Những phân tích đánh giá trong luận văn đã phần nào phản ánh được
hiện trạng thực hiện các chính sách hỗ trợ DNKNST ở Việt Nam hiện nay. Cụ
thế, nó là những yếu tố chủ yếu gây trở ngại đối với DNKNST Việt Nam là
hành lang pháp lý chưa rõ ràng và hoàn thiện, khả năng kêu gọi vốn, các hệ
sinh thái hỗ trợ DNKNST Luận văn cũng đã đề cập, phân tích và đánh giá
việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST trong thời gian qua để rút ra những
bài học kinh nghiệm trong công tác thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST trong
thời gian tới. Qua phân tích cho thấy được mục tiêu chính sách của Nhà nước
tập trung chủ yếu vào hỗ trợ tài chính, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, hỗ
trợ phát triển đổi mới công nghệ, giúp doanh nghiệp gọi vốn và tiếp cận nguồn
vốn từ những quĩ đầu tư mạo hiểm trong và ngoài nước.
Qua việc phân tích thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST, luận
văn đề xuất phương hướng và giải pháp hỗ trợ DNKNST trong thời gian tới.
Theo đó Nhà nước cần hoàn thiện về chính sách môi trường pháp lý; hỗ trợ về
tài chính; tư vấn hỗ trợ cho DNKNST; hỗ trợ về cơ sở vật chất, đất đai, văn
phòng; truyền bá tinh thần và văn hóa khởi nghiệp tạo làn sóng khởi nghiệp
quốc gia mạnh mẽ hơn nữa; thông gia giáo dục đào tạo đưa khởi nghiệp là một
môn học mới.
Phát triển DNKNST là chủ trương đúng đắn và kịp thời hội nhập của Đảng
và Nhà nước nhằm phát huy mọi nguồn lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã
hội. Nhờ có chính sách đúng đắn mà chúng ta đã thấy được sự chuyển mình mạnh
mẽ của các DNKNST trong thời gian qua, hàng loạt các DNKNST gọi được vốn
và vươn mình ra biển lớn, một số DNKNST đã làm nên thương hiệu trên toàn thế
giới. Khi nền kinh tế càng hội nhập sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới, các77
DNKNST phải đương đầu với sự cạnh tranh quyết liệt từ các DN đến từ các nước
trong khu vực và thế giới. Chỉ bằng sự nỗ lực đơn lẻ của các DNKNST thì không
thể thành công trước những thách thức của hội nhập. Các DNKNST cần được hỗ
trợ tích cực hơn của Nhà nước, đặc biệt trong việc giảm thiểu rủi ro, các rào cản
cản từ phía cơ chế chính sách, tạo môi trường kinh doanh thực sự mở, bình đẳng,
thuận lợi, rõ ràng, minh bạch.
80 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 849 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh của Việt Nam thời gian qua đã được cải
thiện đáng kể, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Theo đánh giá của Ngân hàng
thế giới năm 2016, Việt Nam đứng thứ 82/190 quốc gia, tăng 9 bậc về chỉ số môi
trường kinh doanh (từ vị trí 91/189 lên 82/190) với 5 chỉ số tăng hạng. Theo khảo
sát của JETRO, Việt Nam tiếp tục là địa điểm đầu tư quan trọng của doanh nghiệp
Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam, trên 66% doanh nghiệp có xu hướng “mở
rộng hoạt động kinh doanh” tại Việt Nam. Đây là tỉ lệ cao so với các quốc gia khác.
Việt Nam nổi bật với việc cải thiện lớn về môi trường kinh doanh, có 36% doanh
nghiệp Mỹ được khảo sát dự định mở rộng kinh doanh tại Việt Nam (so với 48% ở
Indonesia, 21% ở Thái Lan, 19%của Malaysia).[26]
2.3.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo
2.3.3.1. Đánh giá về mục tiêu chính sách
Rà soát nội dung văn bản liên quan cho thấy các chính sách ở trung ương
và địa phương liên quan tới DNKNST, có thể thấy duy nhất có Quyết định 844
đặt ra các mục tiêu định lượng cụ thể về phát triển DNKNST Việt Nam. Tuy
nhiên, tương tự như các Đề án khác, các mục tiêu này chỉ mang tính định hướng,
49
không ràng buộc trách nhiệm của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, cũng không có
biện pháp xử lý nào trong trường hợp không đạt được mục tiêu.
Bảng 1.2: Các mục tiêu chính sách phát triển DNKNST của Việt Nam
Loại Mục tiêu
Pháp luật Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo
Thông tin Thiết lập được Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo quốc gia
Số lượng dự án
được hỗ trợ
Giai đoạn đầu (không rõ mốc): 800 dự án
Giai đoạn 2 (2025): 2000 dự án
Số lượng doanh
nghiệp được hỗ
trợ
Giai đoạn đầu (không rõ mốc): 200 doanh nghiệp, trong
đó 50 doanh nghiệp gọi vốn thành công, tổng giá trị 1000
tỷ đồng
Giai đoạn 2 (2025): 600 doanh nghiệp, trong đó 100
doanh nghiệp gọi vốn thành công, tổng giá trị 2000 tỷ
đồng
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Đề án 844
Nhìn chung các văn bản chính sách về DNKNST đều nhắc đến các biện
pháp hỗ trợ thuộc 09 nhóm chính.
Về phạm vi, có những nội dung chỉ đề cập trong Đề án 844 do là vấn đề
thuộc phạm vi thẩm quyền của trung ương (ví dụ các vấn đề về ưu đãi thuế), có
những vấn đề về chi tiết mang tính thủ tục, thường chỉ nêu trong chính sách của
các địa phương (ví dụ cải cách hành chính, tư vấn hỗ trợ về thủ tục).
Về tính chi tiết, văn bản cấp địa phương mang tính hướng dẫn nên có
nhiều biện pháp cụ thể hơn Đề án 844, tuy nhiên cũng có trường hợp văn bản
cấp địa phương chỉ đơn thuần là lựa chọn và nhắc lại một số nội dung của Đề
án 844.
Về nội dung, các nhóm hỗ trợ được đề cập trong Đề án 844 cũng như ở
các địa phương gần tương tự với các biện pháp hỗ trợ DNKNST mà nhiều nước
50
đang áp dụng, bao gồm cả các nước được đánh giá là có hệ sinh thái hiệu quả
cho DNKNST như Ấn Độ, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc
Một điểm nhấn nổi bật là việc chiến lược khởi nghiệp quốc gia được các
DNKNST đánh giá cao. Cụ thể, chiến lược khởi nghiệp quốc gia được các
doanh nghiệp tham gia đánh giá là phù hợp và hỗ trợ tích cực cho hoạt động
của khởi nghiệp và kinh doanh của họ. Có đến 74,24% doanh nghiệp đánh giá
các chính sách này phù hợp và hỗ trợ tích cực hoạt động khởi nghiệp. Điểm
trung bình của yếu tố này là 3,38/5. Bên cạnh đó, đa phần các doanh nghiệp
cũng đồng ý rằng chiến lược khởi nghiệp quốc gia gắn kết chặt chẽ với các
chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh khác nhà nước với 77,27% số DNKNST
tham gia hài lòng và chấp nhận được. Tuy nhiêu 32,32% DNKNST cho rằng
chiến lược khởi nghiệp quốc gia chưa thực sự chú trọng vào lĩnh vực và nguồn
nhân lực phục vụ khởi nghiệp, điểm đánh giá trung bình của yếu tố này chỉ đạt
3,12/5.[26]
2.3.3.2. Đánh giá hệ thống pháp lý và chính sách
Như đã đề cập, Quyết định 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến 2025”
là văn bản đầu tiên, cũng là nền tảng cho hệ thống chính sách đối với DNKNST ở
Việt Nam.
Đề án này được thông qua cho thấy vấn đề DNKNST đã nhận được sự
quan tâm của Chính phủ, các định hướng và công cụ hỗ trợ cũng đã được nhận
diện. Hơn thế nữa, sau khi Đề án được thông qua, một loạt các tỉnh, thành triển
khai rầm rộ thông qua các văn bản cấp địa phương như với Đề án này. Đây là
điều khá hiếm thấy ở Việt Nam và là dấu hiệu khả quan cho thấy chủ đề khởi
nghiệp đang thực sự trở thành mối quan tâm chung, một phong trào kinh tế có
triển vọng ở Việt Nam.
51
Các quy định pháp luật và chính sách hỗ trợ khởi nghiệp tại Việt Nam
còn thiếu đồng bộ, cụ thể và vẫn tồn tại nhiều xung đột, mâu thuẫn. Các quy
định chủ yếu còn mang tính chung chung như hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, tham
gia mua sắm, cung ứng dịch vụ công, hỗ trợ đào tạo Phần lớn các chính sách
này có phạm vi đối tượng rộng, dàn trải với đối tượng được hỗ trợ là gần như
toàn bộ các DNNVV mà chưa có sự định hướng riêng cho nhóm đối tượng đặc
thù, đặc biệt là các DNKNST.
Cho tới hiện tại chưa có đủ căn cứ để cho rằng DNKNST đã trở thành
một ưu tiên của Chính phủ hay một mục tiêu mũi nhọn trong định hướng phát
triển kinh tế Việt Nam thời gian tới bởi:
- Ở cấp trung ương, Chính phủ có nhiều Đề án tương tự trong nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Vấn đề DNKNST vì vậy không phải
nhiệm vụ đặc biệt, cũng không có quy mô hay phạm vi ưu tiên so với các nhiệm
vụ khác.
Về phía Đơn vị chủ trì (Bộ Khoa học và Công nghệ), mặc dù hiện Bộ đã
có các văn bản hướng dẫn triển khai Đề án nhưng chưa có tổng kết kết quả thực
hiện; về mặt nội dung thì việc triển khai cũng gần tương tự như các Đề án khác
của Bộ, chưa thấy có khác biệt nào đáng kể. Ngoài ra, một Bộ quan trọng trong
triển khai Đề án là Bộ Tài chính (với trách nhiệm hướng dẫn về kinh phí từ
ngân sách Nhà nước cho các hoạt động hỗ trợ DNKN thuộc Đề án và bố trí
kinh phí sự nghiệp để thực hiện các nội dung Đề án) hiện chưa có văn bản nào
về việc này.
Các Bộ, cơ quan, tổ chức khác được giao nhiệm vụ xây dựng các kế
hoạch hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hàng năm và 5 năm trên cơ sở Đề
án cũng chưa có hoạt động nào cụ thể để triển khai Đề án.
- Ở cấp địa phương, mặc dù đối với Đề án này, các địa phương tỏ ra khá sốt
sắng trong việc ban hành các văn bản, kế hoạch thực thi Đề án nhưng dường như việc
52
triển khai trên thực tế còn mới ở bước đầu, chưa thể đánh giá được kết quả. Đó là
chưa kể tới việc một số địa phương kế hoạch triển khai khá sơ sài, nhắc lại các hoạt
động của Đề án là chủ yếu, không có biện pháp cụ thể. Một số trường hợp khác, kế
hoạch hoạt động thực chất là các biện pháp để hỗ trợ khởi sự kinh doanh nói chung,
không có hoặc rất ít những yếu tố đặc thù liên quan tới DNKNST.
- Ở cả hai cấp trung ương và địa phương, việc thực thi các văn bản chính
sách không có giá trị bắt buộc từ góc độ pháp luật như thế này thường sẽ phụ
thuộc vào quyết tâm của đơn vị chủ trì và sự tích cực, chủ động, nhiệt tình và
năng lực của các đơn vị thừa hành. Kinh nghiệm từ nhiều Đề án khác cho thấy,
hiệu quả thực tế của các chính sách dạng này là rất khó đoán định mà phần nhiều
là từ các lý do chủ quan.
Việc triển khai thực hiện CS hỗ trợ DNKNST đồng bộ từ Chính phủ, các
Bộ ngành, đến các địa phương đã có tác động tích cực đến số lượng DNKNST
và các doanh nghiệp thành lập mới, đầu tư nước ngoài trong những tháng cuối
năm 2016 và đầu năm 2017; góp phần quan trọng đạt được các mục tiêu của
chính sách đề ra.
Mặc dù khi cụ thể hóa các quy định, hướng dẫn để triển khai hoạt động
hỗ trợ khởi nghiệp trên địa bàn các địa phương đã rõ ràng hơn, song phần lớn
các quy định, hướng dẫn vẫn chưa đảm bảo được yêu cầu về tính cụ thể, đặc
biệt là đối với việc thu hẹp, tập trung vào các nhóm đối tượng nhất định. Không
ít trường hợp, các quy định, hướng dẫn của các địa phương chỉ đơn thuần là lựa
chọn và nhắc lại một số nội dung của Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”.
Đề án ban hành theo Quyết định số 844/QĐ-TTg gần như là văn bản duy
nhất đặt ra các mục tiêu cụ thể mang tính định lượng về phát triển DNKNST
với các mục tiêu ngắn hạn và trung hạn. Tuy nhiên, tương tự như phần lớn các
đề án khác, các mục tiêu này chỉ mang tính định hướng, không ràng buộc trách
53
nhiệm đối với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, cũng không có biện pháp xử lý nào
trong trường hợp không đạt được mục tiêu.
Bên cạnh đó, mặc dù hệ thống quy định và chính sách đã và đang ngày
càng được hoàn thiện, nhiều nội dung cần được hướng dẫn cụ thể vẫn chưa có,
dẫn đến tình trạng khó triển khai các quy định và chính sách trên thực tế.
Các quy định và chính sách hiện nay còn thiếu, chưa đồng bộ và còn
những mâu thuẫn; Thiếu các quy định liên quan đến khung pháp lý cho hoạt
động của các tổ chức hỗ trợ tài chính cho hoạt động khởi nghiệp, đó là quỹ đầu
tư mạo hiểm và quỹ đầu tư “thiên thần”.
2.3.3.3. Đanh giá về tính khả thi và hiệu quả của hoạt động hỗ trợ
Về cơ bản, hệ thống quy định và chính sách hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp
đang dần được hoàn thiện, tuy nhiên tính khả thi của các quy định và chính sách
này còn rất hạn chế. Cụ thể:
- Về định mức hỗ trợ cho các DNKNST đã được quy định khá rõ trong
các nghị định, tuy nhiên hai vấn đề ảnh hưởng tới tính khả thi của các chính
sách hỗ trợ tài chính, đầu tư là: Tiêu chí lựa chọn và sự phối hợp của các cơ
quan nhà nước vẫn còn rất hạn chế.
- Mặc dù Cổng thông tin quốc gia về khởi nghiệp đã chính thức ra đời
nhưng các nội dung, thông tin và tính liên kết đến các cổng thông tin liên quan
còn hạn chế. Vẫn thiếu các thông tin liên quan để kết nối các tổ chức hỗ trợ
khởi nghiệp và các nhà khởi nghiệp. Một số hoạt động như TechFest 2017 đã
được triển khai và đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên các hỗ trợ thực
chất cho DNKNST còn ít, vì hạn chế về kinh phí.
- Hướng dẫn cụ thể về hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khởi nghiệp từ
nguồn ngân sách nhà nước chưa được ban hành, vì vậy các hoạt động hỗ trợ
khởi nghiệp từ các quỹ có nguồn gốc ngân sách gần như chưa thể triển khai.
54
- Các bộ, ban, ngành, tổ chức liên quan được giao nhiệm vụ xây dựng
các kế hoạch hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hàng năm và 5 năm trên cơ
sở Đề án cũng chưa cụ thể về cấp địa phương, việc triển khai trên thực tế mới ở
bước đầu, chưa thể đánh giá được kết quả. Đó là chưa kể tới, một số địa phương
kế hoạch triển khai khá sơ sài, nhắc lại các hoạt động của Đề án là chủ yếu, không
có biện pháp cụ thể. Ở cả hai cấp trung ương và địa phương, việc thực thi các
văn bản chính sách không có giá trị bắt buộc từ góc độ pháp luật như thế này
thường sẽ phụ thuộc vào quyết tâm của đơn vị chủ trì và sự tích cực, chủ động,
nhiệt tình và năng lực của các đơn vị thừa hành. Kinh nghiệm từ nhiều Đề án
khác cho thấy, hiệu quả thực tế của các chính sách này rất khác biệt ở các địa
phương khác nhau về hoạt động triển khai.
Về cơ bản, các cơ quan nhà nước có liên quan chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển của thực tiễn hoạt động khởi nghiệp, nhất là về nhận thức, kỹ
năng của cán bộ, khả năng đánh giá, giám sát.
Hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước cho DNKNST còn hạn chế và dàn trải,
chồng chéo, kém hiệu quả. Trong khi đó, thực tế cho thấy, phần lớn các hoạt
động hỗ trợ từ khu vực tư nhân đem lại hiệu quả tốt đối với cả hai phía là người
hỗ trợ và DNKNST mặc dù khung pháp luật cho hoạt động này vẫn còn thiếu và
nhiều bất cập.
Một số hạn chế từ phía các DNKNST cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng được tiếp nhận các hỗ trợ, ví dụ như kỹ năng quản trị, điều hành kinh doanh,
xúc tiến, quảng bá phát triển. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng kém phát triển, thủ tục
hành chính rườm rà cũng là những rào cản cho sự phát triển của hoạt động khởi
nghiệp.
2.3.3.4. Đánh giá về các chính sách tiếp cận tài chính
Các chính sách hỗ trợ tiếp cận tài chính cho khởi nghiệp chưa thực sự đáp
ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Theo báo cáo của Bộ tài chính năm 2017
55
có đến 77,78% doanh nghiệp tham gia khảo sát đánh giá các chính sách về tiếp
cận tài chính cho khởi nghiệp góp phần nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ tài
chính của họ. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp cho rằng các chính sách về tiếp cận
tài chính hiện nay của Nhà nước chưa chú trọng vào việc tài trợ đổi mới công nghệ
(35,36%), chưa hỗ trợ quá trình đào tạo tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp
(43,94%). Đáng chú ý, các chính sách về nâng cao năng lực của các tổ chức tài
chính được các doanh nghiệp khởi nghiệp đánh giá cao, có đến 56,57% doanh
nghiệp chấp nhận được các chính sách này.[27]
Do tốc độ phát triển nhanh của hệ sinh thái khởi nghiệp với các cấu phần
mới nên cơ chế chính sách và khung pháp lý chưa được bổ sung kịp thời để
điều chỉnh sự hình thành và phát triển của những DNKNST theo phương thức
mới như Quỹ Đầu tư mạo hiểm Việt Nam, sự công nhận giá trị bằng tiền của
tài sản vô hình trong góp vốn thành lập công ty hay bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
đối với DN khởi nghiệp... Cụ thể:
- Các chính sách tài chính đối với việc khởi sự kinh doanh tại Việt Nam
vẫn còn chung chung, chỉ là một cấu phần nhỏ trong một số chương trình, chưa
tập trung cụ thể vào đối tượng là DNKNST. Chính sách thuế hiện hành theo
hướng hỗ trợ DN theo địa bàn, lĩnh vực nên bất kỳ DN nào đáp ứng được các
điều kiện ưu đãi thì sẽ được hưởng các ưu đãi tương ứng. Do đó, nếu DNKNST
không thực hiện kinh doanh tại các địa bàn ưu đãi thuế, không đáp ứng được
các tiêu chuẩn trong các lĩnh vực khuyến khích đầu tư hiện hành thì cũng không
được hỗ trợ về thuế.
- Chính sách tín dụng khó tiếp cận do hầu hết các DNKNST ban đầu đều
có quy mô nhỏ, siêu nhỏ, nguồn vốn nội sinh ít, tài sản để thế chấp vay ngân
hàng hầu như không có. Bên cạnh đó, bản chất của các DNKNST, đặc biệt là
DNKNST là rủi ro cao nên các kênh huy động vốn truyền thống qua các ngân
hàng thương mại rất khó khăn.
56
Kết luận chương 2
Hiện nay, Chính phủ đang quyết tâm đẩy mạnh việc thực hiện chính sách
hỗ trợ DNKNST, và coi việc hỗ trợ các DNKNST là mục tiêu chính trị tiên
quyết và quan trọng trong thời kì mới. Với những ưu tiên của nhà nước số lượng
DNKNST ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ trên cả số lượng và quy mô trong
giai đoạn từ năm 2011 đến 2018 và mạnh mẽ nhất trong giai đoạn năm 2016-
2018. Đặc biệt DNKNST Việt Nam đã có những bước đi đột phá về trình độ
phát triển và khả năng gọi vốn của mình. Cả nước đã và đang sục sôi khí thế
khởi nghiệp biến Việt Nam thành quốc gia.
Mặc dù trên thực tế còn chưa có một luật riêng dành cho DNKNST
nhưng nhà nước cũng đã đưa ra nhiều chương trình hành động cụ thể để hỗ trợ
DNKNST. Việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST đã đạt được nhiều thành
quả đáng ghi nhận, góp phần phát triển kinh tế cả nước và giúp các DNKNST
“vươn mình ra biển lớn”. DNKNST thể hiện được vai trò to lớn của mình vào
những đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, cho thu hút đầu tư và thúc đẩy phong
trào KNST của cả nước.
Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST
vẫn còn những hạn chế nhất định, làm ảnh hướng đến sự phát triển của
DNKNST. Việc chưa có luật dành riêng cho DNKNST ảnh hưởng rất lớn đến
việc thực hiện chính sách, làm cho việc thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo
hiểm, các nhà đầu tư thiên thần chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Tại
một số địa phương việc thực hiện chính sách còn chung chung mang tính chất
phong trào chưa đi vào thực tiễn, phong trào KNST chỉ diễn ra mạnh mẽ ở các
thành phố lớn đem lại hiệu quả chưa cao cho việc kết nối các DNKNST trên cả
nước.
57
Trên cơ sở thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt
Nam, khái quát những kết quả đạt được và rút ra những hạn chế còn gặp phải,
đồng thời cũng xác định những nguyên nhân hạn chế nhằm tạo cơ sở để đưa ra
phương hướng và giải pháp phù hợp, hướng đến thực hiện hiệu quả hơn nữa
chính sách hỗ trợ DNKNST.
58
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Trong những năm gần đây, khi KNST thực sự trở thành trào lưu mạnh
mẽ, các biện pháp hỗ trợ các DNKNST của Chính phủ càng lúc càng đa dạng
và tập trung hơn, cả về mục tiêu, cách thức triển khai lẫn quy mô hỗ trợ. Lý do
đằng sau các nỗ lực hỗ trợ DNKNST của Chính phủ ngày nay bên cạnh các
mục tiêu truyền thống còn có áp lực của cách mạng công nghiệp 4.0, định
hướng tương lai kinh tế số và nhu cầu đổi mới, thậm chí tái cơ cấu nền kinh tế,
để cải thiện năng lực cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế kết nối toàn cầu.
Một điều dễ nhận thấy khi rà soát các tài liệu về DNKNST là ở hầu khắp
các nước, DNKNST thường gặp phải những vấn đề khá tương tự nhau. Xem xét
kỹ hơn từ góc độ nguyên nhân sẽ cho thấy sự tương đồng này có lý do xuất phát
từ các đặc điểm rất đặc trưng của các DNKNST, dù là ở nền kinh tế đang phát
triển hay đã phát triển, đó là những khó khăn về tài chính; khó khăn trong quản
trị kinh doanh; khó khăn trong tuân thủ các thủ tục hành chính.
Từ việc nghiên cứu, rà soát những khó khăn của DNKNST tác giả rút ra
những phương hướng để thực hiện tốt CS hỗ trợ DNKNST như sau:
Thứ nhất, phân tích và đánh giá đúng thực trạng. Chúng ta cần xem xét
và đánh giá đúng thực trạng triển khai hoạt động khởi nghiệp ở nước ta, nhằm
làm rõ những đặc trưng của hoạt động này, những ngành hoặc lĩnh vực mà khởi
nghiệp có nhiều khả năng thành công, trình độ cũng như mức độ áp dụng công
59
nghệ trong những ngành/lĩnh vực đó. Trên cơ sở đó, xem xét và áp dụng kinh
nghiệm phù hợp của các quốc gia khởi nghiệp đi trước vào thực tiễn ở Việt
Nam mới có hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp. Chúng ta cần cụ thể hóa chủ
trương xây dựng quốc gia khởi nghiệp bằng một chương trình quốc gia khởi
nghiệp tổng thể, theo đó, nêu rõ những bước triển khai cụ thể để hình thành hệ
sinh thái khởi nghiệp. Cụ thể như: Khuôn khổ thể chế hỗ trợ cho hoạt động khởi
nghiệp bao gồm chính sách về thủ tục thành lập, đầu tư, thuế, thương mại hóa
sản phẩm công nghệ. Điểm cần lưu ý là các chính sách ưu đãi không chỉ dành
riêng cho DNKNST, mà còn bao gồm cả NĐT bỏ vốn vào các quỹ đầu tư khi
họ rót vốn cũng như thoái vốn; Chu trình hỗ trợ vốn đầu tư tương ứng với các
giai đoạn phát triển của DNKNST; Quy định hỗ trợ hoạt động của NĐT đặc
biệt là NĐT thiên thần và NĐT mạo hiểm; Các biện pháp tăng cường năng lực
và hoạt động của các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp như hệ thống vườn ươm công
nghệ hay các trung tâm thúc đẩy DNKN.
Thứ ba, xây dựng sàn chứng khoán chuyên biệt cho DNKNST. Việt Nam
có thể cân nhắc xây dựng Sàn chứng khoán chuyên biệt cho DNKN theo mô
hình Sàn KONEX của Hàn Quốc. Sự thành công sau 3 năm hoạt động của Sàn
KONEX cho thấy, việc tạo dựng một sàn giao dịch chuyên biệt có vai trò quan
trọng hỗ trợ cho DN khởi nghiệp tiếp cận trực tiếp nguồn vốn cần thiết cho sự
phát triển của mình. Mặt khác, hình thức Sàn KONEX cũng cung cấp một sàn
giao dịch thuận tiện để người mua người bán gặp nhau được dễ dàng hơn, cũng
như tạo khả năng thoái vốn cho các NĐT, đặc biệt là các NĐT thiên thần nhỏ
lẻ.
Tóm lại, phương hướng để nâng cao hiệu quả của CS hỗ trợ DNKNST
cũng như khuyến khích các hoạt động khởi nghiệp là việc điều chỉnh chính sách
60
một cách hữu hiệu, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện chính
sách.
3.2. Một số giải pháp thực hiện nhằm thực hiện hiệu quả chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Nhận diện được các vấn đề của các DNKNST, Nhà nước thực hiện
chính sách hỗ trợ, can thiệp để giúp đỡ các DNKNST. Qua đó, thúc đẩy sự
phát triển của các DNKNST, các biện pháp hỗ trợ mà các Chính phủ đã hoặc
đang thực hiện đều tập trung vào việc giúp giải quyết hoặc xử lý các vướng
mắc, khó khăn, hạn chế của DNKNST.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện chính sách khởi nghiệp tại Việt Nam, cụ thể:
3.2.1. Hoàn thiện chính sách, môi trường pháp lý
Hoàn thiện việc xây dựng chiến lược khởi nghiệp quốc gia: Tùy vào
thế mạnh riêng, mỗi quốc gia và địa phương chọn cho mình những lĩnh vực ưu
tiên phù hợp, sau đó Nhà nước sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp hoạt động
hiệu quả. Nhà nước cần nghiên cứu kỹ để có thể đưa ra một chiến lược quốc gia
hỗ trợ tích cực cho hoạt động khởi nghiệp, phù hợp với các chính sách khác của
quốc gia cũng như chính sách quốc tế, đồng thời vẫn chú trọng vào các lĩnh vực,
ngành mục tiêu khởi nghiệp.
Chiến lược khởi nghiệp quốc gia phải được thực hiện mạnh mẽ, nơi bắt đầu
là từ các trường đại học, để trong một tương lai rất ngắn chúng ta sẽ có một thành
phố khởi nghiệp và sau một thời gian ngắn, chúng ta sẽ trở thành một quốc gia
khởi nghiệp.
Cải thiện môi trường kinh doanh là điều kiện vô cùng quan trọng để hỗ
trợ các DNKNST trong chiến lược khởi nghiệp quốc gia. Cải thiện môi trường
kinh doanh giúp DNKNST thành công trong hội nhập kinh tế trước những cạnh
tranh gay gắt hiện nay. Điều này đảm bảo cho việc phát triển các thị trường yếu
61
tố sản xuất một cách lành mạnh, linh hoạt, giảm thiểu chi phí giao dịch, nhất là
đối với thị trường bất động sản, thị trường tài chính...
Tối ưu hóa môi trường pháp lý: Qua nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp và một số nước
phát triển khác, tác giả rút ra những bài học cho Việt Nam về tạo lập cơ chế,
chính sách hỗ trợ DNKNST như: Cần có nhận thức đầy đủ, quan điểm toàn diện,
coi trọng vai trò và vị trí của DNKNST trong phát triển kinh tế - xã hội; Đồng thời,
hoàn thiện xây dựng thể chế, chính sách cho DNKNST, sớm hoàn thiện, cụ thể
hóa hơn về DNKNST trong Luật DNNVV; Xây dựng chính sách hỗ trợ DNKNST
một cách toàn diện, có sự tham gia của các tổ chức tài chính, ngân hàng và các cơ
quan nhà nước.
Song song với với ban hành hệ thống chính sách hỗ trợ, cần sớm thiết
lập hệ thống (cơ quan, tổ chức) để triển khai và thực thi cơ chế chính sách này;
Hỗ trợ xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ cho DNKNST, nâng cao việc chỉ
đạo và dịch vụ công của Chính phủ dành cho các DNKNST. Đặc biệt, tăng
cường vai trò của Nhà nước trong xây dựng quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa các
DNKNST với các DN lớn và các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Cần đánh giá lại toàn diện hoạt động của khu vực DNKNST; tạo một khí
thế mới cho cộng đồng DNKNST trên cơ sở các cam kết của Chính phủ về việc
minh bạch hoá, công bằng hoá sự phát triển kinh tế nói chung. Đặc biệt, phát huy
hơn nữa vai trò của DN tư nhân, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh
theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp, tuân thủ các nguyên tắc và
thông lệ quốc tế.
Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp giảm thuế, thay đổi cách tính
thuế GTGT. Cụ thể, Nhà nước cần giảm thuế hoặc không đánh thuế từ 1-3 năm
từ khi thành lập doanh nghiệp, thuế doanh nghiệp và khu vực tư nhân được
giảm thấp hơn, và ưu đãi về thuế. Đồng thời, cần đơn giản hóa thủ tục nhà nước,
62
loại bỏ tính quan liêu. Cụ thể, Nhà nước cần tổ chức lại hệ thống hành chính,
quản lý tài chính liên quan đến công quỹ, và đơn giản hóa thủ tục thành lập/đóng
cửa doanh nghiệp. Khung pháp lý mới cũng cần đặt ra cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp thúc đẩy cơ hội tái khởi động sau khi doanh nghiệp phá sản, đẩy nhanh thủ
tục phá sản, đẩy mạnh hệ thống phòng ngừa phá sản. Nhà nước cũng cần đề cao
yếu tố minh bạch trong hoạt động hỗ trợ DNKNST như: xoá bỏ tham nhũng, số
liệu được chính phủ công bố, chia sẻ thông tin sớm.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ; cơ chế chính sách thúc đẩy
phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Trong đó, đặc biệt chú ý:
- Đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản không còn phù hợp,
xây dựng bộ máy quản lý nhà nước trong sạch; Nâng cao trình độ nắm vững và
thi hành pháp luật của đội ngũ công chức quản lý nhà nước có liên quan trực
tiếp đối với DNKNST; Thay đổi tư duy quản lý sang trách nhiệm phục vụ,
hướng dẫn DNKNST phát triển, giảm sự nhũng nhiễu, thờ ơ, thiếu trách nhiệm
của công chức, đảm bảo cho các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến
địa phương thực sự là chỗ dựa vững chắc, là người trợ giúp thật hiệu quả đối
với DNKNST.
- Có những tiêu chí để phân loại, đánh giá hoạt động của DNKNST cụ
thể rõ ràng, tránh đánh giá chung, phân biệt rõ thế nào là DNKNST. Đồng thời,
có chiến lược ưu tiên tháo gỡ khó khăn, xây dựng những nhân tố nòng cốt,
nhằm tôn vinh và nhân rộng các điển hình tiên tiến; Tạo môi trường để các
DNKNST Việt Nam tăng cường liên kết với nhau, khích lệ họ có niềm tin và
sự cống hiến hết mình vì một đất nước Việt Nam thịnh vượng.
- Tăng cường xúc tiến thương mại và quản lý thị trường; Có cơ chế để
đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ và đầu tư vào các nước đã ký các
hiệp định thương mại và đầu tư; Loại bỏ những rào cản gây ảnh hưởng tiêu cực
63
đến sự tham gia hiệu quả các chuỗi giá trị toàn cầu, kể cả việc xuất khẩu lao
động.
Cần có chính sách tăng cường giáo dục tinh thần khởi nghiệp và phát
triển các kỹ năng: Hiện nay, môi trường khởi nghiệp Việt Nam còn quá trẻ so
với thế giới nhưng có nhiều tiềm năng để khởi dậy tinh thần khởi nghiệp mạnh
mẽ. Nhà nước cần quan tâm đến các chính sách đẩy mạnh giáo dục như: tài trợ
các chương trình đào tạo khởi nghiệp, đào tạo miễn phí trong ngành lên kế
hoạch kinh doanh, đào tạo sau đại học về khởi nghiệp, học vị Thạc sĩ. Ngoài
ra, cần thay đổi hệ thống giáo dục, các biện pháp giáo dục, thay đổi tổ chức các
trường đại học và toàn bộ hệ thống trường trung học, nâng cao kiến thức khởi
nghiệp. Cải cách hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học theo hướng gắn
với giáo dục – đào tạo với hoạt động thực tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc
đẩy văn hóa khởi nghiệp là điều kiện tiên quyết để bản thân mỗi người hình
thành ý chí tự thân lập nghiệp.
Cần chuẩn bị nguồn nhân lực cho khởi nghiệp sáng tạo bền vững từ
trường phổ thông thông qua giáo dục khởi nghiệp. Cần đưa chương trình giáo
dục khởi nghiệp vào giảng dạy trong các chương trình học trung học phổ thông,
đặc biệt là trong giáo dục cao đẳng, đại học. Gần đây, một số trường đại học đã
thiết kế, giảng dạy các bộ môn liên quan đến giáo dục khởi nghiệp, giúp cho
sinh viên nắm bắt cơ hôi khởi nghiệp và quản lý điều hành DNKNST. Cải cách
hệ thống đào tạo, đặc biệt là đào tạo khởi nghiệp tại các trường, các trung tâm
đào tạo, mời những nhà DN nổi tiếng, các doanh nhân trẻ giảng dạy, để chia
sẻ kinh nghiệm, kiến thức để đem đến những bài học quý cho những doanh
nhân tương lai khi bắt đầu khởi nghiệp.
Hệ thống giáo dục cũng phải có những chuyển biến mạnh về mục tiêu,
nội dung và phương pháp đào tạo, giảng dạy để giảm thiểu tinh thần học để làm
“thầy”, làm “quan”; tăng cường các hoạt động hướng nghiệp để học sinh ra
64
trường biết chọn hướng đi thích hợp với khả năng của mình; khơi gợi khả năng
sáng tạo thay vì cách học nhồi sọ, một chiều như hiện tại vốn chỉ tạo ra những
con người thụ động, phục tùng và ỷ lại vào người khác... Có thể nói, hệ thống
giáo dục là một trong những mắt xích quan trọng nhất trong hệ thống các yếu
tố nuôi dưỡng và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp hiện đang là điểm rất yếu ở
Việt Nam.
Cần có chính sách tạo điều kiện trao đổi và đổi mới công nghệ: Để có
một hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ cao, Nhà nước cần nâng cao cơ sở hạ
tầng trực tuyến và trực tiếp như tạo ra các cơ chế để tăng cường hợp tác giữa các
doanh nghiệp khởi nghiệp, xây dựng nền tảng cho việc tìm kiếm đối tác, nền tảng
giao kết và các sự kiện, cổng thông tin ảo. Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng cơ sở
dữ liệu của bên yêu cầu, tạo lập các vườn ươm doanh nghiệp có chất lượng, đầu
tư các khu công nghệ cao, không gian công cộng cho mạng lưới liên kết và làm
việc nhóm; cần tăng cường trao đổi kiến thức và chia sẻ bằng cách tăng cường
hợp tác giữa các tổ chức giáo dục và khởi nghiệp, viện nghiên cứu và khu công
nghiệp, chuyển giao và đổi mới công nghệ trong môi trường kinh doanh, chia sẻ
và hợp tác với các doanh nghiệp khởi nghiệp nước ngoài.
Thiết lập quan hệ đối tác giữa Nhà nước và DNKNST để làm chủ công
nghệ trong các mảng kinh tế - xã hội chiến lược. Trong giai đoạn toàn cầu hóa
mạnh hiện nay, quan hệ giữa Chính phủ và DNKNST nên được đẩy mạnh lên
thành quan hệ đối tác. Bởi, chính DNKNST là những đầu mối có thể tiếp cận
nhanh nhất các thành tựu phát triển toàn cầu và vì thế có thể mang những thành
tựu đó phát triển lên, làm chủ công nghệ để đóng góp cho sự phát triển của đất
nước.
Chính phủ cần tiến hành các biện pháp thúc đẩy nhanh việc triển khai
Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia và hoạt động của Quỹ Đổi mới công
nghệ quốc gia, hướng vào các hoạt động phục vụ các lĩnh vực nông nghiệp
65
công nghệ cao và công nghiệp phụ trợ nhằm hỗ trợ tốt nhất về môi trường công
nghệ cho DNKNST.
3.2.2. Tăng cường hỗ trợ tài chính
Đây là nhóm biện pháp nhằm giúp các DNKNST vượt qua khó khăn
được cho là lớn nhất của mình – thiếu vốn.
Hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ: Nếu Việt Nam muốn tập trung phát triển
DNKNST để làm đòn bẩy kinh tế, Chính phủ cần tham gia đầu tư trực tiếp để
kích thích tăng trưởng về số lượng và chất lượng các DNKNST, đặc biệt là giai
đoạn đầu. Đồng thời qua đó thu hút khối tư nhân đầu tư vào DNKNST. Việc
làm này sẽ thu hút không chỉ DNKNST và nhà đầu tư tư nhân ở Việt Nam và
còn trong khu vực và trên toàn thế giới.
Biện pháp này là rất đa dạng, phụ thuộc vào nguồn lực của Chính phủ cũng
như đặc điểm vận hành hệ thống ở mỗi giai đoạn phát triển. Thông thường sẽ bao
gồm:
- Các khoản hỗ trợ tài chính cho các DNKNST: Các hỗ trợ này thường
dưới dạng khoản tài trợ trực tiếp vào các startups (thường ở giai đoạn “ươm
mầm” (seeds), ý tưởng hoặc giai đoạn đầu của quá trình phát triển sản phẩm).
Chính phủ có thể thực hiện hỗ trợ tiền mặt, dựa trên cân đối thu, chi NSNN,
Chính phủ nghiên cứu, xem xét giải pháp hỗ trợ các DNKNST thông qua hỗ
trợ một lượng tiền mặt theo một tỷ lệ nhất định trên vốn tự có của DNKNST;
- Các khoản cho vay, bảo lãnh tín dụng: Chính phủ đứng ra bảo lãnh tín
dụng cho những DNKNST đi kèm các cam kết về sử dụng khoản vay, vốn đối
ứng tối thiểu. Ví dụ các khoản tín dụng dành cho DNKNST từ các quỹ, tổ chức
tín dụng của Nhà nước hoặc các biện pháp bảo lãnh cho các DNKNST vay tín
dụng tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng tư nhân.
- Các khoản đầu tư mạo hiểm: việc đầu tư này có thể được thực hiện
thông qua các quỹ đầu tư Nhà nước hoặc đầu tư gián tiếp thông qua việc phối
66
hợp đầu tư với các nhà đầu tư/quỹ đầu tư tư nhân hoặc cung cấp các chương
trình bảo lãnh đầu tư cho các nhà đầu tư/quỹ đầu tư tư nhân đầu tư vào
DNKNST.
- Miễn, giảm các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước: Ở nhóm biện pháp
này Nhà nước hỗ trợ startup thông qua việc giảm các nghĩa vụ về tài chính phải
nộp của DNKNST (ví dụ miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị
gia tăng, giảm các mức đóng góp cho bảo hiểm xã hội).
- Phát triển thêm các kênh huy động vốn cho DNKNST, chú trọng huy
động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nghiên cứu và triển khai sàn giao
dịch chứng khoán dành cho các DNKNST, giúp các DN huy động vốn trực tiếp
từ xã hội góp phần tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn về vốn cho DNKNST.
Mô hình này đã rất thành công trong việc hỗ trợ cho DNKNST, góp phần giảm
bớt áp lực huy động nguồn tài chính - thường là gánh nặng đối với các
DNKNST mới thành lập. Cần xây dựng một thị trường vốn chuyên dành cho
các DNKNST. Việc xây dựng một thị trường chứng khoán tập trung cung cấp
vốn cho các DNKNST, tách bạch với thị trường niêm yết có thể có lợi đặc biệt
đối với nền kinh tế đang tăng trưởng của Việt Nam. Thị trường này sẽ cung cấp
cơ hội cho DNKNST có thể tiếp cận các nguồn vốn với những tiêu chuẩn đặt
ra ở mức thấp hơn chẳng hạn tiêu chuẩn công khai về đặc tính của sản phẩm,
báo cáo đánh giá tác động của sản phẩm đến thị trường, báo cáo triển vọng của
sản phẩm.
Nhà nước khuyến khích các nhà đầu tư thiên thần, thành lập các quỹ đầu
tư mạo hiểm, đây là nhóm biện pháp kêu gọi khu vực tư nhân tham gia vào hoạt
động đầu tư mạo hiểm cho DNKNST. Xây dựng Quỹ đầu tư cho DNKNST
theo mô hình hợp tác công - tư thuộc Chính phủ nhằm mục đích kêu gọi vốn
đầu tư, tài trợ từ các thành phần xã hội cho các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo tiềm năng. Quỹ đầu tư này sẽ được đăng ký hoạt động theo mô hình Công
67
ty đầu tư tài chính và ủy thác đầu tư. Phần lợi nhuận tạo ra từ nguồn đầu tư của
Nhà nước và các nhà tài trợ sẽ được sử dụng để tái đầu tư cho hoạt động ươm
tạo công nghệ, ươm tạo DNKNST cũng như đầu tư trực tiếp cho DNKNST
tiềm năng.
Hỗ trợ từ khu vực tư nhân: Để thực hiện được hệ sinh thái khởi nghiệp,
doanh nghiệp lớn đi trước nên cấp vốn cho DNKNST. Những doanh nghiệp
lớn coi trách nhiệm hỗ trợ DNKNST là những mục tiêu phát triển cộng đồng
lớn nhất. Vai trò của doanh nghiệp đi trước rất lớn, cùng với đó nguồn lực trên
thị trường còn rất nhiều, do đó, cần cố gắng khơi dậy những nguồn lực từ các
doanh nghiệp, tập đoàn quay lại đầu tư vào khởi nghiệp.
Các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, vườn ươm DNKNST thường là
hình thức hỗ trợ khởi nghiệp được thành lập bởi các tổ chức chính phủ, các
trường đại học, các DN lớn Các mô hình này cung cấp vốn vay với lãi suất
ưu đãi, vốn tài trợ cho các dự án tham gia; đồng thời, cung cấp cơ sở vật chất,
hạ tầng sản xuất, công nghệ, kỹ thuật, các khóa học về kinh doanh hoặc hệ
thống tư vấn pháp luật miễn phí hoặc với chi phí ưu đãi.
Phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm để làm “cầu nối” giữa bên cần vốn
với bên có vốn nhàn rỗi. Với mục tiêu hỗ trợ tài chính cho DNKNST thì nhiều
loại hình định chế tài chính trung gian đã ra đời. Một trong số đó là quỹ đầu tư.
Là một dạng doanh nghiệp đặc biệt, quỹ đầu tư không dùng vốn để mua máy
móc thiết bị phục vụ các hoạt động sản xuất kinh doanh, mà dùng vốn để đầu
tư trực tiếp (góp cổ phần, mua cổ phiếu phát hành lần đầu với tư cách là cổ
đông sáng lập); hoặc gián tiếp (kinh doanh chứng khoán nhằm hưởng chênh
lệch giá hay cổ tức từ các công ty hoặc lợi tức trái phiếu).
Phát triển thị trường dịch vụ tư vấn trong các lĩnh vực tài chính, quản lý,
công nghệ, luật pháp... Tại các nước có nền công nghiệp đầu tư vốn mạo hiểm
phát triển, quá trình gia tăng giá trị tài sản của nhà đầu tư mạo hiểm trong các đối
68
tác được tài trợ không thể thiếu vai trò của các nhà tư vấn. Hơn nữa hoạt động tư
vấn phát triển sẽ tạo ra mạng lưới thông tin hiệu quả giúp các nhà đầu tư hạn chế
được rủi ro và có thể dự báo hợp lý về xu hướng phát triển trong các lĩnh vực công
nghệ mới.
Thành lập hiệp hội các nhà đầu tư vốn mạo hiểm Việt Nam. Hiệp hội là
nơi kết nối và tập trung các luồng thông tin có giá trị liên quan đến hoạt động
đầu tư vốn mạo hiểm. Hơn nữa, hiệp hội còn mở ra nhiều cơ hội cho các nhà
đầu tư mạo hiểm tham gia hợp tác kinh doanh trong cùng một thương vụ nhằm
chia sẻ rủi ro. Đây cũng là một xu thế phổ biến trên thế giới hiện nay.
Các DNKNST cố gắng liên kết lại với nhau để hỗ trợ nhau về công nghệ,
thị trường và nguồn vốn. Tuy nhiên, liên kết giữa các startup trên thị trường
không chỉ là liên kết của doanh nghiệp khởi nghiệp với nhau mà nó còn là sự
liên kết từ các cơ quan tổ chức khác nhau từ Chính phủ, trường đại học, nhà
đầu tư
3.2.3. Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, hỗ trợ kinh doanh
Các giải pháp này nhằm giúp các DNKNST vượt qua được các khó khăn
về kinh doanh do thiếu các kiến thức cần thiết về kinh tế, quảng bá và kết nối
mạng lưới. Ở một góc độ nhất định, các biện pháp thuộc nhóm này cũng góp
phần hỗ trợ cho DNKN vượt qua các khó khăn về vốn của mình (thông qua
việc giảm bớt các chi phí về quản lý, thuê dịch vụ).
Do các thị trường có đặc điểm tương đối khác biệt (thị trường hàng hóa,
thị trường địa lý, hành chính), dẫn tới nhu cầu tư vấn, hỗ trợ khác nhau. Vì
vậy các biện pháp hỗ trợ thuộc nhóm này cũng rất đa dạng, tuy nhiên chủ yếu
vẫn là:
- Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại
cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung; hướng dẫn thử
nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới;
69
- Hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới
khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo;
- Hỗ trợ tư vấn về pháp lý và quản trị miễn phí hoặc được tài trợ một
phần phí.
- Hỗ trợ marketing cho DNKNST, bao gồm cả quảng bá, giới thiệu, xúc
tiến thương mại cho sản phẩm của DNKNST. Giúp DNKNST thực hiện thương
mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, khai thác và phát
triển tài sản trí tuệ.
- Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản
phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng. Hỗ trợ kết nối để các DNKN
có thể tiếp cận được mạng lưới các nhà đầu tư, các đơn vị, chương trình, dự án
hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo.
Nhà nước cần tập trung đẩy mạnh chính sách phát triển hệ thống vườn
ươm công nghệ: Cần coi trọng việc phát triển hệ thống vườn ươm công nghệ
như là một công cụ đòn bẩy quan trọng trong hỗ trợ phát triển DNKNST bằng
KHCN, thương mại hoá công nghệ và thúc đẩy đổi mới, chuyển giao công nghệ,
liên kết khoa học với sản xuất, thị trường. Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” cho
các DNKNST. Nguồn kinh phí hỗ trợ các cơ sở ươm tạo cũng như DNKNST
thực hiện theo cơ chế Nhà nước hỗ trợ 50%, 50% còn lại là kinh phí của các tổ
chức.
Thúc đẩy việc phát triển các mô hình vườn ươm đặc thù như vườn ươm
tại các trường đại học, hoặc vườn ươm cho chuyên gia kiều bào, hay mô hình
vườn ươm DNKNST được thành lập ngay trong DN nhà nước, nhất là các tập
đoàn, tổng công ty lớn.
Xây dựng và kết nối trang thông tin điện tử Vườn ươm doanh nghiệp đổi
mới sáng tạo trong các lĩnh vực để hỗ trợ và cung cấp thông tin cần thiết cho
70
các cá nhân, nhóm cá nhân, doanh nghiệp trong các lĩnh vực. Hỗ trợ các vườn
ươm quảng bá công nghệ, các DNKNST thông qua các hình thức tổ chức hội
chợ công nghệ, xúc tiến thương mại điện tử
3.2.4. Hỗ trợ việc xây dựng cơ sở hạ tầng
Xây dựng khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại
các Bộ, ngành, địa phương có tiềm năng phát triển hoạt động khởi nghiệp, trong
đó hỗ trợ một phần kinh phí sửa chữa và áp dụng mức phí ưu đãi trong khai
thác cơ sở hạ tầng (diện tích, không gian sẵn có) tại các địa điểm thuận lợi cho
cung cấp dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, ưu tiên khu vực gần các
trường đại học, tổ chức kinh tế, tài chính; hỗ trợ kinh phí lắp đặt hạ tầng công
nghệ thông tin và cung cấp dịch vụ Internet miễn phí trong Khu tập trung dịch
vụ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Thu hút tư nhân đầu tư sửa chữa, trả phí khai thác cơ sở hạ tầng, lắp đặt
trang thiết bị cần thiết và tổ chức quản lý, khai thác Khu tập trung dịch vụ hỗ
trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; cung cấp các dịch vụ đào tạo, huấn luyện, tư
vấn; kết nối đầu tư, khách hàng; cung cấp nguồn nhân lực, không gian làm việc,
thiết bị dùng chung cho hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Phần lớn các DNKNST có nhu cầu cao mặt bằng hoạt động, cơ sở vật
chất, trang thiết bị hiện đại để nghiên cứu nhưng lại không có đủ nguồn lực
trang trải cho các cơ sở vật chất này. Vì vậy, hầu như ở tất cả các nước nơi Nhà
nước có biện pháp hỗ trợ DNKN đều sử dụng biện pháp hỗ trợ này.
Hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, kinh doanh thông qua các chính sách
khuyến khích về các nhà đầu tư xây dựng các khu dịch vụ dùng chung cho các
DNKNST, như hỗ trợ một phần chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chi
phí vận hành, chi phí thuê mặt bằng.
Nhóm này bao gồm các biện pháp như:
71
- Xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các khu làm việc chung, các công
viên công nghệ, vườn ươm khoa học của Nhà nước, từ đó cung cấp không gian
làm việc và trang thiết bị với giá hợp lý, hoặc miễn giảm phí thuê cho các
startup;
- Hỗ trợ các chi phí về cơ sở hạ tầng cho startup tại các khu làm việc,
vườn ươm tư nhân
3.2.5. Tăng cường truyền bá tạo động lực, cảm hứng
Giải pháp này được biết tới chủ yếu thông qua các hoạt động mang tính
chất bề nổi, truyền thông rộng rãi, qua đó tạo cảm hứng, thúc đẩy tinh thần sáng
tạo khởi nghiệp, xây dựng nhận thức, văn hóa tích cực của xã hội đối với
startup, lựa chọn các startup mục tiêu để tập trung hỗ trợ hiệu quả.
Nhóm biện pháp này được sử dụng hầu như ở tất cả các nước, với ưu
điểm là chi phí thấp, lại tạo hiệu quả lan tỏa rộng:
- Các cuộc thi, giải thưởng cho các startup
- Các hoạt động quảng bá, truyền thông (chuyên mục báo chí nhằm
tăng cường nhận thức của công chúng đối với startup
- Bảo trợ, thúc đẩy thành lập các tổ chức kết nối, đại diện (ví dụ các câu
lạc bộ, cộng đồng, nhóm tương trợ) cho các startup.
Hiện nay, môi trường khởi nghiệp Việt Nam còn rất non trẻ so với thế
giới nhưng chúng ta vẫn có nhiều tiềm năng để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp
một cách mạnh mẽ: còn đang ở trong (cuối) thời kì dân số vàng, nền kinh tế
đang phát triển, hơn nửa triệu doanh nghiệp đang hoạt động, hàng trăm trường
đại học và trung tâm nghiên cứu đang hoạt động trên khắp cả nước. Cần phải
hình thành tinh thần khởi nghiệp cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường. Bài học từ các quốc gia phát triển trên thế giới cho thấy, ý chí tự làm
chủ của con người phải được tôi luyện trong hệ thống giáo dục và xã hội ngay
từ khi còn nhỏ.
72
Theo số liệu công bố của nhà nước, trong những năm gần đây, số lượng
các công ty mới thành lập bình quân khoảng 80.000 doanh nghiệp/năm (riêng
năm 2016 có thể tăng đến gần 100.000 công ty); nhưng cũng đã có bình quân
khoảng 50.000 công ty ngừng hoạt động/mỗi năm. Điều này chứng tỏ tinh thần
khởi nghiệp của giới trẻ Việt Nam có tiềm năng phát triển, thị trường khởi
nghiệp Việt Nam đang có sức sống. [27]
3.2.6. Đẩy mạnh hoạt động giáo dục đào tạo
Giải pháp này bao gồm các biện pháp nhằm xây dựng các kỹ năng mà
các DNKNST thường bị hạn chế, qua đó thúc đẩy và tạo thuận lợi cho việc khởi
nghiệp sáng tạo.
Mục tiêu là tạo dựng tinh thần khởi nghiệp - đổi mới - sáng tạo trong học
đường, các trường đại học cao đẳng cần có nhiều chương trình học và làm thiết
thực, cung cấp kiến thức và truyền cảm hứng làm chủ sự nghiệp, làm chủ bản
thân cho sinh viên. Phát triển khởi nghiệp trong trường đại học, cần tạo diễn
đàn chung cho sinh viên các ngành khác nhau, phải có một nơi cho các em đến
giao lưu, gặp gỡ, trao đổi ý tưởng. Vai trò cốt lõi của đại học là tạo ra hạt giống
và ươm tạo các ý tưởng khởi nghiệp. Nhà trường có điều kiện tạo môi trường
thuận lợi để sinh viên tham gia các hoạt động đổi mới, sáng tạo và nghiên cứu
khoa học, tổ chức các cuộc thi ý tưởng khởi nghiệp, tạo sự kết nối giữa các
nhóm nhằm hình thành các dự án khởi nghiệp.
Đối với giai đoạn khi hệ sinh thái khởi nghiệp ngay trong trường phát triển
tốt, các trường đại học phát huy tối đa vai trò kết nối. Đó là sự kiến tạo liên kết
giữa sinh viên với DNKNST để tạo việc làm; giữa nhà khoa học với DNKNST,
đưa tri thức, dự án nghiên cứu vào đời sống - xã hội, sản xuất, kinh doanh; kết nối
các nguồn lực hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp sáng tạo. Với hoạt động này, trường
đại học không chỉ là nơi ươm mầm cho các dự án kinh doanh đổi mới, sáng tạo
tiềm năng mà còn tạo cơ hội thu hút những tài năng đến tăng trải nghiệm cọ xát
với môi trường thực tiễn cho sinh viên trong trường.
73
Các trường đại học, cao đẳng phải đóng vai trò tiên phong trong việc
nghiên cứu ứng dụng, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho
cộng đồng và đời sống xã hội. Đồng thời, tiên phong trong việc tiếp cận các
thành tựu khoa học tiên tiến của thế giới, thử nghiệm và truyền tải những kiến
thức đó đến các thế hệ, đưa ra các định hướng phù hợp với tiến bộ của thế giới.
Vai trò của đại học cũng rất quan trọng trong chuyển giao kết quả nghiên cứu
thành công đến với doanh nghiệp, tạo ra các kết nối giữa doanh nghiệp và nhà
trường.
Về cơ bản nhóm giải pháp về thông qua giáo dục để phát triển DNKNST
thường bao gồm:
- Các chương trình đào tạo, hướng dẫn khởi nghiệp tại các trường đại
học, các cơ sở giáo dục bậc cao (đào tạo, tập huấn các kiến thức kinh doanh,
các kỹ năng, điều kiện, quy trình để sinh viên có thể khởi nghiệp)
- Các chương trình đào tạo kỹ năng quản trị, quản lý tài chính, lao động
cho các sáng lập viên của các DNKNST.
74
Kết luận chương 3
Phát triển DNKNST được Chính phủ coi là nhiệm vụ trọng tâm, thường
xuyên và liên tục. Theo đó, các cơ quan thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST
đã tạo ra những bước tiến rõ rệt, các DNKNST được hỗ trợ về thủ tục pháp lý,
hỗ trợ tư vấn cũng như tạo điều kiện hỗ trợ vốn hoặc kêu gọi các nhà đầu tư
thiên thần.
Để thực hiện được tốt nhất việc hỗ trợ DNKNST cần có phương hướng
và giải pháp thực hiện cụ thể hơn nữa, cần sự quyết liệt của cả hệ thống chính
trị. Việc thực hiện đồng loạt các nhóm giải pháp sẽ tác động trực tiếp và có hiệu
quả cao đến DNKNST. Với việc tham gia hàng loạt các FTA thế hệ mới việc
hỗ trợ DNKNST sẽ mở ra nhiều cơ hội cho DNKNST có cơ hội tiếp cận với
vốn, với thị trường quốc tế, nhằm tránh trường hợp DNKNST bị “chết” từ trong
chính thị trường Việt Nam khi không cạnh tranh được với các doanh nghiệp
nước ngoài.
Qua thực tiễn việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt Nam.
Những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra, đề tài đề xuất phương hướng, giải pháp
nhằm đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt Nam
những năm tiếp theo như hoàn thiện pháp lý, hỗ trợ tài chính, tư vấn, hỗ trợ cơ sở
vật chất, truyền bá tinh thần khởi nghiệp và giáo dục đào tạo về KNST.
75
KẾT LUẬN
Với việc hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã và đang nhận được sự
quan tâm và đầu tư từ các doanh nghiệp trên khắp thế giới. Hệ sinh thái khởi
nghiệp theo đó cũng dần được hình thành, hướng tới mục tiêu quốc gia khởi
nghiệp với khởi nghiệp sáng tạo là trung tâm. Việc nghiên cứu về thực hiện chính
sách hỗ trợ DNKNST là cần thiết lúc này nhằm đánh giá khách quan, chính xác
vai trò đóng góp của DNKNST, đồng thời đề ra được phương hướng, giải pháp
nhằm hỗ trợ DNKNST.
Nghiên cứu về thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt Nam là một
đề tài còn mới, tuy nhiên thời gian gần đây đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
Mỗi tác giả, mỗi bài viết đưa ra những quan điểm nội dung khác nhau về thực
hiện chính sách hỗ trợ DNKNST nhưng có một mục tiêu chung là đưa việc thực
hiện chính sách có hiệu quả tốt hơn cho DNKNST và hoàn thiện hơn chính sách
hỗ trợ DNKNST.
Trong quá trình toàn cầu hóa, thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0
các DNKNST có giá trị vô cùng to lớn trong việc đưa hình ảnh đất nước, đưa
nền kinh tế vươn tầm. Với hoạt động ngày càng mạnh mẽ, sự phát triển nhanh
của các DNKNST đã có tác động không nhỏ đến nền kinh tế. Luận văn đã
khái quát nội dung cơ bản của DNKNST như khái niệm, đặc điểm, vai trò và
sự khác biệt giữa DNKNST và DNVVN và nhấn mạnh sự cần thiết phải có
cơ chế hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này. Luận
văn cũng đã trình bày được những nội dung cơ bản trong thực hiện chính
sách hỗ trợ, phát triển DNKNST của Việt Nam và phân tích một số yêu cầu
đặt ra đối với Nhà nước trong công tác hỗ trợ DNKNST trước những cơ hội
76
và thách thức mà các DNKNST Việt Nam phải đối mặt trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Những phân tích đánh giá trong luận văn đã phần nào phản ánh được
hiện trạng thực hiện các chính sách hỗ trợ DNKNST ở Việt Nam hiện nay. Cụ
thế, nó là những yếu tố chủ yếu gây trở ngại đối với DNKNST Việt Nam là
hành lang pháp lý chưa rõ ràng và hoàn thiện, khả năng kêu gọi vốn, các hệ
sinh thái hỗ trợ DNKNST Luận văn cũng đã đề cập, phân tích và đánh giá
việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST trong thời gian qua để rút ra những
bài học kinh nghiệm trong công tác thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST trong
thời gian tới. Qua phân tích cho thấy được mục tiêu chính sách của Nhà nước
tập trung chủ yếu vào hỗ trợ tài chính, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, hỗ
trợ phát triển đổi mới công nghệ, giúp doanh nghiệp gọi vốn và tiếp cận nguồn
vốn từ những quĩ đầu tư mạo hiểm trong và ngoài nước.
Qua việc phân tích thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST, luận
văn đề xuất phương hướng và giải pháp hỗ trợ DNKNST trong thời gian tới.
Theo đó Nhà nước cần hoàn thiện về chính sách môi trường pháp lý; hỗ trợ về
tài chính; tư vấn hỗ trợ cho DNKNST; hỗ trợ về cơ sở vật chất, đất đai, văn
phòng; truyền bá tinh thần và văn hóa khởi nghiệp tạo làn sóng khởi nghiệp
quốc gia mạnh mẽ hơn nữa; thông gia giáo dục đào tạo đưa khởi nghiệp là một
môn học mới.
Phát triển DNKNST là chủ trương đúng đắn và kịp thời hội nhập của Đảng
và Nhà nước nhằm phát huy mọi nguồn lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã
hội. Nhờ có chính sách đúng đắn mà chúng ta đã thấy được sự chuyển mình mạnh
mẽ của các DNKNST trong thời gian qua, hàng loạt các DNKNST gọi được vốn
và vươn mình ra biển lớn, một số DNKNST đã làm nên thương hiệu trên toàn thế
giới. Khi nền kinh tế càng hội nhập sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới, các
77
DNKNST phải đương đầu với sự cạnh tranh quyết liệt từ các DN đến từ các nước
trong khu vực và thế giới. Chỉ bằng sự nỗ lực đơn lẻ của các DNKNST thì không
thể thành công trước những thách thức của hội nhập. Các DNKNST cần được hỗ
trợ tích cực hơn của Nhà nước, đặc biệt trong việc giảm thiểu rủi ro, các rào cản
cản từ phía cơ chế chính sách, tạo môi trường kinh doanh thực sự mở, bình đẳng,
thuận lợi, rõ ràng, minh bạch.
78
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thuc_hien_chinh_sach_ho_tro_doanh_nghiep_khoi_nghie.pdf