- Đầu tư đổi mới công nghệ trong sản xuất nông nghiệp bao gồm: Chăn
nuôi theo phương pháp công nghiệp, đổi mới cơ cấu giống cây giống lương thực
theo hướng xuất khẩu có giá trị cao, nuôi trồng thuỷ sản theo phương pháp công
nghiệp, ứng dụng công nghệ vi sinh.
- Đầu tư phát triển sản xuất và khai thác vật liệu xây dựng ở nông thôn bao
gồm: Đầu tư chuyển lò nung vôi thủ công sang phương pháp công nghệ hiện đại,
chuyển từ xi măng lò đứng sang công nghệ xi măng lò quay, gạch ốp lát và các
loại vật liệu khác theo phương pháp công nghiệp.
124 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2560 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp đầu tư nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyển dịch cơ cấu kinh tế được diễn ra nhanh chóng, đạt hiệu quả cao trong
những năm tới thiết nghĩ cần phải có một số tiền đề, điều kiện cơ bản sau:
Một là: Xây dựng kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, nơi nào có giao thông phát triển, điện
hệ thống thông tin liên lạc được quan tâm thì vùng đó, nơi đó kinh tế hàng hoá
phát triển mạnh. Do điều kiện tự nhiên Thanh Hoá là một tỉnh đất rộng, người
đông, địa hình tự nhiên bị chia cắt thành nhiều vùng, miền khác nhau bởi hệ
thống sông núi chạy ngang dọc. Vì vậy việc đi lại của nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn, chêng lệch giữa các vùng miền trong tỉnh là rất lớn. Do vậy để phát
triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo phương hướng đã đề ra cần phải có sự
ưu tiên đầu tư và tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của tỉnh,
trước hết là đầu tư các công trình giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc,
trường học, bệnh viện trạm xá... Mở rộng giao lưu buôn bán với bên ngoài bằng
đường biển (qua cảng Nghi Sơn) và đường bộ (thông qua cửa khẩu NaMèo giữa
Thanh Hoá và Hủa Phăn - Lào)
Hai là: Vốn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Muốn đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần phải có nguồn
lực cho phát triển, mà trong đó quan trọng nhất là vốn, mọi phương án sẽ không
khả thi khi không có nguồn vốn cho đầu tư. Vì vậy đây là điều kiện cơ bản tạo ra
sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để đạt được mục tiêu đề ra, đòi hỏi
Thanh Hoá trong những năm tới phải huy động được từ 4000 - 5000 tỷ đồng cho
đầu tư phát triển ( từ 35-40 % GDP của tỉnh). Vì vậy, một mặt cần huy động mọi
nguồn vốn của dân, các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, trong đó phải
xác định nguồn nội lực trong tỉnh là quan trọng quyết định nhất. Mặt khác trong
việc sử dụng vốn cần xác định đầu tư có trọng điểm vào các ngành chủ lực của
102
tỉnh để tạo đà cho phát triển, tránh đầu tư tràn lan không hiệu quả. Tập trung đầu
tư khai thác các thế mạnh khả năng của tỉnh, hình thành các khu công nghiệp tập
trung gắn với các vùng kinh tế động lực thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phát triển.
Ba là: Phải có sự tác động của kinh tế nhà nước.
Để Thanh Hoá phát triển nhanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, tránh
tụt hậu thì một điều không thể thiếu đó là sự tác động về kinh tế của nhà nước cả
về mặt kinh tế cũng như cơ chế chính sách, luật pháp cho sự phát triển, đặc biệt
là về mặt cơ chế chính sách. Thực tiễn ở Thanh Hoá những năm qua, nếu tỉnh có
chính sách đúng, hợp lòng dân thì sẽ khai thác được nội lực đẩy nhanh tốc độ
phát triển. Nổi bật nhất là chính sách đổi điền dồn thửa được đông đảo bà con
nông dân nhiệt tình hưởng ứng, Mặt khác Thanh Hoá là một tỉnh rộng, người
đông, điểm xuất phát thấp về kinh tế, do vậy đòi hỏi nhà nước cũng cần có sự ưu
tiên đầu tư cho Thanh Hoá. Có như vậy mới tạo cho Thanh Hoá có thế và lực để
đi lên.
Bốn là: Vai trò tác động của công nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể không nói đến vai trò tác
động của công nghiệp, phát triển công nghiệp là chiếc chìa khoá vàng để Thanh
Hoá chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thực tiễn những năm đổi mới, Thanh Hoá
đã có nhiều mô hình trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả,
trong đó mô hình hợp tác mới của hiệp hội mía đường Lam Sơn là một ví dụ
điển hình. Trong những năm tới, vai trò tác động của công nghiệp chế biến nông
lâm thuỷ sản, công nghiệp gia công hàng xuất khẩu, công nghiệp sử dụng nhiều
lao động sẽ là những ngành công nghiệp quan trọng tạo tiền đề và điều kiện để
Thanh Hoá đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những thuận lợi và khó khăn khi tiến hành CNH-HĐH ở Thanh Hoá.
a/ Những lợi thế so sánh:
103
- Thanh Hoá có vị trí địa lý tương đối thuận lợi, là cửa ngõ nối liền Bắc Bộ
với Trung Bộ và Nam Bộ, có quốc lộ 1A đi qua ... là điều kiện thuận lợi để phát
triển sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế.
- Là tỉnh có 4 vùng sinh thái rõ rệt: vùng ven biển, vùng đồng bằng, vùng
trung du và miền núi sẽ tạo cơ sở cho sự phong phú, đa dạng về sản phẩm, tạo
thế bổ sung lẫn nhau giữa các vùng miền trong tỉnh, phát triển thương mại, dịch
vụ, ít nhất là trong phạm vi nội tỉnh.
- Tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Khả năng mở rộng diện tích
sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp còn lớn. Giàu nguyên liệu sản xuất vật liệu xây
dựng, nguyên liệu giấy, sợi, lương thực, thực phẩm.
- Thanh Hoá là một tỉnh đông dân, có nguồn lao động dồi dào, trình độ
dân trí đã được nâng lên, đội ngũ cán bộ khoa học quản lý đông đảo, có hệ thống
giáo dục toàn diện hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học, nếu được phát huy, sử
dụng tốt sẽ là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển.
- Thanh Hoá là một trong số ít tỉnh trong cả nước đạt sản lượng lương thực
trên 1 triệu tấn/năm. Căn bản tự túc lương thực, bước đầu có lương thực hàng
hoá là điều kiện thuận lợi để tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy hiệu quả trong kinh tế thị trường.
b/Những khó khăn và thách thức.
- Tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng, song mức độ khai thác còn
thấp. Nền kinh tế của tỉnh còn nặng tính “thuần nông”. Trong khi tỷ trọng nông
nghiệp trong GDP của cả nước năm 2000 là 24,3% thì Thanh Hoá là 39,9%, dân
số nông thôn theo số liệu điều tra dân số 1/4/1999 cả nước chiếm 76,5% còn
Thanh Hoá là 90,8%.
- Điểm xuất phát kinh tế thấp, thể hiện ở mức bình quân GDP đầu người
đến năm 2000 mới đạt 292 USD trong khi bình quân chung của cả nước là
390USD. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
còn chậm, chưa có tích luỹ đáng kể từ nội bộ nền kinh tế. Tổng thu mới đáp ứng
được trên 50% chi, còn lại là trung ương hỗ trợ.
- Là tỉnh có dân số đông, tốc độ tăng tự nhiên còn cao đang là áp lực lớn
trong khi nền kinh tế phát triển chậm. Đội ngũ lao động có tay nghề cao quá ít,
104
lao động thiếu và không có việc làm ngày càng cao. Đời sống nhân dân tuy có
bước cải thiện song số hộ nghèo, đói vẫn còn cao trong tỉnh.
- Kết cấu hạ tầng xã hội thấp kém, đặc biệt là vùng miền núi phức tạp, chia
cắt mạnh, hệ thống điện đường trường trạm còn gặp nhiều khó khăn, đến nay vẫn
còn 2 huyện miền núi chưa có điện quốc gia.
- Nằm tiếp giáp với vùng trọng điểm Bắc Bộ là thách thức lớn đối với
Thanh Hoá về khả năng canh tranh gọi vốn đầu tư, tìm kiếm thị trường. Yếu tố
thông tin kinh tế còn hạn chế so với các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, Hải
Phòng...
Qua phân tích đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh
Hoá thời gian qua, những mặt đạt được và những yếu kém còn tồn tại cũng như
các nguyên nhân của nó. Trên cơ sở nguồn lực sẵn có và huy động từ bên ngoài.
Thanh Hoá đã xây dựng các quan điểm, mục tiêu, phương hương phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vậy trong thời gian tới Thanh Hoá cần phải làm gì
để giải quyết tồn tại của thời gian qua, đồng thời thực hiện các mục tiêu đã đặt
ra. Đứng trên góc độ đầu tư, chúng ta xem xét tiếp mục: Một số giải pháp đầu tư
nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Thanh Hoá.
3.4 - Một số giải pháp đầu tư nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thanh Hoá.
Bước vào thời kỳ đổi mới của sự phát triển, nền kinh tế vẫn còn những tồn
tại yếu kém, đặc biệt là chất lượng và hiệu quả thấp, sức cạnh tranh của hàng
hoá trên thị trường còn quá yếu và những khó khăn mới nảy sinh sẽ là những
thách thức đối với chúng ta trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội đến năm 2010 và 2020.
Tuy nhiên những thành tựu của công cuộc đổi mới vừa qua đã và đang tạo
ra thế và lực mơi cho chặng đường phát triển tiếp theo. Với quyết tâm đẩy mạnh
công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, đẩy nhanh thực hiện công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, kiên trì đường lối kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở, chúng ta sẽ tạo ra những khả năng mới cho nhu cầu của sự phát triển.
Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế là định hướng cơ bản cho
105
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Muốn vậy phải phát
triển nhanh, mạnh, vững chắc các ngành công nghiệp, trước hết là công nghiệp
chế biến có khả năng cạnh tranh cao. Dựa vào điều kiện thực tế của Thanh Hoá
và để thực hiện các mục tiêu đã đề ra cho giai đoạn tiếp theo. Trong thời gian tới,
Thanh Hoá cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
3.4.1- Nhóm các giải pháp vĩ mô:
Một là: Điều chỉnh quy hoạch và phát triển kế hoạch đầu tư theo các
hướng chính sau:
- Quán triệt các tư tưởng, quan điểm, định hướng và mục tiêu của chiến
lược phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ 2001 - 2010. Trong đó cần chú trọng
nội dung cốt lõi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, phù hợp với xu thế phát triển của yêu cầu thị trường, với tiến trình
hội nhập và mở cửa với nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
- Xác định lại trật tự và tốc độ phát triển của từng ngành kinh tế, từng
vùng kinh tế với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản biến Thanh Hoá trở thành một
tỉnh công nghiệp. Xác định những sản phẩm tỉnh có lợi thế cạnh tranh, đáp ứng
được yêu cầu trong nước và có khả năng tiêu thụ được ở nước ngoài để định
hướng và khuyến khích phát triển mạnh.
Ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến gắn liền với nguồn nguyên liệu
nông sản, thuỷ sản, sản xuất hàng xuất khẩu và các mặt hàng tiêu dùng, công
nghệ phục vụ phát triển hạ tầng kỹ thuật: Điện - điện tử, cơ khí. Chú ý phát triển
nhanh các ngành công nghiệp tốn ít vốn, thu hút nhiều lao động. Phát triển một
số ngành có lựa chọn trên cơ sở tài nguyên, vốn... và đảm bảo được hiệu quả
cao. Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế miền núi và vùng biển, đồng thời quan tâm
xây dựng các vùng kinh tế động lực, các khu công nghiệp tập trung, coi đó như
đầu tầu, là động lực thúc đẩy các vùng trong tỉnh cùng phát triển.
- Điều chỉnh lại chính sách và giải pháp thực hiện từng ngành, từng vùng,
từng thành phần kinh tế cho phù hợp với xu thế cạnh tranh bình đẳng và mở cửa
hội nhập. Chú trọng khai thác nội lực và lợi thế, tạo môi trường kinh tế pháp lý
đồng bộ và thông thoáng, có chính sách ưu tiên cụ thể đối với từng vùng trọng
điểm, các ngành mũi nhọn của tỉnh. Có như vậy mới đẩy nhanh sự chuyển dịch
106
cơ cấu kinh tế, đồng thời mới phát triển nhanh và đủ sức cạnh tranh với bên
ngoài.
- Xác định cơ cấu hợp lý và từng bước đi thích hợp cho từng thời kỳ, từng
giai đoạn cụ thể cho phù hợp với tình hình thựch tiễn của địa phương. Đi đôi với
xây dựng chiến lược 10 năm cần có tầm nhìn 20 năm, gắn chiến lược phát triển
ngành với chiến lược phát triển sản phẩm và chiến lược thị trường của các doanh
nghiệp thuộc ngành. Các chiến lược, quy hoạch phải được xây dựng trên cơ sở:
+ Coi trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường và dự đoán sự
thay đổi của thị trường.
+ Dự báo tiến bộ khoa học công nghệ của từng ngành, vùng và tác động
của nó tới sự phát triển của các ngành, vùng.
+ Đáng giá đầy đủ: nguồn lực, cơ hội, thách thức, khả năng cạnh tranh.
+ Tổ chức phối hợp giữa các cơ quan tổ chức có liên quan trong xây dựng
và thực hiện chiến lược quy hoạch.
+ Cần có quy hoạch xây dựng tổng thể và quy hoạch xây dựng từng cơ sở
sản xuất kinh doanh.
Phải gắn quy hoạch với chính sách và các giải pháp thực hiện. Các chiến
lược quy hoạch sẽ thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu, dự án phát
triển.
Hai là: Xác định và tập trung nguồn lực đầu tư phát triển cho các ngành,
vùng trọng điểm mũi nhọn cần ưu tiên đầu tư phát triển trong thời kỳ tới.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải xác định và phát triển các ngành mũi nhọn,
trọng điểm. Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải biến cơ cấu hiện tại,
tiến tới một cơ cấu hợp lý hơn, đa ngành, trong đó hình thành lên các ngành
trọng điểm, mũi nhọn phát triển bền vững nhằm khai thác tốt các nguồn lực,
tham gia có hiệu quả vào phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Việc xác định ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn của Thanh Hoá có thể
xem xét căn cứ vào điều kiện tự nhiên của tỉnh và trên cơ sở dự báo nhu cầu thị
trường. Có thể xác định được một số ngành trọng điểm và mũi nhọn là:
107
- Ngành công nghiệp chế biến từ các loại nguyên liệu của nông nghiệp
như mía đường và sau đường, hoa quả tươi, giấy và bột giấy, chế biến thuỷ hải
sản bao gồm cả tươi sống và đông lạnh. Theo đó để phát triển ngành công nghiệp
chế biến cần đầu tư toàn diện vào nông nghiệp, đặc biệt là ngành cung cấp
nguyên liệu. Đưa công nghệ vào nuôi trồng và khai thác các sản phẩm từ rừng,
mở rộng diện tích các loại cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, đồng thời đầu
tư vào nghiên cứu tạo ra giống mới cho năng suất và chất lượng hiệu quả cao
hơn. Tiếp tục đầu tư đồng bộ và có hiệu quả các đội tàu đánh bắt xa bờ theo
chương trình đã được phê duyệt. Đẩy mạnh hình thức nuôi bán thâm canh, nuôi
tôm công nghiệp theo chương trình của Bộ Thuỷ sản.
- Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, trong đó mũi nhọn là xi măng,
đá ốp lát.
- Công nghiệp gia công xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động như công
nghiệp may và công nghiệp dệt, công nghiệp giày, giả da. Đối với Thanh Hoá
đây là một lợi thế vì có nhiều lao động và nguyên liệu da cho công nghiệp da, giả
da phát triển. Hướng tới cần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm hàng may xuất khẩu, đầu tư xây dựng mới các xí nghiệp giày da
và giày vải, xí nghiệp dệt kim tại thành phố Thanh Hoá, phục hồi nghề dệt lụa tơ
tằm.
Về phát triển các vùng trọng điểm, mũi nhon, đó là:
- Đẩy mạnh khai thác hai vùng còn dự trữ lớn đó là: Vùng ven biển với
khả năng nuôi trồng, khai thác và đánh bắt cácloại thuỷ sản, hải sản. Xây dựng
kèm theo đó là các ngành công nghiệp gắn liền với kinh tế biển như sữa chữa
đóng tàu, nhà máy đông lạnh, vận chuyển hàng hoá đường biển. Vùng đầm lầy
nước lợ phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày như đay, cói...
Bên cạnh đó có một bờ biển dài rất phù hợp cho phát triển du lịch biển và các
loại hình dịch vụ khác có liên quan; Vùng trung du miền núi là vùng có lợi thế để
phát triển các loại cây nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thực phẩm, công
nghiệp giấy và công nghiệp chế biến các sản phẩm từ kinh tế rừng. Mở rộng diện
tích trồng cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu, lạc... phù hợp với vùng đất
thấp và các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, chè, cao su ở các vùng đất
108
cao, tạo mạng lưới giao lưu buôn bán giữa các vùng miền trong tỉnh. Thực hiên
công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải đi đôi với quá trình đô thị hoá.
- Ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực gắn liền với việc hình thành
các khu công nghiệp động lực.
+ Khu công nghiệp thành phố Thanh Hoá - Sầm Sơn: công nghiệp chủ đạo
là công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm phục vụ cho xuất khẩu và nội
tiêu, công nghiệp dịch vụ gia công lắp ráp cơ khí luyện kim, cán thép...
+ Khu công nghiệp Bỉm Sơn - Thạch Thành: công nghiệp chủ đạo là sản
xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp mía đường, công nghiệp sau đường,
thuốc lá.
+ Khu công nghiệp Mục Sơn - Lam Sơn: công nghiệp chủ đạo là mía
đường, giấy, chế biến lâm sản, bên cạnh đó phát triển dịch vụ du lịch và hàng
không.
+ Khu công nghiệp Nghi Sơn - Tỉnh Gia: là nòng cốt của động lực Nam
Thanh - Bắc Nghệ. Ngành công nghiệp chủ đạo là: lọc hoá dầu, vật liệu xây
dựng và công nghiệp cảng biển, ngoài ra còn có công nghiệp chế biến hải sản, cơ
khí đóng mới và sữa chữa tàu, luyện cán thép...
Trước hết, ưu tiên tập trung và đầu tư hình thành hai khu công nghiệp tập
trung là Lễ Môn ( thành phố Thanh Hoá ) và Nghi Sơn (Tĩnh Gia) vì đây là nơi
có vị thế lý tưởng, thuận lợi cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, giao thông
thuận lợi, có cảng biển nước sâu Nghi Sơn cho phép tàu 5 - 10 vạn tấn có thể ra
vào.
Ba là: Đầu tư, đổi mới cơ cấu đầu tư và chính sách đầu tư, nâng cao hiệu
quả đầu tư để thực hiện mục tiêu đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chính sách đầu tư là một nhân tố quan trọng trong việc thu hút và sử dụng
có hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần
phải hoàn thiện chính sách này.
Chính sách đầu tư bao gồm các nội dung: tạo vốn cho đầu tư phát triển,
điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường
109
công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước trong quá trình huy động và sử dụng
các loại nguồn vốn khác nhau.
- Trong khâu tạo nguồn vốn đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao
gồm có hai nguồn chính:
+ Huy động vốn trong nước: Cần có chính sách phù hợp để tạo vốn trong
tỉnh, đây là nguồn vốn có ý nghĩa quyết định lâu dài, đảm bảo có đủ năng lực nội
tại để đón nhận, lựa chọn và tham gia bình đẳng trong quan hệ hợp tác, đầu tư
với nước ngoài. Hướng chính của tạo vốn trong nước là phải xây dựng cơ chế
tiết kiệm trong tiêu dùng để đầu tư cho sản xuất, có biện pháp tích cực khuyến
khích tất cả các thành viên kinh tế đầu tư để phát triển sản xuất, tăng dần tỷ lệ
tích luỹ cho cơ sở hạ tầng trong cơ cấu chi của ngân sách tỉnh. Xây dựng định
chế để hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ về các lĩnh vực tín dụng,
tiếp thị, đào tạo, thông tin kinh tế.
Đa dạng hoá các hình thức tạo vốn, đẩy mạnh việc cổ phần hoá và đa dạng
hoá các hình thức sở hữu trong các doanh nghiệp, huy động mọi nguồn tài
nguyên, tài sản, tiền nhàn rỗi và tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng
lớp dân cư để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, sinh lời và phát triển kinh tế xã
hội. Quy hoạch để dành vài nghìn ha đất trên các vị trí quan trọng (thị trấn, thị
tứ, khu công nghiệp) để tạo vốn sau này. Nguồn vốn trong nước có thể huy động
bao gồm vốn của các doanh nghiệp, vốn từ các tổ chức phi doanh nghiệp và vốn
của dân. Trong ba nguồn này thì nguồn từ các doanh nghiệp và dân cư là những
chủ thể cần được đặc biệt khuyến khích trong những năm tới.
+ Huy động vốn ngoài nước: Vốn đầu tư bên ngoài có vị trí quan trọng,
nhất là khi nguồn tích luỹ trong tỉnh còn thấp. Mở rộng các hình thức liên doanh
theo luật đầu tư nước ngoài, trong đó chú trọng phát triển hình thức BOT.
Nghiên cứu triển khai thí điểm phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài và
vay vốn tổng hợp của các chế định tài chính quốc tế. Cải thiện môi trường đầu
tư, đơn giản hoá các thủ tục, quy trình thẩm định đầu tư, xét duyệt dự án đầu tư
theo hướng một cửa... tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào làm việc
dễ dàng, thuận tiện. Chuẩn bị tốt các dự án phát triển, các chương trìng đầu tư và
danh mục công trình cụ thể để tranh thủ nguồn vốn tín dụng của nước ngoài, vốn
110
ODA, vay với lãi suất ưu đãi các tổ chức tài chính quốc tế: IMF, WB, ADB...tích
cực kêu gọi Việt kiều ta ở nước ngoài đầu tư về quê hương bằng nhiều hình thức.
Việc thu hút đầu tư từ nước ngoài không chỉ tạo vốn mà là còn cơ hội để
đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật, lao động, quản lý hiện đại và mở
rộng thị trường. Kiến nghị Nhà nước cho phép tỉnh có chính sách ưu tiên ưu đãi
để tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong những năm tới, để phục vụ cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nhanh, Thanh Hoá cần chú trọng khai thác các nguồn sau:
* Nguồn vốn đầu tư tập trung từ ngân sách nhà nước.
* Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp.
* Huy động vốn trong dân (bằng các chính sách, chế độ hợp lý...)
* Phát triển các hoạt động hợp tác quốc tế, liên doanh liên kết kinh tế để
thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư nứơc ngoài.
Quan điểm chung trong huy động vốn phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
là: Tranh thủ tối đa mọi nguồn lực để khai thác, đa dạng hoá hình thức huy động
vốn, coi trọng khai thác nguồn vốn nội lực và dùng nội lực để lôi kéo ngoại lực
vào phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Trong khâu sử dụng vốn, cần có chính sách sử dụng vốn của toàn xã hội
có hiệu quả, nâng cao nhanh trình công nghệ và cơ sở vật chất nhằm thực hiện có
hiệu quả các mục tiêu kinh tế xã hội. Coi trọng việc huy động mọi khả năng về
vốn trong tỉnh để phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng đồng
thời cần đẩy nhanh hơn tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong nước cũng như
ngoài nước vào những ngành mũi nhọn của tỉnh và khu vực trọng điểm tạo ra sức
bật nhanh cho toàn bộ nền kinh tế. Phải dành đầu tư thích đáng hơn cho xây
dựng kết cấu hạ tầng để trong một thời gian ngắn khắc phục được tình trạng
thiếu thốn và lạc hậu về cơ sở hạ tầng. Tăng nhanh đầu tư cho đổi mới công nghệ
để thu hẹp sự chênh lệch so với các trung tâm kinh tế lớn và các tỉnh có kinh tế
phát triển, tạo ra khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và
quốc tế.
Ngoài ra trong điều chỉnh cơ cấu đầu tư cần xem xét thường xuyên các
ngành mũi nhọn, các ngành tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
111
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để chuyển hướng mạnh mẽ từ đầu tư
theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu trong tất cả các ngành kinh tế, đưa
nhanh tiến bộ kỹ thuật mới và thiết bị máy móc mới vào sản xuất nhằm nâng cao
chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường nội địa và bên ngoài.
Nâng cao hiệu quả đầu tư nhờ đầu tư có trọng điểm và dứt điểm vào các ngành
then chốt, các ngành kết cấu hạ tầng... tạo đà phát triển bền vững ở giai đoạn sau,
đồng thời đầu tư phát triển vào sản phẩm, ngành nghề độc đáo truyền thống như
đá mỹ nghệ, đúc và gia công kim loại.
- Tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với quá trình
huy động và quản lý sử dụng vốn đầu tư trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Bốn là: Đẩy mạnh đầu tư ứng dụng khoa học - công nghệ.
Như đã biết phát triển khoa học công nghệ là một yếu tố, một cơ sở quan
trọng của phát triển kinh tế xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế như là định hướng
cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế xã hội bao hàm trong mình sự nâng cao
trình độ và đổi mới cơ cấu công nghệ. Việc nâng cao và đổi mới cơ cấu công
nghệ một măt phải xuất phát từ phục vụ cho những yêu cầu mà chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đặt ra, mặt khác nó cũng quy định, tác động trở lại tốc độ, quy mô
của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để Thanh Hoá không rơi vào tụt hậu thì trước hết không để lạc hậu về
khoa học công nghệ, phải thực hiện chủ “trương đi tắt đón đầu” về công nghệ,
thực hiện nhanh quá trình đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong nền
kinh tế của tỉnh một cách có trọng điểm, xây dựng và phát triển năng lực khoa
học công nghệ để làm chủ công nghệ nhập và sáng tạo công nghệ mới. Chú
trọng công nghệ đòi hỏi suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo
thêm được nhiều chỗ làm việc mới. Thanh Hoá hiện đại hoá công nghệ ở khâu
có ý nghĩa then chốt tác động trực tiếp tới việc nâng cao trình độ công nghệ của
nhiều ngành khác. Ưu tiên ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến như công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, chế tạo và gia công vật liệu.
Trong thời gian tới cần tập trung vào:
112
- Huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển công nghệ. ở nước ta nói
chung và Thanh Hoá nói riêng cho đến nay vốn đầu tư dành cho hoạt động khoa
học công nghệ còn tách rời vốn cho phát triển kinh tế. Vốn cho khoa học công
nghệ chủ yếu là từ nguồn vốn nhà nước và của nước ngoài. Nguồn vốn cho phát
triển công nghệ hiện nay nói chung vẫn trông chờ vào nhà nước, chưa phải là
mối quan tâm của toàn xã hội, đặc biệt là từ các doanh nghiệp. Do vậy cần đa
dạng hoá các nguồn vốn nhằm tăng lượng đầu tư tài chính cho công tác nghiên
cứu và phát triển đổi mới khoa học công nghệ, có chính sách quy định cụ thể về
vốn để khuyến khích thúc đây khoa học công nghệ, cụ thể như:
+ Quy định tỷ lệ tối thiểu và khuyến khích dành tỷ lệ cao hơn phần vốn
dành cho khoa học công nghệ trong các dự án phát triển kinh tế xã hội của địa
phương.
+ Xây dựng ngân hàng khoa học công nghệ, các khoản tín dụng, các quỹ
hỗ trợ tài chính cho phát triển khoa học công nghệ trong hệ thống ngân hàng và
tài chính để mở rộng nguồn vốn vay cho các cá nhân và cơ sở thuộc mọi thành
phần kinh tế.
+ Quy định mức lãi xuất thấp đối khoản vay tín dụng cho việc nghiên cứu
áp dụng, thích nghi cải tiến hoặc sáng tạo công nghệ mới, tiên tiến ở các doanh
nghiệp.
+ Miễn giảm thuế đối với các sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao
và là kết quả nghiên cứu, triển khai của doanh nghiệp, cụ thể miễn thuế 3 năm
đầu và giảm 50% thuế cho 2 năm tiếp theo (như Trung Quốc đã áp dụng).
+ Miễn giảm thuế trên phần vốn đầu tư và tái đầu tư vào nghiên cứu, triển
khai và áp dụng công nghệ mới ở các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh
nghiệp trích từ nguồn doanh thu ( từ 5 - 10%) để đầu tư nghiên cứu triển khai
(R&D).
- Trong chuyển giao công nghệ, thực hiện tích cực việc chuyển giao công
nghệ tiên tiến, công nghệ thích hợp từ bên ngoài vào, kết hợp với tăng cường
nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng trong nội địa. Đối với công nghệ
nhập, khuyến khích chuyển giao công nghệ hiện đại, tiên tiến, phù hợp với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ở giai đoạn này những nỗ lực chủ yếu nên tập
113
trung vào các khâu lựa chọn làm chủ, thích nghi và nhân rộng các công nghệ
nhập, nâng cấp hiện đại hoá công nghệ truyền thống. Cần tập trung có trọng
điểm, đồng bộ cho các nhiệm vụ, chương trình dự án mới và phát triển công
nghệ theo hướng ưu tiên đã đươc lựa chọn, hoàn thiện và tăng cường hạ tầng
công nghệ của tỉnh.
Tập trung đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu ứng
dụng,các trung tâm giống cây, con, các trạm hiện có của tỉnh để phục vụ cho
phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cho nông nghiệp hình thành
được giống cây, con giống có năng suất cao, chất lượng phù hợp với đặc điểm
sinh thái của từng vùng miền trong tỉnh.
Có chính sách và biện pháp phát triển mạnh nguồn nhân lực cho khoa học
công nghệ. Thực hiện đồng bộ các biện pháp trẻ hoá đội ngũ cán bộ khoa học
công nghệ ở cơ sở nghiên cứu. Có chế độ đặc biệt ưu đãi các nhân tài và đào tạo
cán bộ đầu ngành, các công trình sư cho các ngành, công nghệ then chốt.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện một số
chương trình trọng điểm về đổi mới công nghệ cho các xí nghiệp, các lĩnh vực
quan trọng của tỉnh để tạo cục diện mới. Nhanh chóng xây dựng chính sách khoa
học công nghệ cho tỉnh để đảm bảo phát triển khoa học gắn chặt với sản xuất,
phát triển các loại cây công nghiệp tiên tiến. Đầu tư xây dựng một số cơ sở sản
xuất công nghiệp mới dựa trên kỹ thuật công nghệ hiện đại; phát triển và ứng
dụng rộng rãi công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và
kinh tế nông nghiệp, phục vụ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
nền kinh tế của tỉnh.
Năm là: Đầu tư nghiên cứu phát triển thị trường và mở rộng thị trường
tiêu thụ hàng hoá của tỉnh.
Hiện nay, cả thị trường trong nước và ngoài nước đều đang là những yếu
tố quan trọng nhất, cũng là thách thức lớn nhất đối với chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ở Thanh Hoá. Thông qua hoạt động lưu thông hàng hóa, thị trường có tác động
tích cực đến phát triển sản xuất. Mọi phương án sản xuất trước hết phải xuất phát
từ nhu cầu thị trường tiêu thụ. Người sản xuất nắm bắt được nhu cầu thị trường
114
và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáp ứng nhu cầu đó, thì sẽ tồn tại và phát
triển.
Thực tiễn thời gian qua, thị trường Thanh Hoá cũng có những thuận lợi cơ
bản, ngoài thị trường trong tỉnh còn có các thị trường ở các khu vực lân cận như
Bắc Bộ, khu vực Bắc miền Trung, thị trường ngoài nước cũng có tương lai khá
khả quan. Tuy nhiên thị trường Thanh Hoá vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn và
nhiều vấn đề đáng lưu ý. Về cơ bản, ở Thanh Hoá vẫn là thị trường sản xuất nhỏ,
manh mún, sức mua của người dân thấp. Thị trường đầu vào còn thiếu ổn địn,
giá cả bấp bênh, hiện tượng hàng giả trôi nổi trên thị trường. Thị trường đầu ra ứ
đọng, chưa được phát triển mở rộng thị trường.
Từ thực tiễn trên và xác định thị trường là nhân tố tác động mạnh tới
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để phát triển và mở rộng thị trường đối với Thanh
Hoá cần tập trung vào một số giải pháp sau:
- Phát triển đồng bộ các loại thị trường: sản phẩm, nguyên vật liệu, công
nghệ thông tin, lao động, vốn - bao gồm cả thị trường chứng khoán. Cùng với
phát triển các loại thị trường cần tăng cường hoạt động nghiên cứu dự báo thị
trường đi đôi với xúc tiến thương mại. Hoạt động này ở Thanh Hoá trong thời
gian qua hầu như là chưa có. Vì vậy cần tăng cường công tác hoạt động nghiên
cứu dự báo thị trường, đặc biệt là các loại thị trường ở nông thôn kể cả thị trường
sử dụng đất và thị trường bất động sản, phát triển các thị tứ, các trung tâm
thương mại ở cụm xã, sử dụng các biện pháp thích hợp để kích thích sức mua
cuả người dân, nhất là ở vùng nông thôn. Tiếp tục mở rộng hình thức thông tin
kinh tế thị trường tạo điều kiện cho thúc đẩy mở rộng thị trường, tăng khả năng
tiếp thị cho người sản xuất.
- Nhà nước và doanh nghiệp đều phải có trách nhiệm phát triển thị trường
trong và ngoài nước. Nhà nước tác động đến thị trường trên các khí cạnh.
+ Xây dựng và thực hiện cơ chế chính sách khuyến khích giao lưu hàng
hoá.
+ Xây dựng chính sách bảo vệ người tiêu dùng.
115
+ Đặt hàng cho các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng một số loại hàng
hoá, dịch vụ.
+ Kí kết các hiệp định với nước ngoài.
- Phát triển ngành thương mại dịch vụ, củng cố và khuyến khích phát triển
các tổ chức thương mại thuộc mọi thành phần kinh tế, trước hết cần củng cố đổi
mới hệ thống thương nghiệp quốc doanh theo hướng gắn với sản xuất trong tỉnh.
Để nâng cao sức mua của thị trường nông thôn rộng lớn, phải đổi mới chính sách
đối với nông nghiệp và nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn, phát triển mạnh công nghiệp hoá nông thôn và có chính
sách hỗ trợ về thị trường.
- Để mở rộng thị trường xuất khẩu, trước hết phải xuất phát từ nhu cầu thị
trường, đi đôi với việc tích cực tìm kiếm thị trường mới đối với các mặt hàng
xuất khẩu. Hàng năm tỉnh phải dàng một khoản ngân sách để hỗ trợ, khuyến
khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội tìm kiếm và mở rộng thị
trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường khả
năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu trong tỉnh thông qua việc đổi mới
công nghệ, cải tiến mẫu mã bao bì, hạ giá thành sản phẩm.
- Công khai hóa cung cấp các thông tin cần thiết về thương mại và kinh tế
của tỉnh cho bên ngoài, đồng thời phải tổ chức tốt việc thu thập và cung cấp
thông tin kinh tế trong và ngoài nước cho các doanh nghiệp trong tỉnh. Phát triển
các tổ chức làm dịch vụ thăm dò nghiên cứu giới thiệu thị trường và bạn hàng.
Bằng mọi cách thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế, đồng thời chiếm lĩnh
thị trường trong tỉnh và trong nước.
Sáu là: Đầu tư vào nguồn nhân lực nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động và
nâng cao dân trí, đi đôi với nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Trong những
giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh Hoá không thể thiếu giải
pháp về đào tạo và sử dụng nguồn lao động. Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân
lực là yếu tố quyết định cho sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trên
116
thực tế, chúng ta chưa có sự ưu tiên cho đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cả về
số lượng, cơ cấu và chất lượng.
Với Thanh Hoá, trình độ dân trí còn thấp, đặc biệt là vùng núi và vùng
biển dân trí còn quá thấp thì việc đẩy mạnh đầu tư cho giáo dục nhằm nâng cao
dân trí càng có ý nghĩa hơn, cần được quan tâm và tập trung hơn nữa. Mặc dù
trong những năm qua đã có những cố gắng và tiến bộ quan trọng trong phát triển
nguồn nhân lực, nhưng nhìn chung nguồn nhân lực chưa được khai thác và quản
lý tốt. Để chủ động phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược, phải giải quyết
đồng bộ mối quan hệ mật thiết với nhau cả 3 mặt chủ yếu: Giáo dục, đào tạo con
người; sử dụng con người; tạo việc làm.
Trong những năm tới cần quan tâm đến chất lượng phổ cập, thực hiện giáo
dục cơ bản cho mọi người, tạo nên mặt bằng dân trí cho mở rộng đào tạo nhân
lực. Phấn đấu đạt mặt bằng dân trí ở trình độ trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh.
a- Chuyển dịch cơ cấu về lao động phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá thì ngoài việc đáp ứng yêu cầu về vốn đầu tư và tăng nhanh nguồn
vốn đầu tư, trang bị kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao, thì mặt khác cũng cần
phải có một cơ cấu lao động hợp lý giữa các ngành, vùng. Thực tế cơ cấu lao
động ở Thanh Hoá thời gian qua còn nhiều bất cập, tỷ trọng lao động làm việc
trong ngành công nghiệp và dịch vụ quá nhỏ bé, lao động tập trung chủ yếu ở
nông thôn là chính. Do vậy cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chuyển
dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đảm bảo
các yêu cầu:
- Chuyển dịch cơ cấu nguồn lực phải gắn bó hữu cơ và phục vụ mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu lao động. Cơ cấu lao động hợp lý là điều kiện để chuyển dịch
cơ cấu kinh tế hợp lý và đảm bảo tăng trưởng nhanh.
- Chuyển dịch cơ cấu nguồn lực vừa đảm bảo yêu cầu phát triển các
ngành, các lĩnh vực (cơ cấu ngành nghề), các vùng miền, yêu cầu lao động kỹ
thuật, tạo điều kiện phân bố và sử dụng lao động hợp lý.
- Chuyển dịch cơ cấu nguồn lực phải nhằm nâng cao chất lượng lao động,
nâng cao chất lượng sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh.
117
Xuất phát từ các yêu cầu trên, chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực ở Thanh
Hoá cần tập trung vào.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, vùng... phải bám sát mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng của tỉnh. Theo đó lao động nông nghiệp và
nông thôn giảm mạnh cả về tương đối và tuyệt đôi để bổ sung lực lượng lao động
cho công nghiệp, dịch vụ và đô thị.
- Song song với chuyển dịch cơ cấu số lượng là sự chuyển dịch cơ cấu về
trình độ theo yêu cầu của ngành nghề mới, đặc biệt là các ngành công nghiệp
trọng điểm, mũi nhọn.
- Chuyển dịch cơ cấu phải đi liền với phân công sử dụng hợp lý lao động
chuyên môn kỹ thuật, phù hợp với mục tiêu phát triển và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
b- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Mặc dù Thanh Hoá được công nhận là tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục
tiểu học và chống mù chữ và đang từng bước đưa mặt bằng dân trí lên trung học
cơ sở trên địa bàn toàn tỉnh, đồng thời phải tiến tới mặt bằng dân trí ở trình độ
trung học phổ thông trên địa bàn. Nâng cao dân trí để nâng cao chất lượng nguồn
lao động phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do vậy phải đổi mới căn bản công
tác đào tạo nguồn nhân lực theo các hướng:
- Tạo sự gắn bó tốt hơn giữa đào tạo và sử dụng, giữa đào tạo và thị trường
lao động. Gắn giáo dục đào tạo với thị trường sức lao động, thực hiên xã hội hoá
sự nghiệp đào tạo. Giành nguồn lực thích đáng, kể cả vốn vay để tập trung vào
một số khâu, lĩnh vực giáo dục cần thiết, đồng thời có chính sách thu học phí và
huy động sự đóng góp của những người sử dụng sức lao động được đào tạo, của
cộng đồng, của những tổ chức kinh tế xã hội theo nguyên tắc: Ai bỏ chi phí đào
tạo thì được quyền sử dụng lao động đào tạo trong một thời gian nhất định. Nêu
người được đào tạo không chấp hành buộc phải hoàn trả kinh phí đào tạo.
- Củng cố và phát triển các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề và
xúc tiến việc làm, phát triển các trường đại học, trung học chuyên nghiệp. Phát
triển mạnh mẽ hệ thống đào tạo thích hợp, có mục tiêu nội dung, phương pháp và
118
quy mô thích hợp với yêu cầu phát triển hiện nay và trong tương lai gần, nhằm
tạo nên lực lượng lao động cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước,
góp phần giải quyết công ăn việc làm. Cần ưu tiêu đào tạo cho các ngành mũi
nhọn, tạo những dịch chuyển lớn có chất lượng về cơ cấu lao động.
- Điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng tăng cường đào tạo công nhân kỹ
thuật, nhất là đối với những ngành nghề mới. Mở rộng đào tạo nghề dưới nhiều
hình thức, tăng nhanh về số lượng và đa dạng hoá các loại hình trường lớp theo
hướng xã hội hoá công tác đào tạo nghề. Coi trọng công tác đào tạo lại đối với
cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân, có chính sách đưa một số lao động có
năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức tốt đi học tập, đào tạo ở nước ngoài tiếp
thu khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, đủ sức vận hành và làm chủ các kỹ
thuật và công nghệ mới.
- Tổ chức lại mạng lưới các trường đại học và trung học chuyên nghiệp,
dạy nghề. Tập trung đầu tư xây dựng một số trung tâm đào tạo nghề, triển khai
các hoạt động về doanh nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, bảo vệ môi trường,
chuyển giao công nghệ gắn với hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của
trường Đại Học Hồng Đức.
- Việc làm phụ thuộc vào sự thu hút và việc phân bổ vốn đầu tư trong toàn
xã hội phù hợp với các định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nhà nước nên có chính sách khuyến khích mọi
tổ chức mọi cá nhân đầu tư vào sản xuất, dịch vụ, để tạo việc làm. Thực hiện có
hiệu quả các hỗ trợ việc làm trong xã hội.
Bảy là: Hoàn thiện chính sách tài chính tiền tệ, khắc phục quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong những năm vừa qua, chúng ta đã có nhiều đổi mới về cơ chế và
chính sách, do đó đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát
triển các ngành kinh tế trọng yếu. Tuy nhiên các chính sách còn chưa đồng bộ và
khi chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện cơ chế và chính sách.
Để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá, đòi hỏi Thanh Hoá phải trên cơ sở vận dụng cơ chế
119
chính sách chung của Nhà nước, phải có một số cơ chế chính sách về tài chính,
tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế theo hướng sau:
- Chính sách tài chính: Hàng năm tỉnh phải dành một phần thoả đáng trong
nguồn thu ngân sách của tỉnh để hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế của tỉnh. Cụ thể:
+ Miễn giảm thuế thu nhập từ khu vực doanh nghiệp để tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp tích luỹ tái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, để nuôi
dưỡng và phát triển nguồn thu. Dùng thuế như một công cụ để khuyến khích
phát triển và tăng khả năng hội nhập với các ngành nghề, lĩnh vực cần phát triển
như phát triển nguồn thu, tăng khả năng cạnh tranh và hội nhập, đẩy mạnh xuất
khẩu, giải quyết việclàm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Miễn giảm thuế hợp lý đối với hoạt động xuất nhập khẩu nguyên liệu,
vật tư,... trong tỉnh cũng sản xuất được để khuyến khích phát triển các sản phẩm,
các ngành nghề chủ chốt phục vụ xuất khẩu, tạo đà hội nhập có hiệu quả. Miễn
hoặc áp dụng thuế suất thấp đối với các máy móc thiết bị nhập phục vụ chiến
lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
+ Hỗ trợ một phần lãi suất vốn vay tín dụng để khuyến khích các doanh
nghiệp bỏ vốn đầu tư, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, phát triển các
ngành trọng điểm mũi nhọn, tạo ra sự thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Hình thành một số quỹ hỗ trợ phát triển như: Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và
nhỏ, quỹ hỗ trợ xuất khẩu.v.v..
+ Dùng thuế để khuyến khích phát triển các sản phẩm mới, các ngành
nghề mới, cáclĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn, phù hợp với xu thế tiến bộ
của khoa học kỹ thuật.
- Chính sách tín dụng (bao gồm cả cơ cấu vốn, vốn tín dụng và chính sách
lãi suất).
Vấn đề quan trọng trong chính sách tín dụng có tác động trực tiếp đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là phải xác định được vốn đầu tư trên cơ sở nguồn
vốn huy động và phương thức thực hiện đầu tư có hiệu quả. Cần tập trung vốn
vào các hướng chuyển dịch cơ cấu trọng tâm ( các ngành trọng điểm, mũi nhọn,
hướng cần ưu tiên đầu tư ...). Trong những năm tiếp theo, để đẩy nhanh quá trình
120
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chính sách tín dụng nên tập trung giải quyết các vấn
đề theo các hướng sau đây.
+ Tín dụng trung và dài hạn nên tập trung vào các dự án lớn nhằm tạo
năng lực và sản xuất lớn, các dự án thuộc các lĩnh vực trọng điểm như điện lực,
cơ khí, trồng rừng, các dự án trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật... Về
phương thức cho vay: Thực hiện cho vay theo dự án được duyệt và khả năng
hoàn trả vốn của dự án đó.
+ Tín dụng ngắn hạn tập trung chủ yếu cho thu mua hàng xuất khẩu. Phát
triển các ngành sử dụng nhiều lao động, quay vòng vốn nhanh như may mặc, da
giầy...
+ Tín dụng phục vụ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
và nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn,
+ Chính sách tín dụng ưu đãi vì mục đích xã hội trong quá trình phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế như tín dụng cho người nghèo, khai thác tiềm
năng...
Định hướng điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế không nghiêng về quan điểm hỗ trợ lãi suất thấp mà
xác định lãi suất theo cung cầu của nền kinh tế nhằm hạn chế sự méo mó của
nguồn lực tài chính do ảnh hưởng của chính sách lãi suất ưu đãi được xác định
thận trọng nghiêm ngặt và chỉ dành cho các mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trọng điểm và các mục tiêu xã hội.
Ngoài việc thực hiện hai chính sách tài chính và tín dùng nêu trên, cũng
cần hoàn thiện một số cơ chế chính sách như:
- Giải quyết tốt vấn đề kết hợp quản lý ngành và lãnh thổ trong phát triển
kinh tế. Thực hiên xoá bỏ cơ quan chủ quan đối với quản lý các cơ sở sản xuất
kinh doanh.
- Đổi mới quản lý chất lượng sản phẩm và dịch vụ theo hướng áp dụng các
quan điểm và phương hướng hiện đại nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và
dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ.
- Tiếp tục đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại trên các mặt:
121
+ Có chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước đúng đắn, chỉ thu hút
vốn đầu tư nước ngoài vào những ngành và lĩnh vực cần thiết quan trọng mà tỉnh
chưa có điều kiện phát triển.
+ Không liên doanh những ngành, những sản phẩm mà trong tỉnh có khả
năng sản xuất. Phát triển và mở rộng các đối tác là các nước phát triển ở Châu
Âu, Bắc Mỹ. Đặt chiến lược đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tăng cường quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài sau khi cấp giấy phép để tránh tình trạng “lỗ giả”.
+ Khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hàng xuất khẩu.
- Bảo hộ sản xuất trong nước đối với những mặt hàng cần khuyến khích và
gặp khó khăn trong phát triển. Xác định thời hạn bảo hộ và mức bảo hộ đúng đắn
để khuyến khích các ngành này phải vươn lên trong cạnh tranh.
Tám là: Sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích dân doanh,
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đòi hỏi phải thực hiện
sự kết hợp hài hoà giữa các thành phần kinh tế nhà nước với kinh tế tập thể.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, vận động theo cơ chế thị
trường, chúng ta không thể không tiến hành điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế của các
thành phần kinh tế bằng những biện pháp cơ bản sau:
- Kiên quyết sắp xếp lại kinh tế nhà nước theo hướng bảo đảm cho các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả, thực sự phát huy vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế. Chúng ta không tư nhân hoá kinh tế nhà nước, nhưng phải thị
trường hoá nền kinh tế, không bao cấp, bù lỗ tràn lan, chấp nhận cạnh tranh và
từng bước cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
- Giảm bớt tỷ trọng kinh tế nhà nước trong mọi ngành nghề theo nguyên
tắc ngành nghề nào kinh tế tập thể, tư nhân, cá thể có thể làm tốt, có lợi cho nền
kinh tế thì tạo điều kiện cho nó phát triển. Còn ngành nghề nào kinh tế nhà nước
làm tốt thì tạo điều kiện cho nó phát triển. Đây chính là giải pháp tích cực nhằm
điều chỉnh lại cơ cấu các thành phần kinh tế.
122
- Đối với Hợp tác xã, cần có biện pháp củng cố theo nguyên tắc tự nguyện
mở rộng các hình thức liên doanh giữa nhà nước, hợp tác xã và tư nhân. Kiện
toàn hệ thống liên minh các hợp tác xã và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tỉnh
phải có các chính sách khuyến khích mạnh mẽ phát triển khu vực dân doanh
(kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH...) và khuyến khích, hỗ
trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở cả thành thị và nông thôn. Khuyến khích lập
các hội theo ngành, nghề, tổ chức các trung tâm tư vấn đầu tư, hỗ trợ chuyển
giao công nghệ, giới thiệu các sản phẩm mới, đào tạo nghề... Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu tài sản, quyền làm ăn hợp pháp và giúp đỡ những đầu tư đúng
hướng.
- Áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ phù hợp với quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ,
không những đối với kinh tế nhà nước, mà cả đối với thành phần kinh tế tư nhân,
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, nhất là sản phẩm xuất khẩu. Sự chuyển
dịch cơ cấu các thành phần kinh tế được tiến hành trong cơ chế thị trường có sự
quản lý cuả nhà nước. Vì vậy, nhà nước cần thực hiện hệ thống luật lệ theo
hướng khuyến khích các thành phần kinh tế cạnh tranh và hiện đại hoá công
nghệ. Nhà nước cần có các đòn bẩy mạnh mẽ làm cho tỷ trọng kinh tế của các
thành phần kinh tế tư nhân, cá thể tăng lên và ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong việc cung cấp các sản phẩm hàng hoá cho xã hội.
3.4.2- Nhóm các giải pháp vi mô.
- Đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi: Nạo vét kênh mương, xây dựng trạm bơm
đầu mối, kiên cố hoá kênh mương nội đồng, hệ thống tưới tiêu hiện đại ở các
vùng chuyên canh chuyên môn hoá cao, xây dựng hệ thống đập ngăn nước hay
thoát lũ.
- Xây dựng hệ thống công nghiệp phục vụ nông nghiệp:
+ Đầu vào: Xây dựng nhà máy sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, máy móc
cho nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi, nâng cao trình độ cơ giới hoá, ứng dụng
công nghệ sinh học vào sản xuất.
+ Đầu ra: Xây dựng nhà máy chế biến nông lâm thuỷ sản, đặc biệt là hàng
xuất khẩu: xay sát gạo và đánh bóng gạo, chế biến thuỷ sản, lâm sản, cà phê...
123
- Đầu tư đổi mới công nghệ trong sản xuất nông nghiệp bao gồm: Chăn
nuôi theo phương pháp công nghiệp, đổi mới cơ cấu giống cây giống lương thực
theo hướng xuất khẩu có giá trị cao, nuôi trồng thuỷ sản theo phương pháp công
nghiệp, ứng dụng công nghệ vi sinh.
- Đầu tư phát triển sản xuất và khai thác vật liệu xây dựng ở nông thôn bao
gồm: Đầu tư chuyển lò nung vôi thủ công sang phương pháp công nghệ hiện đại,
chuyển từ xi măng lò đứng sang công nghệ xi măng lò quay, gạch ốp lát và các
loại vật liệu khác theo phương pháp công nghiệp.
- Đa dạng hoá nguồn vốn nhằm tăng lượng đầu tư tài chính cho khoa học
công nghệ trong các ngành cơ khí, điện, điện tử, bưu chính viễn thông... Bảo
đảm tốc độ đổi mới công nghệ cao hơn tốc độ tăng đầu tư cơ bản. Xây dựng các
trung tâm hỗ trợ công nghệ cho công nghiệp và nông nghiệp nông thôn.
- Đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng:
+ Nâng cấp, làm mới và mở rộng giao thông nông thôn, đảm bảo xe ô tô đi
đến được các vùng nguyên liệu và nhà máy khai thác, chế biến.
+ Phát triển hệ thống điện, thông tin liên lạc và bưu chính viễn thông tới
nhân dân để nâng cao trình độ dân trí của người dân nhằm tiếp thu khoa học
công nghệ được thuận tiện hơn.
+ Xây dựng hệ thống trường trạm nhằm đảm bảo chăm sóc sức khoẻ và
bồi dưỡng cho nhân dân, tạo điều kiện tốt hơn cho người lao động thực hiện
công việc của mình.
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
+ Công tác đào tạo:
* Xem xét lại chỉ tiêu nhằm tăng chỉ tiêu đào tạo cho cán bộ nông nghiệp.
* Điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng tăng đào tạo công nhân, trung học
chuyên nghiệp để khắc phục tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” như hiện nay.
* Mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn kiến thức về khoa học và kỹ thuật nông
nghiệp cho nông dân, mở rộng các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm...
* Có chính sách hỗ trợ con em trong tỉnh đi học, khi ra trường trở về địa
phương công tác, coi trọng công tác đào tạo trong xã hội.
124
+ Công tác sử dụng và phát triển nguồn nhân lực:
* Cấp nhà, đất cho cán bộ có trình độ làm việc tại điạ phương, nông thôn
vùng núi, có chế độ lương bổng khen thưởng hợp lý để khuyến khích sản xuất.
* Hỗ trợ chi phí đi lại, sinh hoạt cho cán bộ ở xa đến công tác, xây dựng
trường lớp, bệnh xá chăm sóc cho con em để họ yên tâm công tác, sản xuất.
* Hình thành và phát triển các trung tâm hỗ trợ và cung ứng lao động cho
các doanh nghiệp theo kiểu như một loại hình chuyên doanh về lao động bao
gồm cả đào tạo, môi giới... theo yêu cầu của khách hàng đề ra về trình độ, sức
khoẻ, kinh nghiệm, thời gian sử dụng...
* Trong việc tạo môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp:
^ Nhà nước đầu tư hỗ trợ kinh phí đào tạo công nhân tại chỗ cho các
doanh nghiệp khi mới thành lập
^ Giám sát thị trường, tích cực phát hiện và chống hàng giả, buôn lậu, đầu
tư nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tìm hiểu và công khai hoá các
thông tin về thị trường của các doanh nghiệp với nhau giúp cho các doanh
nghiệp có quyết định đúng đắn, hiệu quả từ đó tăng đầu tư cho nguồn nhân lực.
^ Giảm miễn thuế quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp sử dụng lao
động tại địa phương từ 50% trở lên, giảm thuế đầu ra đối với các sản phẩm có
hàm lượng chất xám cao...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và giải pháp đầu tư nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Thanh Hoá.pdf