Luật pháp có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh tế đối ngoại. Nó có thể
gây khó khăn cũng như tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đối ngoại. Nhà
nước Việt Nam đã ban hành hệ thống luật liên quan đến hoạt động kinh tế đối
ngoại bao gồm luật thương mại luật doanh nghiệp, luật Ngân hàng Nhà nước và
luật về các tổ chức tín dụng, luật khuyến khích đầu tư trong nức, luật kinh doanh
bảo hiểm. và thường xuyên được sửa đổi bổ sung theo hướng mở cửa, minh
bạch.
31 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2621 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong những năm vừa qua và đưa ra những giải pháp đúng đắn, thích hợp trong những thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia trên thế giới đã có những điều
chỉnh hết sức quan trọng. Nhờ có những đổi mới đó nên kinh tế đối ngoại ngày
càng có những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế của những nước đó.
2. Vai trò và tác dụng của kinh tế đối ngoại.
Để hội nhập kinh tế quốc tế thì đặc biệt phải phát triển kinh tế đối ngoại,
điều này đúng cho mọi nước. Vai trò của việc phát triển kinh tế đối ngoại là rất to
lớn nó không những ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế quốc daan mà
còn ảnh hưởng tới lĩnh vực đời sống xã hội. Sau đây là những vai trò của kinh tế
đối ngoại.
+ Thứ nhất: Phát triển kinh tế đối ngoại sẽ góp phần nối liền sản xuất và
trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị trường trong
nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị
trường thế giới và khu vực.
Hoạt động kinh tế đối ngoại thúc đẩy qúa trình mở cửa và hội nhập của
nền kinh tế Việt Nam với thế giới, nó là một trong những phương thức đưa hàng
hoá sản xuất tại Việt Nam xâm nhập thị trường nước ngoài thông qua thực hiện
dự án đầu tư đã trở thành "cầu nối" là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp
cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng
như những trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ cạnh tranh của thế giới. Đầu tư
nước ngoài nói riêng và hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung tác động làm tăng
tốc độ kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu. Nó đưa hàng hoá nước ta xâm
nhập thị trường thế giới, từ đó kích thích sản xuất trong nước phát triển để đáp
ứng được những yêu cầu của thị trường thế giới như về giá, chất lượng mẫu mã,...
+ Thứ hai: Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực
tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế
(ODA), thu hút khoa học kỹ thuật, công nghệ, khai thác và ứng dụng những kinh
nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
Kể từ khi mở cửa, do hoạt động kinh tế đối ngoại được thúc đẩy phát triển
nên số vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và
tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA) vào nước ta tăng qua các năm. Nguyên nhân là do
chính phủ ta đã có những sửa đổi về luật pháp, chính sách đầu tư,... nhằm tạo ra
môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Mà hai dấu ấn quan
trọng là việc thực thi luật doanh nghiệp từ năm 2000 và luật đầu tư nước ngoài
sửa đổi bổ sung lần thứ 3 có hiệu lực từ tháng 7 năm 2000. Nhờ đó mà tính đến
năm 2002, cả nước có trên 1.800 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động
sản xuất kinh doanh với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 25 tỷ USD. Về vốn ODA
thì tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam lần thứ 10, các nhà tài
trợ quốc tế đã cam kết viện trợ chính thức cho Việt Nam 2,5 tỷ USD tăng 104
triệu USD hay 1,5% so với năm 2001.
Về vấn đề công nghệ, nguyên nhân do các nhà đầu tư nước ngoài bao giờ
cũng đặt lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn làm mục tiêu hàng đầu. Do đó họ sẽ
đưa những thiết bị, công nghệ tương đối hiện đại phù hợp với trình độ và phát
huy được hiệu quả ở Việt Nam. Thực tế, những thiết bị, công nghệ của nước
ngoài chuyển vào thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam lâu nay chưa phải là những
loại thuộc thế hệ hiện đại nhất của thế giới nhưng phần lớn là hiện đại hơn những
thiết bị có trước đây tại Việt Nam.
Một vấn đề nữa rất quan trọng là nếu như trước đây các doanh nghiệp Việt
Nam chỉ biết đến sản xuất kinh doanh thụ động theo sự chỉ định kế hoạch của cấp
trên, không cần đầu tư, cải tiến không cần tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị,
sản phẩm sản xuất ra không bị cạnh tranh ... thì sự trở thành nhân tố tác động
mạnh làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất - kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt Nam theo hướng tích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị
trường. Những chế độ quản lý, tổ chức kinh doanh hiện đại được thực hiện ở Việt
Nam.
Như vậy hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút khoa học, kỹ thuật,
công nghệ, trình độ quản lý nền kinh tế hiện đại,... vào nước ta.
+ Thứ ba: Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên hiện đại.
Đó là những nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn
viện trợ chính thức từ chính phủ, từ tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA). Nó là nguồn
vốn bổ sung quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân đối bền
vững theo yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
luôn chiếm hơn 26,51%. Đối với một nền kinh tế có quy mô như nước ta thì đây
là một luợng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự
chuyển biến không chỉ về quy mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn
này có vai trò như "chất xúc tác - điều kiện" để việc đầu tư của ta đạt được hiệu
quả nhất định. Lượng vốn đầu nư này có xu hướng tăng qua các năm (cụ thể là
thời kỳ từ 1991-1999) như sau:
Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam thời kỳ
năm 1991-1999
Năm Tổng số vốn
đầu tư
(tỷ đồng)
Vốn trong nước
(tỷ đồng)
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Số lượng
( tỷ đồng)
So với
tổng số %
1991 11.526,0 9.606,0 1.920 16,7
1992 19.755,0 15.255,0 4.500 22,8
1993 34.176,0 25.376,0 8.800 35,7
1994 43.100,0 29.900,0 13.200 30,6
1995 68.047,8 46.047,8 33.000 32,3
1996 79.367,4 56.666,4 22.700 28,6
1997 96.870,4 66.570,4 30.300 31,3
1998 96.870,4 72.100,0 24.300 25,2
1999 96.400,0 85.000,0 18.900 18,2
Tổng
số
102.900,0 406.522,6 146.620 26,54
Nguồn: Niên giám thống kê 1998 tr.227 và bộ kế hoạch - đầu tư.
Đây là nguồn vốn quan trọng để thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển cân
đối.
Hơn nữa, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn
thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (không kể dầu khí) đã thực hiện nộp Ngân sách Nhà nước (thời kỳ 1994-
1999) với số tiền 1.489 triệu USD (cụ thể năm 1994 = 128 triệu, năm 1995 = 195
triệu, năm 1996 = 263 triệu, năm 1997 = 315 triệu, năm 1999 = 271 triệu USD),
... sự đóng góp này càng tăng lên trong những năm gần đây.
+ Thứ tư: Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc
làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập ổn định và cải thiện đời sống nhân dân
theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
Trong những năm qua nước ta luôn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế là hơn
7%, năm 1992 đạt tốc độ tăng GDP là 7,04% là nước có tốc độ tăng trưởng đứng
thứ hai khu vực, sau Trung Quốc. Có được điều này thì vai trò của hoạt động kinh
tế đối ngoại là vô cùng quan trọng, trong đó phải kể đến các yếu tố như: Vốn đầu
tư nước ngoài FDI, ODA và liên tục đạt kim ngạch xuất khẩu cao. Tính đến hết
năm 2002, cả nước có trên 1800 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động
sản xuất kinh doanh với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 25 tỷ USD. Từ những dự án
này đã hình thành thêm 2.014 doanh nghiệp cùng 1.584 cơ sở sản xuất kinh
doanh phụ thuộc. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngoài hiện chiếm
trên 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, 25% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và
tạo việc làm cho khoảng 600.000 lao động trực tiếp. Ngoài ra nhờ hoạt động kinh
tế đối ngoại đã thúc đẩy việc xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ. Việt
Nam với dân số gần 80 triệu người, kinh tế chưa phát triển, là một nước có
thương mại lao động lớn. Việc xuất khẩu lao động mang lại nhiều lợi ích, trước
mắt và lâu dài: nó thu được lượng ngoại tệ đáng kể cho người trực tiếp lao động
và cho Ngân sách Nhà nước từ đó tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân.
Người lao động được rèn luyện tay nghề và thói quen hoạt động công nghiệp ở
các nước có nền kinh tế phát triển, khi hết hạn hợp đồng về nước họ sẽ trở thành
lực lượng lao động có chất lượng từ đó sẽ góp phần xây dựng đất nước,... vì vậy
việc xuất khẩu lao động thu ngoại tệ là một nhiệm vụ quan trọng của nền kinh tế
đối ngoại.
Như vậy, hoạt động kinh tế đối ngoại đã tạo ra công ăn việc làm, giảm tỷ
lệ thất nghiệp, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân.
Tóm lại, hoạt động kinh tế đối ngoại đã góp phần chuyển biến nền kinh tế
Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế công nghiệp hoá. Nó góp phần thu hút
vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại ở nước ta. Từ đó tạo ra công ăn việc làm, giảm
tỷ lệ thất nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân,... đưa nền kinh tế Việt Nam hội
nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, để mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu
quả cần quán triệt các nguyên tắc: bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ
quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia; và giữ vững độc
lập, chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn. Các
nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác dụng chi phối
hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các nước trong đó có nước ta. Vì vậy, không
được xem nhẹ nguyên tắc nào khi thiết lập, duy trì và mở rộng kinh tế đối ngoại.
II. Thực trạng.
Mặc dù kinh tế đối ngoại có những đóng góp hết sức quan trọng nhưng
thực tiễn những năm vừa qua cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề cần phân tích, lý giải.
Sau đây là những điểm chính của tình hình và một số vấn đề có thể là cấp bách:
1. Kinh tế đối ngoại có tốc độ tăng trưởng khá cao trong cả thập kỷ 90,
nhưng vài năm gần đây lại có sự giảm sút tốc độ.
Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại có tốc độ tăng trưởng khá cao trong cả thập
kỷ 90 là rất rõ ràng. Riêng về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ
1988-1999, tính đến hết năm 1999, Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 2.766 dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đăng ký là: 37.055,66 triệu USD. Tính
bình quân mỗi năm chúng ta cấp phép cho 230 dự án với mức 3.087,97 triệu USD
vốn đăng ký (chưa kể các dự án của Việt Xô PETRO) nhịp độ thu hút vốn đầu tư
vốn đâu tư trực tiếp nước ngoài của ta có xu hướng tăng nhanh từ năm 1988 đến
1995 cả về số dự án cũng như số vốn đăng ký. Như vậy, nếu xét trong suốt thời
kỳ 1988-1999 thì năm 1995 có thể được coi là năm đỉnh cao về thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (cả về số dự án, vốn đăng ký, cũng như quy mô
dự án). Từ năm 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu suy
giảm, nhất là các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm càng rõ rệt hơn: Nếu so với
năm 1997 số dự án được duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm 1999 chỉ
bằng 80,58%. Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 chỉ bằng
41,19% quy mô bình quân của thời kỳ 1988-1999, và chỉ bằng 21,27% quy mô
dự án bình quân của năm cao nhất (năm 1995). Năm 2001 có trên 3.260 dự án
đầu tư nước ngoài được cấp phép đầu tư tại Việt Nam với số vốn đăng ký trên 44
tỷ USD, trong đó có trên 2.600 dựa án đang còn hiệu lực với số vốn đăng ký trên
36 tỷ USD thì đến năm 2002 chỉ còn 1.800 dự án đang hoạt động sản xuất kinh
doanh với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 25 tỷ USD, đây là sự giảm sút rất lớn.
Tuy nhiên đến đầu năm nay đầu tư nước ngoài đã có những khởi sắc nhất định.
Sự tăng trưởng cao của các lĩnh vực kinh tế đối ngoại là do nhiều nguyên
nhân đã rõ ràng nhưng lý do cho sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế đối ngoại
trong những năm gần đây thì có những ý kiến khác nhau. Đúng là có lý do khách
quan do suy giảm kinh tế toàn cầu và khu vực, do giá hàng xuất khẩu của ta giảm
nghiêm trọng ... tuy nhiên, Trung Quốc cũng chịu tác động bởi những hoàn cảnh
khách quan bên ngoài như nước ta nhưng cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào Trung
Quốc trong vài năm nay vẫn có mức tăng trưởng cao. Do vậy việc giảm tăng
trưởng của cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào nước ta trong thời gian qua không chỉ
do nguyên nhân khách quan, mà có thể do những nguyên nhận chủ quan chính.
Trong các nguyên nhân chủ quan đó, có thể kể ra các nguyên nhân chính
sau đây:
Trước hết, đó là tình trạng bảo hộ mậu dịch không giảm đáng kể mà còn
gia tăng. Mức thuế suất khẩu bình quân đã được giảm từ trên 6% xuống còn lên
tới 16% xuống còn trên 13% trong thời gian 1996-1998, nhưng đã tăng lên tới
16% vào năm 2001. Khung thuế nhiều và nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu
mức thuế cao, chỉ có 20% số dòng thuế được áp dụng mức thuế dưới 3%. Việc
hoàn thuế cho các hàng hoá nhập để xuất có quá nhiều thủ tục phức tạp phiền hà
và kém hiệu lực. Các biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ mậu dịch vẫn được áp
dụng đối với nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự quản lý của các bộ chuyên ngành.
Hàng rào bảo hộ mậu dịch này tưởng như chỉ có tác dụng ngăn chặn các dòng
hàng nhập khẩu, nhưng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ hoạt
động kinh tế đối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào các hàng hoá nhập khẩu, giá bán
chủ chúng và các hàng hoá liên quan ở trong nước đã tăng lên. Các nhà xuất khẩu
phải sử dụng các hàng hoá giá cao này, công nhân viên của họ cũng phải tiêu
dùng các hàng hoá nhập khẩu giá cao, mà mức cao giá này ước tính vào khoảng
20-100% tuỳ theo từng mặt hàng. Do vậy đã đẩy chi phí của các hàng xuất khẩu
tăng lên, giảm khả năng cạnh tranh của chúng, và tác động xấu đến xuất khẩu.
Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao chỉ khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu, FDI
cũng tự nhiên phải theo hướng này, trong khi thị trường nội địa của chúng ta nhỏ
bé và ngày càng bão hoà, do vậy FDI không tăng lên được và thậm chí đã chậm
lại. Hàng rào bảo hộ còn ảnh hưởng xấu tới cả du lịch, vì giá cả tiêu dùng ở Việt
Nam cao, không hấp dẫn khách du lịch.
Thứ hai, chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các quốc giá
trong khu vực, do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm thiểu.
Chi phí sản xuất đã phụ thuộc vào các yếu tố: Thuế nhập khẩu, thuế doanh
thu, VAT, các phụ phí, tiền lương giá các dịch vụ, công nghệ được sử dụng ...
Thuế nhập khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quan của nước ta, cao hơn cả
Trung Quốc trong khi mức thuế quan của nhiều quốc gia Đông Nam á hiện chỉ
còn vào khoảng 4-6%. Thuế doanh thu của ta ở mức 32% cũng vào hàng cao nhất
khu vực. Thuế VAT, thuế thu nhập đặc biệt, phụ thu ... đều ở mức cao. Thuế thu
nhập đối với người nước ngoài của ta hiện ở mức cao nhất trong khu vực là 50%,
trong khi ở Inđônêxia là 30% ở Thái Lan là 37% ở Trung Quốc là 45%. Mức thuế
thu nhập cao này đã làm cho người nước ngoài không muốn làm việc ở Việt
Nam.
Giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, điện nước ASEAN,
Xingapore, Malayxia, Thái Lan, Inđônêxia, giá nước cao hơn Philipin và gần
ngang với Malayxia, Thái Lan chi phí liên lạc, viễn thông vào loại cao nhất khu
vực, chi phí vận tải hàng không, đường biển cao hơn Trung Quốc.
Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc hậu so
với các quốc gia khác trong khu vực, dẫn đến năng suất lao động thấp, đẩy chi phí
sản phẩm lên cao, đồng thời giảm sức cạnh tranh so với hàng hoá nước ngoài.
Thứ ba, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh tế đối ngoại
yếu.
Tỷ giá giữa đồng Việt Nam với USD và các đồng tiền khác tuy đã được
nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiẹn vẫn còn cao. Theo một số chuyên gia
nước ngoài, mức cao này khoảng trên 10% và đã tác động tiêu cực đến hàng xuất
khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và liên minh Châu Âu, trừ
Trung Quốc và Mỹ Việt Nam đồng cao giá và chưa có thị trường đích thực xác
định đã tác động xấu không chỉ tới xuất khẩu mà cả với FDI và du lịch. Đồng tiền
Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do. Trong khi tổng giá trị xuất
nhập khẩu của nước ta đã ngang bằng tổng GDP thì đây là một vấn đề rất bất lợi.
Buôn bán quốc tế lớn đến thế mà đồng tiền không chuyển đổi tự do sản xuất có
nghĩa là các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển
đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt
do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu
cần ngoại tệ lại phải xin phép Ngân hàng cung cấp.
Cung cấp tín dụng cho xuất khẩu là một trong các yếu tố quyết định sự
thành công của xuất khẩu, thế nhưng ở nước ta việc cung cấp các tín dụng này,
đặc biệt là cung cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu gặp nhiều trở ngại.
Những trở ngại này liên quan tới những thủ tục vay vốn phiền hà, những quy chế
phức tạp về thế chấp, ... đã ảnh hưởng xấu cả tới việc thu hút vốn FDI và du lịch
(trích từ bài "Kinh tế đối ngoại nước ta hiện nay, tình hình và giải pháp" của PGS
- TSKH Võ Đại Lược trong tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 1(81)-2003).
Thứ tư: Thủ tục hành chính còn rườm rà, tệ quan liên thiếu trách nhiệm
của một bộ phận cán bộ công chức gây ách tắc triển khai dự án và sản xuất kinh
doanh,... tình trạng "nhiều cửa, nhiều khoá" vẫn còn tồn tại.
Bốn nguyên nhân trên đã khiến cho hoạt động kinh tế đối ngoại giảm sút
trong những năm gần đây. Vì vậy Nhà nước, Chính phủ cần phải có những điều
chỉnh kịp thời để hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và nền kinh tế nước ta nói
chung tăng trưởng ổn định.
2. Kim ngạch xuất nhập khẩu tiếp tục tăng, trong đó gạo và cà phê phải
chịu những tổn thất do giá gạo và cà phê suy giảm.
Mặc dù tình hình kinh tế thế giới biến động không ngừng, giá các nông sản
có xu hướng giảm dần, trong nước thường xuyên xảy ra hạn hán lũ lụt,... nhưng
kim ngạch xuất nhập khẩu nước ta vẫn tăng và đóng góp một phần không nhỏ vào
tổng thu nhập quốc dân nói chung và tốc độ tăng trưởng kinh tế đối ngoại nói
riêng.
Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 16,53 tỷ USD, tăng 9% so
với năm 2001. Trong số 13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực thì có 12 mặt hàng tiếp
tục đạt kim ngạch tăng hơn năm 2001. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 2,03 tỷ
USD, tăng 2,7% so với năm 2001 và 42,8% so với năm 2000. Thị trường Mỹ
chiếm thị phần cao nhất với doanh số 648 triệu USD, chiếm 31,5%, Nhật Bản:
538 triệu USD, chiếm 16,26%, Trung Quốc - Hồng Kông: 332,8 triệu USD,
chiếm 16,21%, EU: 70,6 triệu USD chiếm 3,44%. Cao du xuất khẩu gần hết sản
lượng hàng hoá với tỷ lệ tăng cao nhất đạt 46,6%. Hàng dệt may năm 2001 chưa
tới 2 tỷ USD, năm 2002 đã đạt 2,6 tỷ USD, 37,7%, hạt tiêu tăng 12,9%, đứng đầu
thế giới về khối lượng xuất khẩu. Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu tăng
38,2% tăng liên tục từ đầu năm, với nhiều hàng nghề nổi danh nhờ xuất khẩu.
Than đá xuất khẩu đạt kỷ lục hơn 5 triệu tấn, tăng hơn 23,6%. Các mặt hàng khác
là: gạo, chè, nhân điều, lạc nhân, giày dép và cuối bảng là dầu thô giảm về giá
nhưng bù lại được bằng tăng số lượng.
Riêng về xuất khẩu gạo và cà phê với vị trí thứ hai, thứ ba thế giới nhưng
do giá cả các mặt hàng này hạ thấp liên tục từ cuối thập kỷ 1990 đến nay đã gây
cho ngành sản xuất gạo và cà phê nước ta những tổn thất rất lớn. Ngay trong năm
2001, giá gạo còn tiếp tục hạ thấp tới 12,2% và giá cà phê hạ thấp 39,9% so với
năm 2000. Vấn đề là thị trường thế giới cho đến nay gần như đã bão hoà, và sản
phẩm nào cũng đều đã có các ông chủ chiếm giữ thị phần. Nước ta là một thị
trường mới nổi nên ta sản xuất thêm nhiều gạo, cà phê, cá ba sa,... thì người khác
phải giảm sản xuất những mặt hàng này, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng dư thừa,
cung vượt cầu, giá cả sẽ hạ, hoặc dẫn tới những giải pháp bảo hộ thương mại (vụ
kiện của các nhà nuôi cá ba sa của Mỹ đối với Việt Nam). Một trong các lý do
chủ yếu làm cho giá gạo và cà phê giảm liên tục là nước ta đã gia tăng xuất khẩu
gạo từ 2,0 triệu tấn năm 1995 lên tới trên 4 triệu tấn năm 1999 và từ 248 ngàn tấn
cà phê năm 1995 lên tới trên 500 ngàn tấn năm 2000. Cung về gạo và cà phê đã
vượt cầu, do đó giá liên tục giảm. Đứng trước tình trạng giá gạo và cà phê không
có cách gì chống đỡ, ngoài việc phải thu hẹp sản xuất. ở đây cung cầu của thị
trường đã điều tiết giá cả và sản xuất khi giá cả thị trường đã thấp hơn chi phí sản
xuất.
Kể từ khi thực hiện hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA) bắt đầu có hiệu
lực từ ngày 11 tháng 12 năm 2001, đến nay giá trị thương mại hai chiều giữa hai
nước Việt Nam và Mỹ đã tăng hơn 100% so với năm 2001. Nếu kim ngạch xuất
khẩu hàng Việt Nam vào Mỹ cả năm 2001 đạt hơn 1 tỷ USD thì con số này đã
trên 2 tỷ USD vào năm 2002. Những mặt hàng tăng trưởng mạnh nhất là dệt may,
thuỷ sản. Nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam cũng đạt những kết quả khả quan.
Những mặt hàng chiếm trọng lớn là bông phân bón, phụ kiện ngành giầy dép,
nguyên liệu chế biến thực phẩm,...
Kim ngạch nhập khẩu năm 2002 đạt 19,3 tỷ USD, tăng 19,4% so với năm
2001. Trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 6,58 tỷ USD, tăng
32%. Tổng mức nhập siêu năm 2002 của Việt Nam vào khoảng 2,77 tỷ USD.
Tuy xuất khẩu nước ta đã có nhiều thành tựu nhưng cũng còn nhiều tồn tại.
Đó là một số sản phẩm xuất khẩu liên quan đến quá trình sản xuất nông nghiệp
chưa được cải thiện, mặt hàng đơn điệu. Cơ sở vật chất để quảng bá hàng xuất
khẩu còn nghèo nàn, thiếu thông tin dự báo hoặc chưa được xử lý. Hạ tầng kỹ
thuật triển khai thương mại điện tử còn thiếu. Vệ sinh, an toàn thực phẩm, tranh
chấp thương hiệu và kiện tụng về bán phá giá như vụ các chủ trang trại Mỹ kiện
các nhà xuất khẩu cá trê, cá ba sa của Việt Nam còn rất phức tạp.
Hơn nữa, nhập siêu gia tăng tập trung vào một số thị trường, trong khi đó
lại suất siêu lớn sang một số thị trường khác. Có nghĩa là cán cân thương mại mất
cân bằng với nhiều bạn hàng chủ chốt. Cụ thể là: kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang 10 bạn hàng lớn nhất xếp theo thứ tự từ trên xuống. Nhật bản, Trung
Quốc, Mỹ, Xingapore, Oxtrâylia, Đài Loan, Đức, Anh, Pháp và Hàn Quốc là
9,992 tỷ USD, chiếm 60,45% tổng kim ngạch xuất khẩu, thì kim ngạch nhập khẩu
từ 10 nước bạn hàng lớn nhất là 12,881 tỷ USD chiếm 66,74% tổng kim ngạch
nhập khẩu, xếp theo thứ tự từ trên xuống là: Xingapore, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Hồng Kông, Malayxia, Mỹ và Đức. Chính sự đảo
lộn vị trí này cho thấy bức tranh nhập siêu rất rõ ràng. Như trường hợp điển hình
về xuất siêu là Australia kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này là 1.041,8 triệu
USD, trong khi kim ngạch nhập khẩu chỉ ở mức 268,7 triệu USD, tức xuất siêu
tới 773,5 triệu USD. Trường hợp nhập khẩu từ thị trường này là 1.893,5 triệu
USD, trong khi xuất khẩu chỉ ở mức 406,1 triệu USD, tức nhập siêu tới 1.487,4
triệu USD. Mặc dù, không thể đòi hỏi cán cân thương mại phải cân bằng trong
mội trường hợp, những sự mất cân bằng này làm nảy sinh 2 vấn đề quan trọng
ảnh hưởng tới dự phát triển lâu dài của nền kinh tế. Thứ nhất, kim ngạch nhập
khẩu công nghệ nguồn từ 3 trung tâm, kinh tế thế giới Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản
còn khiêm tốn, trong khi chúng ta lại suất siêu lớn sang các thị trường này. Hai là,
trong giá trị nhập siêu lớn từ các nước Châu á, phần lớn lại là nhập khẩu nguyên
phụ liệu cho 2 ngành công nghiệp may mặc và giầy da. Điều này có nghĩa là hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam chưa kéo được sản xuất trong nước.
Tóm lại, để thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu thì chúng ta phải nghiên
cứu và lựa chọn từng thị trường các giới hạn của thị trường và khả năng xâm
nhập tối đa của hàng Việt Nam vào các thị trường đó. Đồng thời phải giải quyết
các tồn tại đã nêu ở trên.
3. Môi trường đầu tư nước ngoài được cải thiện (chính phủ thường
xuyên lắng nghe, tiếp thu và xử lý kịp thời kiến nghị của nhà đầu tư).
Nhịp độ thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong từ cuối năm 1997
đến thời gian gần đây có chiều hướng giảm sút. Sự giảm sút này có thể do các yếu
tố khách quan như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và sự cạnh
tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng trở nên gay gắt.
Nhưng còn có nguyên nhân do những hạn chế của bản thân môi trường đầu tư tại
Việt Nam. Vì vậy trong những năm qua, chính phủ Việt Nam đã thường xuyên
lắng nghe các nhà đầu tư và ban hành nhiều biện pháp cải thiện môi trường đầu
tư, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đâu tư trực tiếp nước ngoài như giảm
tiền thuê đất, miễn giảm thuế, giảm giá dịch vụ để giảm chi phí đầu tư, bổ sung
ưu đãi đầu tư đối với vùng và lĩnh vực ưu tiên, cải tiến thủ tục hành chính cải
thiện các điều kiện cơ sở hạ tầng... Những biện pháp khuyến khích này chứng tỏ
chính phủ Việt Nam đang quan tâm và luôn chia sẻ thành công cũng như rủi ro
với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Nếu như ở thời điểm cuối năm 2000, các dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu
lực có tổng số vốn đầu tư đăng ký chưa thực hiện vào khoảng 18,728 tỷ USD, thì
đến cuối tháng 8 năm 2003, chỉ số này đã giảm xuống còn khoảng 16,175 tỷ
USD. Nhờ đó tính đến nay, đã có trên 2.100 dự án đi vào hoạt động kinh tế tạo
doanh thu ngày càng lớn hơn (không kể dầu khí): Năm 2001 đạt 7,4 tỷ USD, tăng
6%; năm 2002 đạt 9 tỷ USD, tăng 10% và 8 tháng đầu năm nay đạt 8 tỷ USD,
tăng 40% so với cùng kỳ năm trước. Khối doanh nghiệp có vốn ĐTNN (không kể
dầu khí) hiện đóng góp 27,4% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và 31,1% tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước, cả 2 chỉ số này đều tăng so với cuối năm 2000
(tương ứng là 24,3% và 23,2%) (Báo đầu tư: Số 111 (1064). Tr.4)
Đầu tư Nhà nước từ năm 2001 đến ngày 20 tháng 8 năm 2003
Đơn vị: Tỷ USD
Số dự án
Tổng vốn
ĐTK+ĐK
TVĐTTM
Kết quả thực hiện 2001-T8/2003 1.512 6,82 6,44
Tăng, giảm (-) T8/2003 so với 31/12/2000 1.470 3,284 5,838
Trong đó:
Công nghiệp nặng 497 2,090 1,747
Công nghiệp nhẹ 468 1,609 0,782
Công nghiệp dầu khí -1 -1,357 1,641
Công nghiệp thực phẩm 63 -1,357 0,257
Xây dựng 65 0,197 0,368
Nông lâm nghiệp 165 0,310 0,315
Thủy sản 39 0,572 0,041
GTVT - BĐ 18 0,017 -
Khách sạn du lịch 16 -0,268 0,155
Tài chính - Ngân hàng -3 0,039 -
Văn hoá - y tế - giáo dục 53 0,216 0,082
Xây dựng văn phòng - căn hộ -17 -0,487 -0,021
Xây dựng hạ tầng KCN - KCX 6 0,080 0,056
Xây dựng khu đô thị mới 0 0 0
Các dịch vụ khác 101 0,178 -
Xét theo hình thức đầu tư
BOT 2 0,918 0,653
BCC 21 -0,061 2,095
100% vốn đầu tư nước ngoài 1.356 5,276 3,067
Liên doanh 91 - 0,023
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Có thể nói chưa bao giờ chính quyền các cấp lắng nghe tiếp thu và xử lý
kịp thời những kiến nghị của các nhà đầu tư như hiện nay, mà 2 dấu ấn quan
trọng là việc thực thi luật doanh nghiệp từ năm 2000 và luật ĐTNN sửa đổi bổ
sung lần thứ 3 có hiệu lực từ tháng 7 năm 2000.
Tuy nhiên, do có một số dự án kết thúc hoạt động vì bị giải thể trước thời
hạn hoặc đã hết hạn hiệu lực nên các dự án ĐTNN còn hiệu lực đến ngày 20
tháng 8 năm 2003 so với thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2000 chỉ tăng thêm
khoảng 1.470 dự án tổng vốn đăng ký tăng thêm trên 3,284 tỷ USD và tổng vốn
thực hiện tăng thêm 5,838 tỷ USD.
Trong thời đại ngày ngay, không chỉ những nước nghèo, những nước có
nền kinh tế đang phát triển mà cả những nước có nền kinh tế phát triển cũng rất
chú trọng tới việc thu hút vốn ĐTNN. Trên thực tế chỉ có khoảng 1/3 tổng lượng
vốn ĐTNN của toàn thế giới đổ vào các nước đang phát triển, trong đó phần lớn
là vào các nước Mỹ La Tinh, Trung Quốc, ấn Độ, Thái Lan, Malayxia,
Inđônêxia.. còn Việt Nam mới chỉ thu hút được một phần rất nhỏ. Vì vậy, Việt
Nam cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cả trong tư duy lẫn trong công tác điều hành
quản lý ĐTNN.
4. Tình hình du lịch nước ta hiện nay đạt tốc độ tăng trưởng nhanh do
nhiều nguyên nhân trong đó năm 2002 Việt Nam được nhiều hãng thông tấn báo
chí tổ chức du lịch quốc tế bình chọn là "điểm du lịch an toàn và thân thiện".
Năm 2002 là năm ngành dịch vụ tăng trưởng chậm, chỉ đạt 6,2% thấp hơn
tốc độ tăng trưởng GDP toàn quốc. Trong bức tranh mờ nhạt của ngành dịch vụ,
du lịch nổi lên như một điểm sáng về tốc độ tăng trưởng nhanh. Doanh thu xã hội
từ du lịch đạt 23 nghìn đồng, tương đương 1,5 tỷ USD, tăng 11% so với năm
2001, số khách quốc tế đến Việt Nam lên tới 2,6 triệu lượt người, khách nội địa
đạt 12,5 triệu lượt người.
Du lịch Việt Nam có được sự phát triển mạnh mẽ như vậy một phần do
nguyên nhân khách quan, một phần do nguyên nhân chủ quan. Trong tình hình
thế giới diễn biến phức tạp, năm 2002 Việt Nam được nhiều hãng thông tấn báo
chí, tổ chức du lịch quốc tế bình chọn là điểm du lịch an toàn và thân thiện. Đồng
thời nhạy bén nắm bắt cơ hội, ngành du lịch Việt Nam đã tích cực tận dụng các
ưu thế để thu hút khách du lịch. Ngành du lịch đã phối hợp với các ngành hàng
không, ngoại giao, văn hóa thông tin tiến hành nhiều hs quảng bá du lịch thông
qua các hội chợ, triển lãm, hội thảo Việt Nam tại Đức, Pháp, Bỉ, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Nhật Bản, australia, Anh... phát ấn phẩm tuyên truyền trong nước và
ngoài nước, mở các văn phòng xúc tiến du lịch tại Nhật Bản, Pháp và Mỹ, tổ chức
thành công một số sự kiện du lịch lớn như liên hoan Huế 2002, kết quả là trong
năm 2002 chính phủ Việt Nam đã phê duyệt 24 dự án hạ tầng du lịch và tiếp tục
đầu tư 13 dự án triển khai từ năm 2001 trên địa bàn 37 tỉnh, thành phố với tổng
kinh phí 380 tỷ đồng, tập trung ở các khu du lịch. Cổ loa (Hà Nội), Ba vì, Hương
Sơn (Hà Tây), Tam Cốc, Bích Động (Ninh Bình), Hạ Long (Quảng Ninh), Cát Bà
(Hải Phòng), Kim Liên (Nghệ An), Nha Trang (Khánh Hoà), Đà Lạt (Lâm Đồng),
Cầu Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh), cố đô Huế (thừa Thiên Huế), khu Thành Địa
Mỹ Sơn (Quảng Nam).
Du lịch phát triển kéo theo các ngành hàng không, giao thông vận tải, bưu
chính viễn thông, thủ công nghiệp phát triển. Điều này đã góp phần thay đổi đời
sống vật chất tinh thần của nhiều vùng dân cư, mở ra hướng tiêu thụ hàng hoá,
dịch vụ, xuất khẩu tại chỗ, khôi phục và phát huy các di sản văn hoá vật thể và
phi vật thể. Hoạt động du lịch đã tạo việc làm trực tiếp và gián tiếp cho 670 nghìn
người.
Bên cạnh những thành tựu, du lịch, Việt Nam vẫn bộc lộ những hạn chế.
Nhìn chung ngành du lịch chưa thoát khỏi lệ thuộc vào thời vụ. Hệ thống khách
sạn có gần 30 nghìn phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế, có thể đón 3 triệu lượt khách
mỗi năm. Số phòng ở các khách sạn thiếu không đáp ứng đủ nhu cầu. Các khu
giải trí còn quá ít, hơn nữa Nhà nước cũng cần giải quyết các vấn đề ảnh hưởng
tới ngành du lịch như: chi phí tiêu dùng quá cao, việc chuyển đổi ngoại tệ khó
khăn, tốn kém,...
4. Đội ngũ doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại nước ta tăng cả số
lượng lẫn chất lượng nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
Kể từ trước năm 1990 đến nay, đội ngũ doanh nghiệp hoạt động kinh tế
đối ngoại nước ta đã tăng lên hàng nghìn doanh nghiệp bao gồm cả quốc doanh,
tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,... Đó là vấn đề rất quan trọng
cần được khẳng định.
Hoạt động kinh tế đối ngoại của đội ngũ doanh nghiệp này là rất quan
trọng nếu như không nói là quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, phần lớn các doanh nghiệp này chỉ hoạt động phạm vi trong nước chưa mở
rộng ra nước ngoài. Như vậy đã không tận dụng được những lợi thế của các nước
khác như về lao động, vị trí địa lý, tài nguyên ... Hơn nữa các doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư vào nước ta là để tận dụng nguồn nhân công rẻ và vị trí địa lý thuận
lợi để lắp ráp đưa vào tiêu thụ ở Đông Nam á chứ không phải là sản xuất những
linh kiện mà nước ta không có lợi thế. Chính điều này đã khiến Nhà nước ta tạo
sức ép đối với họ, đi ngược lại với lợi ích của họ vì vậy không kích thích họ.
Nói chung các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại nước ta còn nhỏ
bé, yếu hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp nước ngoài ở các quốc gia khác.
III. Giải pháp.
Trước những thực trạng mang tính cấp bách trên thì chúng ta cần có những
giải pháp gì để phát triển kinh tế đối ngoại. Sau đây là một số giải pháp mà tôi
cho là cần thiết.
1. Tiếp tục đảm bảo sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế xã hội.
Môi trường chính trị, kinh tế - xã hội là nhân tố cơ bản có trích quyết định
đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước
ngoài - hình thức chủ yếu quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Kinh
nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu sự ổn định chính trị không được đảm bảo,
môi trường kinh tế không thuận lợi, thiếu các chính sách môi trường xã hội, thiếu
tính an toàn ... sẽ tác động xấu tới quan hệ hợp tác kinh tế mà trước hết là đối với
việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Thật vậy, những năm gần đây tình hình thế giới biến động không ngừng,
một loạt các vụ chiến tranh xảy ra như chiến tranh I RAG, vụ khủng bố 11/9/2001
vào hai toà nhà Trung tâm Thương mại nước Mỹ ... đã ảnh hưởng xấu đến tình
hình kinh tế thế giới. Nó không những làm giảm đầu tư nước ngoài vào các nước
có liên quan, mà còn ảnh hưởng đến một loạt các ngành, các lĩnh vực khác như
hàng không, du lịch, giá dầu khí, ... Nhưng nước ta có lợi thế là các nhà đầu tư
cho rằng, Việt Nam có môi trường đầu tư ổn định vì thế mà nước ta vẫn có tốc độ
tăng trưởng GDP là 7,04% đứng thứ hai khu vực sau Trung Quốc.
Như vậy, ổn định môi trường chính trị, kinh tế, xã hội là hết sức quan
trọng, để có được điều này phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý vĩ
mô của Nhà nước, sự nỗ lực của các ngành, các cấp.
2. Cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài.
Mục tiêu của Việt Nam trong những năm tới là tiếp tục công cuộc đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng đất nước Việt Nam giàu
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phấn đấu duy trì mức tăng trưởng
kinh tế ít nhất là 7,0% năm. Để đạt được những mục tiêu này, một mặt cần huy
động tối đa các nguồn lực và sáng tạo của mọi thành phần kinh tế trong nước, mặt
khác tiếp tục tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế và khu vực trong đó có đâù tư
nước ngoài.
Việt Nam luôn coi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận
không thể tách rời của nền kinh tế. Vì vậy, trong thời gian qua, chính phủ Việt
Nam thường xuyên lắng nghe các nhà đầu tư và đã ban hành nhiều biện pháp cải
thiện môi trường đầu tư. Tuy nhiên cho đến nay vẫn có một số vướng mắc gây
khó khăn việc đầu tư nước ngoài.
- Thuế thu nhập nước ta ở mức cao đã làm cho người nước ngoài không
muốn làm việc ở Việt Nam.
- Giá cả các dịch vụ như: Liên lạc, viễn thông, hàng không, điện, nước,...
đều ở mức cao: chi phí điện cao hơn 4 nước ASEAN: Singapore, Malayxia, Thái
Lan, Inđônêxia, giá nước cao hơn Philipin và gần ngang bằng với Malayxia, Thái
Lan; chi phí liên lạc viễn thông vào loại cao nhất khu vực, chi phí vận tải hàng
không đường biển cao hơn cả Trung Quốc.
- Thủ tục hành chính còn rườm rà, tệ quan liêu, thiếu trách nhiệm, tham
nhũng ở một bộ phận cán bộ công chức đã gây ách tắc cho việc triển khai các dự
án đầu tư và sản xuất kinh doanh.
- Những bất cập trong chính sách thuế, hải quan gây cản trở cho sản xuất
của các doanh nghiệp, lãng phí thời gian của doanh nghiệp và các cơ quan Nhà
nước.
- Công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài tuy có cố gắng, song vẫn
chủ yếu tập trung trong nước, trong khi đó thông tin về Việt Nam ở nước ngoài
chưa đủ để đáp ứng cho các đối tác nước ngoài vào hợp tác, kinh doanh với
chúng ta. Công tác thông tin tuyên truyền phục vụ cho đầu tư nước ngoài của các
cơ quan Việt Nam ở nước ngoài và kể cả ở trong nước cũng chưa được quan tâm
đúng mức.
Trước những vướng mắc, trở ngại trên đã làm cho việc thu hút đầu tư nước
ngoài của nước ta những năm gần đây giảm dần. Để khắc phục điều này chúng ta
cần có những giải pháp gì?
Thứ nhất, đa dạng hoá các hình thức đầu tư (liên doanh, BOT, BT, ...) mở
rộng lĩnh vực đầu tư để mở rộng thêm các kênh thu hút ĐTNN.
Thứ hai, bổ sung chính sách ưu đãi có tính cạnh tranh so với các nước
trong khu vực và thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Thứ ba, đầu tư cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng cứng (đường, điện, nước,
thông tin,...) cũng như hạ tầng mềm (tài chính, nhiều, dịch vụ kỹ thuật, công
nghệ...) để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về đầu tư nước
ngoài, trong đó chú trọng đổi mới vận động xúc tiến đầu tư, nâng cao chất lượng
quy hoạch ngành, cải tiến mạnh hơn nữa các thủ tục đầu tư, chấn chỉnh, kỷ cương
trong việc thực thi pháp luật. Tăng cường đối thoại và tiếp xúc với các nhà đầu tư
để xử lý kịp thời các khó khăn vướng mắc của họ.
Thứ năm, chú trọng công tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm
chất chính trị đạo đức của đội ngũ công chức Nhà nước, đội ngũ cán bộ làm việc
trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, tăng cường đào tạo công nhân kỹ
thuật đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về đầu tư nước ngoài,
công khai hoá các dự án khuyến khích đầu tư, xây dựng mạng thông tin phục vụ
cho các doanh nghiệp như là lập trang web về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam để
phục vụ rộng rãi cho những ai muốn đầu tư vào Việt Nam.
Thứ bảy, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước
ngoài theo hướng tạo sự hấp dẫn, thông thoáng rõ ràng, ổn định. Tiến tới xây
dựng bộ luật chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài.
Nói đến xuất nhập khẩu thì chúng ta không thể không quan tâm đến các
chính sách tự do hoá thương mại, tình trạng bảo hộ mậu dịch.
Có quan điểm cho rằng có thể thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch, đồng
thời đẩy mạnh xuất khẩu. Thực tế thế giới cho thấy đã không có quốc gia nào
thực hiện thành công chính sách này. Một nguyên tắc gần như phổ biến trong các
quan hệ quốc tế hiện nay là: Một quốc gia muốn mở cửa thị trường nước khác thì
đồng thời phải mở cửa thị trường nước mình.
Bảo hộ mậu dịch trên thực tế đã có cho sự phát triển kinh tế đối ngoại nói
chung và xuất khẩu nói riêng: việc tăng giá các sản phẩm trong nước đã làm tăng
chi phí đối với cả sản xuất, xuất khẩu cũng như phục vụ nhu cầu trong nước; che
chở cho các doanh nghiệp trong nước sản xuất kém hiệu quả mở rộng sản xuất -
chống lại các giải pháp hội nhập quốc tế, khuyến khích xu hướng thay thế nhập
khẩu - giảm thiểu cơ hội mở rộng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài.
Trước những vấn đề trên đây, nước ta cần có một lộ trình hội nhập quốc tế.
Lộ trình này một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tự vươn lên,
mặt khác dùng sức ép của việc giảm dần hàng rào bảo hộ để buộc các doanh
nghiệp phải vươn lên, nếu không sẽ bị đào thải. Từ đó sẽ tạo ra nguồn lực lớn
thúc đẩy xuất khẩu phát triển.
Hơn nữa, xuất khẩu nhập khẩu còn chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi những yếu
tố khác như:
- Tỷ giá giữa đồng Việt Nam với USD và các đồng tiền khác tuy đã được
nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao đã tác động tiêu cực đến
hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường nước ngoài. Đồng Việt Nam hiện
nay vẫn chưa có thể chuyển đổi tự do các chi phí chuyển đổi với thủ tục phiền hà,
tốn kém thời gian.
- Thủ tục nhập khẩu hàng hoá còn phức tạp: nhập cảng, hải quan...
- Việc cung cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu gặp nhiều trở ngại.
- Cơ cấu nhập khẩu chưa phù hợp định hướng xuất khẩu.
Các nước phát triển có cơ cấu nhập khẩu hiệu quả bao gồm 5 nhóm hàng
hoá sau: bằng phát minh sáng chế, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu; hàng
tiêu dùng và dịch vụ. Cơ cấu nhập khẩu của các nước đang và kém phát triển
thường chỉ bao gồm 3 nhóm hàng hoá, máy móc thiết bị, nguyên nhân vật liệu và
hàng tiêu dùng. Có rất ít nước đang phát triển có một cơ cấu nhập khẩu đủ cả 5
nhóm hàng hoá. Cơ cấu chỉ phù hợp với nền kinh tế hướng nội, thay thế nhập
khẩu. ở những nước này, người ta nhập máy móc thiết bị cùng với nguyên nhiên
vật liệu trong nước không có để sản xuất ra hàng hoá tiêu dùng trong nước cần;
và để có tiền nhapạ khẩu, những nước này đã xuất khẩu tài nguyên của họ như:
dầu mỏ, các loại quặng, nông, lâm, hải sản... Cơ cấu nhập khẩu có đủ 5 nhóm
hàng hoá sẽ phù hợp với hướng xuất khẩu bằng phát minh sáng chế và dịch vụ,
nên các máy móc thiết bị và nguyên vật liệu nhập khẩu được sử dụng có hiệu quả,
có sức cạnh tranh quốc tế. Cái tồn tại trong cơ cấu nhập khẩu của nước ta hiện là
cơ cấu nhập khẩu 3 nhóm hàng hoá máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu và hàng
tiêu dùng, hầu như không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và dịch vụ.
- Một số sản phẩm xuất khẩu liên quan đến qúa trình sản xuất nông nghiệp
chưa được cải thiện, mặt hàng đơn điệu. Cơ sở vật chất để quảng bá hàng xuất
khẩu còn nghèo nàn, thiếu thông tin dự báo hoặc chưa được xử lý. Hạ tầng kỹ
thuật triển khai thương mại điện tử còn thiếu và các vấn đề vệ sinh an toàn thực
phẩm chưa được coi trọng đúng mức,...
Để kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu nước ta tiếp tục tăng
Một là, Nhà nước phải có những điều chỉnh để giảm tỷ giá giữa đồng tiền
Việt Nam với các tiền Việt Nam với các đồng tiền khác, giảm thiểu những thủ tục
để việc chuyển đổi tiền dễ dàng nhanh chóng, hay thủ tục về nhập cảng, hải
quan...
Từ đó sẽ thúc đẩy việc xuất nhập khẩu tăng nhanh.
Hai là, cho phép một số Ngân hàng thương mại của ta liên doanh với Ngân
hàng nước ngoài và cho phép các Ngân hàng nước ngoài mở rộng dịch vụ kinh
doanh nội và ngoại tệ, cung ứng tín dụng cho hoạt động kinh tế đối ngoại trong
đó có xuất khẩu. Đây là một giải pháp quan trọng, vì các Ngân hàng nước ngoài
hiểu biết thị trường thế giới hơn, có nhiều năng lực thẩm định và đề xuất các dự
án kinh doanh có hiệu quả hơn ... các Ngân hàng nước ngoài gia tăng hoạt động
sẽ tạo ra một áp lực cạnh tranh lớn hơn, do vậy hoạt động Ngân hàng nước ta sẽ
có hiệu quả. Việc cung cấp vốn lưu động phục vụ hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ
dễ dàng, nhanh chóng hơn.
- Ba là, chú trọng nhập khẩu hơn nữa, nhập khẩu những thứ để có thể hiện
đại hoá kinh tế đất nước và phù hợp với định hướng xuất khẩu, vì từ đổi mới cơ
cấu nhập khẩu mới đổi mới được cơ cấu xuất khẩu. Những hướng đổi chính là
tăng nhập khẩu bằng phát minh sáng chế, các công nghệ mới. Bởi vì nếu ta không
nhập khẩu bằng phát minh sáng chế mà chỉ nhập dầu thô, nông hải sản khó mua
được máy móc thiết bị hiện đại, do vậy phải mua máy móc thiết bị cũ.
- Xuất hiện nguy cơ biến nước ta thành "bãi thải công nghiệp cũ" cũng cần
chú trọng nhập khẩu ngay các dịch vụ cần cho phát triển kinh tế đối ngoại trước
mắt như các dịch vụ tư vấn, các dịch vụ cung ứng vốn, các dịch vụ boả hiểm, các
dịch vụ viễn thông, tăng tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng, giảm bớt hàng rào
bảo hộ... Để sao cho nhập khẩu phải phù hợp định hướng xuất khẩu.
- Bốn là, phải nâng cao chất lượng đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu.
Doanh nghiệp phải có chiến lược quảng bá hàng xuất khẩu như là thành lập các
khu giới thiệu hàng hoá Việt Nam ở nước ngoài, thành lập trong web về các dhh
xuất khẩu,... Thành lập các ban kiểm tra vệ sinh, an toàn thực phẩm đối với các
mặt hàng xuất khẩu như nông sản, thuỷ sản...
- Năm là, phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất kinh doanh
hàng xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao...
Như là tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vay vốn...
4. Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức
đang hình thành và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội càng
đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Trong đó đặc biệt
là kết cấu hạ tầng kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc, giao thông
vận tải. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên
lạc, giao thông vận tải. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng cho hoạt động kinh tế đối ngoại
của nước ta còn thiếu và lạc hậu so với những nước trong khu vực.
Về cảng biển theo các chuyên gia nước ngoài, hiệu suất cảng biển Việt
Nam được xếp thứ 7 trong 9 nước Đông á mà họ đánh giá, Việt Nam xếp sau
Xingapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, chỉ xếp sau Xingapore,
Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, chỉ xếp trên Trung Quốc và
Inđônêxia. Phải nói thêm là phần lớn hàng xuất khẩu của Trung Quốc đều qua
cảng Hồng Kông, nên Việt Nam chỉ hơn Inđônêxia. Phí cảng của ta còn rất cao,
trong khi công nghệ bốc dỡ kém, quản lý lạc hậu, thời gian giải phóng tàu lâu,
càng làm tăng thêm chi phí cho người xuất khẩu.
Về hàng không, ta có 2 sân bay quốc tế ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh, nhưng đều kém các sân bay quốc tế trong khu vực. Giá vé máy bay của ta
hiện còn cao so với khu vực, cùng với tình trạng luôn phải chậm giờ bay, hoãn
chuyến càng làm giảm sức hấp dẫn của hàng không Việt Nam.
Về đường cao tốc, nước ta có được vài trăm km đường cao tốc - một con
số quá bé nhỏ so với các quốc gia trong khu vực. Số lượng đường cao tốc ít ỏi đã
làm cho hàng hoá chậm đến cảng và sân bay quốc tế, làm tăng chi phí và thời
gian.
Về cung cấp điện, tiêu dùng điện theo đầu người ở nước ta hiện nay vào
khoảng 232 kwh, dưới mức trung bình của các nước có thu nhập thấp 363 kwh,
dưới xa mức trung bình của các nước khu vực Châu á - Thái Bình Dương 787
kwh. Tình trạng bị cắt điện và tăng giảm điện áp đã gây thiệt hại đáng kể cho các
nàh máy sản xuất hàng xuất khẩu. Giá điện của Việt Nam bán cho các nhf sản
xuất được xếp vào loại cao so với khu vực.
Về liên lạc, viễn thông, tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng còn những hạn chế
sau: giá dịch vụ viễn thông quá đắt so với khu vực, thủ tục phiền hà, thương mại
điện trở không phát triển.
Các cơ sở hạ tầng của kinh tế đối ngoại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với sự phát triển hiệu quả của nó. Do vậy, trong thời gian trước mắt, ta phải tập
trung đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết cho kinh tế đối ngoại, từng
bước khắc phục các tồn tại đã nêu trên. Đầu tư xây dựng têm vệ tinh viễn thông,
hệ thống đường cáp quang truyền dẫn xây dựng một cảng trung chuyển quốc tế,
hiện đại hoá các sân bay quốc tế, mở rộng các đường cao tốc ở các vùng trọng
điểm, tăng cường xây dựng các nhà máy điện và hiện đại hoá hệ thống truyền
dẫn, giảm tiêu hao thất thoát điện, gia tăng các cơ sở sản xuất nước va hiện đại
hoá hệt hống cung cấp nước... Huy động nguồn vốn của Ngân sách Nhà nước,
ODA và nguồn vốn huy động từ dân, từ các thành phần kinh tế khác để xây dựng
cơ sở hạ tầng.
5. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại.
Để có thể phục vụ cho kinh tế đối ngoại thì người lao động phải có trình
độ cao về tay nghề, có khoa học và kỹ thuật, có kỷ cương... Trong khi đó nước ta
chỉ có số lượng nhỏ lao động là đủ điều kiện. Vì vậy chúng ta phải có những biện
pháp để đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho họ...
sau đây là một số bp:
- Cần tuyển chọn và cử các cán bộ đi học các lớp ngắn hạn ở nước ngoài
chuyên về các quan hệ kinh tế quốc tế và kỹ thuật đàm phán quốc tế xây dựng
một bộ phận công tác ổn định chuyên lo việc đàm phán mở cửa thị trường, xử lý
các rắc rối trong quan hệ quốc tế.
- Tăng cường đầu tư cho các trường đại học đào tạo các chuyên ngành
quốc tế, cho các bộ phận nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho các trường dạy
những nghề phục vụ hoạt động kinh tế đối ngoại...
- Cho phép các công ty nước ngoài mở các trường dạy nghề ở Việt Nam.
- cần có chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nhân tài nguời Việt Nam ở
nước ngoài và người nước ngoài vào Việt Nam hoạt động kinh doanh, trong đó có
những chuyên gia giỏi trên nhiều lĩnh vực đã về hưu ở nước họ lại muốn và có thể
làm việc ở nước ta.
- Cần phổ cập tiếng Anh như là một quốc ngữ thứ hai.
- Cho phép rộng rãi hơn các trường nước ngoài có chọn lọc được mở các
chi nhánh đào tạo tại Việt Nam
Sửa đổi và ban hành các luật pháp để thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển.
Luật pháp có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh tế đối ngoại. Nó có thể
gây khó khăn cũng như tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đối ngoại. Nhà
nước Việt Nam đã ban hành hệ thống luật liên quan đến hoạt động kinh tế đối
ngoại bao gồm luật thương mại luật doanh nghiệp, luật Ngân hàng Nhà nước và
luật về các tổ chức tín dụng, luật khuyến khích đầu tư trong nức, luật kinh doanh
bảo hiểm... và thường xuyên được sửa đổi bổ sung theo hướng mở cửa, minh
bạch. Tuy nhiên hệ thống luật này vẫn còn những hạn chế trong việc phát triển
kinh tế đối ngoại như luật đầu tư có sự khác biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư
trong nước hay luật Ngân hàng của ta chưa cho phép dùng thẻ tín dụng, các
thương phiếu... làm vật thế chấp, trong khi ở các nền kinh tế thị trường thì đó là
những hoạt động bình thường,... Hơn nữa, hệ thống luật pháp của ta còn thiếu như
chưa có luật kiểm soát độc quyền, luật chống bán phá giá luật về thị trường bất
động sản... Do vậy chúng ta phải tiếp xúc sửa đổi luật pháp đã có và ban hành
những luật mới để đảm bảo hoạt động kinh tế nói chung tuân theo các nguyên tắc
của thị trường và hội nhập quốc tế, đồng thời phải minh bạch, rõ ràng. Mà trước
hết phải tiến tới xây dựng bộ luật chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài
hay sửa đổi các luật quy định về thuế quan, thủ tục hải quan, về thương quyền về
xuất nhập cảng... được minh bạch rõ ràng hơn.
Kết luận
Phát triển kinh tế đối ngoại đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay là vấn
đề cấp bách hàng đầu chỉ có như vậy chúng ta mới thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh tạo nguồn lực để đưa nước ta từ
một nước nông nghiệp thành nước công nghiệp.
Mặc dù, kinh tế đối ngoại đã đúng mức nhưng bên cạnh những thành tựu
đã đạt được như: Sự phát triển của du lịch, kim ngạch xuất nhập khẩu tiếp tục
tăng, tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm, làm giảm thất nghiệp, tăng thu
nhập và nâng cao đời sống nhân dân... thì vẫn tồn tại những hạn chế cần giải
quyết: Đội ngũ cán bộ, hoạt động cho kinh tế đối ngoại còn yếu kém, cơ sở hạ
tầng phục vụ cho kinh tế đối ngoại thì thiếu và lạc hậu, thủ tục hành chính, hệ
thống luật pháp chính sách Nhà nước rườm rà chưa minh bạch...
Trước tình hình này để có thể hội nhập kinh tế quốc tế thì chúng ta cần
phải làm gì? Một số giải pháp đưa ra trong bài này có thể coi là cần thiết.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Thực trạng phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong những năm vừa qua và đưa ra những giải pháp đúng đắn, thích hợp trong những thời gian tới.pdf