Như vậy, ngành Dệt may VN sẽ phát triển và tất nhiên, những DN nào có
chiến lược phát triển tốt, nhanh nhạy thích ứng với tình hình mới sẽ sống khỏe,
nhưng không loại trừ nhiều DN dệt may sẽ phải đóng cửa. Đó là quy luật tất
yếu!
Như vậy, tham gia vào WTO, tham gia vào cộng đồng kinh tế lớn nhất thế
giới đã mang lại cho chúng ta không ít thuận lợi nhưng cũng lắm rủi ro. Trước
tình hình đó, các doanh nghiệp, các ban ngành đã đưa ra một số giải pháp tháo
gỡ.
14 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Thực trạng doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng doanh nghiệp
dệt may Việt Nam khi gia
nhập WTO
Lời nói đầu
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Cùng với đó là sự
xuất hiện của những cơ hội cũng như thách thức mới đối với sự phát triển của
kinh tế Việt Nam. Ngành dệt may, một ngành đang phát triển nhanh chóng trong
thời gian gần đây cũng không tránh khỏi những tác động của sự kiện đó. Chính
vì vậy, tôi viết bài này nhằm mục đích cung cấp một quan điểm đối với sự phát
triển của ngành dệt may Việt Nam hiện tại. Bài viết gồm những nội dung chính
sau:
1. Sơ lược WTO.
2. Thực trạng doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
3. Những cơ hội nguy cơ.
4. Một số giải pháp đưa ra.
1. Sơ lược WTO.
WTO - lịch sử hình thành và phát triển
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization) - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại
giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và
đang được các nước đàm phán và ký kết.
WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết
thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân, GATT - Hiệp định chung về Thuế
quan Thương mại. GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, khi mà trào
lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế
quốc tế đang diễn ra sôi nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát
triển, thường được biết đến như là Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ
tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày nay.
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương
mại quốc tế nhằm điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, thương mại hàng
hóa, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển, 23
nước sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương
mại và việc làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức
Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là chuyên môn của Liên Hiệp Quốc.
Đồng thời, các nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế
quan và xử lý những biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong
thương mại quốc tế từ đầu những năm 30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa
mậu dịch, mở đường cho kinh tế và thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm,
nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân các nước thành viên.
Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã
được thỏa thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở
Havana từ 11/1947 đến 23/4/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn
trong phê chuẩn, nên việc hình thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) đã
không thực hiện được.
Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt
được ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa
các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế giới, 23
nước sáng lập đã cùng nhau ký hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT), chính thức có hiệu lực vào 1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế
quan. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ hiệp định Uruguay(1986-1994) do
thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt
động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp
định hình thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế,
về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan
tới thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải
quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở
rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vốn chỉ là một
sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tùy ý đã tỏ ra không thích
hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Maroc), các bên đã kết thúc hiệp
định thành lập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển
sự nghiệp GATT. WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên
Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995.
Về cơ cấu tổ chức, hiện nay WTO có 150 nước, lãnh thổ thành viên,
chiếm 97% thương mại toàn cầu và khoảng 30 quốc gia khác đang trong quá
trình đàm phán gia nhập.
Hầu hết các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng
thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự nhất trí chung,
các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. Khác với các tổ chức khác, mỗi thành
viên WTO chỉ có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các thành viên có
giá trị ngang nhau.
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng, họp ít nhất
2 năm một lần. Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại hội đồng - thường họp nhiều lần
trong một năm tại trụ sở chính của WTO ở Geneva. Nhiệm vụ chính của Đại hội
đồng là giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên và rà soát
các chính sách của WTO.
Dưới Đại hội đồng là Hội đồng Thương mại hàng hóa, Hội đồng thương
mại dịch vụ và Hội đồng giám sát về các vấn đề liên quan đến quyền Sở hữu trí
tuệ (TRIPS).
Vào WTO Việt Nam sẽ phải chấp hành những quy định cơ bản như gỡ bỏ
hàng rào thuế quan trong nước. Hiện nay Việt Nam dường như đang tham gia
vào quá trình sản xuất chung của thế giới. Trong quá trình đó đã tạo cho Việt
Nam những cơ hội, và không ít thách thức.
2. Thực trạng doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện tại.
Cửa vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đang rộng mở, hàng may
mặc VN cũng đứng trước cơ hội được xuất tự do sang Mỹ. Song, tận dụng được
cơ hội này không phải đơn giản bởi doanh nghiệp VN thiếu những nhà quản trị
giỏi, thiếu kỹ năng tiếp cận thị trường, trong khi năng suất lao động còn thấp.
Trong nhiều năm qua ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu tương đối cao - bình quân 20%/năm trong giai đoạn 2000-2005. Tuy
nhiên kể từ khi các nước thành viên WTO được bãi bỏ hạn ngạch thì tốc độ tăng
trưởng có xu hướng giảm sút. Sở dĩ đạt được tốc độ tăng trưởng trên là do ngành
dệt may Việt Nam có một số lợi thế như nguồn lao động dồi dào, khéo tay, chi
phí lao động chưa cao; các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng và giữ được
chữ tín trong kinh doanh với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới.
Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn thì ngành dệt may Việt Nam vẫn còn rất
nhiều yếu tố bất lợi mà lại có rất ít lợi thế cho sự phát triển bền vững, đặc biệt là
các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển tương xứng. Điều đó góp phần lý
giải tại sao các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải chấp nhận gia công xuất khẩu
là chính (chiếm tới 70-80% kim ngạch), hình thức thương mại bán sản phẩm
chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn.
Do thiếu công nghiệp phụ trợ nên ngành dệt may Việt Nam gần như phụ
thuộc vào thị trường thế giới cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Cho đến thời điểm này
ngoài lợi thế lao động ra, còn lại đều phải nhập khẩu với tỷ lệ lớn như: 100%
máy móc thiết bị, phụ tùng; 100% xơ sợi hoá học; 90% bông xơ thiên nhiên chủ
yếu nhập từ Mỹ; 70% vải các loại; 67% sợi dệt. Nhập khẩu các loại phụ liệu như
chỉ may, mex dựng, khoá kéo... cũng chiếm từ 30% đến 70% tổng nhu cầu. Đây
là một trong những điểm yếu nhất làm hạn chế khả năng cạnh tranh quốc tế của
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam so với các cường quốc xuất khẩu dệt may
như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan.
Xét trên quy mô, phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thuộc loại
vừa và nhỏ. Nếu phân theo tiêu chí lao động thì có tới 80% doanh nghiệp sử
dụng dưới 300 lao động, theo vốn thì có tới 90% dưới 5 tỷ đồng. Hiệu quả chính
của ngành dệt may là tạo ra một triệu việc làm cho lao động công nghiệp và trên
một triệu lao động tiểu thủ công nghiệp. Dệt may cũng là một ngành sản xuất
xoá đói giảm nghèo cho các vùng nông thôn.
Với quy mô vừa và nhỏ như vậy, nếu không liên kết với một số doanh
nghiệp lớn thì những doanh nghiệp này cũng khó tồn tại, chưa nói tới việc cạnh
tranh quốc tế. Thực tế này đã được minh chứng trong tiến trình xoá bỏ hạn
ngạch cho hàng may mặc Việt Nam tại thị trường Canada trước đây và thị
trường EU từ đầu năm ngoái. Cứ xoá bỏ hạn ngạch đến đâu thì hàng dệt may
Việt Nam mất hoặc giảm thị phần đến đó vì các doanh nghiệp thiếu những nhà
quản trị giỏi, thiếu kỹ năng tiếp cận thị trường và năng suất lao động lại
thấp…nên không thể cạnh tranh ngang bằng với Bangladesh, Srilanca, Thái Lan,
Indonesia, càng khó để cạnh tranh được với các cường quốc dệt may.
Từ khi chế độ hạn ngạch giữa các thành viên WTO xoá bỏ (1/1//2005) thì
tốc độ tăng xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc không những đã đe doạ
ngành công nghiệp dệt may các nước nhập khẩu lớn mà còn gây ảnh hưởng
không nhỏ đến nhiều nước xuất khẩu dệt may khác, trong đó có Việt Nam. 6
tháng đầu năm 2005, xuất khẩu dệt may của Việt Nam liên tục giảm. Giá trị xuất
khẩu các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch sang thị trường Mỹ chỉ đạt 783 triệu
USD, giảm gần 10% so cùng kỳ năm 2004. Tốc độ tăng trưởng năm 2005 của
toàn ngành còn khoảng 10% so với mức 20% của các năm trước. Điều gây sốc
lớn lại chính là sự giảm sút kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU vì các
doanh nghiệp Việt Nam vẫn không thể tận dụng cơ hội xoá bỏ hạn ngạch với
EU.
Những phân tích trên đây cho thấy, xu thế toàn cầu hoá thương mại cùng
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đang đặt ngành dệt may Việt
Nam trước những áp lực và thách thức to lớn. Dù Việt Nam trở thành thành viên
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trong những năm tới ngành dệt may vẫn
chưa thể phát triển nhanh và cạnh tranh được với nhiều nước xuất khẩu. Dệt
may Việt Nam vẫn chưa thể cất cánh như một số chuyên gia phân tích thị trường
đã nhận định, nếu các doanh nghiệp chưa thực sự đổi mới mạnh mẽ hơn trong
cung cách tổ chức sản xuất kinh doanh của mình.
3. Những thuận lợi và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO.
Ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam, Chủ tịch HĐQT
Tập đoàn Dệt May Việt Nam nhận định: Vào WTO, bên cạnh những thuận lợi từ
môi trường đầu tư, dỡ bỏ hạn ngạch thì ngành Dệt May có nguy cơ bị ép nếu Mỹ
đặt chế độ giám sát chống bán phá giá đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may sẽ giảm một nửa và con số 80% doanh nghiệp dệt may có nguy cơ phá sản
là có thật.
Ông phân tích thêm, ngành Dệt May có đủ sức cạnh tranh và phát triển
nếu trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, không cần ưu đãi. Với những điều
kiện đó thì chắc chắn ngành Dệt May sẽ có 3 cái lợi là xuất khẩu không bị
khống chế quota; một số thị trường đang đối xử phân biệt về thuế, sẽ đưa thuế
nhập khẩu xuống bình thường; được hưởng những lợi ích từ môi trường đầu tư.
Nhưng xét cho cùng thì nguy cơ cạnh tranh trong một sân chơi không bình đẳng
của doanh nghiệp dệt may thời hội nhập là có thật. Bởi hàng rào bảo vệ thị
trường nội địa bằng thuế thu nhập sẽ giảm xuống tới mức tối đa (thuế nhập khẩu
hiện hành 40% với vải và 50% với hàng may mặc, hàng rào này sẽ được giảm
còn bình quân khoảng 15%). Bên cạnh đó, các rào cản của nước ngoài sẽ được
dựng lên, như các vấn đề về môi trường, chống bán phá giá…
Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Thêu-Đan
TP.HCM cũng nhận định: “Những doanh nghiệp xuất khẩu sẽ có những cơ hội
rất lớn. Tức là họ có thể xuất hàng ra tất cả các thị trường trên thế giới. Ngược
lại, tiến đến thương mại tự do theo đúng nghĩa, thì rõ ràng bây giờ họ cũng có
những thách thức. Các nước nhập khẩu chỉ chấp nhận những doanh nghiệp nào,
quốc gia nào xuất hàng sang họ với một giá bán hợp lý, kiểu dáng, mẫu mã
phong phú. Đó là thách thức lớn nhất đối với chúng ta”.
Trước sức ép cạnh tranh, ngành Dệt đã tính đến việc đa dạng hoá thị
trường theo hướng ‘’năng nhặt chặt bị’’, không tập trung quá nhiều vào một thị
trường. Chú trọng nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm, tăng cường đầu tư
sản xuất nguyên phụ liệu ngay tại thị trường nội địa. Và tiếp tục vận động chính
quyền Mỹ sớm chấm dứt chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành Dệt May Việt
Nam, cũng như áp dụng biện pháp chống bán phá giá...
Đồng thời, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cũng đã bàn thảo một số kế hoạch
để bảo vệ quyền lợi và hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng cơ hội để thành công như:
Tiến hành quảng bá thương hiệu, xúc tiến mở rộng thị trường, hỗ trợ cập nhật
thông tin thị trường và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; làm cầu nối giữa
doanh nghiệp trong và ngoài nước, giữa các đơn vị, tổ chức; bảo vệ quyền lợi
hội viên, đặc biệt là trong điều kiện các nước nhập khẩu đưa ra các hàng rào bảo
hộ. Nhưng nhiệm vụ trước mắt là cần nhanh chóng hình thành và đưa vào hoạt
động trung tâm nguyên phụ liệu để cung ứng nguyên phụ liệu và thiết kế mẫu
mốt cho khách hàng. Nhằm thúc đẩy trung tâm nguyên phụ liệu nhanh chóng
hoạt động ổn định, trong tháng 4/2007, Hiệp hội sẽ tổ chức Hội chợ triển lãm
nguyên phụ liệu dệt may quốc tế tại TP.HCM.
Song song đó, để tránh bị tồn đọng quota trong 2 tháng cuối năm, Ban
điều hành dệt may và Hiệp hội Dệt May Việt Nam đề nghị các doanh nghiệp
đang có hạn ngạch ký quỹ phải đăng ký số lượng hàng xuất khẩu, tên khách
hàng, tên hợp đồng, ngày giao hàng… với Ban điều hành trong những ngày đầu
tiên của tháng 11. Các doanh nghiệp phải đảm bảo sử dụng trên 90% số lượng
đăng ký lại, nếu không sẽ phải chấp nhận hình thức chế tài nặng hơn từ cơ quan
quản lý (có thể không được xuất khẩu sang Mỹ trong quý 1/2007). Sau đó, Ban
điều hành dệt may sẽ thông báo công khai lượng hạn ngạch còn lại và cấp visa
tự động cho tất cả doanh nghiệp.
Khi gia nhập WTO, doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ phải đối mặt với
những thách thức lớn và nguy cơ nhiều doanh nghiệp bị phá sản-đó là nhận định
của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước. Gia nhập WTO, DN dệt may
Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức gì?
Theo Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, có 3 thách thức lớn.
Thứ nhất, hàng rào bảo hộ dệt may trong nước không còn. Nếu như hiện nay,
thuế nhập khẩu hàng may mặc vào VN là 50%, thuế NK vải là 40%, thuế NK
sợi là 20% thì khi vào WTO, tất cả phải giảm xuống 2/3 cho hợp với khung của
thế giới. Do vậy vải Trung Quốc sẽ tràn vào nước ta vì lúc này thuế sẽ chỉ còn
10%. Như vậy, các nhà sản xuất vải trong nước sẽ phải cạnh tranh với vải Trung
Quốc nhập khẩu. Thứ hai, nguồn lao động chắc chắn sẽ bị chia sẻ, giá lao động
sẽ tăng lên, cạnh tranh trong việc thu hút lao động cũng sẽ gay gắt hơn. Thứ ba,
sẽ có rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này, do vậy, sức ép
cạnh tranh đối với các DN VN sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, khi gia nhập WTO, DN dệt may VN cũng có thuận lợi không
nhỏ. Đó là những rào cản về XK sẽ giảm, cụ thể, quota hàng dệt may của Mỹ sẽ
bỏ hoặc hiện nay, một số nước áp dụng thuế nhập khẩu hàng dệt may của những
nước không phải thành viên WTO cao hơn những nước là thành viên của tổ
chức này. Khi VN gia nhập WTO, thuế này sẽ giảm, DN Việt Nam sẽ có điều
kiện thâm nhập thị trường nước ngoài. Hơn nữa, khi đó, dòng vốn đầu tư nước
ngoài sẽ chảy vào VN nhiều hơn và DN Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với trình
độ quản lý và công nghệ kỹ thuật mới. Một điểm thuận lợi nữa là, giá đầu vào
của ngành dệt may sẽ giảm khi gia nhập WTO, chẳng hạn, chi phí về điện, bưu
chính viễn thông sẽ giảm do sẽ có nhiều nhà cung cấp trong lĩnh vực này, các
DN NK vải để may cũng sẽ hưởng lợi bởi giá vải nhập khẩu giảm do thuế NK
vải giảm xuống…
Tương lai của ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO:
- Hiện nay, sức cạnh tranh của hàng dệt may VN trên thế giới vẫn còn
thấp, ngay cả trong điều kiện được bãi bỏ hạn ngạch. Đó là vì VN thiếu nguồn
nguyên liệu tại chỗ, thiếu ngành công nghiệp phụ trợ và hiện vẫn phải nhập khẩu
hầu hết nguyên phụ liệu. Điều này lý giải tại sao các DN Việt Nam vẫn phải
chấp nhận gia công XK là chính (chiếm tới 60-70% kim ngạch), trong khi hình
thức thương mại bán sản phẩm còn chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn. Do thiếu công
nghiệp phụ trợ nên ngành dệt may Việt Nam gần như phụ thuộc vào thị trường
thế giới, cả XK lẫn nhập khẩu. Cho đến thời điểm này, từ máy móc thiết bị, phụ
tùng, hóa chất thuốc nhuộm đến nguyên liệu, phụ liệu đều phải nhập khẩu với tỷ
lệ lớn: 100% máy móc thiết bị, phụ tùng; 100% xơ sợi hoá học; 90% bông xơ
thiên nhiên chủ yếu nhập từ Mỹ; 70% vải các loại; 67% sợi dệt và các loại phụ
liệu như chỉ may, mex dựng, khoá kéo… từ 30% đến 70% tổng nhu cầu. Đây là
một trong những điểm yếu nhất làm hạn chế khả năng cạnh tranh quốc tế của
các DN dệt, may Việt Nam.
Trước đây, VN vẫn được coi là có lợi thế về gia nhân công rẻ, nhưng hiện
nay, tình trạng người lao động không còn thiết tha với ngành dệt may trở nên
phổ biến, nhiều công nhân may đã bỏ nghề chuyển sang các khu vực khác như
ngân hàng, khách sạn có mức thu nhập cao hơn. Ưu thế về chi phí nhân công
thấp không còn, ngành công nghiệp phụ trợ lại yếu càng khiến DN dệt may VN
khó cạnh tranh hơn.
DN dệt may phải làm gì để có thể trụ vững và phát triển?
Theo Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam, khi mở cửa thị trường, những
lợi thế trước đây tạo cạnh tranh cho ngành dệt may như giá nhân công thấp (yếu
tố này trước kia đã từng là ưu thế) sẽ không còn là điểm mạnh để các DN dựa
vào. Cái gốc để phát triển hiện nay là phải có một nền công nghiệp phụ trợ đủ
mạnh để cung cấp vải, nguyên phụ liệu cho các DN chủ động XK và làm ra
những sản phẩm có tính cạnh tranh lớn với hàm lượng giá trị gia tăng cao.
Tuy nhiên, cái chính vẫn phụ thuộc vào sự năng động nhạy bén của các
DN, mỗi DN tùy theo đặc điểm của mình, phải xây dựng một chiến lược phát
triển thị trường với 3 nội dung cụ thể: làm cái gì, phải xác định được phân khúc
thị trường của mình (một DN không thể làm tất cả các mặt hàng dệt may) bán
cho ai; các đối thủ cạnh tranh trong phân khúc thị trường là ai và DN phải làm gì
để cạnh tranh với họ.
Như vậy, ngành Dệt may VN sẽ phát triển và tất nhiên, những DN nào có
chiến lược phát triển tốt, nhanh nhạy thích ứng với tình hình mới sẽ sống khỏe,
nhưng không loại trừ nhiều DN dệt may sẽ phải đóng cửa. Đó là quy luật tất
yếu!
Như vậy, tham gia vào WTO, tham gia vào cộng đồng kinh tế lớn nhất thế
giới đã mang lại cho chúng ta không ít thuận lợi nhưng cũng lắm rủi ro. Trước
tình hình đó, các doanh nghiệp, các ban ngành đã đưa ra một số giải pháp tháo
gỡ.
4. Một số giải pháp.
Tăng cường nội địa hóa: Một số nguyên vật liệu đầu vào trong quá trình
sản xuất mà trước nay chúng ta cần phải nhập khẩu từ nước ngòai với giá khá
đắt, thì nay với công nghệ trong nước, chúng ta hoàn tòan có thể tự sản xuất lấy.
Làm như vậy có thể giúp hàng dệt may nước ta chủ động được nguồn nguyên
liệu đầu vào và giúp hạ giá thành sản phẩm.
Tăng cường hợp tác giữa các tổ chức, các doanh nghiệp: để tạo ra thế
mạnh nhất định trên thị trường. Hơn thế nữa, việc liên kết lại với nhau còn giúp
cho các doanh nghiệp phát triển theo một hướng thống nhất và đúng đắn.
MỤC LỤC
Lời nói đầu ........................................................................................................................... 1
1. Sơ lược WTO. ........................................................................................................... 3
2. Thực trạng doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện tại. ............................................ 5
3. Những thuận lợi và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO. ............................... 8
4. Một số giải pháp. .................................................................................................... 13
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO.pdf