Để có thể đẩy nhanh quá trình nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học
tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM, chúng tôi xin kiến nghị:
2.1 .Nhà trường phải quan tâm nhiều hơn nữa công tác bồi dưỡng trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, có chế độ chính sách khuyến khích giáo
viên tiếp tục học lên trên, hoặc theo học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ. Có như
vậy, giáo viên mới có đủ năng lực, trình độ để thực hiện việc đổi mới phương
pháp giảng dạy.
2.2.cần phải phát động phong trào đổi mới phương pháp giảng dạy một
cách liên tục và rộng khắp trong toàn trường, xem việc thực hiện đổi mới
phương pháp dạy của giáo viên là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để
đánh giá, xếp loại giáo viên, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên. Chỉ như thế mới có thể buộc được ngườigiáo viên tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy.
2.3.Phải tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giảng dạy và học tập của
thầy và trò, như: đảm bảo đầy đủ giáo trình, tài liệu tham khảo, các trang thiết
bị kỹ thuật phục vụ cho quá trình dạy học. Nếu không thì với điều kiện học tập
như hiện nay: thư viện chật hẹp, toàn là sách cũ, ngay cả giáo trình cho sinh
viên cũng không đủ thì người giáo viên sẽ khó mà thực hiện được việc tổ chức
cho sinh viên tự học.
135 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1050 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý việc gỉang dạy giáo dục học ở trường cao đẳng sư phạm TP. HCM và một số biện pháp nâng cao hiệu qủa gỉang dạy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giảng dạy. Chính vì thế, cần phải tập
trung chỉ đạo việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy của giáo viên thì mới có
thể nâng cao được hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học tại trường Cao đẳng
Sư phạm TP.HCM.
Trong khi chỉ đạo thực hiện việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy học
giáo dục học của giáo viên cần phải xem việc tích cực hoá hoạt động nhận thức
của người học như là khâu đột phá có tính chất quyết định nhất. Phương pháp
dạy học mới phải hướng tới việc khai thác một cách tích cực và có hiệu quả
năng lực của người học, với tư cách là một chủ thể nhận thức độc lập, sáng tạo.
Bởi vì, quá trình dạy học là quá trình hoạt động 2 chiều có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, dạy là chủ đạo, học là chủ động, tích cực chiếm lĩnh tri thức. Quá
trình dạy học chỉ có thể đạt được hiệu quả cao nếu phương pháp dạy của thầy
phát huy được tính tích cực nhận thức của trò. Vì thế, trong quá trình dạy học,
ta phải chống lối dạy nhồi nhét kiến thức như lâu nay, mà phải hướng dẫn sinh
viên đi tìm lấy kiến thức, nhằm kích thích họ tích cực, độc lập nhận thức, biến
kho tàng tri thức của nhân loại thành vốn tri thức riêng của bản thân. Muốn
vậy, la cần vận dụng kiểu dạy học nêu vấn đề kết hợp với dạy học thông báo.
Dạy học nêu vấn đề là một kiểu dạy học trong đó người thầy giáo đưa học
sinh vào các tình huống có vấn đề, giúp họ tự lực và sáng tạo giải quyết các vấn
đề đặt ra, qua đó mà nắm được tri thức mới hoặc cách hành động mới, đồng
thời phát triển được tính tích cực, sáng tạo. Như vậy, trong kiểu dạy học nêu
vấn đề, giáo viên không cung cấp cho học sinh những trí thức có sẩn như kiểu
thông báo, mà nêu ra cho học sinh những vấn đề cần giải quyết và tạo ra những
điều kiện giúp cho họ tự lực giải quyết trên cơ sở những mối liên hệ giữa cái đã
cho và cái cần biết, giữa điều đã biết và điều chưa biết.
Kiểu dạy học nêu vấn đề thường gồm 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia
ra một số bước như sau:
+ Giai đoan 1: Định hướng
-Bước 1: Nêu vấn đề
-Bước 2: Đưa học sinh vào tình huống có vấn đề
-Bước 3: Phát biểu vấn đề Trong giai đoạn định hướng, giáo viên nêu ra
vấn đề nghiên cứu, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề, phát biểu các vấn đề
cụ thể dưới dạng những mâu thuẫn nhận thức.
+ Giai đoan 2: Lập kế hoạch
-Bước 4: Học sinh huy động trí thức, tích lũy tư liệu
-Bước 5: Đề xuất giả thuyết. Dự đoán các phương án giải quyết có thể có
đối với vấn đề.
-Bước 6: Lập kế hoạch giải ứng với từng giả thuyết. Trong giai đoạn này,
học sinh phải huy động và vận dụng một cách tự lực và sáng tạo những tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo và vốn kinh nghiệm sẩn có. Khi cần phải tích lũy thêm tư liệu
(qua đọc thêm sách, báo hoặc làm thí nghiệm, đi thực tế...), vận dụng các thao
tác tư duy để đề xuất các giả thuyết nhằm giải quyết các vấn đồ đặt ra. Như
vậy, có thể nói: ngay trong quá trình học tập, học sinh đã tập dượt làm như nhà
khoa học.
+ Giai đoan 3: Thực hiên kế hoạch
-Bước 7: Thực hiện kế hoạch giải
-Bước 8: Đánh giá việc thực hiện. Ở đây có 2 khả năng, nếu xác nhận giả
thuyết là đúng thì chuyển sang bước 9. Nếu phủ nhận giả thuyết thì quay trở lại
bước 6 để chọn giả thuyết khác.
+ Giai đoạn 4: Kiểm tra và tổng kết
-Bước 9: Phát biểu kết luận về cách giải
-Bước 10: Thể nghiệm và ứng dụng.
Vậy có thể thấy rằng kiểu dạy học nêu vấn đề thực sự phát huy được tính
tích cực nhận thức của người học, biến người học từ khách thể nhận thức trở
thành chủ thể nhận thức của quá trình học tập. Nhưng cần lưu ý rằng: khi chỉ
đạo người giáo viên vận dụng kiểu nêu vấn đề trong quá trình dạy học môn
giáo dục học, tuyệt đối không nên đối lập nó với kiểu thông báo. Phương
hướng vận dụng đúng đắn nhất là phải kết hợp khéo léo kiểu nêu vấn đề với
kiểu thông báo. Với việc kết hợp dạy học nêu vấn đề với dạy học thông báo, ta
sẽ khắc phục được những hạn chế của hai kiểu dạy học này, đồng thời phát huy
được thế mạnh của chúng, đảm bảo vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học ương quá trình nhận thức, nhờ đó mà đạt được hiệu quả cao trong
giảng dạy.
Tóm lại, muốn nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học ở trường Cao
đẳng Sư phạm TP.HCM thì cần phải tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi mới
phương pháp giảng dạy của giáo viên theo hướng tích cực hoa hoạt động nhận
thức của người học, bằng cách vận dụng kết hợp dạy học nêu vấn đề với dạy
học thông báo. Một cách cụ thể có thổ thực hiện việc kết hợp này như sau:
-Giáo viên phải chuẩn bị chọn lọc, sắp xếp các tình huống có vấn đề trong
từng bài, tùy theo mục đích cụ thể của từng bài học. Các tình huống này phải
kích thích được tư duy và hứng thú nhận thức của sinh viên.
-Giáo viên hoặc dẫn dắt sinh viên từ từ đi vào tình huống có vấn đề, hoặc
trực tiếp nêu ra các tình huống có vấn đồ ở một số khâu để sinh viên suy nghĩ,
tìm cách giải quyết.
-Trong quá trình giải quyết các tình huống có vấn đề, giáo viên có thể
hướng dẫn, gợi mở, giúp cho sinh viên suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề,
điều quan trọng là phải tác động đến các thao tác trí tuệ của sinh viên.
Tuy nhiên, để cho người giáo viên có thể thực hiện tốt việc đổi mới
phương pháp giảng dạy thì cần phải tập trung liến hành một cách đồng bộ các
biện pháp sau:
-Tổ chức cho giáo viên nghe báo cáo các chuyên đề về đổi mới phương
pháp giảng dạy
-Tăng cường cồng tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên -Bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên -Tăng cường
các hình thức dạy học mới (tự học, tự nghiên cứu, thảo luận...) -Tổ chức
thường xuyên các buổi trao đổi về kinh nghiệm giảng dạy trong tổ bộ môn.
3.2.1.2.Biện pháp thứ hai: tập trung chỉ đạo việc tổ chức cho sinh
viên tư học:
Tự học giữ vai trò vô cùng quan trọng ương quá trình học tập ở đại học, là
yếu tố quyết định trực tiếp chất lượng đào tạo. Bởi lẽ, quá trình dạy học ở đại
học về bản chất là một quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của người
học, dưới sự chỉ đạo của người thầy, nhằm đạt được các nhiệm vụ dạy học.
Trong quá trình đó, hoạt động dạy của thầy và hoạt động học cua trò có mối
liên hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Người thầy có vai trò tổ chức, lãnh
đạo, điều khiển và định hướng hoạt động học cho người học, nhằm giúp họ tự
mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết. Người học không
chỉ là đối tượng của hoạt động dạy của thầy, mà còn là chủ thể của quá trình
nhận thức học tập. Vì thế, quá trình dạy học chỉ có thể đạt được hiệu quả cao
nếu người học tích cực, chủ động tự học.
Hơn nữa, trong thời đại bùng nổ thông tin như vũ bão hiện nay, khối
lượng tri thức học được trong nhà trường đại học, dù có nhiều bao nhiêu đi nữa
thì cũng không đủ, cho nên mỗi người phải biết bổ sung vốn hiểu biết của mình
bằng con đường tự học thường xuyên, tự học suốt đời. Tự học đã trở thành yêu
cầu khách quan và cấp bách của thời đại. Do vậy, có thể nối: tổ chức tốt việc tự
học cho người học là một trong những con đường hữu hiệu nhất để nâng cao
hiệu quả giảng dạy.
Thật vậy, chỉ thông qua hoạt động tự học thì người học mới có thể lĩnh
hội vững chắc hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phát triển năng lực hoạt
động trí tuệ. Bởi vì, hoạt động tự học là hoạt động tự tổ chức của người học để
chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Nó đòi hỏi người học phải tích cực, độc
lập giải quyết các nhiệm vụ học tập. Kiến thức mà người học có được không
phải là sự tiếp nhận thụ động từ người khác, mà là kết quả của một quá trình nỗ
lực không ngừng tìm kiếm tri thức của chính người học, với sự huy động cao
độ năng lực tư duy của bản thân, cho nên những kiến thức ấy đã thực sự trở
thành vốn tri thức riêng của người học, rất vững chắc, bền lâu. Không những
thế, thông qua hoạt động tự học, người học còn được bồi dưỡng ý chí và năng
lực tự học suốt cuộc đời, nắm được phương pháp tự học. Điều này có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với người học, nhất là đối với những sinh viên trường
sư phạm-những giáo viên tương lai, bởi lẽ họ có trọng trách nặng nề là đào tạo
những công dân tốt cho xã hội, cho nên, hơn ai hết họ phải thường xuyên tự
học, tự rèn luyện, nhằm không ngừng nâng cao trình độ nghề nghiệp và hoàn
thiện nhân cách bản thân, đáp ứng lòng mong đợi của xã hội. Do đó, nếu không
được vũ trang phương pháp tự học ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì
họ khố mà hoàn thành tốt trọng trách được giao.
Trong khi đó, thực tế giảng dạy và học tập môn giáo dục học tại trường
Cao đẳng Sư phạm TP.HCM đã cho thấy: giáo viên ít chú ý đến việc tổ chức
cho sinh viên tự học, chủ yếu là truyền thụ kiến thức theo lôi độc thoại một
chiều cho người học. Vì thế mà sinh viên có cách học tập rất thụ động, ỷ lại,
chỉ biết trông chờ vào nguồn tri thức đã được dọn sẵn từ thầy, không hình
thành được thói quen và năng lực tự học, khiến cho kết quả học tập không cao,
phần lớn sinh viên chỉ đạt kết quả học tập môn giáo dục học ở mức trung bình.
Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học tại trường Cao đẳng
Sư phạm TP.HCM thì cần phải tập trang chỉ đạo việc tổ chức cho sinh viên tự
học.
Hoạt động tự học là hoạt động tự tìm tòi, khám phá để chiếm lĩnh tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo của người học. Vì vậy, để giúp cho người học có thể tiến hành
hoạt động tự học có hiệu quả, trước hết cần chỉ đạo người giáo viên thực hiện
việc trang bị cho sinh viên những tri thức cần thiết về kỹ năng tự học, trong đó
theo tôi không thể thiếu được bốn kỹ năng cơ bản sau: kỹ năng nghe giảng -
thông hiểu và ghi chép, kỹ năng đọc sách, kỹ năng ghi chép tài liệu đã nghiên
cứu, kỹ năng tự kiểm ưa, tự đánh giá. Đối với từng kỹ năng này, giáo viên phải
giúp cho sinh viên nắm vững cách thực hiện, cũng như các yêu cầu cần phải
tuân thủ trong quá trình thực hiện. Có như vậy thì sinh viên mới có đủ cơ sở để
thực hiện tốt hoạt động tự học.
Tuy nhiên, nếu chỉ trang bị những tri thức lý thuyết về các kỹ năng tự học
cho sinh viên là chưa đủ, điều quan trọng nhất là phải chỉ đạo người giáo viên
tổ chức cho sinh viên được rèn luyện thường xuyên các kỹ năng tự học này,
bằng cách giao cho họ các nhiệm vụ tự học cụ thể và yêu cầu họ phải tự nỗ lực
giải quyết chúng, nhằm tự mình tìm ra tri thức. Thầy chỉ giữ vai trò là người
hướng dẫn, trò mới chính là người trực tiếp giải quyết vấn đề để giành lấy kiến
thức. Một cách cụ thể, có thể chỉ đạo người giáo viên tổ chức cho sinh viên lự
học như sau:
-Trước mỗi bài học, giáo viên giao cho sinh viên các nhiệm vụ tự học cụ
thể (có thể là các câu hỏi, các vấn đề, các bài tập), cùng với mốc thời gian phải
hoàn thành. Sinh viên phải tự nghiên cứu tài liệu, sách báo cần thiết để giải
quyết các nhiệm vụ này ở nhà.
-Trong giờ lên lớp, giáo viên tổ chức cho sinh viên trao đổi, thảo luận
những vấn đề mà các em đã chuẩn bị. Trong khi tranh luận đòi hỏi sinh viên
phải tích cực, chủ động trình bày và bảo vệ quan điểm của mình, đồng thời biết
học hỏi cái hay từ ý kiến của bạn. Tất nhiên sẽ có những vấn đề mà cả lớp cảm
thấy lúng túng, không thể kết luận được. Vì thế mà cần phải có sự hướng dẫn
của thầy.
-Giáo viên sẽ rút ra kết luận về những vấn đề mà sinh viên đã thảo luận.
Dựa vào kết luận của thầy, sinh viên tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh
những sai sót trong hiểu biết của mình và có được kiến thức mới.
Với cách dạy và học như vậy, chắc chắn rằng hứng thú học tập của sinh
viên sẽ được nâng cao và quan trọng hơn nữa là sinh viên đã thực sự tham gia
vào quá trình chiếm lĩnh tri thức, tự tìm ra kiến thức bằng hành động của chính
mình nên kiến thức mà họ có được rất vững chắc, bền lâu, trở thành vốn tri
thức của riêng họ.
3.2.1.3.Biện pháp thứ ba: tập trung chỉ đạo việc tổ chức cho sinh
viên vận dụng tri thức thông qua việc giải các bài tập tình huống sư
phạm:
Giáo dục học là môn học mang tính chất nghiệp vụ trong trường sư phạm.
Vì thế, đối với môn giáo dục học, điều quan trong nhất là phải hình thành được
cho người học hệ thống những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản, nhằm giúp họ có
cơ sở để thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục của mình, đồng thời phát
triển được nghề nghiệp trong tương lai. Muốn vậy, cần phải tập ưung chỉ đạo
người giáo viên thường xuyên tổ chức cho sinh viên được tập dượt vận dụng tri
thức thông qua việc giải các bài tập tình huống sư phạm.
Bài tập tình huống sư phạm là bài tập nêu lên một dạng tình huống thực tế
hay giả định trong quá trình dạy học - giáo dục, một tình huống khó khăn về trí
tuệ, đòi hỏi người học nhận thức được những mâu thuẫn trong lý thuyết và thực
tiễn, họ cảm thấy băn khoăn thắc mắc, có nhu cầu đáp ứng bằng cách huy động
vốn tri thức và kinh nghiệm sáng tạo nhằm tìm ra con đường giải quyết một
cách hợp lý nhất.
Như vậy, có thể thấy là các bài tập tình huống sư phạm đã đặt người học
vào trong một môi trường giáo dục giống như thật, giúp họ phân nào nắm bắt
được các vân đề thực tế trong dạy học và giáo dục, thấy được những khó khăn
mà họ sẽ phải đương đầu, nhờ đó mà họ cố gắng phấn đấu, rèn luyện để đáp
ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của nghề nghiệp. Nhưng điều quan trọng nhất
là: chính thông qua việc giải các bài lập tình huống sư phạm, người học sẽ
được làm quen với việc vận dụng lý luận để phân tích, nhận xét, giải quyết một
thực tế giáo dục, từng bước hình thành kỹ năng dạy học và giáo dục cho bản
thân, nhờ đó giúp họ cảm thấy tự tin, vững vàng hơn trong vai trò của người
giáo viên, không bị lúng túng, bối rối khi phải đối đầu với các lình huống giáo
dục phức tạp sau này, trước mắt là trong giai đoạn kiến tập và thực tập của sinh
viên.
Tuy nhiên, quá trình luyện tập, giải bài tập tình huống sư phạm của sinh
viên chỉ đạt hiệu quả khi sinh viên nắm được quy trình giải của nó. Do vậy,
điều quan trọng trước tiên là phải chỉ đạo người giáo viên thực hiện việc hướng
dẫn cho sinh viên quy trình giải một bài tập tình huống sư phạm. Thông thường
thì quy trình này diễn ra theo 6 bước sau đây:
Ua.Xác định những dữ kiện:
Sinh viên trước khi bắt tay giải một bài tập tình huống sư phạm cần xác
định được đối tượng và chủ thể được đề cập trong tình huống. Xác định cho
được những sự kiện quan trọng trong hoàn cảnh xảy ra của tình huống đổ, vạch
ra được mối quan hệ giữa đối tượng, chủ thể, hoàn cảnh, hành động trong bài
tập tình huống sư phạm này, để có cơ sở định hướng ban đầu cách giải quyết, ở
bước này, sinh viên cần phân tích những vấn đề sau:
- Xác định và nắm được các vấn đề cần phải giải quyết của bài tập.
- Nêu những dữ kiện và xác định những dữ kiện nào là quan trọng, chủ
yếu.
- Phân tích các dữ kiện đó trong các mối quan hệ nhiều chiều của nó.
- Kết Luận.
Ub.Biểu đạt vấn đề phải giải quyết:
Trước khi giải bài tập, sinh viên phải ý thức được nhiệm vụ phải giải
quyết của bài tập. Cụ thể là:
-Xác định và nêu lên được những vấn đề chủ yếu cần giải quyết, đồng
thời đề ra được phương hướng giải quyết dựa vào tư duy lôgic và tư duy sư
phạm của sinh viên.
-Nội dung và cách biểu đạt vấn đề chứng tỏ mức độ hiểu được vấn đề.
Nếu chưa đạt, sinh viên cần tiếp tục tìm ra những con đường, những biện pháp
để giải quyết nó một cách thoa đáng.
Uc.Đề ra giả thuyết:
Sinh viên phải phân tích kỹ những vân đê theo yêu cầu đòi hỏi phải giải
quyết của tình huống, trên cơ sở đó mà đề ra các giả thuyết khác nhau.. Giả
thuyết đề ra phải ngắn gọn, rõ ràng, chính xác (các giả thuyết có thể được biểu
đạt dưới dạng câu nghi vấn). Bước này gắn rất chặt với bước chứng minh giả
thuyết kế tiếp dưới đây.
Ud.Chứng minh giả thuyết:
Trong bước này, sinh viên cần tìm tòi, tái hiện nhằm vận dụng những tri
thức đã tích lũy được trong quá trình học tập, những kỹ năng đã học cũng như
những kinh nghiệm vốn có với những thao tác tư duy sư phạm của mình để lựa
chọn những sự kiện, những hiện tượng giáo dục, thực tiễn xã hội phục vụ cho
việc chứng minh giả thuyết. Từ đó rút ra kết luận.
Ue.Tự kiểm tra độ tin cậy của giả thuyết và chứng minh giả thuyết:
Đây là khâu quan trọng và khó khăn vì nó đòi hỏi sinh viên phải:
-Xác định được con đường tối ưu của các quá trình sư phạm, tức là thấy
được hướng phát triển của tình huống đổ.
-Đối chiếu kết quả thu được với giả thuyết.
Nói cách khác, tức là xác lập quá trình sư phạm đó phù hợp đến mức độ
nào với mục đích và kết quả dự đoán. Trên cơ sở đó mà đề ra một hệ thống
biện pháp góp phân ngăn ngừa những hành vi có thể xảy ra.
Nếu giả thuyết sai, hay chứng minh giả thuyết sai thì sinh viên cần kiểm
tra qua thực tiễn, đề ra giả thuyết mới và chứng minh giả thuyết (trở lại các
bước 3 và 4), tiếp tục chứng minh giả thuyết.
Đề ra giả thuyết đúng và chứng minh giả thuyết đúng thì chuyển sang
bước 6, rút ra kết luận.
Uf.Rút ra kết luân khẳng đinh giả thuyết đủng và nêu lên những kinh
nghiêm giáo dục:
-Khẳng định giả thuyết đúng.
-Rút ra những bài học kinh nghiệm (có thể nêu ra cả những bài học thành
công cũng như thất bại), vì nó đều là những bài học quí báu đối với người giáo
viên.
Ngoài ra, giáo viên cũng nên lưu ý với sinh viên rằng: trong các bài tập
tình huống sư phạm, khi đặt ra những tình huống, những mâu thuẫn, người ta
có thể cho những dữ kiện khá đầy đủ hoặc cũng có thể chưa đủ các dữ kiện.
Cũng có thể có những dữ kiện chưa được xác định rõ ràng, thậm chí có khi
mâu thuẫn. Do vậy, khi giải các bài tập tình huống sư phạm, sinh viên có thể tự
mình bổ sung thêm dữ kiện hoặc xác định rõ thêm các giả định để giải quyết
tình huống được thấu đáo, hợp lý.
Sau khi sinh viên đã nắm được quy trình giải một bài tập tình huống sư
phạm thì điều quan trọng là phải chỉ đạo người giáo viên tổ chức cho sinh viên
được tập dượt vận dụng quy trình này vào việc giải quyết các bài tập tình
huống sư phạm cụ thể. Có như vậy, sinh viên mới thực sự hình thành được kỹ
năng giải bài tập tình huống sư phạm, nhờ đó mà trở nên linh hoạt, sáng tạo khi
phải giải quyết các vấn đề thực tế trong dạy học và giáo dục.
3.2.2.THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM:
Trong phần trước, chúng tôi đã đề xuất 3 biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả giảng dạy môn Giáo dục học tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM,
nhưng khi tổ chức thực nghiệm do hạn chế về mặt thời gian nên chúng tôi chỉ
có thể tiến hành thực nghiệm nhằm xác định tính hiệu quả của việc tổ chức đổi
mới phương pháp dạy của giáo viên và việc tổ chức cho sinh viên tự học như
sau: một mặt chúng tôi tổ chức đổi mới phương pháp giảng dạy, mặt khác
chúng tôi kết hợp tổ chức cho sinh viên tự học.
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm đối với sinh viên năm 1, khoá 27, khoa
Sử-Giáo dục công dân trong thời gian chung tôi đang dạy học phần giáo dục
học đại cương. Cụ thể là:
-Nhóm thực nghiệm : lớp Sử
-Giáo dục công dân, 42 sinh viên.
-Nhóm đối chứng : lớp Giáo dục công dân
-Sử, 40 sinh viên. Chúng lôi đã tiến hành thực nghiệm tác động như sau:
*Đối với lớp đối chứng: dạy theo cách cũ như lâu nay: sử dụng phương
pháp diễn giảng là chủ yếu.
*Đối với lớp thức nghiêm: dạy theo cách mới: sử dụng kết hợp phương
pháp diễn giảng với phương pháp nêu vấn đề, đồng thời tổ chức cho sinh viên
tự học. Cụ thể như sau:
-Giáo viên giới thiệu giáo ưình, tài liệu cố liên quan đến bài học để sinh
viên tự đọc, tự nghiên cứu trước ở nhà. Giáo viên có thể nêu những vấn đề
trọng tâm của bài học để sinh viên chú trọng vào vấn đề cần nghiên cứu. Tất
nhiên là giáo viên phải hướng dẫn cho sinh viên cách đọc sách, nghiên cứu tài
liệu, cách khai thác vấn đề và ghi chép khi đọc.
-Trong giờ lên lớp, giáo viên vận dụng kết hợp phương pháp diên giảng
với phương pháp nêu vấn đề. Tùy theo mục đích cụ thể của từng bài học mà
giáo viên lựa chọn, xây dựng hộ thống các tình huống có vấn đề cho thích hợp,
điều quan trọng là các tình huống này phải kích thích được tư duy và hứng thú
nhận thức của sinh viên.
Trong quá trình giải quyết các tình huống có vấn đề, giáo viên sẽ hướng
dẫn, gợi mở, giúp sinh viên vận dụng những điều đã đọc vào việc tìm kiếm
cách giải quyết vân đề, nhằm kích thích sinh viên tích cực tư duy để chiếm lĩnh
tri thức. Có như vậy, kiến thức mà sinh viên có được mới thực sự trở thành vốn
tri thức riêng của bản thân họ.
-Ngoài việc yêu cầu sinh viên nghiên cứu trước bài học ở nhà, giáo viên
cũng cố thể đưa ra những vấn đề cụ thể để sinh viên tự nghiên cứu, tìm cách
giải quyết trước. Sau đó, trong giờ lên lớp, giáo viên sẽ tổ chức cho sinh viên
thảo luận, trao đổi với nhau, nhằm thống nhất ý kiến về cách giải. Cuối cùng,
giáo viên sẽ là người đưa ra kết luận về vấn đề. Dựa vào kết luận của giáo viên,
sinh viên tự kiểm ưa, tự đánh giá, tự điều chỉnh những sai sót trong hiểu biết
của mình và có được kiến thức mới.
Kết quả thu được sau thực nghiộm như sau:
3.2.2.1.Hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh viên:
Kết quả nghiên cứu cho biết: có sự khác biệt ý nghĩa ở mức a =.001 về
hứng thú học tập môn giáo dục học giữa sinh viên nhóm đối chứng và sinh viên
nhóm thực nghiệm. Có thể thấy rõ là sinh viên nhóm thực nghiệm hứng thú đối
với môn giáo dục học nhiều hơn so với sinh viên nhóm đối chứng. Cụ thể là tỉ
lệ sinh viên rất thích thú và khá thích thú khi học môn giáo dục học của nhóm
thực nghiệm (16.67% sinh viên rất thích thú, 61.9% sinh viên khá thích thú)
cao hơn hẳn so với nhóm đối chứng (7.5% sinh viên rất thích thú, 25% sinh
viên khá thích thú); đặc biệt tỉ lệ sinh viên ít thích thú đối với môn giáo dục học
đã giảm một cách đáng kể ở nhóm thực nghiệm (21.43% sinh viên), thậm chí
không còn một sinh viên nào hoàn toàn không thích thú khi học môn giáo dục
học. Điều đó chứng tỏ rằng: việc tổ chức đổi mới phương pháp dạy của giáo
viên kết hợp với việc tổ chức cho sinh viên tự học đã có tác dụng nâng cao
hứng thú học tập cho sinh viên, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá
trình nâng cao hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học tại trường Cao đẳng Sư
phạm TP.HCM. Như vậy, có thể thấy là: nếu tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi
mới phương pháp dạy của giáo viên và việc tổ chức cho sinh viên tự học thì sẽ
nâng cao được hiệu quả giảng dạy giáo dục học.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: có sự khác biệt ý nghĩa ở mức α =.001 về
mức độ thường xuyên học bài giáo dục học giữa sinh viên nhóm đối chứng và
sinh viên nhóm thực nghiệm, ở nhóm thực nghiệm, tỉ lệ sinh viên thường
xuyên học bài đã tăng lên một cách rõ rệt: trước đây chỉ có một tỉ lệ nhỏ sinh
viên nhóm đối chứng thường xuyên học bài ( 10% sinh viên), thì nay có đến
hơn một nửa sinh viên nhóm thực nghiệm thường xuyên học bài ( 59.52% sinh
viên). Do đó mà tỉ lệ sinh viên ít khi học bài cũng đã giảm đi đáng kể. Đặc biệt,
tỉ lệ sinh viên chưa bao giờ học bài giáo dục học ở nhóm thực nghiệm giảm đi
rất nhiều so với nhóm đối chứng: từ 22.5% sinh viên nhóm đối chứng chưa bao
giờ học bài nay chỉ còn tỉ lệ 4.76% sinh viên ở nhóm thực nghiệm.
Qua phân tích kết quả nghiên cứu ở trên có thể đưa ra nhận định là: quá
trình thực nghiệm đã có tác động mạnh tới ý thức học tập của sinh viên, khiến
cho sinh viên trở nên tự giác, tích cực hơn trong học tập, khá nhiều sinh viên đã
thường xuyên học bài giáo dục học.
Phân tích kết quả nghiên cứu thì thấy: có sự khác biệt ý nghĩa ở mức
ct=.001 vồ mức độ thường xuyên chuẩn bị bài mới cho môn giáo dục học giữa
sinh viên nhóm đối chứng và sinh viên nhóm thực nghiệm. Đối với nhóm đối
chứng, đa số sinh viên chưa bao giờ chuẩn bị bài mới (77.5% sinh viên), và chỉ
có một tỉ lệ rất nhỏ sinh viên thường xuyên chuẩn bị bài mới (5% sinh viên).
Nhưng đối với nhóm Ihực nghiệm, đã có một sự thay đổi đáng kể: số sinh viên
thường xuyên chuẩn bị bài mới lại là nhiều nhất, tới hơn một nửa số sinh viên
(54.76% sinh viên), còn số sinh viên chưa bao giờ chuẩn bị bài mới là ít nhất,
chiếm tỉ lệ không nhiều (11.9% sinh viên). Như vậy, có thể thấy là: với sự tác
động của thực nghiệm đã làm cho sinh viên nhóm thực nghiệm tích cực, chủ
động hơn trong học tập, không còn thụ động chờ đợi tri thức từ người giáo viên
như ở nhóm đối chứng nữa.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 41 cho ta thấy: có sự khác biệt ý nghĩa ỏ mức
α=.001 về mức độ thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu giữa sinh viên nhóm
đối chứng và sinh viên nhóm thực nghiệm. Có thổ thấy rõ là: đa số sinh viên
nhóm đối chứng chưa bao giờ nghiên cứu thêm tài liệu (80% sinh viên), còn
trong số sinh viên có nghiên cứu thêm thì thường là ít khi mới nghiên cứu
(15% sinh viên), chỉ có một số rất ít sinh viên thường xuyên nghiên cứu (5%
sinh viên). Trong khi đó, ở nhóm thực nghiệm, số sinh viên thường xuyên
nghiên cứu thêm tài liệu khá nhiều, gần đến một nửa sinh viên (47.62% sinh
viên), đặc biệt số sinh viên chưa bao giờ nghiên cứu thêm tài liệu ít hơn hẳn so
với nhóm đối chứng, chỉ ở tỉ lệ 21.43% sinh viên. Do vậy mà sô sinh viên cố
nghiên cứu thêm tài liệu, mặc dù là ít khi, cũng đã tăng lên đáng kể ở nhóm
thực nghiệm (30.95% sinh viên).
Từ kết quả nghiên cứu ở trên có thể rút ra nhận xét là: dưới sự tác động
của thực nghiệm, sinh viên đã có thái độ học tập chủ động, tích cực hơn, chịu
khó thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu để mở rộng, đào sâu tri thức.
Tóm lại, kết quả thực nghiệm đã cho thấy: hứng thú học tập môn giáo dục
học của sinh viên được nâng cao rõ rệt; ý thức học tập môn giáo dục học của
sinh viên cũng đã có một sự chuyển biến rất tốt, sinh viên trở nên tích cực, tự
giác, chủ động hơn trong học tập (thường xuyên học bài, chuẩn bị bài và
nghiên cứu thêm tài liệu), không còn thụ động trông chờ vào nguồn tri thức đã
được dọn sẵn từ người thầy.
Vậy có thể kết luận rằng: quá trình thực nghiệm đã tạo ra sự chuyển biến
thực sự nơi người học, kích thích được họ tích cực, say mê học tập để chiếm
lĩnh tri thức. Vì thế mà hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học sẽ được nâng cao.
Như vậy có thể khẳng định rằng: nếu tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi
mới phương pháp dạy của giáo viên và việc tổ chức cho sinh viên tự học thì có
thể làm cho người giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy, cũng như thực
hiện tốt việc tổ chức cho sinh viên tự học, qua đó mà nâng cao hiệu quả giảng
dạy môn giáo dục học. Vì thế, đây chính là những biện pháp hữu hiệu nhất để
nâng cao hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học tại trường Cao dẳng sư phạm
TP.HCM.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.KẾT LUẬN
1.1.VỀ THỰC TRANG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VIỆC GIẢNG DẠY
GIÁO DỤC HỌC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TP.HCM:
1.1.1.Việc tổ chức phân công giảng day cho giáo viên: mới được thực
hiện tương đối hợp lý, chủ yếu là do việc phân công mang tính chất đồng đều,
như nhau cho mọi giáo viên, ít chú ý đến kinh nghiệm, khả năng, trình độ của
mỗi giáo viên.
1.1.2.Việc tổ chức kiểm tra việc thực hiện chương trình dạy học của giáo
viên: chưa được quan tâm đúng mức và chưa được thực hiện thường xuyên.
Ngoài ra, cách kiểm tra chủ yếu là dựa theo phản ánh của các khoa và theo báo
cáo của giáo viên, chưa chú trọng nhiều tới chất lượng giảng dạy nên việc kiểm
tra chưa đạt được hiệu quả cao, cũng như chưa phản ánh được một cách khách
quan, chính xác tình hình công tác của giáo viên.
1.1.3.Việc chức kiểm tra việc giáo viên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của sinh viên: cũng ít khi được thực hiện, đồng thời khi kiểm tra chỉ dựa theo
báo cáo của giáo viên và theo phản ánh của các khoa, nên khó nắm bắt được
thực sự chất lượng công việc kiểm ưa, đánh giá của giáo viên, cũng như thúc
đẩy họ thực hiện nó lốt hơn.
1.1.4.Việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn: chưa được thực hiện tốt, cụ thể
là:
-Các buổi sinh hoạt chuyên môn còn được tổ chức ít và nội dung thường
xuyên của các buổi sinh hoạt chuyên môn chủ yếu là thông báo chương trình,
kế hoạch giảng dạy, kiểm tra, thi cử và phân công nhiệm vụ cho giáo viên, ít
khi tiến hành thảo luận về các phương pháp giảng dạy mới hay rút kinh nghiệm
cho các buổi dự giờ, đặc biệt không thấy có trao đổi kinh nghiệm giảng dạy,
hay thảo luận về việc nâng cao hiệu quả giảng dạy trong các buổi sinh hoạt
chuyên môn. Vì thế, các buổi sinh hoạt chuyên môn đã thực hiện chưa tốt việc
thúc đẩy quá trình nâng cao hiệu quả giảng dạy.
-Việc dự giờ để kiểm tra chuyên môn cũng ít khi được thực hiện và cũng
chưa được thực hiện tốt. Do vậy, việc kiểm tra chưa có tác dụng thúc đẩy mạnh
mẽ người giáo viên hoàn Ihiện tay nghề, nâng cao chát lượng giảng dạy.
1.1.5.Tình hình giảng dạy giáo dục học ở trường Cao đẳng sư phạm
TP.HCM:
1.1.5.1. Thực trạng đội ngũ giáo viên giảng dạy giáo dục học trường Cao
đẳng Sư phạm TP.HCM:
Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn giáo dục học ở trường Cao đẳng Sư
phạm TP.HCM được tổ chức khá hợp lý, với số lượng vừa đủ, đảm bảo cho
giáo viên vừa có thời gian tự học để nâng cao trình độ, vừa có thể tham gia
nghiên cứu các đề tài khoa học của trường, của khoa nhằm phục vụ thiết thực
cho công tác giảng dạy. Bên cạnh đó, phần lớn giáo viên có tuổi nghề trên lo
năm, nên có nhiều thuận lợi trong quá trình công tác.
Tuy nhiên, nhìn chung trình độ của giáo viên còn thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu của công tác (không có giáo viên nào có trình độ tiến sĩ, chưa tới
một nửa số giáo viên có trình độ thạc sĩ); trong khi đố phần nhiều giáo viên đã
ở lứa tuổi trên 40 và đời sống còn nhiều khó khăn nên ít quan tâm đến việc học
tập, bồi dưỡng để nâng cao tay nghề. Vì thế, tổ bộ môn sẽ gặp nhiều khó khăn
trong việc nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên.
1.1.5.2. Tình hình giảng dạy môn giáo dục học ở trường Cao đẳng Sư
phàm TP.HCM:
a.Nhân xét của giáo viên về nôi dung và chương trình giảng dạy môn giáo
dục học:
-Theo nhiều giáo viên thì nội dung môn giáo dục học mới chỉ là khá thiết
thực, còn mang tính chất lý luận trừu tượng khô khan, xa rời thực tế, khiến cho
người học không cảm thấy hứng thú lắm. Vì thế, cần phải đổi mới nội dung
môn giáo dục học theo hướng phục vụ thiết thực cho nghề nghiệp của người
học thì mới có thể gây được hứng thú và thái độ học tập tích cực nơi họ.
-Theo đa số giáo viên thì chương trình giảng dạy còn nặng về lý thuyết,
người học ít được vận dụng tri thức vào trong thực tế nên khó mà hình thành
được những kỹ năng sư phạm cơ bản cho họ. Do vậy, nhất thiết phải có sự thay
đổi chương trình giảng dạy theo hướng tăng cường nhiều hơn nữa số giờ thực
hành cho người học, đảm bảo sự vận dụng thường xuyên tri thức vào trong
thực tế. b.Hứng thú giảng dạy của giáo viên:
Nhìn chung, giáo viên cảm thấy ít hứng thú khi giảng dạy môn giáo dục
học, thậm chí có những giáo viên cảm thấy không hứng thú. Điều này hẳn đã
có một ảnh hưởng quan trọng đến công việc giảng dạy của giáo viên, khiến cho
hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học chưa cao.
c. Việc giáo viên tổ chức, hướng dẫn các phương pháp học tập cho sinh
viên:
Giáo viên chưa tổ chức, hướng dẫn thường xuyên cho sinh viên nhiều
phương pháp học tập mà chỉ tổ chức thường xuyên nhất là phương pháp nghe
giảng. Vì thế chưa kích thích được tinh thần học tập tích cực, chủ động của họ.
d. Việc giáo viên dành thời gian để nâng cao tri thức lý luận bộ môn:
Phần nhiều là giáo viên dành ít thời gian hoặc dành vừa đủ thời gian cho
việc nâng cao tri thức lý luận bộ môn, không có một giáo viên nào đã dành rất
nhiều thời gian cho nó. Điều này cho thấy giáo viên chưa chú trọng nhiều đến
công tác giảng dạy nên ít quan tâm đến việc học tập để nâng cao tri thức.
e.Việc giáo viên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên:
Phần lớn giáo viên ít khi tiến hành kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy
học và khi kiểm tra, thường là cho kiểm tra viết với yêu cầu đơn giản, mang
tính thuần túy lý thuyết, chỉ cần sinh viên học thuộc lòng theo vở ghi là có thể
làm được. Vì vậy việc kiểm tra đã không có tác dụng thúc đẩy sinh viên tìm tòi,
nghiên cứu thêm tri thức mà chỉ khiến họ thụ động, ỷ lại vào người thầy.
f. Việc giáo viên vận dụng các phương pháp giảng dạy:
Giáo viên thường sử dụng phương pháp diễn giảng theo kiểu thông báo để
truyền đạt tri thức cho sinh viên, thậm chí không ít giáo viên còn đọc cho sinh
viên ghi chép. Có thể thấy là giáo viên chú ý nhiều tới việc chuyển tải đủ lượng
tri thức theo yêu cầu cho sinh viên, chứ chưa thực sự quan tâm xem phương
pháp dạy có kích thích được tính tích cực, chủ động của sinh viên trong học
tập, cũng như đảm bảo cho họ được vận dụng tri thức một cách thường xuyên
hay không. Chính vì vậy mà nhiều sinh viên chưa cảm thấy thích thú lắm đối
với môn giáo dục học, kết quả học tập không cao. Do đó, muốn nâng cao hiệu
quả giảng dạy giáo dục học thì nhất thiết phải thực hiện được việc đổi mới
phương pháp dạy của giáo viên.
1.1.5.3.Tình hình học tập môn giáo dục học ở trường Cao đẳng Sư phạm
TP.HCM:
a.Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của môn học:
Phần lớn sinh viên đều nhận thức khá đúng đắn về tầm quan trọng của
môn giáo dục học. Tuy nhiên vẫn có một số ít sinh viên chưa nhận thức được
tầm quan trọng của môn giáo dục học.
b.Hứng thú học tập của sinh viên:
Nhìn chung, sinh viên cảm thấy ít hứng thú khi học môn giáo dục học,
thậm chí có một số sinh viên hoàn toàn không thích thú. Theo sinh viên, sở dĩ
họ không thích học môn giáo dục là vì do giáo viên dạy không hay và do nội
dung môn học mang nặng tính lý thuyết. Vì thế, muốn nâng cao hứng thú học
tập cho sinh viên thì cần phải đổi mới phương pháp dạy của giáo viên, cũng
như nội dung môn học.
c. Ý thức học tập của sinh viên:
Sinh viên chưa có ý thức học tập tốt. Cụ thể là: đa số sinh viên ít khi học
bài, chuẩn bị bài hay nghiên cứu thêm tài liệu và nếu có học bài thì cũng học
thuộc lòng là chủ yếu, ít có liên hệ thực tế, hoặc chỉ chuẩn bị bài một cách qua
loa theo kiểu đọc qua giáo trình. Vì thế mà sinh viên không đạt được kết quả
cao trong học tập.
d.Kết quả học tập của sinh viên:
Theo nhiều giáo viên thì sinh viên chưa nắm vững tri thức giáo dục học
và cũng chưa có khả năng vận dụng tốt tri thức vào trong thực tế.
1.1.5.4.Nguyên nhân của tình hình trên:
Căn cứ vào kết quả phân tích tình hình giảng dạy và học tập môn giáo dục
học ở trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM thì thấy rằng: việc giảng dạy môn
giáo dục học chưa đạt được hiệu quả cao có thể do các nguyên nhân sau:
-Việc quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên chưa được sâu sát, ít
quan tâm đến việc tổ chức cải tiến phương pháp dạy của giáo viên nhằm nâng
cao hiệu quả giảng dạy.
-Việc quản lý hoạt động học tập của sinh viên chưa được chặt chẽ, ít kiểm
tra, theo dõi công việc học tập của sinh viên, đặc biệt là chưa chú trọng đến
việc tổ chức cho sinh viên tự học, nhằm nâng cao ý thức học tập cho sinh viên.
-Nội dung, chương trình giảng dạy môn giáo dục học chưa thực sự thiết
thực, người học ít được thực hành, áp dụng tri thức vào trong thực tế, trong khi
đó cấp lãnh đạo lại chưa thực sự quan tâm đến việc chỉ đạo người giáo viên tổ
chức cho sinh viên được vận dụng tri thức để giải quyết các vấn đề thực tế của
dạy học và giáo dục.
1.2.VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG
DẠY GIÁO DỤC HỌC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
TP.HCM:
Qua nghiên cứu tình hình thực tế về công tác quản lý việc giảng dạy giáo
dục học ở trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM, chúng tôi đã đề xuất 3 biện
pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học như sau:
-Biện pháp thứ nhất: tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi mới phương pháp
dạy của giáo viên theo hướng tích cực hoa hoạt động nhận thức của người học,
bằng cách vận dụng kết hợp dạy học nêu vấn đề với dạy học thông báo để
hướng dẫn sinh viên đi tìm lấy tri thức, chứ không phải nhồi nhét kiến thức như
lâu nay.
Để cho người giáo viên có thể thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp
giảng dạy thì cần phải tập trung tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:
+Tổ chức cho giáo viên nghe báo cáo các chuyên đề về đổi mới phương
pháp giảng dạy.
+Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên.
+Bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.
+Tăng cường các hình thức dạy học mới (tự học, tự nghiên cứu, thảo
luận...).
+Tổ chức thường xuyên các buổi trao đổi về kinh nghiệm giảng dạy trong
tổ bộ môn.
-Biện pháp thứ hai: tập trung chỉ đạo việc tổ chức cho sinh viên tự học.
Để thực hiện biện pháp này, trước hết cần phải chỉ đạo người giáo viên trang bị
cho sinh viên những tri thức cần thiết về kỹ năng tự học, cụ thể là bốn kỹ năng
tự học cơ bản sau: kỹ năng nghe giảng - thông hiểu và ghi chép, kỹ năng đọc
sách, kỹ năng ghi chép tài liệu đã nghiên cứu và kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh
giá, nhằm tạo cho sinh viên cơ sở ban đầu để thực hiện tốt hoạt động tự học.
Nhưng điều quan trọng nhất là phải chỉ đạo người giáo viên tổ chức cho sinh
viên được thường xuyên rèn luyện những kỹ năng này, bằng cách giao cho sinh
viên những nhiệm vụ tự học cụ thể và yêu cầu họ phải tự nỗ lực giải quyết
chúng, nhằm tự mình tìm ra trí thức. Thầy chỉ giữ vai trò là người hướng dẫn,
trò mới chính là người trực tiếp giải quyết vân đề để giành lấy kiến thức.
-Biện pháp thứ ba: tập trung chỉ đạo việc tổ chức cho sinh viên vận dụng
tri thức thông qua việc giải các bài tập tình huống sư phạm. Khi thực hiện biện
pháp này, cần phải chỉ đạo người giáo viên hướng dẫn cho sinh viên quy trình
giải một bài tập tình huống sư phạm, đồng thời chỉ đạo họ tổ chức cho sinh
viên được thường xuyên tập vận dụng quy trình này vào việc giải các bài tập
tình huống sư phạm cụ thể. Có như vậy, sinh viên mới có thể hình thành được
những kỹ năng nghề nghiệp Cơ bản, nhờ đó cố điều kiện để thực hiện tốt nhiệm
vụ giảng dạy và giáo dục của người giáo viên.
*Thực nghiệm sư phạm:
Việc thực nghiệm nhằm xác định tính hiệu quả của việc tổ chức đổi mới
phương pháp dạy của giáo viên và việc tổ chức cho sinh viên tự học trong việc
nâng cao hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học.
Kết quả thực nghiệm đã cho thấy: hứng thú học tập môn giáo dục học của
sinh viên được nâng cao rõ rệt; ý thức học tập môn giáo dục học của sinh viên
cũng đã có một sự chuyển biến rất tốt, sinh viên trở nên tích cực, tự giác, chủ
động hơn trong học tập (thường xuyên học bài, chuẩn bị bài và nghiên cứu
thêm tài liệu), không còn thụ động trông chờ vào nguồn tri thức đã được dọn
sấn từ người thầy.
Vậy có thể khẳng định rằng: nếu tập trung chỉ đạo việc tổ chức đổi mới
phương pháp dạy của giáo viên và việc tổ chức cho sinh viên tự học thì chắc
chắn rằng sẽ nâng cao được hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học tại trường
Cao đẳng Sư phạm TP.HCM.
2.KIẾN NGHỊ
Để có thể đẩy nhanh quá trình nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục học
tại trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM, chúng tôi xin kiến nghị:
2.1 .Nhà trường phải quan tâm nhiều hơn nữa công tác bồi dưỡng trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, có chế độ chính sách khuyến khích giáo
viên tiếp tục học lên trên, hoặc theo học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ. Có như
vậy, giáo viên mới có đủ năng lực, trình độ để thực hiện việc đổi mới phương
pháp giảng dạy.
2.2.cần phải phát động phong trào đổi mới phương pháp giảng dạy một
cách liên tục và rộng khắp trong toàn trường, xem việc thực hiện đổi mới
phương pháp dạy của giáo viên là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để
đánh giá, xếp loại giáo viên, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên. Chỉ như thế mới có thể buộc được người
giáo viên tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm nâng cao hiệu quả
giảng dạy.
2.3.Phải tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giảng dạy và học tập của
thầy và trò, như: đảm bảo đầy đủ giáo trình, tài liệu tham khảo, các trang thiết
bị kỹ thuật phục vụ cho quá trình dạy học. Nếu không thì với điều kiện học tập
như hiện nay: thư viện chật hẹp, toàn là sách cũ, ngay cả giáo trình cho sinh
viên cũng không đủ thì người giáo viên sẽ khó mà thực hiện được việc tổ chức
cho sinh viên tự học.
2.4.Chú ý xây dựng phong trào tự học mạnh mẽ và rộng khắp trong sinh
viên, xem tự học như là một yêu cầu bắt buộc đối với người sinh viên. Muốn
vậy cần phải tích cực bồi dưỡng cho sinh viên những kỹ năng tự học cơ bản;
mặt khác phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tự học của sinh viên, có chế
độ khuyến khích hợp lý đối với những sinh viên thực hiện tốt hoạt động tự học.
Như vậy chắc chắn rằng sẽ kích thích được sinh viên tích cực, chủ động tự học,
góp phần quan trọng cùng người giáo viên trong việc nâng cao hiệu quả giảng
dạy.
2.5.Cần phải đổi mới nội dung môn giáo dục học theo hướng thiết thực
hơn, gắn liền với thực tế cuộc sống và có thể phục vụ hữu hiệu nhất cho cuộc
sống nghề nghiệp của sinh viên thì mới có thể kích thích được họ say mê, tích
cực học tập, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho người giáo viên tổ chức thành
công hoại động tự học ở sinh viên.
2.6. Cần phải tăng cường giờ thực hành, luyện tập tri thức cho sinh viên,
bằng cách giảm bớt một số nội dung lý thuyết không cần thiết để cho người
giáo viên có nhiều thời gian hơn trong việc hướng dẫn sinh viên tập dượt vận
dụng tri thức vào việc giải quyết các vấn đề thực tế trong dạy học và giáo dục,
nhờ đó hình thành được ở họ một số kỹ năng sư phạm cơ bản, giúp họ vững
vàng hơn trên bục giảng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Như An - Phương pháp dạy học giáo dục học. Tập 1&2. Nhà
xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 1996.
2.Nguyễn Ngọc Bảo - Phát triển tính tích cực, tự lực của học sinh nong
quá trình dạy học. Vụ Giáo viên, Bộ Giáo dục-Đào tạo, Hà Nội, 1996.
3.Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức - Hoạt động dạy học ở trường trung học
cơ sở. Nhà xuất bản giáo dục, 1998.
4.Lê Khánh Bằng - Tổ chức quá trình dạy học đại học. Viện nghiên cứu
Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1993.
5.Lê Khánh Bằng, Nguyễn Văn Tư - Một số ý kiến về xây dựng phương
pháp học tập chủ động cho sinh viên. Tạp chí Đại học và Trung học chuyên
nghiệp số 3/93.
6.Thành Thế Thái Bình - Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy
các môn khoa học xã hội. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 8/94.
7.Cao Duy Bình - Những vấn đề lý luận cơ sở quản lý giáo dục. Tài liệu
dùng nội bộ trường CBQLGD-ĐT 2.
8.Catxchuc G.x - Phát triển và giáo dục. Tư liệu trường Đại học sư phạm
Hà Nội 1, 1971.
9.Trần Hoàng Chiền - về việc sử dụng phương pháp dạy học tâm lý học-
giáo dục học ở trường sư phạm. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 10/95.
10.Nguyễn Đình Chỉnh, Trần Ngọc Diễm - Thực hành về giáo dục học.
Nhà xuất bản Hà Nội, 1995.
11.Vũ Đình Cự (chủ biên) - Giáo dục hướng tới thế kỷ 21. Nhà xuất bản
chính trị quốc gia Hà Nội, 1998.
12.Nguyễn Hữu Dũng - Nhà trường trung học và người giáo viên trung
học. Nhà xuất bản Hà Nội, 1995.
13.Nguyễn Văn Đáng - Văn hoa và nguyên lý quản Lý. Nhà xuất bản
thống kê Hà Nội, 1996.
14.Nguyễn Thị Đoan, Đỗ Minh Chương, Phương Kỳ Sơn - Các học
thuyết quản lý. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 1996.
15.Đối mới phương pháp dạy học-một yêu cầu bức xúc của giáo dục và
đào tạo. Viện khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 1993.
16.Đổi mới giảng dạy, nghiên cứu tâm lý học và giáo dục học. Hội thảo
khoa học. Trường đại học sư phạm Hà Nội ì, khoa Tâm lý-Giáo dục, 1995.
17.Hà Thị Đức - về hoạt động tự học của sinh viên sư phạm. Tạp chí
nghiên cứu giáo dục số 5/93.
18.Hà Thị Đức - vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đại học. Tạp chí
nghiên cứu giáo dục số 11/95.
19.Lê Văn Giáo, Nguyễn Thị An Vinh - Một số ý kiến về đổi mới phương
pháp dạy học ở đại học. Tạp chí phát triển giáo dục số 6/99.
20.Trần Bá Hoành - Đánh giá trong giáo dục. Nhà xuất bản Hà Nội, 1995.
21.Đặng Vũ Hoạt -Một số vấn đề về giáo dục đại học. Viện nghiên cứu
đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
22.Đặng Vũ Hoạt - Một số vấn đề nâng cao hiệu quả của quá trình dạy
học đại học. Đại học sư phạm ì, Hà Nội, 1989.
23.Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị đức - Lý luận dạy học đại học. Trường đại học
sư phạm Hà Nội 1, 1994.
24.Bùi Ngọc Hồ (chủ biên) - Hỏi-đáp về thực tập sư phạm. Trường đại
học sư phạmTP.HCM, 1993.
25.Hà Sĩ Hồ, Lê Tuấn (chủ biên) - Những bài giảng vồ quản lý trường
học. Tập 1,2,3. Nhà xuất bản giáo dục, 1987.
26.Nguyễn Sinh Huy (chủ biên) - Giáo dục học đại cương I&II. Nhà xuất
bản Hà Nội, 1995.
27.Kharlamop - Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào.
Nhà xuất bản giáo dục, Hồ Chí Minh, 1978.
28.Mai Hữu Khuê - Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý. Nhà xuất
bản lao động, 1992.
29.Trần Kiểm - Giáo trình quản lý giáo dục và trường học. Viện khoa học
giáo dục Hà Nội, 1997.
30.Koontz H, 0'Donnell c, Weihrich H - Những vấn đề cốt yếu của quản
lý. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội, 1994.
31.Nguyễn Hữu Lam - Hành vi tổ chức. Nhà xuất bản giáo dục, 1996.
32.Đặng Bá Lãm, Phạm Thành Nghị - Chính sách và kế hoạch trong quản
lý giáo dục. Nhà xuất bản giáo dục, 1999.
33.Nguyễn Hiến Lê - Tự học-một nhu cầu của thời đại. Nhà xuất bản Mũi
Cà Mau, 1994.
34.Nguyễn Văn Lê - Công tác quản lý trường học. Trường CBQL và GD
TP.HCM, 1983.
35.Nguyễn Văn Lê - Khoa học quản lý nhà trường. Nhà xuất bản
TP.HCM, 1985.
36.Nguyễn Văn Lê - Tổ chức khoa học lao động trí óc. Nhà xuất bản
TP.HCM, 1986.
37.Nguyễn Văn Lê - Giao tế nhân sự. Nhà xuất bản trẻ, 1996.
38.Nguyễn Văn Lê, Tạ Văn Doanh - Giao tiếp sư phạm. Nhà xuất bản
giáo dục, 1997.
39.Nguyễn Văn Lê - Nhập môn khoa học quản trị. Trường đại học khoa
học tự nhiên TP.HCM, 1998.
40.Lê Nguyên Long - Thử đi tìm những phương pháp dạy học hiệu quả.
Nhà xuất bản giáo dục TP.HCM, 1999.
41.Phan Trọng Luận - về khái niệm "học sinh là trung tâm". Tạp chí
nghiên cứu giáo dục số 2/95.
42.Nguyễn Hữu Lương - Hiểu thêm về hoạt động trí óc để dạy tốt, học
tốt. Trường đại học sư phạm TP.HCM, 2001.
43.Lý luận quản lý giáo dục. Tài liệu trường cán bộ quản lý giáo dục và
đào tạo 2, 1995.
44.Nguyễn Đức Minh (chủ biên) - Cơ sở tâm lý học của công tác quản lý
trường học. Nhà xuất bản giáo dục, 1981.
45.Hồ Chí Minh - Bàn về học tập. Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1997.
46.Hồ Chí Minh - Bàn về công tác giáo dục. Nhà xuất bản giáo dục, Hà
Nội, 1998.
47.Phạm Thành Nghị - Quản lý chất lượng giáo dục đại học. Nhà xuất
bản đại học quốc gia Hà Nội, 2000.
48.Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt - Giáo dục học. Tập 1&2. Nhà xuất bản
giáo dục, 1988.
49.Bùi Văn Nhơn - Tập bài giảng về quản lý nguồn nhân lực. Học viện
hành chánh quốc gia, Hà Nội, 1998.
50.Bùi Ngọc Oanh - Tâm lý học trong xã hội và quản lý. Nhà xuất bản
thống kê,1995.
51.Petrovxki A.v (chủ biên) - Tâm lý học sư phạm và tâm lý học lứa tuổi.
Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 1982.
52.Võ Quang Phúc - Giáo dục đổi mới dưới góc nhìn của khoa học giáo
dục. Nhà xuất bản giáo dục TP.HCM, 1998.
53.Phương pháp dạy-học trong trường chuyên nghiệp và đại học. Viện
nghiên cứu giáo dục và đào tạo phía Nam, TP.HCM, 1995.
54.Nguyễn Ngọc Quang - Lý luận dạy học đại cương. Trường cán bộ
quản lý giáo dục-đào tạo, Hà Nội, 1987.
55.Nguyễn Ngọc Quang - Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục.
Nhà xuất bản giáo dục, 1984.
56.Trương Văn Sinh - Tập bài giảng về một số vấn đê quản lý nhà nước
đối với giáo dục-đào tạo. Học viện hành chính quốc gia, TP.HCM, 2000.
57.Singh - Nền giáo dục cho thế kỷ 21: những triển vọng của châu Á-Thái
Bình Dương. Viện khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 1994. 58.Suftsuk -
100 tình huống trong quản lý. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật,1985.
59.Tạp chí khoa học tập 25, số 1/2001. Trường đại học sư phạm
TP.HCM.
60.Nguyễn Hữu Thân - Quản trị nhân sự. Nhà xuất bản giáo dục, 1995.
61.Thông tin giáo dục quốc tế. Tập 1, từ số 1->12 (từ 1l/99->l1/2000).
Trung tâm nghiên cứu và giao lưu văn hóa-giáo dục quốc tế.
62.Lý Minh Tiên - Đề cương bài giảng môn toán thống kê ứng dụng trong
khoa học giáo dục. Trường đại học sư phạm TP.HCM, 1998.
63.Nguyễn Cảnh Toàn - Luận bàn và kinh nghiệm về tự học. Nhà xuất
bản giáo dục Hà Nội, 1999.
64.Nguyễn Cảnh Toàn -Ba mũi giáp công trong khoa học giáo dục. Tạp
chí nghiên cứu giáo dục số 4/2000.
65.Dương Thiệu Tống - Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập. Bộ
giáo dục và đào tạo. Trường đại học tổng hợp TP.HCM, 1995.
66.Tơ-rốt-chen-cô - Giáo dục và quản lý, sự phối hợp công tác tư tưởng.
Nhà xuất bản thông tin T.N lý luận, 1984.
67.Trần Văn Tùng, Lê Ai Lâm - Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm
thế giới và thực tiễn nước ta. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 1996.
68.Thái Duy Tuyên - Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học. Tạp
chí nghiên cứu giáo dục số 2/96.
69.Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) - Tâm lý học đại cương. Nhà xuất bản
đại học quốc gia Hà Nội, 1997.
70.Văn kiện hội nghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII. Nhà
xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 1997.
PHỤ LỤC
U*Cách tính Chi bình phương (XUP2PU):
Kiểm nghiệm Chi bình phương được sử dụng để so sánh nhiều tỉ lệ ở một
nhóm hay ở nhiêu nhóm. (X ) được tính bằng công thức sau:
Sau khi đối chiếu XP2P Toàn thể với trị số tới hạn của XP2 Pứng với mức ý
nghĩa α độ tự do df cho từ bảng XP2P .
U1.Đối với bảng 1 hàng, nhiều cột:
PHIẾU TRƯNG CÂU Ý KIẾN (DÀNH CHO GIÁO VIÊN)
Nhằm góp phần vào việc nâng cao hiệu quả giảng dạy môn giáo dục học
trong nhà trường, xin quí Ong/Bà vui lòng cho chúng tôi biết ý kiến về các vấn
đề dưới đây bằng cách đánh dấu X vào ô thích hợp với ý kiến của Ông/Bà.
CÂU 1: Xin Ông/Bà cho biết ý kiến về nội dung, chương trình giảng dạy
mồn giáo dục học ở trường Cao đẳng sư phạm TP.HCM:
I. Về nội dung:
□l. Rất thiết thực
□2. Khá thiết thực
□3. Ít thiết thực
□4. Hoàn toàn không thiết thực
II. Về chương trình:
□1. Nặng về lý thuyết
□2. Nặng về thực hành
□3. Có sự cân đối giữa lý thuyết và thực hành
CÂU 2: Ông/ Bà có cảm thấy hứng thú khi giảng dạy môn giáo dục học?
□1.Rất hứng thú
□2.Khá hứng thú
□3.Ít hứng thú
□4.Không hứng thú
CÂU 3: Theo Ông/Bà, sinh viên có nắm vững tri thức giáo dục học không
?
□1.Rất vững
□2.Khá vững
□3.Ít vững
□4.Không vững
CÂU 4: Xin Ông/Bà nhận xét về khả năng vận dụng tri thức giáo dục học
của sinh viên vào việc giải quyết các vấn đề thực tế:
□l.Tốt
□2.Khá
□3.Trung bình
□4.Yếu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_quan_ly_viec_giang_day_giao_duc_hoc_o_truong_cao_dang_su_pham_tp_hcm_va_mot_so_bien_phap.pdf