính sách liên quan đến thu hút đầu tư. Tỉnh cần đẩy mạnh hoạt động vận động xúc tiến đầu tư vào KCN, kết hợp đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp KCN. Cuối cùng, tỉnh cần kiện toàn và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư vào KCN. Thực hiện tốt những giải pháp ấy nhất định các KCN Nghệ An sẽ ngày càng phát triển, là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Kết luận Thu hút đầu tư vào các KCN nhằm khai thác tốt nhất mọi nguồn lực và những lợi thế hiện có, nâng cao sức cạnh tranh và đẩy nhanh tốc độ phát triển chung của nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững. Đây chính là bước thể hiện tối ưu ý tưởng "đi tắt, đón đầu"trong thời đại ngày nay. Các KCN đang ngày càng tỏ rõ ưu thế không thể thay thế trên con đường CNH, HĐH đất nước. KCN góp phần tạo ra một lượng hàng hoá xuất khẩu và tiêu dùng có giá trị kinh tế cao, giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ những người lao động, hạn chế tối đa ô nhiễm môi trường. KCN là nơi tiếp thu công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua phát triển các KCN mà kết cấu hạ tầng cả về kinh tế và xã hội nhanh chóng được hình thành. Thu hút đầu tư vào KCN, chúng ta sẽ có được một thế hệ những người lao động mới, bản lĩnh, năng động, sáng tạo. Họ là lực lượng tiên phong trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào các ngành kinh tế mũi nhọn. ở Nghệ An, các KCN đã được hình thành và đang tích cực mời gọi đầu tư, tuy nhiên, việc thu hút đầu tư vào các KCN Nghệ An đang phải đối mặt với với nhiều khó khăn thách thức. Những khó khăn này bao gồm cả về phía tỉnh và về phía doanh nghiệp. Trong thời gian tới, để làm cho Nghệ An trở thành một điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư, tỉnh cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện các cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư, đẩy mạnh vận động xúc tiến đầu tư và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các KCN. Trong đó cần chú trọng giải pháp cải thiện môi trường đầu tư. Với sự nổ lực của tỉnh, của Ban quản lý các KCN và sự hỗ trợ của trung ương hy vọng rằng trong những năm tới tình hình đầu tư vào các KCN ở Nghệ An sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Danh mục Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Bá (2005), "Các khu công nghiệp ở Nghệ An sẵn sàng đón nhận các nhà đầu tư", Tạp chí Kinh tế và dự báo (8). 2. Ban Quản lý các khu công nghiệp Nghệ An (2006), Báo cáo tình hình phát triển khu công nghiệp Nghệ An năm 2005. 3. Ban Quản lý các KCN Nghệ An (2006), Báo cáo tình hình phát triển KCN Nghệ An 6 tháng đầu năm 2006. 4. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ban kinh tế trung ương, Tạp chí Cộng sản, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2004), Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học (11/2004). 5. Bộ môn Kinh tế đầu tư- Đại học Kinh tế quốc dân (1998), Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nxb Giáo dục. 6. Nguyễn Văn Chất (2005), "Nghệ An tích cực cải thiện môi trường đầu tư khuyến khích phát triển", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (8). 7. Nguyễn Ngọc Dũng (2005), "Khu công nghiệp ở Việt Nam và vấn đề nhà ở cho công nhân thuê", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (6). 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Duy Đông (2004), "Quy hoạch khu công nghiệp còn quá yếu", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, (17). 11. Duy Đông (2004) "Bao giờ giấc mơ khu công nghiệp trở thành hiện thực", Tạp chí Kinh tế châu á thái Bình Dương. (9) 12. Duy Đông (2004), "Xúc tiến đầu tư vào khu công nghiệp bao giờ được chuyên nghiệp", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, (11). 13. Duy Đông (2004), "Các khu công nghiệp miền Bắc và Bắc Trung bộ: Sức hút đầu tư kém", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, (12,13) 14. Ngân Hà (2005), "Bình Dương trải chiếu hoa...", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, (47). 15. Anh Hào (2004), "Đồng Nai tăng cường cải cách hành chính để mời gọi đầu tư", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, (29). 16. Lê Văn Học (2005), "thành tựu và kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp Bình Dương", Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam (60), tr.9. 17. Nguyễn Mạnh Hùng (2004), "Một số vấn đề về quản lý và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất", Tạp chí Kinh tế và dự báo (6). 18. Như Hùng (2005), "Tác động của các khu công nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế ở Đồng Nai", Tạp chí Cộng sản (15). 19. Quốc Huy (2005), " Hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất 10 tháng đầu năm 2005", Tạp chí khu công nghiệp Việt Nam, (62), tr.16. 20. Trần Ngọc Hưng (2002), "Một số vấn đề về hoàn chỉnh quy hoạch phát triển khu công nghiệp thời kỳ 2001- 2005", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (4). 21. Ngô Hướng (2004), "Các khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Cộng sản, (17). 22. Trần Xuân Kiên (1998), Chiến lược huy động và sử dụng vốn trong nước cho phát triển nền công nghiệp Việt Nam, Nxb Lao động. 23. Nguyễn Ký- Vũ Cân (2005), "Cải thiện môi trường đầu tư và phát triển doanh nghiệp ở Bình Dương", Tạp chí Cộng sản (13). 24. Nghị định 36/CP của chính phủ (1997), Về quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. 25. Nghị định 192/CP của chính phủ (1994), Về quy chế khu công nghiệp. 26. Lê Hữu Nghĩa (2004), "Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất các tỉnh, thành phố phía Bắc- những vấn đề lý luận và thực tiễn", Tạp chí Cộng sản (14). 27. Vũ Văn Phúc- Trần Thị Minh Châu (2004), "Các KCN tập trung và vai trò của nó trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam", Tạp chí kinh tế châu á- Thái Bình Dương (12,13,14). 28. Đinh Văn Phượng (2000), Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế miền núí phía Bắc nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Kinh tế Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 29. Sở Kế hoạch và đầu tư Nghệ An (2003), Danh mục các dự án kêu gọi vốn đầu tư tỉnh Nghệ An 2003-2005. 30. Sở Kế hoạch và đầu tư Nghệ An (2005), Danh mục các dự án kêu gọi vốn đầu tư tỉnh Nghệ An 2005-2010 31. Nguyễn Khắc Thanh (2005), "Xây dựng và phát triển khu công nghiệp Đồng Nai, những thành tựu và kinh nghiệm bước đầu", Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam (62), tr. 12. 32. Quyền Thành (2006), "Các tỉnh "xé rào" ưu đãi đầu tư : "thủng" ngân sách vì hứa chi cả nghìn tỷ đồng", Báo Tiền phong (160), ngày 3/8. 33. Lê Thông (2004), Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam, tập 3- Các tỉnh vùng Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, Nxb Giáo dục. 34. Tìm hiểu luật đầu tư (2006), Nxb Lao động xã hội. 35. Tỉnh uỷ Nghệ An (2006), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ 16. 36. Trung tâm xúc tiến đầu tư Nghệ An (2005), Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006. 37. Trần Xuân Tùng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 38. Trần Thiện Tứ (2005), "Một số bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển các KCN tại thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam (57), tr.24. 39. Trần Đình Ty (2005), Đổi mới cơ chế đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, Nxb Lao động. 40. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Chính sách ưu đãi đầu tư của tỉnh Nghệ An. 41. Website:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf143_8713.pdf
Luận văn liên quan