Luận văn Thực trạng quản lý việc gỉang dạy giáo dục học ở trường cao đẳng sư phạm TP. HCM và một số biện pháp nâng cao hiệu qủa gỉang dạy

Để có thể đẩy nhanh quá trình nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM, chúng tôi xin kiến nghị: 2.1 .Nhà trường phải quan tâm nhiều hơn nữa công tác bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, có chế độ chính sách khuyến khích giáo viên tiếp tục học lên trên, hoặc theo học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ. Có như vậy, giáo viên mới có đủ năng lực, trình độ để thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy. 2.2.cần phải phát động phong trào đổi mới phương pháp giảng dạy một cách liên tục và rộng khắp trong toàn trường, xem việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy của giáo viên là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá, xếp loại giáo viên, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Chỉ như thế mới có thể buộc được ngườigiáo viên tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy. 2.3.Phải tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giảng dạy và học tập của thầy và trò, như: đảm bảo đầy đủ giáo trình, tài liệu tham khảo, các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho quá trình dạy học. Nếu không thì với điều kiện học tập như hiện nay: thư viện chật hẹp, toàn là sách cũ, ngay cả giáo trình cho sinh viên cũng không đủ thì người giáo viên sẽ khó mà thực hiện được việc tổ chức cho sinh viên tự học.

pdf135 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1034 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý việc gỉang dạy giáo dục học ở trường cao đẳng sư phạm TP. HCM và một số biện pháp nâng cao hiệu qủa gỉang dạy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giảng dạy. Chính vì thế, cần phải tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy của giáo viên thì mới có thể nâng cao được hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM. Trong khi chỉ đạo thực hiện việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy học giáo dục học của giáo viên cần phải xem việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học như là khâu đột phá có tính chất quyết định nhất. Phương pháp dạy học mới phải hướng tới việc khai thác một cách tích cực và có hiệu quả năng lực của người học, với tư cách là một chủ thể nhận thức độc lập, sáng tạo. Bởi vì, quá trình dạy học là quá trình hoạt động 2 chiều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, dạy là chủ đạo, học là chủ động, tích cực chiếm lĩnh tri thức. Quá trình dạy học chỉ có thể đạt được hiệu quả cao nếu phương pháp dạy của thầy phát huy được tính tích cực nhận thức của trò. Vì thế, trong quá trình dạy học, ta phải chống lối dạy nhồi nhét kiến thức như lâu nay, mà phải hướng dẫn sinh viên đi tìm lấy kiến thức, nhằm kích thích họ tích cực, độc lập nhận thức, biến kho tàng tri thức của nhân loại thành vốn tri thức riêng của bản thân. Muốn vậy, la cần vận dụng kiểu dạy học nêu vấn đề kết hợp với dạy học thông báo. Dạy học nêu vấn đề là một kiểu dạy học trong đó người thầy giáo đưa học sinh vào các tình huống có vấn đề, giúp họ tự lực và sáng tạo giải quyết các vấn đề đặt ra, qua đó mà nắm được tri thức mới hoặc cách hành động mới, đồng thời phát triển được tính tích cực, sáng tạo. Như vậy, trong kiểu dạy học nêu vấn đề, giáo viên không cung cấp cho học sinh những trí thức có sẩn như kiểu thông báo, mà nêu ra cho học sinh những vấn đề cần giải quyết và tạo ra những điều kiện giúp cho họ tự lực giải quyết trên cơ sở những mối liên hệ giữa cái đã cho và cái cần biết, giữa điều đã biết và điều chưa biết. Kiểu dạy học nêu vấn đề thường gồm 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia ra một số bước như sau: + Giai đoan 1: Định hướng -Bước 1: Nêu vấn đề -Bước 2: Đưa học sinh vào tình huống có vấn đề -Bước 3: Phát biểu vấn đề Trong giai đoạn định hướng, giáo viên nêu ra vấn đề nghiên cứu, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề, phát biểu các vấn đề cụ thể dưới dạng những mâu thuẫn nhận thức. + Giai đoan 2: Lập kế hoạch -Bước 4: Học sinh huy động trí thức, tích lũy tư liệu -Bước 5: Đề xuất giả thuyết. Dự đoán các phương án giải quyết có thể có đối với vấn đề. -Bước 6: Lập kế hoạch giải ứng với từng giả thuyết. Trong giai đoạn này, học sinh phải huy động và vận dụng một cách tự lực và sáng tạo những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và vốn kinh nghiệm sẩn có. Khi cần phải tích lũy thêm tư liệu (qua đọc thêm sách, báo hoặc làm thí nghiệm, đi thực tế...), vận dụng các thao tác tư duy để đề xuất các giả thuyết nhằm giải quyết các vấn đồ đặt ra. Như vậy, có thể nói: ngay trong quá trình học tập, học sinh đã tập dượt làm như nhà khoa học. + Giai đoan 3: Thực hiên kế hoạch -Bước 7: Thực hiện kế hoạch giải -Bước 8: Đánh giá việc thực hiện. Ở đây có 2 khả năng, nếu xác nhận giả thuyết là đúng thì chuyển sang bước 9. Nếu phủ nhận giả thuyết thì quay trở lại bước 6 để chọn giả thuyết khác. + Giai đoạn 4: Kiểm tra và tổng kết -Bước 9: Phát biểu kết luận về cách giải -Bước 10: Thể nghiệm và ứng dụng. Vậy có thể thấy rằng kiểu dạy học nêu vấn đề thực sự phát huy được tính tích cực nhận thức của người học, biến người học từ khách thể nhận thức trở thành chủ thể nhận thức của quá trình học tập. Nhưng cần lưu ý rằng: khi chỉ đạo người giáo viên vận dụng kiểu nêu vấn đề trong quá trình dạy học môn giáo dục học, tuyệt đối không nên đối lập nó với kiểu thông báo. Phương hướng vận dụng đúng đắn nhất là phải kết hợp khéo léo kiểu nêu vấn đề với kiểu thông báo. Với việc kết hợp dạy học nêu vấn đề với dạy học thông báo, ta sẽ khắc phục được những hạn chế của hai kiểu dạy học này, đồng thời phát huy được thế mạnh của chúng, đảm bảo vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của người học ương quá trình nhận thức, nhờ đó mà đạt được hiệu quả cao trong giảng dạy. Tóm lại, muốn nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học ở trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM thì cần phải tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên theo hướng tích cực hoa hoạt động nhận thức của người học, bằng cách vận dụng kết hợp dạy học nêu vấn đề với dạy học thông báo. Một cách cụ thể có thổ thực hiện việc kết hợp này như sau: -Giáo viên phải chuẩn bị chọn lọc, sắp xếp các tình huống có vấn đề trong từng bài, tùy theo mục đích cụ thể của từng bài học. Các tình huống này phải kích thích được tư duy và hứng thú nhận thức của sinh viên. -Giáo viên hoặc dẫn dắt sinh viên từ từ đi vào tình huống có vấn đề, hoặc trực tiếp nêu ra các tình huống có vấn đồ ở một số khâu để sinh viên suy nghĩ, tìm cách giải quyết. -Trong quá trình giải quyết các tình huống có vấn đề, giáo viên có thể hướng dẫn, gợi mở, giúp cho sinh viên suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề, điều quan trọng là phải tác động đến các thao tác trí tuệ của sinh viên. Tuy nhiên, để cho người giáo viên có thể thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì cần phải tập trung liến hành một cách đồng bộ các biện pháp sau: -Tổ chức cho giáo viên nghe báo cáo các chuyên đề về đổi mới phương pháp giảng dạy -Tăng cường cồng tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên -Bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên -Tăng cường các hình thức dạy học mới (tự học, tự nghiên cứu, thảo luận...) -Tổ chức thường xuyên các buổi trao đổi về kinh nghiệm giảng dạy trong tổ bộ môn. 3.2.1.2.Biện pháp thứ hai: tập trung chỉ đạo việc tổ chức cho sinh viên tư học: Tự học giữ vai trò vô cùng quan trọng ương quá trình học tập ở đại học, là yếu tố quyết định trực tiếp chất lượng đào tạo. Bởi lẽ, quá trình dạy học ở đại học về bản chất là một quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của người học, dưới sự chỉ đạo của người thầy, nhằm đạt được các nhiệm vụ dạy học. Trong quá trình đó, hoạt động dạy của thầy và hoạt động học cua trò có mối liên hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Người thầy có vai trò tổ chức, lãnh đạo, điều khiển và định hướng hoạt động học cho người học, nhằm giúp họ tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết. Người học không chỉ là đối tượng của hoạt động dạy của thầy, mà còn là chủ thể của quá trình nhận thức học tập. Vì thế, quá trình dạy học chỉ có thể đạt được hiệu quả cao nếu người học tích cực, chủ động tự học. Hơn nữa, trong thời đại bùng nổ thông tin như vũ bão hiện nay, khối lượng tri thức học được trong nhà trường đại học, dù có nhiều bao nhiêu đi nữa thì cũng không đủ, cho nên mỗi người phải biết bổ sung vốn hiểu biết của mình bằng con đường tự học thường xuyên, tự học suốt đời. Tự học đã trở thành yêu cầu khách quan và cấp bách của thời đại. Do vậy, có thể nối: tổ chức tốt việc tự học cho người học là một trong những con đường hữu hiệu nhất để nâng cao hiệu quả giảng dạy. Thật vậy, chỉ thông qua hoạt động tự học thì người học mới có thể lĩnh hội vững chắc hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phát triển năng lực hoạt động trí tuệ. Bởi vì, hoạt động tự học là hoạt động tự tổ chức của người học để chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Nó đòi hỏi người học phải tích cực, độc lập giải quyết các nhiệm vụ học tập. Kiến thức mà người học có được không phải là sự tiếp nhận thụ động từ người khác, mà là kết quả của một quá trình nỗ lực không ngừng tìm kiếm tri thức của chính người học, với sự huy động cao độ năng lực tư duy của bản thân, cho nên những kiến thức ấy đã thực sự trở thành vốn tri thức riêng của người học, rất vững chắc, bền lâu. Không những thế, thông qua hoạt động tự học, người học còn được bồi dưỡng ý chí và năng lực tự học suốt cuộc đời, nắm được phương pháp tự học. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người học, nhất là đối với những sinh viên trường sư phạm-những giáo viên tương lai, bởi lẽ họ có trọng trách nặng nề là đào tạo những công dân tốt cho xã hội, cho nên, hơn ai hết họ phải thường xuyên tự học, tự rèn luyện, nhằm không ngừng nâng cao trình độ nghề nghiệp và hoàn thiện nhân cách bản thân, đáp ứng lòng mong đợi của xã hội. Do đó, nếu không được vũ trang phương pháp tự học ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì họ khố mà hoàn thành tốt trọng trách được giao. Trong khi đó, thực tế giảng dạy và học tập môn giáo dục học tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM đã cho thấy: giáo viên ít chú ý đến việc tổ chức cho sinh viên tự học, chủ yếu là truyền thụ kiến thức theo lôi độc thoại một chiều cho người học. Vì thế mà sinh viên có cách học tập rất thụ động, ỷ lại, chỉ biết trông chờ vào nguồn tri thức đã được dọn sẵn từ thầy, không hình thành được thói quen và năng lực tự học, khiến cho kết quả học tập không cao, phần lớn sinh viên chỉ đạt kết quả học tập môn giáo dục học ở mức trung bình. Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM thì cần phải tập trang chỉ đạo việc tổ chức cho sinh viên tự học. Hoạt động tự học là hoạt động tự tìm tòi, khám phá để chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của người học. Vì vậy, để giúp cho người học có thể tiến hành hoạt động tự học có hiệu quả, trước hết cần chỉ đạo người giáo viên thực hiện việc trang bị cho sinh viên những tri thức cần thiết về kỹ năng tự học, trong đó theo tôi không thể thiếu được bốn kỹ năng cơ bản sau: kỹ năng nghe giảng - thông hiểu và ghi chép, kỹ năng đọc sách, kỹ năng ghi chép tài liệu đã nghiên cứu, kỹ năng tự kiểm ưa, tự đánh giá. Đối với từng kỹ năng này, giáo viên phải giúp cho sinh viên nắm vững cách thực hiện, cũng như các yêu cầu cần phải tuân thủ trong quá trình thực hiện. Có như vậy thì sinh viên mới có đủ cơ sở để thực hiện tốt hoạt động tự học. Tuy nhiên, nếu chỉ trang bị những tri thức lý thuyết về các kỹ năng tự học cho sinh viên là chưa đủ, điều quan trọng nhất là phải chỉ đạo người giáo viên tổ chức cho sinh viên được rèn luyện thường xuyên các kỹ năng tự học này, bằng cách giao cho họ các nhiệm vụ tự học cụ thể và yêu cầu họ phải tự nỗ lực giải quyết chúng, nhằm tự mình tìm ra tri thức. Thầy chỉ giữ vai trò là người hướng dẫn, trò mới chính là người trực tiếp giải quyết vấn đề để giành lấy kiến thức. Một cách cụ thể, có thể chỉ đạo người giáo viên tổ chức cho sinh viên lự học như sau: -Trước mỗi bài học, giáo viên giao cho sinh viên các nhiệm vụ tự học cụ thể (có thể là các câu hỏi, các vấn đề, các bài tập), cùng với mốc thời gian phải hoàn thành. Sinh viên phải tự nghiên cứu tài liệu, sách báo cần thiết để giải quyết các nhiệm vụ này ở nhà. -Trong giờ lên lớp, giáo viên tổ chức cho sinh viên trao đổi, thảo luận những vấn đề mà các em đã chuẩn bị. Trong khi tranh luận đòi hỏi sinh viên phải tích cực, chủ động trình bày và bảo vệ quan điểm của mình, đồng thời biết học hỏi cái hay từ ý kiến của bạn. Tất nhiên sẽ có những vấn đề mà cả lớp cảm thấy lúng túng, không thể kết luận được. Vì thế mà cần phải có sự hướng dẫn của thầy. -Giáo viên sẽ rút ra kết luận về những vấn đề mà sinh viên đã thảo luận. Dựa vào kết luận của thầy, sinh viên tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh những sai sót trong hiểu biết của mình và có được kiến thức mới. Với cách dạy và học như vậy, chắc chắn rằng hứng thú học tập của sinh viên sẽ được nâng cao và quan trọng hơn nữa là sinh viên đã thực sự tham gia vào quá trình chiếm lĩnh tri thức, tự tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình nên kiến thức mà họ có được rất vững chắc, bền lâu, trở thành vốn tri thức của riêng họ. 3.2.1.3.Biện pháp thứ ba: tập trung chỉ đạo việc tổ chức cho sinh viên vận dụng tri thức thông qua việc giải các bài tập tình huống sư phạm: Giáo dục học là môn học mang tính chất nghiệp vụ trong trường sư phạm. Vì thế, đối với môn giáo dục học, điều quan trong nhất là phải hình thành được cho người học hệ thống những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản, nhằm giúp họ có cơ sở để thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục của mình, đồng thời phát triển được nghề nghiệp trong tương lai. Muốn vậy, cần phải tập ưung chỉ đạo người giáo viên thường xuyên tổ chức cho sinh viên được tập dượt vận dụng tri thức thông qua việc giải các bài tập tình huống sư phạm. Bài tập tình huống sư phạm là bài tập nêu lên một dạng tình huống thực tế hay giả định trong quá trình dạy học - giáo dục, một tình huống khó khăn về trí tuệ, đòi hỏi người học nhận thức được những mâu thuẫn trong lý thuyết và thực tiễn, họ cảm thấy băn khoăn thắc mắc, có nhu cầu đáp ứng bằng cách huy động vốn tri thức và kinh nghiệm sáng tạo nhằm tìm ra con đường giải quyết một cách hợp lý nhất. Như vậy, có thể thấy là các bài tập tình huống sư phạm đã đặt người học vào trong một môi trường giáo dục giống như thật, giúp họ phân nào nắm bắt được các vân đề thực tế trong dạy học và giáo dục, thấy được những khó khăn mà họ sẽ phải đương đầu, nhờ đó mà họ cố gắng phấn đấu, rèn luyện để đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của nghề nghiệp. Nhưng điều quan trọng nhất là: chính thông qua việc giải các bài lập tình huống sư phạm, người học sẽ được làm quen với việc vận dụng lý luận để phân tích, nhận xét, giải quyết một thực tế giáo dục, từng bước hình thành kỹ năng dạy học và giáo dục cho bản thân, nhờ đó giúp họ cảm thấy tự tin, vững vàng hơn trong vai trò của người giáo viên, không bị lúng túng, bối rối khi phải đối đầu với các lình huống giáo dục phức tạp sau này, trước mắt là trong giai đoạn kiến tập và thực tập của sinh viên. Tuy nhiên, quá trình luyện tập, giải bài tập tình huống sư phạm của sinh viên chỉ đạt hiệu quả khi sinh viên nắm được quy trình giải của nó. Do vậy, điều quan trọng trước tiên là phải chỉ đạo người giáo viên thực hiện việc hướng dẫn cho sinh viên quy trình giải một bài tập tình huống sư phạm. Thông thường thì quy trình này diễn ra theo 6 bước sau đây: Ua.Xác định những dữ kiện: Sinh viên trước khi bắt tay giải một bài tập tình huống sư phạm cần xác định được đối tượng và chủ thể được đề cập trong tình huống. Xác định cho được những sự kiện quan trọng trong hoàn cảnh xảy ra của tình huống đổ, vạch ra được mối quan hệ giữa đối tượng, chủ thể, hoàn cảnh, hành động trong bài tập tình huống sư phạm này, để có cơ sở định hướng ban đầu cách giải quyết, ở bước này, sinh viên cần phân tích những vấn đề sau: - Xác định và nắm được các vấn đề cần phải giải quyết của bài tập. - Nêu những dữ kiện và xác định những dữ kiện nào là quan trọng, chủ yếu. - Phân tích các dữ kiện đó trong các mối quan hệ nhiều chiều của nó. - Kết Luận. Ub.Biểu đạt vấn đề phải giải quyết: Trước khi giải bài tập, sinh viên phải ý thức được nhiệm vụ phải giải quyết của bài tập. Cụ thể là: -Xác định và nêu lên được những vấn đề chủ yếu cần giải quyết, đồng thời đề ra được phương hướng giải quyết dựa vào tư duy lôgic và tư duy sư phạm của sinh viên. -Nội dung và cách biểu đạt vấn đề chứng tỏ mức độ hiểu được vấn đề. Nếu chưa đạt, sinh viên cần tiếp tục tìm ra những con đường, những biện pháp để giải quyết nó một cách thoa đáng. Uc.Đề ra giả thuyết: Sinh viên phải phân tích kỹ những vân đê theo yêu cầu đòi hỏi phải giải quyết của tình huống, trên cơ sở đó mà đề ra các giả thuyết khác nhau.. Giả thuyết đề ra phải ngắn gọn, rõ ràng, chính xác (các giả thuyết có thể được biểu đạt dưới dạng câu nghi vấn). Bước này gắn rất chặt với bước chứng minh giả thuyết kế tiếp dưới đây. Ud.Chứng minh giả thuyết: Trong bước này, sinh viên cần tìm tòi, tái hiện nhằm vận dụng những tri thức đã tích lũy được trong quá trình học tập, những kỹ năng đã học cũng như những kinh nghiệm vốn có với những thao tác tư duy sư phạm của mình để lựa chọn những sự kiện, những hiện tượng giáo dục, thực tiễn xã hội phục vụ cho việc chứng minh giả thuyết. Từ đó rút ra kết luận. Ue.Tự kiểm tra độ tin cậy của giả thuyết và chứng minh giả thuyết: Đây là khâu quan trọng và khó khăn vì nó đòi hỏi sinh viên phải: -Xác định được con đường tối ưu của các quá trình sư phạm, tức là thấy được hướng phát triển của tình huống đổ. -Đối chiếu kết quả thu được với giả thuyết. Nói cách khác, tức là xác lập quá trình sư phạm đó phù hợp đến mức độ nào với mục đích và kết quả dự đoán. Trên cơ sở đó mà đề ra một hệ thống biện pháp góp phân ngăn ngừa những hành vi có thể xảy ra. Nếu giả thuyết sai, hay chứng minh giả thuyết sai thì sinh viên cần kiểm tra qua thực tiễn, đề ra giả thuyết mới và chứng minh giả thuyết (trở lại các bước 3 và 4), tiếp tục chứng minh giả thuyết. Đề ra giả thuyết đúng và chứng minh giả thuyết đúng thì chuyển sang bước 6, rút ra kết luận. Uf.Rút ra kết luân khẳng đinh giả thuyết đủng và nêu lên những kinh nghiêm giáo dục: -Khẳng định giả thuyết đúng. -Rút ra những bài học kinh nghiệm (có thể nêu ra cả những bài học thành công cũng như thất bại), vì nó đều là những bài học quí báu đối với người giáo viên. Ngoài ra, giáo viên cũng nên lưu ý với sinh viên rằng: trong các bài tập tình huống sư phạm, khi đặt ra những tình huống, những mâu thuẫn, người ta có thể cho những dữ kiện khá đầy đủ hoặc cũng có thể chưa đủ các dữ kiện. Cũng có thể có những dữ kiện chưa được xác định rõ ràng, thậm chí có khi mâu thuẫn. Do vậy, khi giải các bài tập tình huống sư phạm, sinh viên có thể tự mình bổ sung thêm dữ kiện hoặc xác định rõ thêm các giả định để giải quyết tình huống được thấu đáo, hợp lý. Sau khi sinh viên đã nắm được quy trình giải một bài tập tình huống sư phạm thì điều quan trọng là phải chỉ đạo người giáo viên tổ chức cho sinh viên được tập dượt vận dụng quy trình này vào việc giải quyết các bài tập tình huống sư phạm cụ thể. Có như vậy, sinh viên mới thực sự hình thành được kỹ năng giải bài tập tình huống sư phạm, nhờ đó mà trở nên linh hoạt, sáng tạo khi phải giải quyết các vấn đề thực tế trong dạy học và giáo dục. 3.2.2.THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM: Trong phần trước, chúng tôi đã đề xuất 3 biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Giáo dục học tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM, nhưng khi tổ chức thực nghiệm do hạn chế về mặt thời gian nên chúng tôi chỉ có thể tiến hành thực nghiệm nhằm xác định tính hiệu quả của việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy của giáo viên và việc tổ chức cho sinh viên tự học như sau: một mặt chúng tôi tổ chức đổi mới phương pháp giảng dạy, mặt khác chúng tôi kết hợp tổ chức cho sinh viên tự học. Chúng tôi tiến hành thực nghiệm đối với sinh viên năm 1, khoá 27, khoa Sử-Giáo dục công dân trong thời gian chung tôi đang dạy học phần giáo dục học đại cương. Cụ thể là: -Nhóm thực nghiệm : lớp Sử -Giáo dục công dân, 42 sinh viên. -Nhóm đối chứng : lớp Giáo dục công dân -Sử, 40 sinh viên. Chúng lôi đã tiến hành thực nghiệm tác động như sau: *Đối với lớp đối chứng: dạy theo cách cũ như lâu nay: sử dụng phương pháp diễn giảng là chủ yếu. *Đối với lớp thức nghiêm: dạy theo cách mới: sử dụng kết hợp phương pháp diễn giảng với phương pháp nêu vấn đề, đồng thời tổ chức cho sinh viên tự học. Cụ thể như sau: -Giáo viên giới thiệu giáo ưình, tài liệu cố liên quan đến bài học để sinh viên tự đọc, tự nghiên cứu trước ở nhà. Giáo viên có thể nêu những vấn đề trọng tâm của bài học để sinh viên chú trọng vào vấn đề cần nghiên cứu. Tất nhiên là giáo viên phải hướng dẫn cho sinh viên cách đọc sách, nghiên cứu tài liệu, cách khai thác vấn đề và ghi chép khi đọc. -Trong giờ lên lớp, giáo viên vận dụng kết hợp phương pháp diên giảng với phương pháp nêu vấn đề. Tùy theo mục đích cụ thể của từng bài học mà giáo viên lựa chọn, xây dựng hộ thống các tình huống có vấn đề cho thích hợp, điều quan trọng là các tình huống này phải kích thích được tư duy và hứng thú nhận thức của sinh viên. Trong quá trình giải quyết các tình huống có vấn đề, giáo viên sẽ hướng dẫn, gợi mở, giúp sinh viên vận dụng những điều đã đọc vào việc tìm kiếm cách giải quyết vân đề, nhằm kích thích sinh viên tích cực tư duy để chiếm lĩnh tri thức. Có như vậy, kiến thức mà sinh viên có được mới thực sự trở thành vốn tri thức riêng của bản thân họ. -Ngoài việc yêu cầu sinh viên nghiên cứu trước bài học ở nhà, giáo viên cũng cố thể đưa ra những vấn đề cụ thể để sinh viên tự nghiên cứu, tìm cách giải quyết trước. Sau đó, trong giờ lên lớp, giáo viên sẽ tổ chức cho sinh viên thảo luận, trao đổi với nhau, nhằm thống nhất ý kiến về cách giải. Cuối cùng, giáo viên sẽ là người đưa ra kết luận về vấn đề. Dựa vào kết luận của giáo viên, sinh viên tự kiểm ưa, tự đánh giá, tự điều chỉnh những sai sót trong hiểu biết của mình và có được kiến thức mới. Kết quả thu được sau thực nghiộm như sau: 3.2.2.1.Hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh viên: Kết quả nghiên cứu cho biết: có sự khác biệt ý nghĩa ở mức a =.001 về hứng thú học tập môn giáo dục học giữa sinh viên nhóm đối chứng và sinh viên nhóm thực nghiệm. Có thể thấy rõ là sinh viên nhóm thực nghiệm hứng thú đối với môn giáo dục học nhiều hơn so với sinh viên nhóm đối chứng. Cụ thể là tỉ lệ sinh viên rất thích thú và khá thích thú khi học môn giáo dục học của nhóm thực nghiệm (16.67% sinh viên rất thích thú, 61.9% sinh viên khá thích thú) cao hơn hẳn so với nhóm đối chứng (7.5% sinh viên rất thích thú, 25% sinh viên khá thích thú); đặc biệt tỉ lệ sinh viên ít thích thú đối với môn giáo dục học đã giảm một cách đáng kể ở nhóm thực nghiệm (21.43% sinh viên), thậm chí không còn một sinh viên nào hoàn toàn không thích thú khi học môn giáo dục học. Điều đó chứng tỏ rằng: việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy của giáo viên kết hợp với việc tổ chức cho sinh viên tự học đã có tác dụng nâng cao hứng thú học tập cho sinh viên, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình nâng cao hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM. Như vậy, có thể thấy là: nếu tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy của giáo viên và việc tổ chức cho sinh viên tự học thì sẽ nâng cao được hiệu quả giảng dạy giáo dục học. Kết quả nghiên cứu cho thấy: có sự khác biệt ý nghĩa ở mức α =.001 về mức độ thường xuyên học bài giáo dục học giữa sinh viên nhóm đối chứng và sinh viên nhóm thực nghiệm, ở nhóm thực nghiệm, tỉ lệ sinh viên thường xuyên học bài đã tăng lên một cách rõ rệt: trước đây chỉ có một tỉ lệ nhỏ sinh viên nhóm đối chứng thường xuyên học bài ( 10% sinh viên), thì nay có đến hơn một nửa sinh viên nhóm thực nghiệm thường xuyên học bài ( 59.52% sinh viên). Do đó mà tỉ lệ sinh viên ít khi học bài cũng đã giảm đi đáng kể. Đặc biệt, tỉ lệ sinh viên chưa bao giờ học bài giáo dục học ở nhóm thực nghiệm giảm đi rất nhiều so với nhóm đối chứng: từ 22.5% sinh viên nhóm đối chứng chưa bao giờ học bài nay chỉ còn tỉ lệ 4.76% sinh viên ở nhóm thực nghiệm. Qua phân tích kết quả nghiên cứu ở trên có thể đưa ra nhận định là: quá trình thực nghiệm đã có tác động mạnh tới ý thức học tập của sinh viên, khiến cho sinh viên trở nên tự giác, tích cực hơn trong học tập, khá nhiều sinh viên đã thường xuyên học bài giáo dục học. Phân tích kết quả nghiên cứu thì thấy: có sự khác biệt ý nghĩa ở mức ct=.001 vồ mức độ thường xuyên chuẩn bị bài mới cho môn giáo dục học giữa sinh viên nhóm đối chứng và sinh viên nhóm thực nghiệm. Đối với nhóm đối chứng, đa số sinh viên chưa bao giờ chuẩn bị bài mới (77.5% sinh viên), và chỉ có một tỉ lệ rất nhỏ sinh viên thường xuyên chuẩn bị bài mới (5% sinh viên). Nhưng đối với nhóm Ihực nghiệm, đã có một sự thay đổi đáng kể: số sinh viên thường xuyên chuẩn bị bài mới lại là nhiều nhất, tới hơn một nửa số sinh viên (54.76% sinh viên), còn số sinh viên chưa bao giờ chuẩn bị bài mới là ít nhất, chiếm tỉ lệ không nhiều (11.9% sinh viên). Như vậy, có thể thấy là: với sự tác động của thực nghiệm đã làm cho sinh viên nhóm thực nghiệm tích cực, chủ động hơn trong học tập, không còn thụ động chờ đợi tri thức từ người giáo viên như ở nhóm đối chứng nữa. Kết quả nghiên cứu ở bảng 41 cho ta thấy: có sự khác biệt ý nghĩa ỏ mức α=.001 về mức độ thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu giữa sinh viên nhóm đối chứng và sinh viên nhóm thực nghiệm. Có thổ thấy rõ là: đa số sinh viên nhóm đối chứng chưa bao giờ nghiên cứu thêm tài liệu (80% sinh viên), còn trong số sinh viên có nghiên cứu thêm thì thường là ít khi mới nghiên cứu (15% sinh viên), chỉ có một số rất ít sinh viên thường xuyên nghiên cứu (5% sinh viên). Trong khi đó, ở nhóm thực nghiệm, số sinh viên thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu khá nhiều, gần đến một nửa sinh viên (47.62% sinh viên), đặc biệt số sinh viên chưa bao giờ nghiên cứu thêm tài liệu ít hơn hẳn so với nhóm đối chứng, chỉ ở tỉ lệ 21.43% sinh viên. Do vậy mà sô sinh viên cố nghiên cứu thêm tài liệu, mặc dù là ít khi, cũng đã tăng lên đáng kể ở nhóm thực nghiệm (30.95% sinh viên). Từ kết quả nghiên cứu ở trên có thể rút ra nhận xét là: dưới sự tác động của thực nghiệm, sinh viên đã có thái độ học tập chủ động, tích cực hơn, chịu khó thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu để mở rộng, đào sâu tri thức. Tóm lại, kết quả thực nghiệm đã cho thấy: hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh viên được nâng cao rõ rệt; ý thức học tập môn giáo dục học của sinh viên cũng đã có một sự chuyển biến rất tốt, sinh viên trở nên tích cực, tự giác, chủ động hơn trong học tập (thường xuyên học bài, chuẩn bị bài và nghiên cứu thêm tài liệu), không còn thụ động trông chờ vào nguồn tri thức đã được dọn sẵn từ người thầy. Vậy có thể kết luận rằng: quá trình thực nghiệm đã tạo ra sự chuyển biến thực sự nơi người học, kích thích được họ tích cực, say mê học tập để chiếm lĩnh tri thức. Vì thế mà hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học sẽ được nâng cao. Như vậy có thể khẳng định rằng: nếu tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy của giáo viên và việc tổ chức cho sinh viên tự học thì có thể làm cho người giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy, cũng như thực hiện tốt việc tổ chức cho sinh viên tự học, qua đó mà nâng cao hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học. Vì thế, đây chính là những biện pháp hữu hiệu nhất để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học tại trường Cao dẳng sư phạm TP.HCM. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1.KẾT LUẬN 1.1.VỀ THỰC TRANG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VIỆC GIẢNG DẠY GIÁO DỤC HỌC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TP.HCM: 1.1.1.Việc tổ chức phân công giảng day cho giáo viên: mới được thực hiện tương đối hợp lý, chủ yếu là do việc phân công mang tính chất đồng đều, như nhau cho mọi giáo viên, ít chú ý đến kinh nghiệm, khả năng, trình độ của mỗi giáo viên. 1.1.2.Việc tổ chức kiểm tra việc thực hiện chương trình dạy học của giáo viên: chưa được quan tâm đúng mức và chưa được thực hiện thường xuyên. Ngoài ra, cách kiểm tra chủ yếu là dựa theo phản ánh của các khoa và theo báo cáo của giáo viên, chưa chú trọng nhiều tới chất lượng giảng dạy nên việc kiểm tra chưa đạt được hiệu quả cao, cũng như chưa phản ánh được một cách khách quan, chính xác tình hình công tác của giáo viên. 1.1.3.Việc chức kiểm tra việc giáo viên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên: cũng ít khi được thực hiện, đồng thời khi kiểm tra chỉ dựa theo báo cáo của giáo viên và theo phản ánh của các khoa, nên khó nắm bắt được thực sự chất lượng công việc kiểm ưa, đánh giá của giáo viên, cũng như thúc đẩy họ thực hiện nó lốt hơn. 1.1.4.Việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn: chưa được thực hiện tốt, cụ thể là: -Các buổi sinh hoạt chuyên môn còn được tổ chức ít và nội dung thường xuyên của các buổi sinh hoạt chuyên môn chủ yếu là thông báo chương trình, kế hoạch giảng dạy, kiểm tra, thi cử và phân công nhiệm vụ cho giáo viên, ít khi tiến hành thảo luận về các phương pháp giảng dạy mới hay rút kinh nghiệm cho các buổi dự giờ, đặc biệt không thấy có trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, hay thảo luận về việc nâng cao hiệu quả giảng dạy trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Vì thế, các buổi sinh hoạt chuyên môn đã thực hiện chưa tốt việc thúc đẩy quá trình nâng cao hiệu quả giảng dạy. -Việc dự giờ để kiểm tra chuyên môn cũng ít khi được thực hiện và cũng chưa được thực hiện tốt. Do vậy, việc kiểm tra chưa có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ người giáo viên hoàn Ihiện tay nghề, nâng cao chát lượng giảng dạy. 1.1.5.Tình hình giảng dạy giáo dục học ở trường Cao đẳng sư phạm TP.HCM: 1.1.5.1. Thực trạng đội ngũ giáo viên giảng dạy giáo dục học trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM: Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn giáo dục học ở trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM được tổ chức khá hợp lý, với số lượng vừa đủ, đảm bảo cho giáo viên vừa có thời gian tự học để nâng cao trình độ, vừa có thể tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học của trường, của khoa nhằm phục vụ thiết thực cho công tác giảng dạy. Bên cạnh đó, phần lớn giáo viên có tuổi nghề trên lo năm, nên có nhiều thuận lợi trong quá trình công tác. Tuy nhiên, nhìn chung trình độ của giáo viên còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác (không có giáo viên nào có trình độ tiến sĩ, chưa tới một nửa số giáo viên có trình độ thạc sĩ); trong khi đố phần nhiều giáo viên đã ở lứa tuổi trên 40 và đời sống còn nhiều khó khăn nên ít quan tâm đến việc học tập, bồi dưỡng để nâng cao tay nghề. Vì thế, tổ bộ môn sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên. 1.1.5.2. Tình hình giảng dạy môn giáo dục học ở trường Cao đẳng Sư phàm TP.HCM: a.Nhân xét của giáo viên về nôi dung và chương trình giảng dạy môn giáo dục học: -Theo nhiều giáo viên thì nội dung môn giáo dục học mới chỉ là khá thiết thực, còn mang tính chất lý luận trừu tượng khô khan, xa rời thực tế, khiến cho người học không cảm thấy hứng thú lắm. Vì thế, cần phải đổi mới nội dung môn giáo dục học theo hướng phục vụ thiết thực cho nghề nghiệp của người học thì mới có thể gây được hứng thú và thái độ học tập tích cực nơi họ. -Theo đa số giáo viên thì chương trình giảng dạy còn nặng về lý thuyết, người học ít được vận dụng tri thức vào trong thực tế nên khó mà hình thành được những kỹ năng sư phạm cơ bản cho họ. Do vậy, nhất thiết phải có sự thay đổi chương trình giảng dạy theo hướng tăng cường nhiều hơn nữa số giờ thực hành cho người học, đảm bảo sự vận dụng thường xuyên tri thức vào trong thực tế. b.Hứng thú giảng dạy của giáo viên: Nhìn chung, giáo viên cảm thấy ít hứng thú khi giảng dạy môn giáo dục học, thậm chí có những giáo viên cảm thấy không hứng thú. Điều này hẳn đã có một ảnh hưởng quan trọng đến công việc giảng dạy của giáo viên, khiến cho hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học chưa cao. c. Việc giáo viên tổ chức, hướng dẫn các phương pháp học tập cho sinh viên: Giáo viên chưa tổ chức, hướng dẫn thường xuyên cho sinh viên nhiều phương pháp học tập mà chỉ tổ chức thường xuyên nhất là phương pháp nghe giảng. Vì thế chưa kích thích được tinh thần học tập tích cực, chủ động của họ. d. Việc giáo viên dành thời gian để nâng cao tri thức lý luận bộ môn: Phần nhiều là giáo viên dành ít thời gian hoặc dành vừa đủ thời gian cho việc nâng cao tri thức lý luận bộ môn, không có một giáo viên nào đã dành rất nhiều thời gian cho nó. Điều này cho thấy giáo viên chưa chú trọng nhiều đến công tác giảng dạy nên ít quan tâm đến việc học tập để nâng cao tri thức. e.Việc giáo viên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên: Phần lớn giáo viên ít khi tiến hành kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học và khi kiểm tra, thường là cho kiểm tra viết với yêu cầu đơn giản, mang tính thuần túy lý thuyết, chỉ cần sinh viên học thuộc lòng theo vở ghi là có thể làm được. Vì vậy việc kiểm tra đã không có tác dụng thúc đẩy sinh viên tìm tòi, nghiên cứu thêm tri thức mà chỉ khiến họ thụ động, ỷ lại vào người thầy. f. Việc giáo viên vận dụng các phương pháp giảng dạy: Giáo viên thường sử dụng phương pháp diễn giảng theo kiểu thông báo để truyền đạt tri thức cho sinh viên, thậm chí không ít giáo viên còn đọc cho sinh viên ghi chép. Có thể thấy là giáo viên chú ý nhiều tới việc chuyển tải đủ lượng tri thức theo yêu cầu cho sinh viên, chứ chưa thực sự quan tâm xem phương pháp dạy có kích thích được tính tích cực, chủ động của sinh viên trong học tập, cũng như đảm bảo cho họ được vận dụng tri thức một cách thường xuyên hay không. Chính vì vậy mà nhiều sinh viên chưa cảm thấy thích thú lắm đối với môn giáo dục học, kết quả học tập không cao. Do đó, muốn nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học thì nhất thiết phải thực hiện được việc đổi mới phương pháp dạy của giáo viên. 1.1.5.3.Tình hình học tập môn giáo dục học ở trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM: a.Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của môn học: Phần lớn sinh viên đều nhận thức khá đúng đắn về tầm quan trọng của môn giáo dục học. Tuy nhiên vẫn có một số ít sinh viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn giáo dục học. b.Hứng thú học tập của sinh viên: Nhìn chung, sinh viên cảm thấy ít hứng thú khi học môn giáo dục học, thậm chí có một số sinh viên hoàn toàn không thích thú. Theo sinh viên, sở dĩ họ không thích học môn giáo dục là vì do giáo viên dạy không hay và do nội dung môn học mang nặng tính lý thuyết. Vì thế, muốn nâng cao hứng thú học tập cho sinh viên thì cần phải đổi mới phương pháp dạy của giáo viên, cũng như nội dung môn học. c. Ý thức học tập của sinh viên: Sinh viên chưa có ý thức học tập tốt. Cụ thể là: đa số sinh viên ít khi học bài, chuẩn bị bài hay nghiên cứu thêm tài liệu và nếu có học bài thì cũng học thuộc lòng là chủ yếu, ít có liên hệ thực tế, hoặc chỉ chuẩn bị bài một cách qua loa theo kiểu đọc qua giáo trình. Vì thế mà sinh viên không đạt được kết quả cao trong học tập. d.Kết quả học tập của sinh viên: Theo nhiều giáo viên thì sinh viên chưa nắm vững tri thức giáo dục học và cũng chưa có khả năng vận dụng tốt tri thức vào trong thực tế. 1.1.5.4.Nguyên nhân của tình hình trên: Căn cứ vào kết quả phân tích tình hình giảng dạy và học tập môn giáo dục học ở trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM thì thấy rằng: việc giảng dạy môn giáo dục học chưa đạt được hiệu quả cao có thể do các nguyên nhân sau: -Việc quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên chưa được sâu sát, ít quan tâm đến việc tổ chức cải tiến phương pháp dạy của giáo viên nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy. -Việc quản lý hoạt động học tập của sinh viên chưa được chặt chẽ, ít kiểm tra, theo dõi công việc học tập của sinh viên, đặc biệt là chưa chú trọng đến việc tổ chức cho sinh viên tự học, nhằm nâng cao ý thức học tập cho sinh viên. -Nội dung, chương trình giảng dạy môn giáo dục học chưa thực sự thiết thực, người học ít được thực hành, áp dụng tri thức vào trong thực tế, trong khi đó cấp lãnh đạo lại chưa thực sự quan tâm đến việc chỉ đạo người giáo viên tổ chức cho sinh viên được vận dụng tri thức để giải quyết các vấn đề thực tế của dạy học và giáo dục. 1.2.VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY GIÁO DỤC HỌC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TP.HCM: Qua nghiên cứu tình hình thực tế về công tác quản lý việc giảng dạy giáo dục học ở trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM, chúng tôi đã đề xuất 3 biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học như sau: -Biện pháp thứ nhất: tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy của giáo viên theo hướng tích cực hoa hoạt động nhận thức của người học, bằng cách vận dụng kết hợp dạy học nêu vấn đề với dạy học thông báo để hướng dẫn sinh viên đi tìm lấy tri thức, chứ không phải nhồi nhét kiến thức như lâu nay. Để cho người giáo viên có thể thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì cần phải tập trung tiến hành đồng bộ các biện pháp sau: +Tổ chức cho giáo viên nghe báo cáo các chuyên đề về đổi mới phương pháp giảng dạy. +Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. +Bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. +Tăng cường các hình thức dạy học mới (tự học, tự nghiên cứu, thảo luận...). +Tổ chức thường xuyên các buổi trao đổi về kinh nghiệm giảng dạy trong tổ bộ môn. -Biện pháp thứ hai: tập trung chỉ đạo việc tổ chức cho sinh viên tự học. Để thực hiện biện pháp này, trước hết cần phải chỉ đạo người giáo viên trang bị cho sinh viên những tri thức cần thiết về kỹ năng tự học, cụ thể là bốn kỹ năng tự học cơ bản sau: kỹ năng nghe giảng - thông hiểu và ghi chép, kỹ năng đọc sách, kỹ năng ghi chép tài liệu đã nghiên cứu và kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá, nhằm tạo cho sinh viên cơ sở ban đầu để thực hiện tốt hoạt động tự học. Nhưng điều quan trọng nhất là phải chỉ đạo người giáo viên tổ chức cho sinh viên được thường xuyên rèn luyện những kỹ năng này, bằng cách giao cho sinh viên những nhiệm vụ tự học cụ thể và yêu cầu họ phải tự nỗ lực giải quyết chúng, nhằm tự mình tìm ra trí thức. Thầy chỉ giữ vai trò là người hướng dẫn, trò mới chính là người trực tiếp giải quyết vân đề để giành lấy kiến thức. -Biện pháp thứ ba: tập trung chỉ đạo việc tổ chức cho sinh viên vận dụng tri thức thông qua việc giải các bài tập tình huống sư phạm. Khi thực hiện biện pháp này, cần phải chỉ đạo người giáo viên hướng dẫn cho sinh viên quy trình giải một bài tập tình huống sư phạm, đồng thời chỉ đạo họ tổ chức cho sinh viên được thường xuyên tập vận dụng quy trình này vào việc giải các bài tập tình huống sư phạm cụ thể. Có như vậy, sinh viên mới có thể hình thành được những kỹ năng nghề nghiệp Cơ bản, nhờ đó cố điều kiện để thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục của người giáo viên. *Thực nghiệm sư phạm: Việc thực nghiệm nhằm xác định tính hiệu quả của việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy của giáo viên và việc tổ chức cho sinh viên tự học trong việc nâng cao hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học. Kết quả thực nghiệm đã cho thấy: hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh viên được nâng cao rõ rệt; ý thức học tập môn giáo dục học của sinh viên cũng đã có một sự chuyển biến rất tốt, sinh viên trở nên tích cực, tự giác, chủ động hơn trong học tập (thường xuyên học bài, chuẩn bị bài và nghiên cứu thêm tài liệu), không còn thụ động trông chờ vào nguồn tri thức đã được dọn sấn từ người thầy. Vậy có thể khẳng định rằng: nếu tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy của giáo viên và việc tổ chức cho sinh viên tự học thì chắc chắn rằng sẽ nâng cao được hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM. 2.KIẾN NGHỊ Để có thể đẩy nhanh quá trình nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM, chúng tôi xin kiến nghị: 2.1 .Nhà trường phải quan tâm nhiều hơn nữa công tác bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, có chế độ chính sách khuyến khích giáo viên tiếp tục học lên trên, hoặc theo học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ. Có như vậy, giáo viên mới có đủ năng lực, trình độ để thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy. 2.2.cần phải phát động phong trào đổi mới phương pháp giảng dạy một cách liên tục và rộng khắp trong toàn trường, xem việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy của giáo viên là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá, xếp loại giáo viên, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Chỉ như thế mới có thể buộc được người giáo viên tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy. 2.3.Phải tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giảng dạy và học tập của thầy và trò, như: đảm bảo đầy đủ giáo trình, tài liệu tham khảo, các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho quá trình dạy học. Nếu không thì với điều kiện học tập như hiện nay: thư viện chật hẹp, toàn là sách cũ, ngay cả giáo trình cho sinh viên cũng không đủ thì người giáo viên sẽ khó mà thực hiện được việc tổ chức cho sinh viên tự học. 2.4.Chú ý xây dựng phong trào tự học mạnh mẽ và rộng khắp trong sinh viên, xem tự học như là một yêu cầu bắt buộc đối với người sinh viên. Muốn vậy cần phải tích cực bồi dưỡng cho sinh viên những kỹ năng tự học cơ bản; mặt khác phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tự học của sinh viên, có chế độ khuyến khích hợp lý đối với những sinh viên thực hiện tốt hoạt động tự học. Như vậy chắc chắn rằng sẽ kích thích được sinh viên tích cực, chủ động tự học, góp phần quan trọng cùng người giáo viên trong việc nâng cao hiệu quả giảng dạy. 2.5.Cần phải đổi mới nội dung môn giáo dục học theo hướng thiết thực hơn, gắn liền với thực tế cuộc sống và có thể phục vụ hữu hiệu nhất cho cuộc sống nghề nghiệp của sinh viên thì mới có thể kích thích được họ say mê, tích cực học tập, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho người giáo viên tổ chức thành công hoại động tự học ở sinh viên. 2.6. Cần phải tăng cường giờ thực hành, luyện tập tri thức cho sinh viên, bằng cách giảm bớt một số nội dung lý thuyết không cần thiết để cho người giáo viên có nhiều thời gian hơn trong việc hướng dẫn sinh viên tập dượt vận dụng tri thức vào việc giải quyết các vấn đề thực tế trong dạy học và giáo dục, nhờ đó hình thành được ở họ một số kỹ năng sư phạm cơ bản, giúp họ vững vàng hơn trên bục giảng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Nguyễn Như An - Phương pháp dạy học giáo dục học. Tập 1&2. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 1996. 2.Nguyễn Ngọc Bảo - Phát triển tính tích cực, tự lực của học sinh nong quá trình dạy học. Vụ Giáo viên, Bộ Giáo dục-Đào tạo, Hà Nội, 1996. 3.Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức - Hoạt động dạy học ở trường trung học cơ sở. Nhà xuất bản giáo dục, 1998. 4.Lê Khánh Bằng - Tổ chức quá trình dạy học đại học. Viện nghiên cứu Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1993. 5.Lê Khánh Bằng, Nguyễn Văn Tư - Một số ý kiến về xây dựng phương pháp học tập chủ động cho sinh viên. Tạp chí Đại học và Trung học chuyên nghiệp số 3/93. 6.Thành Thế Thái Bình - Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy các môn khoa học xã hội. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 8/94. 7.Cao Duy Bình - Những vấn đề lý luận cơ sở quản lý giáo dục. Tài liệu dùng nội bộ trường CBQLGD-ĐT 2. 8.Catxchuc G.x - Phát triển và giáo dục. Tư liệu trường Đại học sư phạm Hà Nội 1, 1971. 9.Trần Hoàng Chiền - về việc sử dụng phương pháp dạy học tâm lý học- giáo dục học ở trường sư phạm. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 10/95. 10.Nguyễn Đình Chỉnh, Trần Ngọc Diễm - Thực hành về giáo dục học. Nhà xuất bản Hà Nội, 1995. 11.Vũ Đình Cự (chủ biên) - Giáo dục hướng tới thế kỷ 21. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 1998. 12.Nguyễn Hữu Dũng - Nhà trường trung học và người giáo viên trung học. Nhà xuất bản Hà Nội, 1995. 13.Nguyễn Văn Đáng - Văn hoa và nguyên lý quản Lý. Nhà xuất bản thống kê Hà Nội, 1996. 14.Nguyễn Thị Đoan, Đỗ Minh Chương, Phương Kỳ Sơn - Các học thuyết quản lý. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 1996. 15.Đối mới phương pháp dạy học-một yêu cầu bức xúc của giáo dục và đào tạo. Viện khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 1993. 16.Đổi mới giảng dạy, nghiên cứu tâm lý học và giáo dục học. Hội thảo khoa học. Trường đại học sư phạm Hà Nội ì, khoa Tâm lý-Giáo dục, 1995. 17.Hà Thị Đức - về hoạt động tự học của sinh viên sư phạm. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 5/93. 18.Hà Thị Đức - vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đại học. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 11/95. 19.Lê Văn Giáo, Nguyễn Thị An Vinh - Một số ý kiến về đổi mới phương pháp dạy học ở đại học. Tạp chí phát triển giáo dục số 6/99. 20.Trần Bá Hoành - Đánh giá trong giáo dục. Nhà xuất bản Hà Nội, 1995. 21.Đặng Vũ Hoạt -Một số vấn đề về giáo dục đại học. Viện nghiên cứu đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987. 22.Đặng Vũ Hoạt - Một số vấn đề nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học đại học. Đại học sư phạm ì, Hà Nội, 1989. 23.Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị đức - Lý luận dạy học đại học. Trường đại học sư phạm Hà Nội 1, 1994. 24.Bùi Ngọc Hồ (chủ biên) - Hỏi-đáp về thực tập sư phạm. Trường đại học sư phạmTP.HCM, 1993. 25.Hà Sĩ Hồ, Lê Tuấn (chủ biên) - Những bài giảng vồ quản lý trường học. Tập 1,2,3. Nhà xuất bản giáo dục, 1987. 26.Nguyễn Sinh Huy (chủ biên) - Giáo dục học đại cương I&II. Nhà xuất bản Hà Nội, 1995. 27.Kharlamop - Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào. Nhà xuất bản giáo dục, Hồ Chí Minh, 1978. 28.Mai Hữu Khuê - Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý. Nhà xuất bản lao động, 1992. 29.Trần Kiểm - Giáo trình quản lý giáo dục và trường học. Viện khoa học giáo dục Hà Nội, 1997. 30.Koontz H, 0'Donnell c, Weihrich H - Những vấn đề cốt yếu của quản lý. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội, 1994. 31.Nguyễn Hữu Lam - Hành vi tổ chức. Nhà xuất bản giáo dục, 1996. 32.Đặng Bá Lãm, Phạm Thành Nghị - Chính sách và kế hoạch trong quản lý giáo dục. Nhà xuất bản giáo dục, 1999. 33.Nguyễn Hiến Lê - Tự học-một nhu cầu của thời đại. Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1994. 34.Nguyễn Văn Lê - Công tác quản lý trường học. Trường CBQL và GD TP.HCM, 1983. 35.Nguyễn Văn Lê - Khoa học quản lý nhà trường. Nhà xuất bản TP.HCM, 1985. 36.Nguyễn Văn Lê - Tổ chức khoa học lao động trí óc. Nhà xuất bản TP.HCM, 1986. 37.Nguyễn Văn Lê - Giao tế nhân sự. Nhà xuất bản trẻ, 1996. 38.Nguyễn Văn Lê, Tạ Văn Doanh - Giao tiếp sư phạm. Nhà xuất bản giáo dục, 1997. 39.Nguyễn Văn Lê - Nhập môn khoa học quản trị. Trường đại học khoa học tự nhiên TP.HCM, 1998. 40.Lê Nguyên Long - Thử đi tìm những phương pháp dạy học hiệu quả. Nhà xuất bản giáo dục TP.HCM, 1999. 41.Phan Trọng Luận - về khái niệm "học sinh là trung tâm". Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 2/95. 42.Nguyễn Hữu Lương - Hiểu thêm về hoạt động trí óc để dạy tốt, học tốt. Trường đại học sư phạm TP.HCM, 2001. 43.Lý luận quản lý giáo dục. Tài liệu trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo 2, 1995. 44.Nguyễn Đức Minh (chủ biên) - Cơ sở tâm lý học của công tác quản lý trường học. Nhà xuất bản giáo dục, 1981. 45.Hồ Chí Minh - Bàn về học tập. Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1997. 46.Hồ Chí Minh - Bàn về công tác giáo dục. Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 1998. 47.Phạm Thành Nghị - Quản lý chất lượng giáo dục đại học. Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội, 2000. 48.Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt - Giáo dục học. Tập 1&2. Nhà xuất bản giáo dục, 1988. 49.Bùi Văn Nhơn - Tập bài giảng về quản lý nguồn nhân lực. Học viện hành chánh quốc gia, Hà Nội, 1998. 50.Bùi Ngọc Oanh - Tâm lý học trong xã hội và quản lý. Nhà xuất bản thống kê,1995. 51.Petrovxki A.v (chủ biên) - Tâm lý học sư phạm và tâm lý học lứa tuổi. Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 1982. 52.Võ Quang Phúc - Giáo dục đổi mới dưới góc nhìn của khoa học giáo dục. Nhà xuất bản giáo dục TP.HCM, 1998. 53.Phương pháp dạy-học trong trường chuyên nghiệp và đại học. Viện nghiên cứu giáo dục và đào tạo phía Nam, TP.HCM, 1995. 54.Nguyễn Ngọc Quang - Lý luận dạy học đại cương. Trường cán bộ quản lý giáo dục-đào tạo, Hà Nội, 1987. 55.Nguyễn Ngọc Quang - Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục. Nhà xuất bản giáo dục, 1984. 56.Trương Văn Sinh - Tập bài giảng về một số vấn đê quản lý nhà nước đối với giáo dục-đào tạo. Học viện hành chính quốc gia, TP.HCM, 2000. 57.Singh - Nền giáo dục cho thế kỷ 21: những triển vọng của châu Á-Thái Bình Dương. Viện khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 1994. 58.Suftsuk - 100 tình huống trong quản lý. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật,1985. 59.Tạp chí khoa học tập 25, số 1/2001. Trường đại học sư phạm TP.HCM. 60.Nguyễn Hữu Thân - Quản trị nhân sự. Nhà xuất bản giáo dục, 1995. 61.Thông tin giáo dục quốc tế. Tập 1, từ số 1->12 (từ 1l/99->l1/2000). Trung tâm nghiên cứu và giao lưu văn hóa-giáo dục quốc tế. 62.Lý Minh Tiên - Đề cương bài giảng môn toán thống kê ứng dụng trong khoa học giáo dục. Trường đại học sư phạm TP.HCM, 1998. 63.Nguyễn Cảnh Toàn - Luận bàn và kinh nghiệm về tự học. Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội, 1999. 64.Nguyễn Cảnh Toàn -Ba mũi giáp công trong khoa học giáo dục. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 4/2000. 65.Dương Thiệu Tống - Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập. Bộ giáo dục và đào tạo. Trường đại học tổng hợp TP.HCM, 1995. 66.Tơ-rốt-chen-cô - Giáo dục và quản lý, sự phối hợp công tác tư tưởng. Nhà xuất bản thông tin T.N lý luận, 1984. 67.Trần Văn Tùng, Lê Ai Lâm - Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 1996. 68.Thái Duy Tuyên - Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 2/96. 69.Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) - Tâm lý học đại cương. Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội, 1997. 70.Văn kiện hội nghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 1997. PHỤ LỤC U*Cách tính Chi bình phương (XUP2PU): Kiểm nghiệm Chi bình phương được sử dụng để so sánh nhiều tỉ lệ ở một nhóm hay ở nhiêu nhóm. (X ) được tính bằng công thức sau: Sau khi đối chiếu XP2P Toàn thể với trị số tới hạn của XP2 Pứng với mức ý nghĩa α độ tự do df cho từ bảng XP2P . U1.Đối với bảng 1 hàng, nhiều cột: PHIẾU TRƯNG CÂU Ý KIẾN (DÀNH CHO GIÁO VIÊN) Nhằm góp phần vào việc nâng cao hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học trong nhà trường, xin quí Ong/Bà vui lòng cho chúng tôi biết ý kiến về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu X vào ô thích hợp với ý kiến của Ông/Bà. CÂU 1: Xin Ông/Bà cho biết ý kiến về nội dung, chương trình giảng dạy mồn giáo dục học ở trường Cao đẳng sư phạm TP.HCM: I. Về nội dung: □l. Rất thiết thực □2. Khá thiết thực □3. Ít thiết thực □4. Hoàn toàn không thiết thực II. Về chương trình: □1. Nặng về lý thuyết □2. Nặng về thực hành □3. Có sự cân đối giữa lý thuyết và thực hành CÂU 2: Ông/ Bà có cảm thấy hứng thú khi giảng dạy môn giáo dục học? □1.Rất hứng thú □2.Khá hứng thú □3.Ít hứng thú □4.Không hứng thú CÂU 3: Theo Ông/Bà, sinh viên có nắm vững tri thức giáo dục học không ? □1.Rất vững □2.Khá vững □3.Ít vững □4.Không vững CÂU 4: Xin Ông/Bà nhận xét về khả năng vận dụng tri thức giáo dục học của sinh viên vào việc giải quyết các vấn đề thực tế: □l.Tốt □2.Khá □3.Trung bình □4.Yếu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_trang_quan_ly_viec_giang_day_giao_duc_hoc_o_truong_cao_dang_su_pham_tp_hcm_va_mot_so_bien_phap.pdf
Luận văn liên quan