Trong lịch sử quan hệ Việt - Trung, chưa bao giờ mối quan hệ kinh tế – thương
mại giữa hai nước phát triển mạnh mẽ như những năm qua. Các chỉ số về kim ngạch
xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch và dịch vụ đều tăng trưởng ổn định qua các năm.
Những thành tựu đạt được trong hơn 10 năm qua đã có sự đóng góp không nhỏ vào
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và mục tiêu tăng trưởng
kinh tế khu vực các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc nói riêng.
60 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3036 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tỉnh phía Bắc.
Để phát huy hơn nữa tính tích cực của quan hệ thương mại Việt - Trung đối với sản
xuất nông nghiệp, chúng ta cần phải có một chiến lược hợp tác dài hạn trong nông
nghiệp, nhất là chuyển giao công nghệ sinh học. Ngoài ra phải tăng cường công tác
kiểm soát, kiểm dịch động thực vật chặt chẽ hơn nữa tránh sau bệnh dịch hại xâm nhập
gây ảnh hưởng tới vật nuôi, cây trồng, bảo vệ được sản xuất nông nghiệp nước ta.
2.2. Thúc đẩy phát triển công nghiệp.
Nghiên cứu cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên giới Việt - Trung cho thấy
hàng hoá máy móc, thiết bị, hoá chất, các phương tiện vận tải công nghệ phục vụ cho
một số lĩnh vực sản xuất công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng nhập khẩu chiếm 30
% giá trị hàng hoá nhập khẩu. Nhóm hàng tư liệu sản xuất nhập khẩu khá phong phú,
đa dạng, có qui mô khác nhau, từ một vài bộ đến các lô với hàng loạt máy móc, thiết
bị; từ thiết bị lẻ đến thiết bị toàn bộ. Những nhóm hàng có qui mô lớn trong thời gian
qua là máy móc nông nghiệp và chế biến lâm sản, nông sản; thiết bị cho sản xuất xi
35
măng lò đứng, máy móc cho ngành dệt; thiết bị máy móc sản xuất phân bón và các
loại máy phát điện cỡ nhỏ, có trình độ công nghệ chưa phải là tiên tiến và có ý nghĩa
lâu dài, việc sử dụng chỉ mang tính chất tình thế. Tuy nhiên công nghệ nào cũng có
một thời kỳ phục vụ tích cực nhất định, phù hợp với trình và hoàn cảnh trong một giai
đoạn phát triển nhất định. Những thiết bị máy móc nhập khẩu từ Trung Quốc kể trên
đã có một khoảng thời gian 5 - 10 năm phục vụ tích cực cho sản xuất công nghiệp,
phù hợp với ngành chế biến công nghiệp mới xây dựng ở nước ta.
2.3. Thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng khu vực biên giới.
Giao thông vận tải ở các tỉnh biên giới phía bắc phần lớn là giao thông dường
bộ, đặc biệt là các tỉnh phía Tây Bắc. Hai tỉnh Lạng Sơn và Lào Cai có thêm đường
sắt, Quảng Ninh có thêm đường biển, song số lượng ít, chất lượng chưa cao. Từ ngày
mở cửa biên giới, Bộ giao thông vận tải đã phối hợp cùng với các địa phương cải tạo,
nâng cấp nhiều đoạn đường, tuyến đường tới các cửa khẩu chính như đoạn Tiên Yên -
Móng Cái dài trên 90 Km trên quốc lộ 18; Tuyến đường Lộc Bình - Chi Ma dài 18
Km; đoạn nối quốc lộ 4A tới cửa khẩu Tân Thanh; tuyến Mã Phủ - Sóc Giang; nâng
cấp và sửa chữa các các đoạn đường trên quốc lộ 1A, quốc lộ 3, quốc lộ 70; khôi phục
và khai thông hai tuyến đường sắt liên vận quốc tế quan trọng là Hà Nội - Đồng Đăng
- Bằng Tường, Hà Nội - Lào Cai - Côn Minh. Đồng thời với việc xây dựng các tuyến
đường chính trên, ta đã và đang xây dựng thêm 3 vành đai giao thông dọc theo biên
giới. Ngoài ra để giúp đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng ở các tỉnh miền núi, nhà nước
ta đã có chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi,
vùng sâu vùng xa, đầu tư xây dựng 6 loại công trình là: điện, đường, trường, trạm,
thuỷ lợi nhỏ, cấp nước sinh hoạt; với các xã biên giới được đầu tư thêm xây dựng chợ.
Ta đã cùng với Trung Quốc xây dựng được một số cầu tại các cửa khẩu Quảng Ninh,
Lai Châu, Hà Giang, Lào Cai. Nhìn chung, các tuyến đường ra cửa khẩu, đến các xã
biên giới đã được cải thiện một bước, góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội
của các tỉnh biên giới phía Bắc.
Về thông tin liên lạc, từ năm 1990 trở về trước, mạng bưu chính viễn thông của
6 tỉnh biên giới phía Bắc còn rất lạc hậu. Từ năm 1991 đến nay cùng với việc mở rộng
đường điện báo, khôi phục đường điện thoại giữa Hà Nội và Bắc Kinh, ngành bưu đã
từng bước hiện đại hoá mạng thông tin từ Trung ương xuống 6 tỉnh với 39 huyện biên
36
giới. Ngành bưu điện đã đưa kỹ thuật vi tính vào quản lý bưu chính và phát hành báo
chí, các dịch vụ điện thoại, điện báo, FAX đều đã được số hoá; dịch vụ chuyển phát
nhanh EMS và chuyển tiền nhanh trong phạm vi 24 - 48 giờ được mở rộng đến các thị
xã. Dịch vụ bưu chính - viễn thông đã rải khắp các cửa khẩu và chợ đường biên.
2.4. Mở rộng hoạt động du lịch.
Những năm qua, cùng với sự phát triển của giao lưu hàng hoá, ngành du lịch 6 tỉnh
miền núi biên giới phía bắc có nhiều tiến bộ. Thiên nhiên đã ưu đãi cho các tỉnh miến
núi phía bắc nhiều cảnh quan và điểm du lịch tuyệt vời. Đặc biệt Vịnh Hạ Long là một
trong những di sản tự nhiên của thế giới, là nơi vô cùng hấp dẫn khách du lịch các tỉnh
biên giới phía Nam và các tỉnh lục địa Trung Quốc không có biển, ngoài ra còn có Sa
Pa cũng là nơi có danh lam thắng cảnh đẹp, có khí hậu mát mẻ vào mùa hè. ở những
nơi này còn là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc có những phong tục tập quán, lễ hội
mang bản sắc văn hoá phong phú đa dạng. Có thể nói các tỉnh miền núi phía Bắc có
nhiều tiềm năng phát triển du lịch, thu hút mạnh mẽ đối với du khách trong và ngoài
nước, đặc biệt là khách du lịch Trung Quốc.
Từ sau khi hai nước thiết lập lại quan hệ, khách du lịch giữa hai nước và nước thứ ba
đã tăng lên nhanh chóng. Theo báo cáo của Tổng Cục du lịch, thời kỳ năm 2002 đến
năm 2006 bình quân số khách tăng mỗi năm 30% đến 40%. Năm 2006 số khách du
lịch vào Việt Nam qua biên giới Việt - Trung đạt tới 375 nghìn lượt người, năm 2009
đã tăng lên 460 nghìn người. Tại các thị xã có cửa khẩu, cả nhà nước và tư nhân đã
xây dựng hàng trăm nhà nghỉ, khách sạn. Riêng tại Quảng Ninh đã có 156 khách sạn
với hơn 3000 phòng nghỉ. ỏ 6 tỉnh biên giới hiện có trên 40 đơn vị kinh doanh lữ
hành, sự phát triển của du lịch không những tăng thêm thu nhập quốc dân mà còn góp
phần tạo việc làm, cải thiện đời sống cho một bộ phận cư dân vùng biên giới. Hoạt
động du lịch đã góp phần phát triển quan hệ hữu nghị giữa hai nước, tạo điều kiện cho
nhân dân hai bên qua lại thăm thân, trao đổi có những tác động tích cực đến nhiều lĩnh
vực trong phát triển kinh tế đối ngoại.
2.5. Góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế và thúc đẩy sự ra đời một số
trung tâm kinh tế quan trọng.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế vùng biên giới khá mạnh dưới sự tác động của giao
lưu kinh tế, thương mại, cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi theo hướng phát triển các
37
ngành dịch vụ như du lịch, thương mại, ngân hàng, vận tải, bưu điện..., kích thích các
ngành sản xuất phát triển theo hướng thị trường, tăng nhanh các sản phẩm công
nghiệp, nông lâm nghiệp phục vụ cho xuất khẩu.
Sự phát triển thương mại qua biên giới cùng với sự phát triển của phân công lao
động và thương mại nội địa tạo nên những điểm đầu mối quan trọng về luồng hàng
hoá, tiền tệ và giao thông. Có thể thấy trong từng tiểu vùng, từng tỉnh, từng huyện đều
có những điểm nổi lên làm trung tâm kinh tế vùng.
Xét trên toàn tuyến biên giới phía Bắc , ở qui mô lớn có thể thấy ở các thị trấn Đồng
Đăng( Lạng Sơn ), Móng Cái( Quảng Ninh ), thị xã Lào Cai( tỉnh Lào Cai) và Tà Lùng
( tỉnh Cao Bằng ). Những trung tâm này là những điểm nút, qui tụ các luồng chảy của
hàng hoá trong vùng thông qua hệ thống 512 chợ lớn nhỏ của các tỉnh miền núi, mặt
khác, là đầu mối giao lưu hàng hoá của các tỉnh khác trong cả nước với Trung Quốc và
ngược lại. Vai trò của các trung tâm kinh tế này cũng dần thay đổi theo tình hình
thương mại giữa hai nước. Trong thời kỳ đầu, phương thức buôn bán tại các trung tâm
này chủ yếu là môi giới, chắp nối các mối hàng mua bán giữa phía Việt Nam và Trung
Quốc để hưởng phần chênh lệch . Sau đó nhiều hộ đầu tư vốn tự mua hàng và bán
hàng với số lượng lớn và trực tiếp, chủ động xây dựng các mối quan hệ bạn hàng với
cả hai phía Trung Quốc và các tỉnh nội địa của Việt Nam. Gần đây, qui mô thương mại
phát triển lớn hơn đã kéo theo các ngành dịch vụ như kho chứa, đổi tiền, ăn uống, chế
biến, bảo quản... cùng phát triển. Hiện nay các trung tâm kinh tế ở các tỉnh biên giới đã
và đang áp dụng chính sách ưu đãi đặc biệt của kinh tế cửa khẩu, đây là một trong
những thế mạnh trong chiến lược phát triển kinh tế của các tỉnh vùng núi phía Bắc.
2.6. Cải thiện đời sống nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc.
Các cửa khẩu biên giới phía bắc có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng đối với giao
lưu kinh tế. Buôn bán qua biên giới đã giảm bớt tỷ lệ đói nghèo, tăng tỷ lệ trung bình
và giàu ở các thị xã, thị trấn khu vực cửa khẩu. Qua phân tích số liệu thống kê cho thấy
GDP thu nhập bình quân đầu người năm 2005 tăng hơn 2 lần so với năm 2000, tỷ lệ
tăng GDP trong các giai đoạn từ năm 2000 đến 2010 khá ổn định. Đời sống của nhân
dân các tỉnh vùng biên giới được cải thiện rõ rệt, diện mạo các tỉnh biên giới ngày một
sáng sủa hơn.
38
Bảng 6 : GDP bình quân đầu người ( USD ) năm 2000 - 2010
STT Tỉnh\Năm 2000 2003 2006 2009 2010
1 Lạng Sơn 95,6 127,9 236,0 406 496
2 Quảng Ninh 144,3 207,4 380,0 530 619
3 Lào Cai 72,7 109,3 225,0 375 445
4 Cao Bằng 64,5 72,8 150,0 229 310
5 Lai Châu 79,6 103,7 205,0 315 412
6 Hà Giang 69,8 77,2 145,0 235 327
Nguồn: Tổng Cục thống kê ( Niên giám thống kê các năm )
Mỗi năm, thông qua hoạt động giao lưu thương mại Việt - Trung, ở các tỉnh biên giới
phía Bắc đã có thêm hàng vạn lao động có việc làm và hàng ngàn lao động từ các
vùng khác đến làm ăn; nhiều nhà trên các trục đường giao thông, trên các địa điểm
giao lưu được sửa sang và xây dựng mới. Chỉ sau mấy năm các cửa khẩu được xây
dựng mới khang trang như cửa khẩu Móng Cái( Quảng Ninh), Đồng Đăng( Lạng Sơn
), Lào Cai ( Lào Cai ).
Nhờ có mở cửa, giao lưu kinh tế - thương mại nhiều tỉnh vùng biên giới đang hình
thành những trung tâm giao lưu kinh tế lớn. Hệ thống chợ vùng biên phát triển phong
phú, đa dạng, cơ sở hạ tầng được nâng cấp sửa chữa, đời sống văn hoá tinh thần được
cải thiện, bộ mặt nông thôn miền núi được cải thiện, đổi mới.
39
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HAI NƯỚC
Để quan hệ kinh tế thương mại qua biên giới Việt - Trung phát triển theo các quan
điểm, mục tiêu và phương hướng nói trên, chúng ta phải thực hiện tốt các giải pháp
chủ yếu sau :
1. Xây dựng kế hoạch cụ thể cho phát triển kinh tế các tỉnh biên giới phía Bắc.
Muốn phát triển quan hệ kinh tế - thương mại ổn định, lâu dài, vấn đề quan trọng
nhất là phải xây dựng được kế hoạch cụ thể, phù hợp. Vì vậy các kế hoạch phải được
xây dựng trên cơ sở ký kết các Hiệp định thương mại song phương, trên cơ sở tập
quán, thông lệ buôn bán quốc tế. Qua đó mỗi bên phải có nhiệm vụ tôn trọng và tích
cực thực hiện đúng các điều khoản đã ký. Trên cơ sở khung pháp lý như vậy mới tạo
ra môi trường, hành lang cho hoạt động kinh tế- thương mại giữa hai nước được củng
cố và phát triển vững chắc.
Trong những năm qua, hai nước đã ký hơn 20 Hiệp định, trong đó Hiệp định thương
mại được ký tháng 7/11/1997, Hiệp định thương mại ký tháng 10/1998 và một số các
nghị định thư và Hiệp định khác nữa. Nhưng trong thực tế, các Hiệp định tuy đã được
triển khai nhưng còn mang tính hình thức, chưa sâu sát cụ thể. Do đó, kể từ ngày ký
Hiệp định cho đến nay, hoạt động xuất nhập khẩu chính ngạch chiếm tỷ trọng chưa
cao; hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch chưa được kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến hoạt
động thương mại qua biên giới không ổn định, bất thường, lúc tăng, lúc giảm gây
nhiều bất lợi cho phía Việt Nam. Mặt khác, phía Trung Quốc với mục đích lợi dụng thị
trường Việt Nam để tiêu thụ hàng công nghiệp địa phương kém chất lượng, nhưng giá
thấp, chủng loại đa dạng, phong phú, phù hợp với sức mua của thị trường Việt Nam
nên họ thường xuyên đẩy mạnh buôn bán tiểu ngạch qua biên giới.
Về phía Việt Nam, chính sách về kinh tế của ta chưa linh hoạt, uyển chuyển, bổ sung
chưa kịp thời, dẫn đến các địa phương, các doanh nghiệp chưa chủ động trong kinh
doanh xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đó cũng là nguyên nhân gây lộn xộn trong buôn bán
trao đổi, mạnh ai nấy làm, tranh mua, tranh bán ... Nắm được sự thiếu thống nhất đó,
phía Trung Quốc đã chủ động, chi phối hoạt động thương mại cửa khẩu biên giới Việt
- Trung, làm cho ta luôn bị động. Cụ thể là, khi họ cần điều tiết thị trường như: thu
mua trao đổi hàng hoá với khối lượng lớn, dồn dập, giá cả có thể tăng lên từng ngày,
40
thậm chí từng giờ( đặc biệt đối với hàng hoá tươi sống). Nhưng khi nhu cầu phần nào
đã được đáp ứng, họ thống nhất ép giá, hoặc tỷ giá , gây sức ép và bất lợi cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Thậm chí họ dừng, không mua hàng đó nữa trong cùng một
thời gian nhất định, khién cho một số hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã mang sang
Trung Quốc rồi bán không được, mang về cũng không xong, gây thua lỗ nặng nề cho
các doanh nghiệp Việt Nam.
Vì vậy giải pháp xây dựng kế hoạch buôn bán qua biên giới với Trung Quốc trên cơ
sở ký kết các Hiệp định thương mại giữa hai nước, giảm thiểu tình trạng buôn bán tiểu
ngạch, tăng cường buôn bán chính ngạch và triệt để tuân theo các tập quán và thông lệ
quốc tế là giải pháp có tính chất tiên quyết, bảo đảm phát triển lâu dài, ổn định quan hệ
kinh tế - thương mại giữa hai nước.
2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi cho phát triển kinh tế cửa
khẩu biên giới.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều chính sách đối với phát triển kinh tế
vùng núi phía Bắc nhằm xoá đói giảm nghèo, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi. Trong
đó chính sách ưu đãi đối với khu vực kinh tế cửa khẩu biên giới đã và đang phát huy
tác dụng tích cực, làm cho bộ mặt kinh tế vùng biên giới được nâng lên một bước, cải
thiện được đời sống của nhân dân các tỉnh vùng núi biên giới phía bắc.
Một số tỉnh như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai đã hình thành những trung tâm
kinh tế lớn, tốc độ giao lưu thương mại với tốc độ khá cao nhưng trên thực tế vẫn chưa
khai thác hết tiềm năng, lợi thế vốn có của kinh tế cửa khẩu biên giới. Do đó, trong
thời gian tới ngoài những chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế nói chung thì cần
phải có những chính sách đặc thù riêng cho các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc. Cụ
thể là:
- Từng bước hình thành khu kinh tế mở, cho tự do giao lưu, buôn bán, trao đổi hàng
hoá trên khu vực biên giới cửa khẩu. Hàng hoá ra vào khu kinh tế mở, ngoài việc
tuân thủ qui định về chính sách mặt hàng thì được tự do trao đổi, chỉ áp dụng chế
độ kiểm tra giám sát Hải quan, không thu thuế đối với hàng hoá trong khu vực
kinh tế mở.
- Nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu được giữ lại 100% cho việc phát triển kinh tế tại
địa phương trong vòng từ 5 - 7 năm , những năm tiếp theo sẽ có điều chỉnh cho phù
41
hợp. Trước mắt, nguồn thu từ ngân sách phải khẩn trương đầu tư cho cơ sở hạ tầng
cần thiết như: đường sá, kho tàng, bến bãi; nâng cấp về phương tiện thông tin liên
lạc, đảm bảo kịp thời cho hoạt động giao lưu thương mại qua biên giới.
- Hỗ trợ vốn để khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu phục vụ cho chế biến hàng
xuất khẩu như trồng cây ăn quả, song mây, gỗ nguyên liệu phục vụ cho chế biến
hàng xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc.
- Cải cách những thủ tục rườm ra đối với hoạt động xuất nhập cảnh, đồng thời nâng
cấp điều kiện về cơ sở hạ tầng các khu du lịch nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút
ngày càng nhiều khách du Trung Quốc sang Việt Nam.
3. Hoàn thiện hệ thống chính sách điều hành hoạt động xuất nhập khẩu.
Chiến lược phát triển thương mại qua biên giới Việt - Trung cần phải được xem là
một trong những bộ phận quan trọng của phát triển kinh tế đối ngoại. Vì vậy ngoài
việc tuân thủ những chính sách chung điều hành xuất nhập khẩu của nhà nước, còn
phải đặc biệt quan tâm tới tính chất đặc thù của khu vực biên giới các tỉnh phía Bắc,
sao cho khai thác tốt được thế mạnh vùng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trong những năm tới, chúng ta cần khẩn trương xây dựng chiến lược đặc thù cho
hoạt động giao lưu thương mại trên các cửa khẩu biên giới Việt - Trung, có tính ổn
định, lâu dài, trong đó phải xác định được chính sách mặt hàng, cơ cấu mặt hàng xuất
nhập khẩu phù hợp với từng tuyến biên giới. Cụ thể như sau:
- Chính sách mặt hàng:
Xây dựng chính sách mặt hàng xuất nhập khẩu hợp lý, tạo ra những sản phẩm có tầm
chiến lược, có khối lượng lớn, trị giá cao, chất lượng tốt, phù hợp với ưu thế, tiềm
năng của khu vực biên giới. Trên cơ sở đó xác định chính sách mặt hàng xuất nhập
khẩu đối với từng tuyến phía Bắc, phía Tây và Tây Nam, phù hợp với thị trường các
nước láng giềng, qua đó vươn rộng sang nước thứ ba.
Tiếp tục nâng cao tỷ lệ hàng hoá xuất khẩu đã qua chế biến để tăng nhanh kim ngạch
hàng xuất khẩu. Chỉ có chuyển cơ cấu hàng xuất khẩu sang chế biến mới giải quyết
được công ăn việc làm, nâng cao trình độ công nghệ và trình độ quản lý kinh tế , nâng
cao chất lượng sản phẩm của hàng Việt Nam, đây là biện pháp nâng cao sức cạnh
tranh của hàng và bảo vệ hàng trong nước có hiệu quả nhất.
- Về nhập khẩu:
42
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo hướng trên thì hàng nhập
khẩu phải đặc biệt ưu tiên nhập khẩu những thiết bị có kỹ thuật tiên tiến và công nghệ
nguồn, không cho phép nhập khẩu thiết bị lạc hậu, năng suất thấp, gây ô nhiễm môi
trường. Thực tế trong thời gian qua ta đã nhập khá nhiều các thiết bị đồng bộ của
Trung Quốc thiết bị có công nghệ tiên tiến không nhiều mà chủ yếu là các thiết bị công
nghệ trung bình, kém. Điển hình như các thiết bị sản xuất đường, thiết bị sản xuất xi
măng, sản xuất hoá chất... Trong thời gian tới ta nên nhập khẩu thiết bị có công nghệ
tiên tiến hơn từ các nước Châu Âu.
Chỉ nhập khẩu những mặt hàng là nguyên liệu thiết yếu phục vụ cho sản xuất, chế
biến hàng xuất khẩu. Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, hàng kém phẩm chất gây ô
nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng hoặc hàng hoá trong nước
đã sản xuất được.
- Về xuất khẩu:
Nhà nước tiếp tục có các biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế khai thác
tiềm năng của đất nước, đẩy mạnh xuất khẩu, ưu tiên xuất khẩu các sản phẩm đã qua
chế biến từ hàng nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng trong nước, hàng thủ công mỹ
nghệ. Đối với các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc, cần có chính sách ưu đãi, khuyến
khích các địa phương này sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác được lợi thế về địa lý,
giảm được chi phí vận chuyển và nhiều thuận lợi khác sẽ làm tăng khả năng thâm nhập
của hàng xuất khẩu của ta vào thị trường Trung Quốc.
Bên cạnh việc tìm nguồn hàng mới, chúng ta phải tiếp tục khai thác thế mạnh của
những nhóm hàng truyền thống như: gạo, cà phê, cao su, hạt điều, dầu thô, than đá,
dép Bitis ... song phải hạn chế ngay việc xuất khẩu sản phẩm thô, chuyển ngay sang
sản phẩm chế biến theo các hướng chủ yếu sau đây:
Chuyển dần từ xuất khẩu dầu thô sang sản phẩm lọc dầu, dầu mỡ kỹ thuật cao và
các sản phẩm hoá dầu để phục vụ sản xuất trong nước đồng thời xuất khẩu ra nước
ngoài;
Chuyển từ xuất khẩu gạo, cà phê, hạt điều thô sang thực phẩm chế biến, tiện lợi
cho sử dụng, bảo quản;
Giảm xuất khẩu các loại quặng thô như quặng sắt, quặng đồng, crômite, đất hiếm
sang sản phẩm chế biến như tinh quặng có hàm lượng cao hơn .
43
- Về phương thức buôn bán:
Để khai thác ưu thế về địa lý và tiềm năng của các địa phương có biên giới, ngoài
phương thức buôn bán thông thường cần áp dụng phương thức tạm nhập tái xuất,
chuyển khẩu, quá cảnh. Xây dựng các kho Ngoại quan, kho bảo thuế để lưu giữ hàng
hoá, những phương thức này sẽ mang lại một nguồn thu khá lớn cho ngân sách của
nhà nước, khuyến khích các dịch vụ vận tải, bảo hiểm, giám định và các dịch vụ có
liên quan khác cùng phát triển. Trong tới sẽ dần hạn chế phương thức buôn bán tiểu
ngạch, đồng thời có sự quản lý chặt chẽ tránh tình trạng lợi dụng để buôn lậu, trốn thuế
gây mất ổn định thị trường.
Ngoài ra, chúng ta cần thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu trên cơ sở khai thác
tối đa nguồn lực của địa phương và cả nước bằng việc tạo vùng nguyên liệu sản xuất
hàng xuất khẩu ở địa bàn các tỉnh biên giới, giải quyết công ăn việc làm và tăng nhanh
phát triển kinh tế địa phương, đồng thời huy động sức mạnh kinh tế của các vùng, các
khu kinh tế của các tỉnh phía sau, tạo nhiều nguồn hàng phục vụ cho giao lưu kinh tế
thương mại.
- Chính sách về thanh toán qua ngân hàng:
Cho đến nay, ngân hàng chưa thực hiện được chức năng thanh toán cho hầu hết các
hoạt động giao lưu kinh tế - thương mại qua cửa khẩu biên giới Việt - Trung. Theo số
liệu thống kê ngân hàng mới chỉ thanh toán được 4,8% khối lượng giao dịch thương
mại qua biên giới Việt - Trung. Do đó, trong thời gian tới ngành ngân hàng phải phát
huy giữ vai trò chủ đạo về thanh toán ngoại hối qua biên giới và chỉ có làm tốt chức
năng thanh toán mới tạo được sự ổn định trong giao lưu tiền tệ, hạn chế buôn lậu, đảm
bảo phát triển quan hệ thương mại lành mạnh. Các ngân hàng thương mại cần tiếp tục
mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng Trung Quốc, đồng thời có kế hoạch phối
hợp với các ngành chức năng trên biên giới để thiết lập quan hệ quản lý đồng bộ về
hoạt động tiền tệ trên biên giới. Ngành ngân hàng phải khẩn trương tổ chức hệ thống
đổi tiền thuận lợi, có chính sách tỷ giá linh hoạt, phù hợp với thị trường tiền tệ, tìm
mọi biện pháp thu hút và đưa hầu hết khối lượng thanh toán qua biên giới vào hệ thống
ngân hàng.
Hoạt động tiền tệ bị thả nổi vì một số lý do , song chủ yếu vẫn là do thiếu quy chế có
hiệu lực và điều hành có hiệu quả. Do đó, trên khu vực biên giới hình thành các chợ
44
đổi tiền hoạt động tự do gây nhiều lộn xộn và chủ yếu do người hoa chi phối. Để hoạt
động tiền tệ đi vào kỷ cương thì song song với việc củng cố, cải tiến mạng lưới ngân
hàng, cần phải tổ chức xắp xếp và quản lý các lực lượng kinh doanh ngoại hối thuộc
các thành phần kinh tế trên khu vực này, yêu cầu hoạt động đổi tiền phải được phép
của ngân hàng và chịu sự quản lý chặt chẽ của ngân hàng.
Như vậy, sự hoạt động lành mạnh của thị trường tiền tệ sẽ có tác động tích cực đến
các hoạt động giao lưu thương mại lành mạnh, tạo ra môi trường tốt để phát triển quan
hệ kinh tế thương mại giữa hai nước.
- Hoàn thiện chính sách thuế:
Trong thời gian qua, chính sách thuế được cải tiến, bổ sung sửa đổi rất nhiều cho phù
hợp với chủ trương hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Tuy nhiên hệ thống thuế còn
nhiều sơ hở, bất hợp lý, gây khó khăn cả cho người thực hiện và cơ quan quản lý. Luật
thuế, biểu thuế xuất nhập khẩu còn phức tạp, việc định danh tê gọi, mã số chưa đạt
được sự thống nhất cao. Do đó, cần phải tiếp tục được sửa đổi, đơn giản hoá hệ thống
biểu thuế, hạn chế việc áp dụng thuế suất theo công dụng của hàng hoá, gây sự bất
bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ thuế,vì cùng một mặt hàng có thể thay đổi mục
đích sử dụng theo ý muốn của người nhập khẩu.
Tiếp tục dành ưu đãi thuế suất đối với hàng xuất khẩu, trong giai đoạn này nên áp
dụng mức thuế suất 0% cho tất cả các mặt hàng xuất khẩu đã qua chế biến. Hạ thấp
mức thuế suất đối với nguyên vật liệu, phụ liệu nhập khẩu sản xuất hàng xuất khẩu,
đồng thời áp dụng các ưu đãi tín dụng để khuyến khích xuất khẩu.
4. Thu hút đầu tư trực tiếp từ phía Trung Quốc.
Nhận xét ở tầm vĩ mô, môi trường kinh tế Việt Nam khá ổn định, đời sống nhân
dân các vùng, cả thành thị và nông thôn không ngừng được nâng cao, bình quân mỗi
năm thu nhập tăng khoảng 4 - 5 %. Đó là điều kiện để không ngừng mở rộng dung
lượng của thị trường. Với chính sách phát huy mạnh mẽ nội lực ,vốn trong nước chiếm
tới 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Hơn nữa, chỉ số phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam đạt mức cao hơn trình độ phát triển kinh tế, phản ánh những điểm nổi trội của
chất lượng nguồn nhân lực, có khả năng tiếp thu và thích nghi cao với việc chuyển
giao công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh.
45
Trong những năm qua song song với công cuộc cải cách hành chính, Việt Nam
đã dành những khoản đầu tư lớn để cải thiện đáng kể chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế
và xã hội như đảm bảo cung cấp điện ổn định hơn, cấp nước sạch và xử lý nước thải
tốt hơn, hệ thống viễn thông được phát triển với tốc dộ rất cao cũng đã góp phần làm
hạ giá thành các khoản đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam.
Cùng với việc ban hành Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân hàng
nhà nước, Luật đầu tư trong nước, Luật kinh doanh bảo hiểm, nhằm tạo hành lang
pháp lý đồng bộ cho hoạt động của doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng cởi mở, minh bạch, có tính cạnh tranh cao,
thuận lợi cho các nhà đầu tư và từng bước xoá bỏ những khác biệt giữa đầu tư nước
ngoài và đầu tư trong nước, tiến tới một hệ thống pháp lý áp dụng chung cho các
doanh nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế.
5. Tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Chúng ta đã biết, buôn lậu là một hiện tượng tiêu cực có tính lịch sử, phổ thông và
quốc tế, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế như nước ta hiện nay. Do đó, cuộc
đấu tranh này đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và lâu dài với các giải
pháp toàn diện, đồng bộ và khoa học mới dành được hiệu quả. Trong khuôn khổ của
bài viết tôi xin đưa ra một số giải pháp cơ bản sau đây:
5.1. Đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế góp phần hạn chế tình trạng buôn lậu và hạn chế buôn lậu cũng
nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế; tập trung phát triển kinh tế là một nhiệm vụ
cơ bản của sự nghiệp đổi mới. Trước mắt muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế
phải phát huy tối đa các nguồn lực, đầu tư hợp lý, phát triển khoa học và công nghệ,
đồng thời đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng cho những vùng trọng điểm, khuyến khích
thu hút đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, chuyển dịch mạnh mẽ
cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu kinh tế nông thôn, nông nghiệp nhằm phát huy hiệu
quả giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đa dạng hoá, đa phương
hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu; trước mắt chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế theo tinh thần Nghị quyết 7 của Bộ
chính trị và chương trình hành động của Chính phủ.
46
Phát triển kinh tế là một giải pháp cơ bản, có ý nghĩa toàn diện trong việc giải quyết
các vấn đề lớn của các địa phương vùng biên giới, trong đó có chống buôn lậu. Xét về
mặt xã hội, phát triển kinh tế làm tăng trưởng sản phẩm xã hội, tăng khối lượng và
chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của
hàng nội ngay ở thị trường biên giới cũng như nội địa. Kinh tế phát triển tạo thế ổn
định trên cán cân ngoại thương, sẽ hạn chế xu thế "nước chảy từ chỗ cao xuống chỗ
thấp" của hàng lậu, đồng thời giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, xã hội, càng hoàn thiện
các biện pháp có tính toàn diện, tổng lực trên mặt trận chống buôn lậu ở biên giới.
5.2. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nội địa.
Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước là một giải pháp hết sức cơ bản,
vừa là động lực của phát triển và hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh, vừa là giải
pháp hạn chế việc nhập khẩu cũng như nhập lậu hàng hoá qua biên giới. Chống buôn
lậu bằng giải pháp kinh tế chính là trách nhiệm của các nhà sản xuất trong nước, các
doanh nghiệp trong nước. Nhất là trong điều kiện nước ta đã và đang từng bước tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Theo quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế
và khu vực như AFTA, APEC, WTO… đối với các nước tham gia, chúng ta không thể
bảo hộ sản xuất lâu dài mà phải mở cửa thị trường bằng việc cắt giảm hàng rào thuế
quan và phi thuế quan, cho phép hàng hoá nước ngoài được nhập khẩu và cạnh tranh
bình đẳng. Trong những năm tới hàng hoá của các nước ASEAN ngày càng có cơ hội
tràn vào thị trường Việt Nam khi bắt đầu từ năm 2003 chúng ta thực hiện lộ trình cắt
giảm thuế quan theo thoả thuận. Đặc biệt chúng ta phải chịu sức cạnh tranh rất lớn
hàng hoá từ nước láng giềng Trung Quốc vào nưóc ta. Trung Quốc hiện nay là nước có
tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất trên thế giới, hàng hoá nhiều chủng loại, mẫu mã
đẹp, giá rẻ là những lợi thế gây sức ép trực tiếp rất lớn đối với thị trường Việt Nam,
nhất là khi hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN + Trung Quốc sắp tới. Buôn
lậu hàng hoá từ Trung Quốc vào Việt Nam qua biên giới phía Bắc hiện nay vẫn là chủ
yếu, có thể nói ở đâu ta cũng thấy hàng hoá tiêu dùng Trung Quốc tràn ngập.
Bởi vậy giải pháp hạn chế tối đa hoạt động buôn lậu là phải tăng cường đầu tư, kể cả
đầu tư nước ngoài, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản xuất cả về số lượng
và chất lượng hàng hoá, giảm giá thành, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, nâng
cao sức cạnh tranh của hàng hoá là một đòi hỏi bức xúc đối với các doanh nghiệp
47
trong nước hiện nay, vừa bảo hộ phát triển sản xuất, giải quyết các vấn đề xã hội, vừa
góp phần ngăn chặn làn sóng nhập lậu hàng hoá từ biên giới.
5.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về kinh tế.
Hơn 15 năm đổi mới, Nhà nước ta đã xây dựng và hoàn thiện được hệ thống pháp
luật tương đối hoàn chỉnh, nhất là hệ thống pháp luật về kinh tế, đã thiết lập được cơ
bản khung khổ pháp lý phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
được thường xuyên điều chỉnh, bổ sung phù hợp với chủ trương hội nhập và luật pháp
quốc tế. Tuy nhiên luật pháp về kinh tế của ta chưa đồng bộ, nhất quán và còn nhiều sơ
hở, bất hợp lý, do đó bọn gian thương triệt để lợi dụng để buôn lậu, gian lận thương
mại. Luật thuế, biểu thuế xuất nhập khẩu của ta còn phức tạp, việc định danh, tên gọi,
mã số chưa đạt được sự thống nhất cao do đó cần sửa đổi, đơn giản hoá hệ thống biểu
thuế, hạn chế việc áp dụng thuế suất theo công dụng của hàng hoá, gây sự bất bình
đẳng trong thực hiện nghĩa vụ thuế, vì cùng một mặt hàng có thể thay đổi mục đích sử
dụng theo ý muốn của người nhập khẩu. Luật doanh nghiệp của ta tuy thông thoáng
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh, song lại sơ hở
và bị lợi dụng để thành lập các doanh nghiệp ma, lừa đảo chiếm dụng tài sản nhà nước,
cần quy định bổ sung điều kiện thành lập doanh nghiệp tư nhân, ngoài vốn, tài chính
thì người đứng ra thành lập phải có hộ khẩu, có trình độ kiến thức nhất định, am hiểu
về pháp luật, quản lý kinh tế, tài chính… Luật thuế giá trị gia tăng và chính sách hoàn
thuế, thủ tục hoàn thuế, tuy mới áp dụng thực hiện nhưng có nhiều bất cập, sơ hở, bị
nhiều thương nhân triệt để lợi dụng để gian lận lừa đảo chiếm đoạt ngân sách Nhà
nước. Vừa qua ta có điều chỉnh bổ sung một số chính sách và thủ tục hoàn thuế, song
đó chỉ là những biện pháp tình thế, chưa phải là biện pháp cơ bản để khắc phục tình
trạng lợi dụng gian lận trên. Đó là chưa nói đến tình trạng các văn bản hướng dẫn luật
còn chậm, thậm chí biến dạng, trái với nội dung quy định của pháp luật… Thời gian
tới Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh một số luật mới ở những lĩnh vực
chưa có luật, hoặc mới chỉ ban hành các văn bản dưới luật hoặc luật cũ đã lạc hậu
không phù hợp với tình hình thực tế.
Cùng với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần phải đổi mới hoàn thiện
hệ thống chính sách về kinh tế như chính sách thị trường, ruộng đất, chính sách thu
48
nhập, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu… Trong đó chính sách tài chính,
tiền tệ đặc biệt quan trọng.
Chính sách xuất nhập khẩu cần quy định định hướng thời kỳ, giảm bớt các quy định
quản lý chuyên ngành hiện nay rất phức tạp, chồng chéo và thiếu thống nhất.
Cần quan tâm đến chính sách đãi ngộ như lương bổng, thưởng cho những lực lượng
tham gia chống buôn lậu, người có công phát hiện; chế độ chi công tác nghiệp vụ bí
mật phục vụ chống buôn lậu một cách thoả đáng, vì chế độ chính sách hiện nay chưa
động viên, khuyến khích phù hợp đối với lực lượng này, mặc dù chống buôn lậu, gian
lận thương mại là một nhiệm vụ cam go, phức tạp, khó khăn và nguy hiểm.
5.4. Tăng cường công tác giáo dục, vận động quần chúng kết hợp với giải quyết các
chính sách xã hội.
Muốn chống buôn lậu có hiệu quả thì công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần
chúng nhân dân tham gia công tác này là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Phải làm cho
nhân dân các dân tộc ở vùng biên giới nâng cao nhận thức, hiểu biết về đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ chủ quyền quốc gia, trong đó có chủ
quyền về kinh tế, tác hại của nạn buôn lậu với sự phát triển kinh tế, tới an ninh chính
trị và trật tự xã hội, chấp hành các quy định của pháp luật như: Không vượt biên giới
trái phép, không vận chuyển hàng hoá trái phép qua biên giới, tổ chức cho từng hộ,
từng gia đình tự giác ký cam kết không tham gia buôn lậu, mang vác hàng lậu… Từ
việc làm chuyển biến nhận thức đó để vận động nhân dân tham gia công tác chống
buôn lậu, ủng hộ tạo điều kiện cho lực lượng chống buôn lậu, tố giác hoạt động buôn
lậu, làm tai mắt cho cơ quan chức năng trong đấu tranh chống buôn lậu, bảo vệ an ninh
biên giới, làm cho bọn buôn lậu bị cô lập không còn chỗ dựa để hoạt động.
Tuy nhiên do khó khăn về kinh tế, việc làm, đời sống khó khăn, do đó công tác vận
động quần chúng tham gia chống buôn lậu phải kết hợp đồng bộ với việc giải quyết
các chính sách xã hội, nhất là ỏ vùng nông thôn, miền núi, đồng bào dân tộc… Nhà
nước, các cấp uỷ Đảng chính quyền địa phương cần quan tâm đầu tư phát triển kinh tế
ở những vùng này, có chính sách, cơ chế hợp lý, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, xoá
thế độc canh cây lúa, đầu tư mở rộng làng nghề, tăng thêm việc làm, tăng thu nhập,
thay đổi cơ cấu sản xuất miền núi chuyển hướng sang trồng rừng, trồng cây công
nghiệp, hướng dẫn áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật cho đồng bào.
49
Có chính sách hợp lý phát huy thế mạnh từng vùng, nhất là vùng biên giới. Cần
tiếp tục đầu tư xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, khu thương mại, khu bảo thuế…
Nghiên cứu phát triển những đặc khu kinh tế, áp dụng các cơ chế chính sách ưu đãi
đầu tư, phát triển kinh tế các vùng này nhằm thu hẹp khoảng cách kinh tế.
Quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
các vùng biên giới như đường giao thông, trường học, bệnh xá, điện, nước sạch; có
chính sách hỗ trợ về xây dựng nhà ở (ngói hoá) cho đồng bào; đầu tư khai hoang mở
rộng diện tích sản xuất, vận động và xây dựng các khu định canh, định cư cho đồng
bào, nâng cao đời sống tinh thần như phủ sóng truyền hình, truyền thanh…
Có chính sách quan tâm đầu tư cho giáo dục, đào tạo, đặc biệt là đào tạo cán bộ
vùng cao, dân tộc ở biên giới, đồng thời thực hiện đúng đắn nghị quyết của Đảng về
luân chuyển, tăng cường cán bộ cho cơ sở; có chính sách khuyến khích cán bộ công
tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới… Công tác vận động quần chúng và giải quyết
các vấn đề xã hội có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, do đó phải được thực hiện đồng
bộ, thiết thực mới có kết quả; đòi hỏi Đảng và Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền, các cấp,
các ngành phải quan tâm giải quyết có như vậy chúng ta mới thực hiện được các
nhiệm vụ chính trị kinh tế - xã hội trong đó có nhiệm vụ chống buôn lậu.
5.5. Tăng cường trách nhiệm của các lực lượng chức năng quản lý biên giới cửa
khẩu.
- Đối với lực lượng Hải quan:
Chống buôn lậu qua biên giới là một nhiệm vụ quan trọng và trách nhiệm chủ
yếu của lực lượng Hải quan, do đó phải xây dựng được một hàng rào Hải quan vững
chắc. Hàng rào Hải quan là một khái niệm rộng, bao gồm hàng rào vô hình là hệ thống
chính sách, pháp luật của Nhà nước trong chống buôn lậu qua biên giới, về quản lý các
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, vật phẩm, phương tiện, ngoại hối, tiền tệ... qua
biên giới. Còn hàng rào hữu hình là các biện pháp tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát,
giám sát các hoạt động qua cửa khẩu biên giới. Do đó tăng cường hàng rào Hải quan
đòi hỏi nhiều yếu tố và điều kiện khách quan và chủ quan. Trước hết lực lượng Hải
quan phải xác định trách nhiệm cao trong việc chống buôn lậu, chống gian lận thương
mại ở cửa khẩu biên giới, thực hiện tốt Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính phủ về việc
tăng cường chống buôn lậu, gian lận thương mại ở cửa khẩu. Luật Hải quan hiện nay
50
quy định quyền hạn, phạm vi hoạt động của Hải quan trong chống buôn lậu còn hạn
chế. Khảo sát kinh nghiệm tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Hải quan Trung Quốc về
chống buôn lậu rất lớn như thành lập lực lượng cảnh sát chống buôn lậu thuộc Tổng
cục Hải quan, có quyền khám nhà, nơi ở, bắt giữ đương sự, điều tra từ khởi tố đến đề
nghị truy tố các tội phạm buôn lậu, thanh tra các doanh nghiệp… nên hiệu quả chống
buôn lậu của Hải quan rất cao. Để khắc phục những hạn chế này, lực lượng Hải quan
Việt Nam phải phát huy hết trách nhiệm, quyền hạn hiện nay trong chống buôn lậu ở
cửa khẩu biên giới, đồng thời quan hệ phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trực tiếp
khác trong chống buôn lậu như Bộ đội Biên phòng, Công an… mới hoàn thành được
nhiệm vụ. Đồng thời Nhà nước cần nghiên cứu đặc thù hoạt động, chức năng, nhiệm
vụ của Hải quan để xây dựng mô hình tổ chức Hải quan đủ mạnh, được trang bị
phương tiện, thiết bị hiện đại đáp ứng nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hàng hoá, phương
tiện ở cửa khẩu biên giới phục vụ chống buôn lậu, gian lận thương mại và đáp ứng yêu
cầu quản lý trong điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và quá trình hội nhập
quốc tế của nước ta hiện nay.
- Bộ đội Biên phòng:
Với trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh, trật tự và tham gia chống
buôn lậu qua biên giới phải tăng cường công tác tuần tra kiểm soát ở biên giới. Đặc
biệt là trách nhiệm đấu tranh ngăn chặn tình trạng vượt biên trái phép của người,
phương tiện vận tải qua biên giới trên bộ, trên sông, trên biển, nếu giải quyết tốt được
tình trạng này sẽ ngăn chặn được nạn "cửu vạn" vượt biên mang, vác, vận chuyển hàng
lậu qua biên giới hiện nay, đồng thời hỗ trợ phối hợp kịp thời cho các lực lượng chống
buôn lậu ở biên giới có hiệu quả thì sẽ làm giảm đáng kể tình hình buôn lậu và đảm
bảo an ninh, trật tự xã hội ở biên giới phía Bắc hiện nay.
- Lực lượng Công an:
Phát huy những kết quả trong việc điều tra khám phá các vụ buôn lậu, tham
nhũng trong thời gian qua, phải xác định đấu tranh chống tội phạm buôn lậu hiện nay
là một mặt trận quan trọng. Có trách nhiệm thường xuyên phối hợp với các lực lượng
chống buôn lậu ở biên giới để điều tra đánh vào bọn buôn lậu đầu sỏ, các đường dây,
tổ chức buôn lậu trong nước và quốc tế, làm rõ các hoạt động thông đồng, móc nối,
tiếp tay, bảo kê cho buôn lậu, gian lận thương mại sẽ góp phần chủ yếu ngăn chặn, hạn
51
chế tình hình buôn lậu và gian lận thương mại hiện nay và làm trong sạch bộ máy nhà
nước.
- Các lực lượng khác:
Như Quản lý thị trường, cơ quan thuế... phải phát huy trách nhiệm trong việc
kiểm tra kiểm soát thị trường nội địa, chế độ quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Phát hiện xử lý các hành vi
chứa chấp, oa trữ, tiêu thụ hàng lậu. Đặc biệt là không để tình trạng hàng hoá nhập lậu
được bày bán công khai như hiện nay, có như vậy mới làm mất chỗ "nương thân" để
tồn tại của hàng lậu. Ngoài ra công tác chống buôn lậu đòi hỏi phải có sự tăng cường
trách nhiệm và phối hợp của các tổ chức nhà nước khác, các cơ quan quản lý nhà nước
như Thương mại, Đầu tư, Ngân hàng... phát huy chức năng quản lý của mình, tăng
cường kiểm tra thường xuyên các hoạt động đăng ký kinh doanh, hoạt động của doanh
nghiệp, quản lý thanh toán ngoại thương... nhằm hạn chế những kẽ hở trong công tác
quản lý, ngăn chặn, phát hiện những hoạt động gian lận, lừa đảo, hoặc các dấu hiệu rửa
tiền liên quan đến buôn lậu. Các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội phải phát huy vai
trò tuyên truyền, giáo dục quần chúng, đồng thời các cơ quan thông tin đại chúng phối
hợp thường xuyên trong việc tuyên truyền công tác chống buôn lậu, gian lận thương
mại.
Phát huy trách nhiệm và sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức trực tiếp và xã
hội tạo ra thế trận tấn công toàn diện vào bọn buôn lậu là yếu tố thành công trên mặt
trận này.
5.6. Đề cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp:
Công tác chống buôn lậu đòi hỏi tạo ra sức mạnh tổng hợp và mạnh mẽ, rộng
khắp, do đó phải có sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy trách nhiệm chống buôn lậu cần
phải được quán triệt trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Chống buôn lậu là một vấn
đề lớn của đất nước, do đó hơn ai hết, mỗi tổ chức Đảng, mỗi Đảng viên phải nhận
thức rõ và thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu. Ở những địa bàn nóng về buôn
lậu, tổ chức Đảng phải coi đó là một nhiệm vụ chính trị quan trọng để tập trung lãnh
đạo, chính quyền phải đề ra các kế hoạch, biện pháp tổ chức lực lượng, đề ra những cơ
chế, chính sách phù hợp để huy động tối đa lực lượng tham gia chống buôn lậu. Buôn
lậu là giặc "nội xâm" do đó chống buôn lậu phải là cuộc cách mạng của toàn Đảng,
52
toàn dân, các ngành, các cấp - một cuộc chiến tổng lực thời bình. Do đó phải xác định
nơi nào tình hình buôn lậu còn xảy ra nhiều thì trước hết cấp uỷ Đảng, chính quyền nơi
đó phải chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Có như vậy mới phát huy được vai trò
lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp.
Coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vươn lên giải quyết những vấn
đề thực tiễn hiện nay đặt ra trong công tác chống buôn lậu đối với từng địa phương và
trong phạm vi cả nước, làm cơ sở cho Đảng, nhà nước hoạch định đường lối, chính
sách, chủ trương, giải pháp để tăng cường công tác chống buôn lậu có hiệu quả, ngăn
chặn đẩy lùi tệ nạn buôn lậu nói chung và buôn lậu ở biên giới phía bắc nói riêng cũng
là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền hiện nay.
6. Tổ chức nghiên cứu thị trường Trung Quốc.
Để dành thế chủ động và nâng cao hiệu quả kinh tế trong trong việc phát triển
kinh tế- thương mại qua biên giới Việt - Trung, cần có một bộ phận chuyên nghiên cứu
chiến lược và thông tin thị trường, nghiên cứu chính sách của Trung Quốc về phát
triển xuất nhập khẩu đối với các nước láng giềng, đặc biệt là đối với Việt Nam. Trên
cơ sở đó chúng ta xây dựng các phương án kinh doanh xuất nhập khẩu cho phù hợp
với khả năng phát triển của kinh tế nước ta và của các tỉnh biên giới phía Bắc. Chú
trọng hoạt động xuất nhập khẩu theo phương thức chính ngạch với các công ty Quốc
mậu của Trung Quốc, từng bước giảm dần việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với
các công ty biên mậu theo phương thức tiểu ngạch; việc thanh toán tiền hàng nhất thiết
phải thông qua hệ thống ngân hàng theo đúng tập quán và thông lệ quốc tế.
Hàng năm, chúng ta nên tổ chức đoàn đi khảo sát nghiên cứu thị trường Trung
Quốc, tập trung nghiên cứu chính sách và học hỏi kinh nghiệm buôn bán trao đổi qua
biên giới từ phía bạn. Bộ thương mại nên thường xuyên hơn tổ chức hội chợ trong và
ngoài nước để quảng bá sản phẩm và thăm do thị trường. Từ đó xây dựng chiến lược
mặt hàng, đề ra các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu nhằm thực hiện thành công chiến
lược hướng về xuất khẩu, giảm tình trạng nhập siêu như hiện nay.
7. Xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực cửa khẩu biên giới.
Kết cấu hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển sản xuất và
lưu thông hàng hoá, thậm chí có lúc, có nơi giữ vai trò quyết định đối với việc đẩy
nhanh tốc độ phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá.
53
Các cửa khẩu biên giới Việt- Trung nằm ở khu vực có địa hình phức tạp, dốc,
đồi núi cao lại xa các thành phố lớn, xa các trung tâm kinh tế của đất nước. Để đáp
ứng nhu cầu mở rộng và phát triển nhanh quan hệ kinh tế - thương mại qua các cửa
khẩu biên giới Việt- Trung thì việc xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng khu vực cửa
khẩu là vấn đề cấp thiết cần được khẩn trương thực hiện.
Thực tế trong những năm qua, phía Trung Quốc đã chủ động chuẩn bị trước,
họ đã xây dựng và phát triển cả giao thông vận tải, kho tàng, bến bãi, thông tin điện
nướcđến các cửa khẩu biên giới, kể cả các ngành dịch vụ, du lịch, ngân hàng, tài
chính, tín dụng. Về phía Việt Nam , trong thời gian qua chúng ta đã có sự đầu tư nhất
định, nhưng kết cấu hạ tầng của ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu giao
lưu kinh tế – thương mại với Trung Quốc. Đây là một trong những nguyên nhân làm
cho quan hệ kinh tế – thương mại qua biên giới Việt – Trung còn hạn chế. Do đó,
muốn đẩy mạnh quan hệ kinh tế- thương mại qua biên giới Việt – Trung thì chúng ta
phải chủ động xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng theo hướng sau:
- Việc xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới cần phải gắn với khuyến khích
tập trung, thu hút và có chính sách ưu đãi thuận lợi cho cư dân làm ăn, sinh sống tại
khu vực cửa khẩu và dọc trên các tuyến đường đi tới cửa khẩu, tạo môi trường sầm uất
nhộn nhịp, phát triển giao lưu buôn bán.
- Phải xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng một cách toàn diện cả về giao thông
vận tải, kho tàng bến bãi; cả về đường bộ, đường sắt, đường hàng không; cả về điện
nước cho các cửa khẩu hoặc thị xã, thị trấn gần cửa khẩu; cả về thông tin liên lạc, chợ,
khách sạn khu vực biên giới... Việc xây dựng kết cấu hạ tầng phải đồng bộ, phù hợp
với điều kiện miền núi và mang tính hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển quan hệ kinh
tế- thương mại giữa hai nước hiện tại và trong tương lai.
- Kết cấu hạ tầng phải tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp
phần tạo việc làm, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm hàng hoá và tăng
khả năng cạnh tranh trong quan hệ thương mại giữa hai nước, từ đó làm tăng thu nhập
của người kinh doanh. Vì vậy, trong phát triển kinh tế- thương mại thì kết cấu hạ tầng
là môi trường cứng, cần phải đi trước một bước.
Chương trình phát triển kế cấu hạ tầng từ nay đến năm 2020 , cụ thể như sau:
- Về giao thông vận tải:
54
Tiếp tục đầu tư, nâng cấp các tuyến quốc lộ hiện có, chú ý các đoạn đường hay
sụt lở vào mùa mưa; củng cố hệ thống đường nối giữa các quốc lộ với các trung tâm
huyện, xã, đặc biệt là ở vùng cao, các tuyến đường dọc biên giới, các tuyến đường đến
cửa khẩu, bến cảng, sân bay...
Gắn với việc phân bổ lại dân cư theo phương châm hình thành các cụm dân cư
, thị tứ, thị trấn, khu kinh tế mới...
Tiếp tục khôi phục và nâng cấp các tuyến đường sắt liên vận Hà Nội- Lào cai-
Côn Minh, Hà Nội - Đồng Đăng – Bằng Tường, Hà Nội - Thái Nguyên để đảm bảo
vận chuyển hàng hoá, hành khách trong vùng và quá cảnh sang Trung Quốc và các
nước khác.
Tiếp tục nâng cấp đạt tiêu chuẩn quốc gia các quốc lộ chính từ Hà Nội đi các
tỉnh vùng núi phía Bắc và giữa các tỉnh với nhau. Phát triển nâng cấp tiêu chuẩn quốc
tế đường 1A; đường 18 từ Nội bài đi Bắc Ninh- Hạ Long và đoạn đường từ Hạ Long
đi Móng Cái.
- Phát triển thông tin, bưu chính -viễn thông:
Cải tạo và nâng cấp và xây dựng mới các tổng đài và mạng lưới thông tin ở các
đô thị, các khu công nghiệp và các điểm du lịch, bảo đảm nhu cầu thông tin liên lạc
nội vùng, trong nước và quốc tế. Xây dựng các tổ chức hỗ trợ thương mại như: tư vấn
thông tin thương mại, thị trường, pháp luật và kiến thức thương mại , dịch vụ...
Phấn đấu đén năm 2020 xây dựng và phát triển hoàn chỉnh mạng lưới thông tin
đến hầu hết các xã, thôn , bản... đặc biệt chú ý các xã vùng cao, biên giới, đáp ứng
được nhu cầu thông tin nhanh chóng, kịp thời.
- Phát triển mạng lưới điện, nước:
Phấn đấu đến năm 2020, 100% số xã có điện. Ưu tiên đưa điện lưới quốc gia
đến các đô thị, thị xã, các khu công nghiệp, khu kinh tế, ở các xã vùng cao, dân cư
thưa, địa hình khó khăn hiểm trở, chủ yếu sử dụng thuỷ điện nhỏ để phục vụ cho từng
thôn bản, phù hợp với việc quản lý.
Nâng cao chất lượng cung cấp nước sạch và đảm bảo đủ nước cho khu vực cửa
khẩu, các khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu. Phấn đấu đến năm 2020, 100% các
hộ ở các huyện vùng cao được sử dụng nước sạch.
55
KẾT LUẬN
Trong lịch sử quan hệ Việt - Trung, chưa bao giờ mối quan hệ kinh tế – thương
mại giữa hai nước phát triển mạnh mẽ như những năm qua. Các chỉ số về kim ngạch
xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch và dịch vụ đều tăng trưởng ổn định qua các năm.
Những thành tựu đạt được trong hơn 10 năm qua đã có sự đóng góp không nhỏ vào
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và mục tiêu tăng trưởng
kinh tế khu vực các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc nói riêng.
Có thể nói rằng, sau hơn 10 phát triển kinh tế - thương mại qua biên giới Việt -
Trung đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt kinh tế - xã hội các tỉnh vùng núi biên giới phía
Bắc, đã từng bước đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, đời sống nhân dân được cải thiện
và ngày càng cao, an ninh quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đạt được, quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước còn bộc lộ nhiều điểm
hạn chế làm nảy sinh tiêu cực, đặc biệt là tình trạng buôn lậu qua biên giới cần phải
ngăn chặn và đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp tạo nên môi trường lành
mạnh làm tiền đề vững chắc cho mục tiêu phát triển quan hệ kinh tế - thương mại Việt
– Trung Trong thời gian tới.
Với ý chí kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam và
Trung quốc đã lựa chọn, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản Việt Nam và Đảng Cộng Sản Trung Quốc, cùng với những thành tích đã đạt
được trong thời gian qua chúng ta tiếp tục phát huy những mặt tích cực, khai thác lợi
thế vốn có của mỗi nước để đẩy nhanh phát triển kinh tế, đồng thời có các biện pháp
phối hợp tích cực để hạn chế những ảnh hưởng phát sinh không thuận lợi từ mối quan
hệ đó nhằm đưa quan hệ kinh tế- thương mại Việt Nam - Trung Quốc lên một tầm cao
mới.
56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Báo cáo thông tin thương mại biên giới ( Bộ Công Thương, Trung tâm thông tin
công nghiệp và thương mại).
- Kinh tế hải quan 1, 2 – (Giáo trình NXB Đại học Kinh tế quốc dân).
- Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2010 và kế hoạch
năm 2011 của ngành Công Thương. ( Tài liệu của Bộ Công Thương tháng 1/2011)
- Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 2- 2010
- Tổng Cục thống kê ( Niên giám thống kê các năm )
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc.pdf