Luận văn Thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên

Một là, thực hiện dân chủ ở cấp xã, thị trấn là một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, liên quan đến mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của người dân. Dân chủ ở cấp xã là một giá trị văn hóa, nó đảm bảo cho người dân thực sự làm chủ xã hội, làm chủ đất nước. Để việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã đạt chất lượng cao hơn, cần có sự quan tâm, quyết tâm thực hiện của tất cả các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân và phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục. Cách thức thực hiện nên đa dạng, phong phú đan xen các hình thức thực hiện với nhau. Đây là một công việc không thể thực hiện trong ngày một, ngày hai mà nó là cả một quá trình lâu dài với nhiều khó khăn, gian khổ. Hai là, vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã phải gắn với điều kiện cụ thể của từng địa phương, cơ sở không nên áp dụng một cách máy móc, ồ ạt. Vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ hiện nay cần phải được111 đảm bảo bằng một hệ thống đồng bộ các giải pháp, hệ thống các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, dân trí, pháp luật, đội ngũ cán bộ. Sự nhận thức đúng đắn các điều kiện thực hiện dân chủ đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện, quan điểm thực tiễn và phát triển. Ba là, đổi mới phương thức tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cấp xã là giải pháp cơ bản, có ý nghĩa trọng yếu và trực tiếp quyết định đến chất lượng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã. Gắn liền nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa bàn cụ thể, sự đổi mới phư- ơng thức tổ chức và hoạt động của từng bộ phận hợp thành cũng như cả hệ thống chính trị ở cấp xã sẽ có tác động trực tiếp tới phát huy dân chủ. Từng bước hình thành dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ở cấp xã sẽ tác động mạnh mẽ tới quá trình phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua cơ chế vận hành của hệ thống chính trị và sự tự quản của các tầng lớp xã hội trong cộng đồng. Bốn là, nâng cao trình độ văn hóa dân chủ là một giải pháp tác động đồng bộ tới cấu trúc, ý thức dân chủ, năng lực và kinh nghiệm thực hành dân chủ. Qua đó tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, tham nhũng, cơ hội, lộng quyền, lạm quyền, bè phái gây mất đoàn kết nội bộ, tha hóa về đạo đức của đội ngũ cán bộ sẽ được ngăn chặn từng bước. Cùng với sự điều chỉnh và tác động mạnh mẽ của pháp luật đến sự điều chỉnh hành vi của mỗi công dân, cả những chủ thể lãnh đạo và bị lãnh đạo, nâng cao trình độ văn hóa pháp luật dần dần tạo nếp sống tôn trọng kỷ cương, phép nước, tránh được biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô chính phủ. Năm là, cần tổng kết thật khách quan, khoa học về thực tiễn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã nói riêng trong những năm triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở vừa qua, phát hiện kịp thời những chỗ bất hợp lý, những khiếm khuyết trong quá trình triển khai thực hiện để bổ sung, sữa chữa và áp dụng những biện pháp thiết thực hơn để việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở thực sự đem lại hiệu qủa và chất lượng.11

pdf127 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 583 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thi đua yêu nước nhằm tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thứ tư: Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính tri, phát huy cao vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn, tiêu cực ở cơ sở; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch kích động, chống đối, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội. Thứ năm: Phát huy vai trò của ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở, các cấp, các ngành trong việc hướng dẫn, đôn đốc, tham mưu cho cấp uỷ kiểm tra, chỉ đạo thường xuyên; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn; coi trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện cán bộ, công chức về ý thức, trách nhiệm, phong cách, năng lực thực hiện dân chủ ở cơ sở và dân chủ với nhân dân. Thứ sáu: Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng; trách nhiệm của Chính quyền, của người đứng đầu về thực hiện QCDC; tiếp tục chỉ đạo cụ thể hoá phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" ở cơ sở. Phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền và giám sát việc thực hiện; vận động nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cơ sở. Để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, ngày 7/01/2016 Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 120-KL/TW về tiếp tục đẩy 92 mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Kết luận yêu cầu thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau: - Tiếp tục tổ chức quán triệt Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị khóa VIII về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở một cách đồng bộ, đi vào chiều sâu ở tất cả các loại hình cơ sở, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân. - Cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, địa phương, đơn vị có trách nhiệm xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở trong phạm vi được phân công phụ trách, xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài; chú trọng các địa bàn, các cơ sở thực hiện chưa tốt. - Các đồng chí Ủy viên Trung ương, Ban Thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các ban đảng, đảng đoàn trực tiếp chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW; tăng cường phát huy dân chủ trong Đảng, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Chống quan liêu và cách hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy, mở rộng dân chủ đi đôi với giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật. Kịp thời xử lý việc lợi dụng dân chủ, lôi kéo, kích động gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. - Quốc hội, Chính phủ, hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt hơn chế độ dân chủ đại diện. Tích cực rà soát, bổ sung, sửa đổi, ban hành mới văn bản pháp luật bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhất là các quyền đã được Hiến pháp quy định. Tiếp tục thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. - Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục tuyên truyền, giáo dục để hội viên, đoàn viên và nhân dân hiểu và thực hiện đúng 93 các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân; thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, nhất là vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân. - Nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền, để nhân dân nâng cao nhận thức, tiếp cận thông tin, nhất là các chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp, để người dân tự giác thực thi pháp luật và thực hiện tốt quyền dân chủ trực tiếp theo quy định của pháp luật. Chú trọng tuyên truyền các gương điển hình, mô hình tốt về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; báo chí phải đưa tin trung thực, phản biện khách quan, đúng bản chất vấn đề. - Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng có liên quan đến dân chủ ở cơ sở; tổng kết việc thực hiện Pháp lệnh số 34-PL/UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các văn bản luật có liên quan. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật liên quan đến quyền con người, quyền công dân, quyền dân chủ phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tinh giản biên chế. Hội đồng Lý luận Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan nghiên cứu những vấn đề về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, làm cơ sở cho việc cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. - Các tỉnh ủy, thành ủy, ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương căn cứ nội dung Kết luận này cụ thể hóa thành chương trình công tác của cấp ủy, chỉ đạo triển khai, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện. 94 Để cụ thể hóa chủ trương trên, ngày 28/4/2016, Ban Thường vụ Huyện ủy Sơn Hòa ban hành Kế hoạch số 25-KH/HU thực hiện Kết luận 120- KL/TW. Kế hoạch đã chỉ đạo: - UBND huyện chỉ đạo các phòng, ban, đơn vị sự nghiệp công lập và UBND các xã, thị trấn tiếp tục chỉ đạo triển khai và thực hiện có hiệu quả Nghị định số 04/2015/NĐ-CP, ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 60/2013/NĐ-CP, ngày 19/6/2013 của Chính phủ Quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc; Pháp lệnh số 34/2007/PL- UBTVQH ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn và các văn bản về thực hiện Quy chế dân chủ của Trung ương Đảng, Chính phủ, của bộ, ban, ngành đến cán bộ, công chức, viên chức và người lao động. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến Quy chế dân chủ ở cơ sở; điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung hương ước, quy ước thôn, buôn, khu phố cho phù hợp với thực tế và đúng quy định của pháp luật. Hướng dẫn: nội dung công khai việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với xã, thị trấn, các khoản huy động nhân dân đóng góp; công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến các dự án, công trình trên địa bàn xã, thị trấn; hướng dẫn Ban Giám sát đầu tư cộng đồng cụ thể nội dung thực hiện chức năng giám sát đầu tư cộng đồng đối với các dự án, công trình đóng trên địa bàn xã, thị trấn thực hiện theo quy định. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ tại cơ quan, đơn vị. Định kỳ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm; biểu dương, khen thưởng những cơ quan, đơn vị, cá nhân thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. 95 - Các Ban Đảng, tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Huyện ủy tiếp tục quán triệt, triển khai, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị, Kết luận số 65-KL/TW, ngày 04/03/2010 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, Kết luận số 120-KL/TW, ngày 07/01/2016 của Bộ Chính trị và các văn bản pháp luật về dân chủ một cách đồng bộ, đi vào chiều sâu ở tất cả các loại hình cơ sở, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc tổ chức quán triệt phải được tổ chức cho cấp ủy, lãnh đạo đơn vị, Chi bộ Đảng và thông qua các Hội nghị tập huấn, sơ, tổng kết của cơ quan, đơn vị, địa phương. Xây dựng Chương trình, Kế hoạch công tác cụ thể hằng năm để lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; kịp thời củng cố, kiện toàn và duy trì hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo các cuộc vận động xây dựng cơ sở. Chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, Kết luận số 120-KL/TW của Bộ Chính trị và Kế hoạch này của Ban Thường vụ Huyện ủy; tăng cường phát huy dân chủ trong Đảng, đề cao trách nhiệm người đưng đầu và vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Phối hợp tăng cường, đổi mới công tác quán triệt, phổ biến, tuyên truyền các quan điểm của Đảng; Pháp lệnh, các Nghị định của Chính phủ; Kế hoạch của Ban Thường vụ Huyện ủy về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức, ý thức chính trị, quyền làm chủ của nhân dân, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người đứng đầu. - Mặt trận và các Hội, Đoàn thể huyện chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để hội viên, đoàn viên và nhân dân hiểu, thực hiện đúng các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân. Thực hiện tốt công tác giám sát và phản 96 biện xã hội đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân. Nâng cao chất lượng hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng trong việc giám sát thực hiện chính sách, pháp luật, các công trình đầu tư công cộng trên địa bàn các xã, thị trấn. 3.2.2. Giải pháp cụ thể 3.2.2.1. Giải pháp về thực hiện tốt công khai hoá những điều "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" theo Pháp lệnh số 34 của UBTVQH11 Mục tiêu quan trọng nhất của thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn là nhằm giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, một nền dân chủ cho đa số một cách thực sự, thực tế. Vì thế thu hút đông đảo người dân, đặc biệt là nông dân tham gia vào công việc quản lý của Nhà nước bằng cách để cho “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” một cách thực sự. Để phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân chính quyền các cấp phải tổ chức thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh về dân chủ. a. Những việc cần thông báo để nhân dân biết Một trong những quyền trước tiên của nhân dân đó là quyền được biết về tình hình chung đang diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của đất nước, của địa phương và những vấn đề cụ thể có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của bản thân mỗi người dân, cũng như của gia đình và cộng đồng dân cư, đã được quy định rõ tại Điều 5 Pháp lệnh số 34 của UBTVQH11, theo đó chính quyền xã có trách nhiệm thông tin kịp thời và công khai để nhân dân biết 11 công việc chính. Hình thức công khai là niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã; công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân. Ngoài ra, Chính quyền cấp xã có thể áp dụng đồng thời nhiều hình thức công khai quy định tại khoản 1 97 Điều này; thực hiện việc cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 32 của Luật phòng, chống tham nhũng. b. Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp "Dân bàn" là khâu thứ hai bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Bàn là tôn trọng quyền tự do ngôn luận của nhân dân, người dân được phát ngôn, biểu thị ý chí, nguyện vọng của mình đối với cộng đồng cũng như với chính quyền. Không có cơ chế dân chủ thì nhân dân sẽ không có điều kiện "bàn" các vấn đề họ quan tâm. Việc nhân dân được bàn bạc và quyết định những vấn đề thuộc lĩnh vực pháp luật cho phép đã giúp cho nhân dân nâng cao nhận thức, phát huy trí tuệ, tạo động lực thúc đẩy nhân dân tham gia, hưởng ứng nhiệt thành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bằng việc đóng góp sức lực, của cải vật chất để xây dựng các công trình phúc lợi công cộng. Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật. Hình thức bàn và quyết định được quy định tại Điều 11. Xây dựng các chủ trương, chính sách phù hợp với thực tế. Như vậy vấn đề "Dân biết" để "bàn", để "làm" là nhu cầu hết sức cấp bách và khách quan của mọi người dân. c. Chững việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, chính quyền xã quyết định Ngoài việc người dân được "bàn" và "quyết định những vấn đề cụ thể" nêu trên, còn những vấn đề việc quyết định cuối cùng phải do chính quyền xã hoặc cấp trên thực hiện thì người dân cũng được tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến để giúp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp trên có những quyết sách đúng đắn và sáng suốt. Thực tế đã chứng minh có nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được xuất phát từ sáng kiến của quần chúng ở cơ sở. Vì vậy, việc nhân dân bàn và tham gia ý kiến một số 98 việc chủ yếu là thủ tục bắt buộc trước khi chính quyền xã hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. d. Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra Kiểm tra, giám sát của nhân dân là một nội dung thực hiện quyền dân chủ của nhân dân nhằm góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và các đoàn thể nhân dân trong sạch, vững mạnh. Kiểm tra, giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong phát hiện những khuyết điểm của cán bộ, công chức trong bộ máy Đảng và Nhà nước để chấn chỉnh những sai phạm, đưa mọi hoạt động vào đúng nền nếp; kịp thời phát hiện những sai phạm để xử lý kỷ luật, tạo dựng trật tự kỷ cương, góp phần vào việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước của tập thể, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Do đó, quyền kiểm tra, giám sát không chỉ thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan chuyên trách công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, mà còn phải lôi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia. Nhân dân cần được kiểm tra, giám sát những gì có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ, giám sát việc thực thi nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước địa phương, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, những người có trách nhiệm trong việc thực hiện những quy định về tài chính, kinh tế, quản lý sử dụng đất đai, chính sách xã hội là việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân Tóm lại, để thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ngoài việc tuân thủ, quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thì muốn để cho “dân biết” thì phải công khai, minh bạch trong tất cả các công việc của các tổ chức Đảng, nhà nước, các cấp chính quyền, đoàn thể, cũng như các cơ quan, đơn vị; muốn để cho "dân bàn" thì cơ quan, tổ chức và người lãnh đạo phải gần dân, "mở lòng" với nhân dân, tôn trọng ý kiến của nhân dân, thể hiện tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ. Đấy cũng là tinh thần "thật thà tự phê bình và phê bình" của những nhà lãnh đạo 99 các cấp. Từ đấy, nhân dân mới được hỏi, được nói, được bàn bạc mọi việc cho đến thấu lí, vẹn tình; muốn để cho "dân làm", dân hăng hái tham gia các công việc của đất nước, của địa phương, tham gia quản lý xã hội, thì phải trên cơ sở "dân biết" và "dân bàn" thấu đáo; giám sát là khâu cuối của quy trình dân chủ trong quản lý nhà nước, có ý nghĩa quan trọng, không chỉ bảo đảm cho các quyết định quản lý đã thông qua được thực hiện chính xác, kịp thời mà còn góp phần khắc phục các vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. 3.2.2.2. Giải pháp về hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Pháp luật là công cụ quan trọng nhất để đảm bảo thực thi quyền Dân chủ của nhân dân. Pháp luật được hiểu một cách đơn giản là những quy tắc quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức, cơ quan Nhà nước với nhau trong mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Pháp luật là thước đo của hành vi, khuôn mẫu của các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Pháp luật là một công cụ quan trọng trong quản lý xã hội. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp thuyết phục và cưỡng chế, bằng chính các thành viên trong xã hội và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Các quyền dân chủ của nhân dân đều được “luật hoá”, nghĩa là được quy định trong các văn bản pháp luật và được đảm bảo thực hiện bằng các cơ quan chính quyền, dưới sự giám sát của nhân dân. Vậy có thể thấy rằng hệ thống pháp luật có vị trí và vai trò quan trọng trong việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Do đó để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước XHCN theo đúng nghĩa “của dân, do dân, vì dân” thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là điều quan trọng và cần thiết. Có thể hoàn thiện ở một số khía cạnh cơ bản sau: Sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện về mặt văn bản và tăng cường tính pháp lý, tính chế tài của pháp luật. Tính đến thực tế về trình độ nhận thức và tâm lý nông dân. Mọi văn bản liên quan tới việc thực hiện dân chủ cần quy định theo 100 phương châm “ít lời, nhiều ý, ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ đánh giá”. Xoá bỏ và có chế tài nghiêm khắc với “cơ chế xin - cho” trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong xây dựng, đấu thầu, phân bổ dự án. Đó là đầu mối xuất hiện tham nhũng, bòn rút quỹ công, làm tổn hại lợi ích của dân chúng. 3.2.2.3. Giải pháp về đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã “Sự ổn định chính trị là tiền đề tiên quyết để có thể phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội. Song muốn tiến tới phát triển bền vững về mọi mặt thì xã hội phải tạo lập được một môi trường ổn định, tích cực, lành mạnh từ cơ sở, phát huy được sức mạnh đoàn kết, nhất trí toàn dân tộc, sự đồng thuận trong xã hội của các cộng đồng dân cư, cùng thống nhất hành động theo mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” mà Đại hội IX đã vạch ra. Muốn vậy phải thực hành dân chủ rộng rãi và thực chất, đảm bảo cho người dân thực sự có vai trò của người chủ, có quyền làm chủ, có năng lực thực hiện quyền và nghĩa vụ làm chủ” [20]. Thực tế cho thấy, hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá. Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, thị trấn cần thực hiện một số việc sau: 101 Thứ nhất: Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng Để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, cần tập trung làm tốt những vấn đề sau: Nâng cao nhận thức và thực hiện đúng vai trò hạt nhân chính trị và trình độ lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp để phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong việc thực hiện đường lối của Đảng. Có nhận thức và quan niệm đúng đắn về sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, trước hết là việc đổi mới, ra Nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, giữ vững đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Thứ hai: Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước ở chính quyền cơ sở Phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ thống chính quyền cấp xã trong việc mở rộng và thực hiện dân chủ, hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt QCDC ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền cấp xã; xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực với tinh thần trách nhiệm cao. Hoạt động của cơ quan nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức nhà nước xây dựng và thực hành phong cách "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Xây dựng cơ chế và biện pháp để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, xâm phạm quyền làm chủ của 102 nhân dân; ngăn chặn và khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, đồng thời nghiêm trị những hoạt động phá hoại, gây rối. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và trong sinh hoạt của bộ máy Nhà nước. Để làm được vậy cần quán triệt, vận dụng nguyên tắc xây dựng một Chính quyền dân chủ “vì dân và do dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình thực tế của địa phương mình. Thứ 3: Đổi mới và kiện toàn các đoàn thể chính trị - xã hội Pháp luật quy định nhân dân thực hiện quyền giám sát, kiểm tra HĐND, UBND thông qua các tổ chức như MTTQ, Hội nông dân, Hội người cao tuổi Do vậy cơ quan chính quyền cấp xã ngày càng phải lắng nghe và đáp lại những yêu cầu chính đáng của những tổ chức này. Nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam các cấp và các đoàn thể quần chúng. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức quần chúng. Nhiệm vụ của các đoàn thể là phấn đấu cho dân và bênh vực quyền lợi cho dân. Do đó, ngoài việc nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của các đoàn thể thì tự thân các đoàn thể phải tự nhận thức rõ hơn nữa về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình để không đi lệch hướng phấn đấu và bênh vực quyền lợi của nhân dân. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng và hợp pháp của nhân dân. MTTQ Việt Nam, các đoàn thể nhân dân tập trung hướng mạnh về cơ sở. Lãnh đạo thực hiện tốt QCDC, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, ngăn chặn và chống mọi hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. 103 Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân; gắn hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hoạt động của những tổ chức này không chỉ góp phần thúc đẩy xã hội, mà còn có ý nghĩa đánh giá, phản biện xã hội trước những công việc do chính quyền thực hiện, mang lại những thông tin phản hồi để các Chính quyền xây dựng, điều chỉnh chính sách, quản lý, điều hành xã hội tốt hơn. 3.2.2.4. Bồi dư ng, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã Trong nhiều tác phẩm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Cán bộ là gốc của mọi vấn đề” [28, t. 5, tr. 269], điều đó đã chứng minh vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung. Mặt khác, trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước theo cơ chế thị trường, đòi hỏi yêu cầu về trình độ của đội ngũ cán bộ ở cấp xã, phường ngày càng cao. Song trên thực tế trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ cấp xã còn nhiều hạn chế, phong cách lãnh đạo, quản lý chưa được đổi mới, một bộ phận cán bộ chưa thực sự gần gũi nhân dân, ngại kiểm điểm trước dân, chưa đi sâu, đi sát, chưa tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra công việc hàng ngày ở cấp xã. Có thể nói rằng đội ngũ cán bộ, công chức góp phần không nhỏ trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước nhưng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn giữ vai trò quan trọng hơn rất nhiều. Bởi lẽ cán bộ, công chức cấp xã là cán bộ cơ sở, quan hệ trực tiếp với dân, gắn bó thường xuyên với dân và sống, làm việc trong cộng đồng dân cư. Do đó, cán bộ dù ở xã hay phường hay thị trấn trước hết phải tận tâm, tận lực vì dân, “phải thực sự óc nghĩ, mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, chân đi, tay làm”, “biết vận động dân cho đúng và cho khéo” và phải gương mẫu “nói đi đôi với làm”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. 104 Ngoài những yêu cầu chung về phẩm chất và năng lực đối với cán bộ các cấp nói chung, cán bộ cấp xã cũng có những yêu cầu cụ thể, những vấn đề cụ thể khác nhau: Đối với đội ngũ cán bộ cấp xã, trưởng thôn, làng, ấp, bản cần chú ý đến năng lực quản lý Nhà nước, khắc phục “chủ nghĩa kinh nghiệm”, “chủ nghĩa gia đình - dòng họ”; cán bộ ở xã phải biết giải quyết đúng quan hệ lợi ích cộng đồng (lợi ích chung) với lợi ích dòng họ, thôn xóm, gia đình; phải là người đại diện lợi ích chung của nhân dân toàn xã, chứ không thể là người đại diện lợi ích một dòng họ, lợi ích của thôn mình; đấu tranh với tư tưởng “một người làm quan cả họ được nhờ”, tư tưởng “sợ người mới về, người có trình độ kiến thức hơn mình”; khắc phục lề lối, tác phong “công chức hành chính” (“sáng cắp ô đi, tối cắp về”), thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền với dân. Ngoài ra cán bộ cấp xã đều cần phải có năng lực tổ chức thực hiện hoạt động thực tiễn. Do đó phải có năng lực vận dụng, cụ thể hoá đường lối, chính sách chung, sự chỉ đạo của cấp trên, tổ chức hoạt động của dân và xử lý tốt các tình huống thực tiễn. Đồng thời, cán bộ phải khéo sử dụng các quan hệ truyền thống trong văn hoá làng xã để vận động dân, tổ chức các hoạt động của dân. Có thể nói việc xây dựng và củng cố đội ngũ cán bộ xã, thôn, ấp, làng, bản tốt là tạo cơ sở “chân rết” vững chắc cho Chính quyền cơ sở. Để cán bộ, công chức nói chung và ở cấp xã nói riêng thực sự là “công bộc của dân” làm việc vì lợi ích của nhân dân và Nhà nước, góp phần xây dựng niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước cần thực hiện: Tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở. 105 Có chính sách, chế độ ưu đãi sát thực để thu hút người trẻ tuổi, có trình độ chuyên môn về công tác tại xã, phường, thị trấn. Chấm dứt tình trạng đã tồn tại ở cấp xã, phường, thị trấn là sử dụng cán bộ “đầu ra” ở cơ quan Nhà nước, quân đội làm “đầu vào” ở cơ sở. Thực tế cho thấy, tình trạng trên đã dẫn đến công việc chung chưa có hiệu quả cao, thậm chí có mặt còn trì trệ. 3.2.2.5. Nâng cao trình độ dân trí, nhận thức của các tầng lớp nhân dân Như trên đã nói, nước ta là một nước nông nghiệp, dân số chủ yếu sống bằng nghề nông. Cũng như các địa phương khác của tỉnh Phú Yên cũng như cả nước, huyện Sơn Hòa có tới 80 - 85% dân số sống ở nông thôn do đó có thể thấy rằng trình độ nhận thức của người dân có phần còn hạn chế. Chính sự hạn chế trong nhận thức đó đã dẫn tới những việc làm không đúng (nếu như không muốn gọi là sai trái) của một số người dân. Hơn nữa trong thực tế đang có những diễn biến phức tạp, nhất là những diễn biến trong nhận thức, thái độ và niềm tin của người dân vào Đảng, Nhà nước. Nhiều địa phương xảy ra hiện tượng dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn, lợi dụng dân chủ chống phá Nhà nước Mặt khác có thể thấy rằng, trên thực tế hiện nay nạn tham nhũng đang là một trong những vấn nạn gây ảnh hưởng nhiều nhất tới sự phát triển của đất nước, và làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Có thể nói một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng tham nhũng của “quan chức, cán bộ” Nhà nước là do trình độ dân trí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Quan tham vì dân dại, nếu dân hiểu biết không chịu đút lót thì quan dù không liêm cũng phải hoá ra liêm”. Nội dung trong QCDC ở cấp xã (nay là Pháp lệnh) chủ yếu xoay quanh vấn đề “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để có thể biết, bàn, làm và kiểm tra thì người dân phải có trình độ nhận thức, có ý thức và sự giác ngộ chính trị, hiểu được nội dung, yêu cầu của những vấn đề đặt ra. Trình độ 106 nhận thức của người dân quyết định việc tiếp nhận, xử lý thông tin, hiểu và tiếp thu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, nâng cao trình độ dân trí cũng như nhận thức của các tầng lớp nhân dân về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nói chung và về tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ nói riêng là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ như câu nói “chèo thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” thì một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của người dân đối với sự phát triển của đất nước. Vậy để thực hiện dân chủ ở cấp xã, thị trấn thực sự có hiệu quả, vấn đề quan trọng là nâng cao trình độ dân trí mọi mặt cho nhân dân (kiến thức về văn hóa, pháp luật, chính trị, kinh tế). Muốn vậy, cùng với việc phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất phải đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, giáo dục, đào tạo kiến thức phổ thông, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm trang bị kiến thức và năng lực làm chủ cho nhân dân đặc biệt là nông dân. 3.2.2.6. Giải pháp về thực hiện dân chủ ở cấp xã, thị trấn gắn với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Có thể nói đây là đảm bảo quan trọng nhất để lôi cuốn, thu hút quần chúng vào hoạt động chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể. Đem lại lợi ích cho dân là cách tốt nhất để làm cho QCDC có sức sống, để dân chủ là một giá trị thực tế chứ không dừng lại là một ước muốn, một nguyện vọng. Người dân không thể đi họp, dự các buổi thảo luận, nghe những lời thuyết giảng chính trị mà họ và gia đình họ, con cái họ còn chưa có cái ăn, còn đói nghèo, thất nghiệp, thất học. Dân chúng quan tâm tới chính trị, tới các vấn đề xã hội nói chung, một khi họ bằng cảm nhận thực tế mà thấy rằng đó là chính trị thiết thực, cần thiết, có ích đối với họ. 107 Việc triển khai QCDC không phải vì bản thân quy chế đó, càng không phải vì những câu, những chữ, những điều quy định này, những biện pháp kia mà chính vì làm cho dân chúng có được sự biến đổi cuộc sống hàng ngày, no đủ hơn, tiến bộ hơn, tức là vấn đề an sinh và an ninh cuộc sống của dân. Điều này có thể hiểu rằng, thực hiện dân chủ phải đạt tới mục đích cuối cùng là góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thắt chặt mối quan hệ tình làng, nghĩa xóm cho nhân dân. Muốn làm được điều đó cần: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng; tạo điều kiện thuận lợi giúp các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án trên địa bàn để tạo diện mạo mới cho địa phương; trong những năm tiếp theo cần thưc hiện mô hình xây dựng nông thôn mới tại các xã, phường, thị trấn trên địa bàn. Đẩy mạnh xã hội hóa và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, giáo dục, môi trường Thực hiện có hiệu quả các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; giải quyết dứt điểm đơn thư KNTC, tránh để tồn đọng và khiếu kiện vượt cấp. 108 Tiểu kết Chương 3 Dân chủ gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội, khi kinh tế phát triển thì đòi hỏi về dân chủ cũng được nâng lên một tầm cao mới. Ngoài những biện pháp được đưa ra trong các kỳ họp, hội nghị của các cấp có thẩm quyền nhằm tiếp tục thực hiện QCDC ở cơ sở, khẳng định tính đúng đắn, xác thực của các chủ trương, chính sách. Trong phạm vi bài viết, tác giả đã tìm hiểu thực tế, chắt lọc những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện để nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung và ở cấp xã nói riêng. Tuy nhiên, những giải pháp mà tác giả đưa ra đều dựa trên những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không trái với những quy định của pháp luật đồng thời đảm bảo tính thiết thực. Vậy để Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đi vào cuộc sống, nhân dân đồng tình hưởng ứng, phải làm cho toàn dân hiểu và tuân thủ mọi công việc, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vì lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của họ. 109 KẾT LUẬN Dân chủ là điều kiện của tiến bộ và phát triển xã hội. Dân chủ lại là động lực và mục tiêu của đổi mới, là một trong những phương diện hợp thành bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Đối với nước ta, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN là cả một quá trình lịch sử lâu dài mà hiện nay chúng ta mới bắt đầu làm quen với dân chủ, từng bước trưởng thành về ý thức và năng lực dân chủ. Nhằm mục đích đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội một cách bền vững, bảo đảm và giữ vững quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh và cả nước, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tạo niềm tin của người dân vào Đảng, nhà nước, đồng thời hạn chế tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch trong hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và chính quyền cấp cơ sở nói riêng, trước hết cần phải thực hiện tốt QCDC ở cơ sở, đặc biệt là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn, bởi lẽ đây là địa bàn sinh sống của người dân, là nơi diễn ra các hoạt động tiếp xúc giữa bộ máy công quyền và người dân, là nơi thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, cũng là nơi mà bộ máy công quyền tìm hiểu để đề ra những đường lối, chủ trương cho phù hợp, đặc biệt là nơi mà hoạt động của “nó” có thể ảnh hưởng đến sự sống còn của chế độ, của Nhà nước ta. Đề tài “Thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên” đã tiến hành tìm hiểu tài liệu, thu thập số liệu, phân tích, so sánh, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về thực trạng tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn trên địa bàn để từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện, để nâng cao hơn nữa việc thực hiện dân chủ ở cấp xã, thị trấn nói chung và trên địa bàn huyện Sơn Hòa nói riêng. 110 Có thể nhận thấy rằng, đề tài “Thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên ” là vấn đế có tính cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Đề tài cũng góp phần kiến nghị với Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền địa phương trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã, đáp ứng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ ở cấp xã không chỉ góp phần củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hoá quyền lực, chống lại tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước mà nó còn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của quần chúng lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của toàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Từ những nội dung trình bày trong luận văn cho thấy: Một là, thực hiện dân chủ ở cấp xã, thị trấn là một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, liên quan đến mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của người dân. Dân chủ ở cấp xã là một giá trị văn hóa, nó đảm bảo cho người dân thực sự làm chủ xã hội, làm chủ đất nước. Để việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã đạt chất lượng cao hơn, cần có sự quan tâm, quyết tâm thực hiện của tất cả các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân và phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục. Cách thức thực hiện nên đa dạng, phong phú đan xen các hình thức thực hiện với nhau. Đây là một công việc không thể thực hiện trong ngày một, ngày hai mà nó là cả một quá trình lâu dài với nhiều khó khăn, gian khổ. Hai là, vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã phải gắn với điều kiện cụ thể của từng địa phương, cơ sở không nên áp dụng một cách máy móc, ồ ạt. Vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ hiện nay cần phải được 111 đảm bảo bằng một hệ thống đồng bộ các giải pháp, hệ thống các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, dân trí, pháp luật, đội ngũ cán bộ. Sự nhận thức đúng đắn các điều kiện thực hiện dân chủ đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện, quan điểm thực tiễn và phát triển. Ba là, đổi mới phương thức tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cấp xã là giải pháp cơ bản, có ý nghĩa trọng yếu và trực tiếp quyết định đến chất lượng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã. Gắn liền nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa bàn cụ thể, sự đổi mới phư- ơng thức tổ chức và hoạt động của từng bộ phận hợp thành cũng như cả hệ thống chính trị ở cấp xã sẽ có tác động trực tiếp tới phát huy dân chủ. Từng bước hình thành dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ở cấp xã sẽ tác động mạnh mẽ tới quá trình phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua cơ chế vận hành của hệ thống chính trị và sự tự quản của các tầng lớp xã hội trong cộng đồng. Bốn là, nâng cao trình độ văn hóa dân chủ là một giải pháp tác động đồng bộ tới cấu trúc, ý thức dân chủ, năng lực và kinh nghiệm thực hành dân chủ. Qua đó tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, tham nhũng, cơ hội, lộng quyền, lạm quyền, bè phái gây mất đoàn kết nội bộ, tha hóa về đạo đức của đội ngũ cán bộ sẽ được ngăn chặn từng bước. Cùng với sự điều chỉnh và tác động mạnh mẽ của pháp luật đến sự điều chỉnh hành vi của mỗi công dân, cả những chủ thể lãnh đạo và bị lãnh đạo, nâng cao trình độ văn hóa pháp luật dần dần tạo nếp sống tôn trọng kỷ cương, phép nước, tránh được biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô chính phủ. Năm là, cần tổng kết thật khách quan, khoa học về thực tiễn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã nói riêng trong những năm triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở vừa qua, phát hiện kịp thời những chỗ bất hợp lý, những khiếm khuyết trong quá trình triển khai thực hiện để bổ sung, sữa chữa và áp dụng những biện pháp thiết thực hơn để việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở thực sự đem lại hiệu qủa và chất lượng. 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản quy phạm pháp luật: 1. Các Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp 1946, 1959) 2. Các Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ( Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 (sđ, bs năm 2001). 3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 4. Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 15/5/1998 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. 5. Nghị định số 79/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. 6. Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. 7. Nghị quyết liên tịch của Chính phủ - Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 về việc hướng dẫn thi hành các Điều 11, 14, 22 và 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. 8. Thông tư số 03/1998/TT-TCCP ngày 06/7/1998 của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ về việc hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đối với phường và thị trấn. 9. Thông thư số 12/2004/TT-BNV ngày 20/2/2004 của Bộ Nội vụ về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã và áp dụng đối với phường, thị trấn. Nghị quyết, văn kiện, tài liệu của Đảng: 10. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. 11. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII. 113 12. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. 13. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. 14. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. 15. Ban Dân vận Trung ương (1998), Chỉ thị số 30/CT-TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Hà Nội. 16. Ban Dân vận Trung ương (1998), Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và vấn đề xây dựng Quy chế dân chủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Chỉ thị số 10/CT-TW ngày 28/8/2002 của Ban Bí thư TW Đảng (khóa VIII) về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. 18. Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. 19. Thông báo số 159-TB/TW ngày 15/11/2004, kết luận của Ban Bí thư về kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị khoá VIII và tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện QCDC. 20. Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện QCDC cơ sở. 21. Kết luận số 120-KL/TW ngày 7/01/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở Sách tham khảo: 22. Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tình hình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 114 24. C.Mác và Ph.Angghen (1993), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Nguyễn Thu Cúc (2002), Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Hồng Hà (2000), Dân chủ và tập trung dân chủ, lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 27. Vũ Văn Hiền (2005), Quy chế dân chủ ở cơ sở, vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Nguyễn Văn Lập (2006), Đảng Cộng sản Trung Quốc và vấn đề cải cách dân chủ, Nxb Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội. 29. Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ - Di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 30. Hồ Chí Minh (1996): Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 31. Hồ Chí Minh (1986): Về Đảng cầm quyền, Nxb Sự thật, Hà Nội. 32. Hồ Chí Minh (1985): Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội. 33. Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. 34. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 35. Nguyễn Văn Sáu (2005), Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 36. Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Đỗ Tiến Sâm (2005), Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 115 38. N.M. Voskresenskaia - N.B. Davletshina (2008), Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội, Nxb Tri thức, Hà Nội. Tài liệu của Đảng bộ và Chính quyền huyện Sơn Hòa 39. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Sơn Hòa lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015-2020 40. Báo cáo số 04-BC/BCĐ ngày 243/6/2015 của Ban chỉ đạo CCVĐXDCS huyện Tổng kết việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chếdân chủ ở cơ sở (1998 - 2015) 41. Kế hoạch số 25-KH/HU, ngày 28 tháng 4 năm 2016 của Ban Thường vụ Huyện ủy thực hiện Kết luận số 120-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựngvà thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở Tài liệu trên các trang Webs: 116 PHỤ LỤC 2 thống kê công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ (từ năm 2010 đến 2014) I- Về lý luận chính trị: Số TT Tên đơn vị Số lƣợng Trình độ đào tạo Ghi chú Đã tốt nghiệp Đang học Sơ cấp Trung cấp Cao cấp Sơ cấp Trung cấp Cao cấp I Các cơ quan Đảng, đoàn thể 14 01 04 06 11 03 II Các cơ quan khối Nhà nƣớc 16 01 09 05 15 02 III Các cơ quan Trung ƣơng, tỉnh 14 07 03 02 35 02 IV Các đơn vị trƣờng học 20 13 01 09 V Các xã, thị trấn, trong đó: 0 0 01 Thị trấn Củng Sơn 12 01 02 09 03 02 Xã Suối Bạc 19 03 06 01 08 05 03 Xã Sơn Hà 28 06 10 09 10 04 Xã Sơn Nguyên 08 03 02 01 03 05 Xã Sơn Xuân 12 03 05 03 04 06 Xã Sơn Long 06 01 02 01 04 07 Xã Sơn Định 13 04 04 02 05 08 Xã Sơn Hội 15 05 10 09 01 09 Xã Cà Lúi 24 07 04 09 06 10 Xã Phước Tân 12 04 05 03 03 01 11 Xã Sơn Phước 11 03 02 05 06 12 Xã Suối Trai 15 02 05 01 06 03 01 13 Xã Eachà Rang 10 04 04 01 05 14 Xã Krông Pa 07 04 03 06 Tổng cộng 256 43 92 17 72 142 10 117 II- Về chuyên môn nghiệp vụ: Số TT Tên đơn vị Đã tốt nghiệp Đang đào tạo Ghi chú Tổng số Trong đó Tổng số Trong đó Trung cấp Cao đẳng Đại học Trung cấp Cao đẳng Đại học Thạc sĩ I Các cơ quan khối Đảng 13 01 12 10 08 01 II Các cơ quan khối Nhà nƣớc 10 10 06 01 05 01 II Các xã, thị trấn, trong đó: 02 01 Thị trấn Củng Sơn 03 03 15 03 12 02 Xã Suối Bạc 05 04 01 12 12 03 Xã Sơn Hà 08 04 04 17 03 14 04 Xã Sơn Nguyên 13 11 02 09 01 08 05 Xã Sơn Xuân 10 01 03 06 10 02 08 06 Xã Sơn Long 12 01 01 10 07 Xã Sơn Định 02 02 15 02 13 08 Xã Sơn Hội 03 03 10 02 08 09 Xã Cà Lúi 02 01 01 09 06 03 10 Xã Phước Tân 03 03 12 08 04 11 Xã Sơn Phước 11 06 02 03 08 04 04 12 Xã Suối Trai 03 02 01 10 06 04 13 Xã Eachà Rang 12 06 03 03 16 12 04 14 Xã Krông Pa 07 01 01 05 08 02 06 Tổng cộng: 105 40 09 56 179 52 02 123 04 Ghi chú: Ngoài ra còn có các đồng chí được cơ quan tạo điều kiện về thời gian tham gia học các lớp sau đại học về chuyên môn. 118 PHỤ LỤC 3 kết quả đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý từ năm 2010- 2014 --------- Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Tổng số cán bộ có đến thời điểm đánh giá: 185 100 186 100 195 100 287 100 203 100 Chia ra: + Số cán bộ được đánh giá 184 99,46 185 99,46 195 100 282 98,26 197 97,04 + Số cán bộ chưa được đánh giá 01 0,54 01 05 1,74 06 2,96 Phân tích kết quả đánh giá: A- Về mức độ hoàn thành nhiệm vụ: - Hoàn thành xuất sắc chức trách nhiệm vụ: 26 14,13 38 20,54 43 22,05 90 31,91 66 33,5 - Hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ: 123 66,85 143 77,3 134 68,72 168 59,57 129 65,48 - Hoàn thành nhiệm vụ: 30 16,3 04 2,16 18 9,23 16 5,67 01 0,51 - Chưa hoàn thành nhiệm vụ: 05 2,72 08 2,84 01 0,51 B- Về chiều hướng và khả năng phát triển: - Tổt hơn: 90 48,91 91 49,19 119 61,03 206 73,05 140 71,07 - Giữ mức: 83 45,11 93 50,27 75 38,46 76 26,95 57 28,93 - Giảm 11 5,98 01 0,54 01 0,51 119 PHỤ LỤC 4 kết quả đánh giá tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên từ năm 2010 - 2014 I- Đảng viên: Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Đảng viên có đến thời điểm đánh giá chất lƣợng: 1.823 100 1.925 100 2.069 100 2.221 100 2.395 100 Chia ra: + Đảng viên được miễn đánh giá chất lượng 58 3.18 74 3,85 79 3,82 109 4.91 192 9.16 + Đảng viên chưa được đánh giá chất lượng 20 1.1 07 0,36 15 0,75 34 1.53 28 1.27 + Đảng viên đã được đánh giá chất lượng 1745 95.72 1.844 95,79 1.975 95,43 2.078 93.56 2.175 98,73 Phân tích kết quả đảng viên đã được đánh giá chất lượng A- Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: 233 15.59 165 8,95 170 8,61 199 9.58 206 9,35 B. Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ: 1262 72.32 1.366 74,08 1.349 68,30 1.371 65.98 1500 68,09 C- Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ: 229 13.12 305 16,54 446 22,58 472 22.71 449 20,38 Trong đó: Đủ tư cách nhưng có mặt còn hạn chế: 139 45,57 160 35,87 Chia ra: + Còn hạn chế về năng lực 203 88.65 76 54,68 80 50 361 76.48 + Còn khuyết điểm trong công tác SHĐ 23 10.04 58 41,73 62 38,75 92 19.49 + Là người đứng đầu đơn vị mà đơn vị chưa hoàn thành nhiệm vụ ... 03 1.31 05 3,59 18 11,25 19 4.03 D- Đảng viên vi phạm tư cách hoặc không hoàn thành nhiệm vụ: 21 1.2 08 0,43 10 0,51 36 1.73 20 0,91 Chia ra: + Vi phạm hình thức kỷ luật trong năm 11 52.38 06 75,00 06 30 83.33 15 + Không hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn 07 33.33 02 04 11.11 1 + Không chấp hành sự phân công, gây mất đoàn kết ... 01 4.76 02 25,00 01 + Qua kiểm tra đánh giá phát hiện vi phạm tư cách ... 02 9.52 01 02 5.56 4 120 II- Tổ chức cơ sở Đảng: Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ % A- Số TCCSĐ có đến cuối năm (A=1+2) 44 100 32 100 33 100 35 100 34 100 1- Số TCCSĐ được đánh giá chất lượng: 43 97,73 30 93,75 33 100 35 100 34 100 Kết quả đánh giá: + Trong sạch, vững mạnh 24 55,81 16 53,33 15 45,45 18 51,43 13 38,24 Trong đó: trong sạch vững mạnh tiểu biểu 05 20,83 03 18,75 03 20 04 22,23 03 23,08 + Hoàn thành tốt nhiệm vụ 12 27,91 12 40,00 15 45,45 13 37,14 13 38,24 + Hoàn thành nhiệm vụ 07 16,28 02 6,67 03 9,1 04 11,43 06 17,65 + Yếu kém 02 5,88 2- Số TCCSĐ chưa được đánh giá chất lượng 01 2,27 02 6,25 Trong đó: Mới thành lập 01 02 100 B- Số chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở: 132 100 155 100 163 100 182 100 185 100 Trong đó: Số chi bộ đã được đánh giá chất lượng 132 100 155 100 163 100 182 100 184 99,46 Kết quả đánh giá: + Trong sạch, vững mạnh 88 66,67 100 64,52 97 59,51 111 60,99 67 41,3 Trong đó: trong sạch vững mạnh tiểu biểu 21 23,86 13 13,00 13 13,40 27 24,32 22 11,96 + Hoàn thành tốt nhiệm vụ 24 18,18 40 25,81 46 28,22 53 29,12 84 45,65 + Hoàn thành nhiệm vụ 20 15,15 14 9,03 20 12,27 18 9,89 22 11,96 + Yếu kém 01 0,64 02 1.09 C/- Số chi bộ trực thuộc chưa đánh giá Trong đó: Số mới thành lập

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_thuc_hien_dan_chu_o_xa_thi_tran_cua_huyen_son_hoa_t.pdf
Luận văn liên quan