Luận văn Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo của nước ta giai đoạn 2008-2010

Trong những năm qua, khói lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng, điều đó cho thấy khả năng huy động sản lượng gạo cho xuất khẩu của nước ta ngày càng được nâng cao. Hơn nữa chất lượng gạo xuất khẩu gạo hiện nay cũng đang được nước ta quan tâm nhiêu hơn cả từ lựa chọn giống mới và đầu tư thiết bị chế biến. Bên cạnh đó, việc khẳng định và phát huy ngày càng cao hơn nữa vị thế là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới dựa trên những thế mạnh và tiềm năng sẵn có cùng các chủ trương, chính sách kịp thời là một hướng đi đặc biệt cần thiết. Cũng vì vậy mà đề tài xuất khẩu gạo vẫn luôn là vấn đề quan trọng cho việc mở rộng thêm thi phần và sản xuất những loai gạo chất lượng cao, đáp ứng đa dạng các nhu cầu trong nước và thé giới, góp phần không nhỏ cho cong nghiệp hoá –Hiện đại hoá đất nước.

doc34 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4652 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo của nước ta giai đoạn 2008-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổn định, mà còn vươn lên đẩy mạnh xuất khẩu và trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Đó là một kỳ tích mà cả thế giới biết đến. Tuy nhiên, chuyển sang kinh tế thị trường, trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực có nhiều biến đổi, cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế toàn cầu diễn ra hết sức gay gắt, thì vấn đề sản xuất và xuất khẩu một sản phẩm nào đó, đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển khôn, có sự tính toán kỹ càng, cẩn trọng trong một tổng thể chiến lựơc phát triển chung mới dành được thắng lợi và đạt được hiệu quả tối ưu. Đối với nước ta xuất khẩu gạo có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, ngoại tệ thu được từ xuất khẩu là nguồn vốn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tăng thu nhập đặc biệt đối với người nông dân. Những năm qua xuất khẩu gạo của Việt Nam đã thu được những thành tựu nhất định, bên cạnh đó còn nhiều bất cập cần giải quyết như vấn đề thị trường, giá cả, chất lượng gạo, vấn đề đầu ra… Nếu những vấn đề trên được giải quyết một cách hợp lý thì xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có bước phát triển cao hơn trong thời gian tới. Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề trên, tôi đã tiến hành một cuộc nghiên cứu với đề tài: “Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo của nước ta giai đoạn 2008-2010” nhằm tìm hiểu tình hình cũng như đề ra giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu gạo của nước ta. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1 Mục tiêu chung Nhằm phân tích đánh giá những thuận lợi và khó khăn đối với xuất khẩu gạo ở Việt Nam. Từ đó đưa ra những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu cho quốc gia cũng như mang về lợi nhuận cho người nông dân. 2.2 Mục tiêu cụ thể Tìm hiểu tình hình hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta hiện nay. Phân tích hoạt động xuất khẩu gạo và những ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Đưa ra giải pháp phù hợp để đẩy mạnh việc xuất khẩu gạo. 3. Phạm vi nghiên cứu 3.1 Không gian Đề tài nghiên cứu về xuất khẩu gạo ở Việt Nam. 3.2 Thời gian Thời gian số liệu được thống kê từ năm 2008-2010. Thời gian thực hiện đề tài từ ngày 10 tháng 04 năm 2012 đến ngày 27/05/2012. 3.3 Đối tượng nghiên cứu Đề tài được giới hạn phậm vi nghiên cứu trong lĩnh vực xuất khẩu gạo của nước ta. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1 Phương pháp thu thập số liệu Số liệu được đọc, nghiên cứu, tham khảo từ sách, báo, trên internet có liên quan đến đề tài sau đó rút ra kết luận. 4.2 Phương pháp phân tích số liệu - Mục tiêu cụ thể 1: sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam. - Mục tiêu cụ thể 2: sử dụng phương pháp phân tích số liệu để tìm hiểu các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam. - Mục tiêu cụ thể 3: Từ mô tả và phân tích trên sử dụng phương pháp tự luận để đề ra các giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam. 5. Lược khảo tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu “Phân tích tình hình xuất khẩu gạo của Công ty MêKong” của Đoàn thị Hồng Vân, lớp Ngoại thương khóa 29 – Trường Đại học Cần Thơ thực hiện tháng 5/2007. Mục tiêu của đề tài là nhằm phân tích đánh giá tình hình xuất khẩu gạo của công ty và đưa ra giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam nói chung và của Công ty Mêkong nói riêng. “Phân tích tình hình xuất khẩu gạo và giải pháp phát triển cho công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang ANGIMEX” của Trần Thị Ngọc Giàu-Đai học Cần Thơ. Mục tiêu của đề tài phân tích tình hình xuất khẩu gạo của công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang ANGIMEX và đưa ra một số giải phấp thúc đẩy xuất khẩu gạo của công ty phát triển. PHẦN 2. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM 1. Thực chất và vai trò của xuất khẩu 1.1 Thực chất xuất khẩu 1.1.1 Khái niệm xuất khẩu Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài và với các khu chế xuất làm giảm nguồn vật chất trong nước. Bao gồm xuất khẩu mậu dịch và phi mậu dịch Cơ sở của xuấtt khẩu là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng vùng, từng quốc gia trong phân phối lao động quốc tế. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi nền kinh tế từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất máy móc thiết bị công nghệ cao. Tất cả hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia vào hoạt động xuất khẩu. 1.1.2 Các loại hình xuất khẩu Xuất khẩu trực tiếp: Các nhà sản xuất giao hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nước ngoài. Phần lớn hàng hoá ở thị trường thế giới qua xuất khẩu trực tiếp (trên 2/3 kim nghạch) Xuất khẩu gián tiếp là xuất khẩu qua khâu trung gian. Chuyển khẩu: Mua hàng của nước này bán cho nước khác, không làm thủ tục xuất nhập khẩu. 1.2. Đặc điểm xuất khẩu gạo 1.2.1 Đặc điểm về sản xuất Về mặt sinh thái, sức đề kháng sâu bệnh và khả năng chịu đựng của lúa kém do vậy sản xuất lúa phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Điều này có ảnh hưởng nhất định đến xu hướng phát triển chung cũng như mùa màng thu hoạch trong từng thời điểm cụ thể. Do sản xuất lúa gạo phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên do đó lúa chỉ được trồng phổ biến ở các nước có đồng bằng châu thổ, khí hậu nhiệt đới ẩm và mưa nhiều, những nước này chủ yếu là các nước đang phát triển như: Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan…Hiện nay do trình độ đô thị hoá, việc tăng dân số quá nhanh cũng như việc xây dựng các khu công nghiệp ồ ạt nên diện tích nông nghiệp hay diện tích trồng lúa ngày càng bị thu hẹp. Do đó việc tăng sản lượng lúa phụ thuộc vào khả năng tăng năng suất, vì thế mà yêu cầu cần có trình độ thâm canh cao, khoa học tiến bộ trong sản xuất lúa. Việt Nam nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới ẩm với hai đồng bằng châu thổ rộng lớn, với lượng dân số tập trung ở nông thôn khá cao (80% dân số) do đó rất thuận lợi cho phát triển lúa nước. Nhưng đồng thời với những thuận lợi là các khó khăn như: bão, lũ lụt, hạn hán, hay các biến động bất thường của thời tiết luôn đe doạ tới hoạt động sản xuất. Hiện nay lúa gạo đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam do đó sản xuất lúa gạo rất được chú trọng cả về tăng năng suất và diện tích bằng các biện pháp như thâm canh, xen canh, gối vụ hay áp dụng các biện pháp khoa học trong khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và tạo giống chất lượng tốt… 1.2.2 Đặc điểm về xuất khẩu gạo Tính thời vụ trong trao đổi: Sản xuất lúa gạo mang đặc điểm cố hữu của sản xuất nông nghiệp tính thời vụ do vậy mà hình thành tính thời vụ trong trao đổi sản phẩm trên thị trường. Tức là số lượng lúa gạo cung cấp trên thị trường là không đều vào mỗi thời điểm trong năm, điều này phụ thuộc vào thời gian gieo trồng. Để khắc phục đặc điểm này yêu cầu các nước xuất khẩu phải luôn có kế hoạch bảo quản, dự trữ hợp lý tránh tình trạng lúc thừa lúc thiếu sẽ dẫn tới bị ép giá. Phần lớn gạo được tiêu thụ tại chỗ: Tình hình đó là do một mặt, năng lực sản xuất của các nước này bị hạn chế mặt khác do quy mô dân số và tốc độ tăng dân số nhanh. Vì vậy phần lớn lúa gạo còn lại đem trao đổi trên thị trường gạo thế giới chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Các nước đang phát triển sản xuất 53-55% sản lượng gạo thế giới, các nước Châu Á, Châu Phi sản xuất nhiều nhất chiếm 85% sản lượng gạo tiêu thụ trên thế giới. Trong khi đó các nước này chỉ cung cấp 4-5% lượng gạo được trao đổi trên thế giới, Châu Á là khu vực sản xuất nhiều nhất và cũng tiêu thụ lượng gạo lớn nhất. Buôn bán giữa các chính phủ là phương thức chủ yếu vì thế xuất khẩu sản phẩm lúa gạo ổn định hơn so với hàng công nghiệp. Thứ nhất, là do yếu tố chính trị của quốc gia. Mỗi nước đều phải đảm bảo an ninh lương thực, nếu lương thực không được đảm bảo sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới chính trị quốc gia đó. Vì thế buốn bán chủ yếu được ký kết giữa các chính phủ với nhau thông qua các hiệp định, các hợp đồng có tính nguyên tắc, dài hạn và định lượng cụ thể hàng năm vào đầu các niên vụ. Thứ hai, một số nước dùng xuất khẩu gạo để thực hiện các ý đồ chính trị thông qua viện trợ, cho không, bán chịu dài hạn… điều này được thực hiện giữa các chính phủ là chủ yếu. Các nước lớn đóng vai trò chi phối thị trường gạo thế giới: Trên thế giới chỉ một vài nước là xuất khẩu với một lượng gạo lớn và có uy tín: Thái Lan, Mỹ, Trung Quốc, Việt Nam…. Nếu lượng gạo xuất khẩu của các nước này có sự biến động có thể ảnh hưởng đến giá cả của gạo dẫn tới những biến động trong cung – cầu gạo, hay có thể ảnh hưởng đến tình hình sản xuất đến các loại hàng hoá khác. Trong mậu dịch gạo thế giới, có rất nhiều loại gạo khác nhau của các nước xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới. Tương ứng với mỗi loại gạo, tuỳ thuộc chất lượng, phẩm cấp khác nhau lại hình thành một mức giá cụ thể phù thuộc vào các tiêu chuẩn cụ thể về chọn giá quốc tế mà trong nhiều thập kỷ qua, người ta vẫn lấy giá gạo xuất khẩu của Thái Lan làm giá gạo quốc tế. Vì gạo có rất nhiều loại nên khi nói giá gạo xuất khẩu thường nói rõ cấp loại nào (5% tấm, 10% tấm…) vào điều kiện giao hàng nào (FOB. CIF,C&F…) Tuy có giá gạo quốc tế nhưng giá gạo của một cấp gạo cụ thể, giữa các nước xuất khẩu là không đồng nhất: như giá gạo của Việt Nam thường thấp hơn của Thái Lan hoặc của một số nước khác mặc dù cùng cấp. Điều này là do chất lượng của từng loại, do uy tín sản phẩm, do điều kiện tự nhiên, nguồn giống tạo nên loại gạo đó. 1.3. Vai trò của xuất khẩu gạo 1.3.1 Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Quá trình công nghiệp hoá cần một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị kĩ thuật công nghệ cao để có thể theo kịp nền công nghiệp hiện đại của các nước đã phát triển.Nguồn vốn cho nhập khẩu được hình thành từ rất nhiều nguồn vốn khác nhau: Đầu tư nước ngoài Vay nợ, viện trợ Thu từ hoạt động du lịch Xuất khẩu… Các nguồn vốn khác quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất vẫn là xuất khẩu , xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Hiện nay các nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn chủ yếu là các nước đang phát triển: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Pakistan…Chính vì thế nguồn ngoại tệ thu về từ xuất khẩu gạo đối các nước này là rất quan trọng. 1.3.2 Xuất khẩu đóng vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay với xu thế hội nhập, cơ hội và thách thức rất nhiều, các nước đều phải phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu những sản phẩm mà mình có lợi thế và nhập khẩu những sản phẩm không có lợi thế hoặc lợi thế so với các sản phẩm khác nhỏ hơn. Khi gạo đã trở thành một lợi thế trong xuất khẩu của một nước thì các nước đó sẽ tập chung vào sản xuất lúa gạo với quy mô lớn, trình độ thâm canh cao, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhằm tăng năng xuất, sản lượng và chất lượng gạo. Từ sự tập chung sản xuất đó sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành có liên quan và dẫn tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp yếu tố đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Tạo tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Thông qua xuất khẩu nước ta có thể tham gia vào công cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng từ đó hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích ghi với thị trường. Đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải đổi mới hoàn thiện công việc sản xuất kinh doanh. 1.3.3 Xuất khẩu có tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân Xuất khẩu gạo trước hết làm tăng thu nhập của người nông dân đặc biệt ở các vùng chuyên canh lúa nước, đời sống người dân phụ thuộc chủ yếu vào cây lúa. Sau nữa, xuất khẩu giúp giải quyết một lượng lớn lao động dư thừa trong nước. Khi thực hiện tăng cường xuất khẩu thì kéo theo nó là vấn đề xay xát, chế biến phát triển, vấn đề vận chuyển hàng hoá …những công tác trên thu hút khá nhiều lao động từ không có trình độ kỹ thuật, quản lý đến có trình độ cao. Việc tạo việc làm ổn định cũng chính là một biện pháp hữu hiệu để tăng thu nhập, ổn định xã hội. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì xuất khẩu gạo là một lợi thế lớn. Bởi sản xuất và xuất khẩu gạo có những lợi thế căn bản như: đất đai, khí hậu, nguồn nước, nguồn nhân lực … Và đặc biệt yêu cầu về vốn kỹ thuật trung bình, với các lợi thế như vậy tăng cường xuất khẩu gạo là hướng đi đúng đắn nhất. Xuất khẩu gạo hay xuất khẩu hàng hoá nông sản nói chung có tác động to lớn đến nền kinh tế nước ta, giúp khai thác được tất cả các lợi thế tương đối cũng như tuyệt đối của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Trong quá trình sản xuất lúa gạo, Việt Nam đã thu đước những kết quả to lớn từ một nước nhập khẩu trở thành một nước xuất khẩu thứ hai thế giới. Tuy nhiên xuất khẩu gạo Việt Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo 2.1 Nhân tố thị trường Nhân tố thị trường có ảnh hưởng rất lớn chi phối toàn bộ hoạt động xuất khẩu gạo của mỗi quốc gia tham gia xuất khẩu. Trong đó có thể xét trên các yếu tố cơ bản sau: - Nhu cầu của thị trường về sản phẩm gạo: Gạo là hàng hoá thiết yếu, cũng giống như các loại hàng hoá khác nó cũng phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư, thị hiếu… Khi thu nhập cao thì cầu về số lượng gạo giảm nhưng trong đó cầu về gạo chất lượng cao có xu hướng tăng lên (ở các nước phát triển: Nhật, Châu âu, ..) ngược lại cầu đối với gạo chất lượng thấp giảm đi chính vì thế tỷ trọng tiêu dùng cho gạo trong tổng thu nhập vẫn tăng. - Cung gạo trên thị trường là một nhân tố quan trọng trong xuất khẩu. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần phải tìm hiểu kỹ về khả năng xuất khẩu từng loại gạo của mình cũng như khả năng của các đối thủ cạnh tranh. Trên thị trường thế giới sản phẩm gạo rất đa dạng, phong phú, nhu cầu về gạo co giãn ít so với mức giá do đó nếu lượng cung tăng quá nhiều có thể dẫn tới dư cung điều đó là bất lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. - Giá cả là một yếu tố quan trọng là thước đo sự cân bằng cung – cầu trong nền kinh tế thị trường. Tuy cầu về gạo là ít biến động nhưng với những sản phẩm đặc sản thì có quyết định khá lớn. 2.2 Nhân tố về cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Các nhân tố về cơ sở vật chất – kỹ thuật đó là hệ thống vận chuyển, kho tàng, bến bãi, hệ thống thông tin liên lạc… Hệ thống này bảo đảm việc lưu thông nhanh chóng kịp thời, đảm bảo cung cấp nguồn hàng một cách nhanh nhất, tiết kiệm thời gian và chi phí lưu thông. Các nhân tố về kỹ thuật, công nghệ sản xuất và tiêu thụ đặc biệt quan trọng trong việc tăng khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường tiêu thụ gạo. Hệ thống chế biến với công nghệ dây truyền hiện đại sẽ gốp phần tăng chất lượng và giá trị của gạo. Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô Nhóm nhân tố này thể hiện sự tác động của nhà nước tới hoạt động xuất khẩu gạo. Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia thị trường xuất khẩu rất cần tới sự quan tâm hướng dẫn của nhà nước. Đặc biệt hiện nay khả năng marketing tiếp cận thị trường, sự am hiểu luật kinh doanh, khả năng quản lý của doanh nghiệp còn hạn chế, vì thế việc đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác tiêu thụ là rất quan trọng. Hơn nữa hiện nay xuất khẩu gạo gốp phần rất lớn vào phát triển nền kinh tế nhưng đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn yêu cầu nhà nước cần có sự điều tiết lợi ích giữa nhà nước – doanh nghiệp – người nông dân sao cho thoả đáng và hợp lý nhất. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2011 2.1. Thực trạng về xuất khẩu gạo của Việt Nam 2.1.1 Sản lượng lúa gạo Bảng 1- SẢN LƯỢNG XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010 Năm Khối lượng xuất khẩu( 1000 tấn) Chênh lệch +/- % 2007 4.558 - - 2008 4.830 272 5,97 2009 6.052 1.222 25,32 2010 6.890 838 13,85 Nguồn AGROINFO, 2010 Từ bảng thống kê sản lượng xuất khẩu gạo trên cho thấy sản lượng xuất khẩu gạo nước ta liên tục tăng trong giai đoạn 2008-2010. Xuất khẩu lúa gạo nước ta ngày càng tăng trước hết là do sự phát triển của khoa học công nghệ đã cải thiện công tác giống, chăm sóc lúa, phòng ngừa sâu bệnh…giúp tăng năng suất lúa, nâng cao nguồn cung lúa gạo trong nước. Việc giữ vững và gia tăng sản lượng lúa của cả nước là tiền đề tốt cho việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng như đẩy mạnh xuất khẩu gạo trên thị trường trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, do quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá diễn ra nhanh chóng ở nhiều quốc gia đang phát triển trên thế giới làm cho diện tích đất canh tác bị thu hẹp, điển hình như ở ẤN ĐỘ, PHILIPINES từng là những nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới cũng trở thành nước nhập khẩu gạo. Nguồn cung trên thế giới bị thu hẹp đã tạo cơ hội cho ngành xuất khẩu gạo việt nam phát triển. 2.1.2 Kim ngạch xuất khẩu Trong nhiều năm qua, giá ttrị hạt gạo của Việt Nam thị trường thế giới được nâng cao. Gía gạo được cải thiện và có xu hương tăng qua các năm, dẫn đến kim ngạch xuất khẩu gạo cũng có xu hướng tăng theo. Sản lượng xuất khẩu và giá xuất khẩu bình quân có xu hướng tăng giảm trái ngược nhau. Khối lượng tăng thì giá giảm, giá tăng thì khối lượng giảm. Trong khi đó kim ngạch xuất khẩu gạo lại phụ thhuộc vào hai yêu tố trên, dẫn đến kim ngạch xuất khẩu trong tứng năm không thể tăng cao do luôn chịu sự ảnh hhngr từ sự sụt ggiảm của một trong hai yếu tố đó. Chỉ riêng năm 2008, vừa đat mức tăng về khôi lượng và giá xuất khẩu nên trong năm nay kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh. Bảng 2- KIM NGẠCH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN 2010 Năm Kim ngạch xuất khẩu( triệu USD) Chênh lệch +/- % 2007 1.490 - - 2008 2.910 1.420 95,30 2009 2.463 -447 -15,36 2010 3.000 537 21,80 6th/2010 1.730 - - Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu tăng từ 1.490 triệu USD (năm 2007) lên 2.910 triệu USD, tăng 95,3% tương ứng 1.420 triệu USD đem về nguồn thu ngoại tệ không nhỏ cho ngành xuất khẩu gạo nói riêng, xuất khẩu cả nước nói chung. Đạt được sự tăng trưởng cao như vậy là do khối lượng xuất khẩu trong năm tăng, cùng với mức tăng giá xuất khẩu. Năm 2007 giá xuất khẩu bình quân chỉ đạt 295 USD/tấn,thì đến năm 2008 giá xuất khẩu là 614 USD/tấn, tăng hơn 2 lần so với mức giá xuất khẩu năm trước. Nếu năm 2007 có khối lượng xuất khẩu giảm nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng, thì ngược lại năm 2009 là năm đạt kỉ lục về xuất khẩu gạo so với những năm trước, nhưng kim ngạch lại giảm 15,36% so cùng kì với năm 2008. Nguyên nhân chủ yếu là do giá xuất khẩu binh quân sau khi tăng đột biến năm 2008 đã hạ nhiệt, giảm xuống còn 400 USD/tấn. với mức giảm 214 USD/tấn so với năm 2008. Kim ngạch 6 tháng đầu năm 2010 đạt 1730 ttriệu USD, giảm 1,0% so với 6 tháng đầu năm 2009. Nguyên nhân của sụt giảm này là do giá sàn gạo liên tục tăng trong thời gian qua theo sự điều tiết của chính phủ để đảm bảo nông dân có lãi, trong khi đó chất lượng gạo nước ta còn thấp nên khi tăng giá cao, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong kí hợp đồng với đối tác làm giảm khối lượng gạo xuất khẩu. 2.1.3 Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam Năm 2008 Năm 2008 được xem là năm xuất khẩu gạo gặt hái được thành công nhất trong giai đoạn này. Nếu năm 2007, gạo nước ta xuất khẩu hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ thì năm 2008 con số này đã tăng lên 128 quốc gia và vùng lãnh thổ. Philipines vẫn là nước nhập khẩu gạo lớn nhất của nước ta. Năm 2008, nước này nhập khẩu 1.800 nghìn tấn, với kim ngạch 1.400 triệu USD, chiếm gần 40% lượng gạo xuất khẩu của nước ta. Trong TOP 10 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất năm 2008 thì có 3 thị trường đứng đầu bảng là thị trường truyền thống, chiếm 63,8% về giá trị và 23,3% về lượng, có tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu lớn nhất. Năm 2009 Năm 2009 gạo Việt Nam xuất khẩu sang 20 thị trường chính, nhưng chủ yếu vẫn là xuất sang philipines, Malaysia, Cuba, Singapore. Bảng 3- THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO LỚN NHẤT CỦA VIỆT NĂM 2009 Thị trường xuất khẩu Khôi lượng( tấn) Kim ngạch( USD) Philippines 1.707.994 917.129.956 Malaysia 613.213 272.193.107 Cuba 449.950 191.035.678 Singapore 327.533 133.594.368 Đài loan 204.959 81.616.149 Iraq 171.000 68.947.000 Nga 84.646 37.089.136 Hồnh kông 44.599 20.214.664 Nam phi 37.253 16.367.271 Ucrain 37.562 15.748.969 Nguồn: AGROINFO Xuất khẩu gạo sang thị trưòng Philipines vẫn giữ vị trí đầu với khối lượng hơn 1,7 triệu tấn, giá trị hơn 917 triệu USD, đóng góp hơn một nửa thị phần của toàn khu vực Châu Á, chiếm tới 35% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2009. Tiếp theo la Malaysia, Cuba, Singapore, Đài loan và Iraq. Năm 2009 gạo vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang châu Phi, đạt kim ngạch 587 triệu USD, chiếm 44% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp đôi so với 22% của năm 2008. Năm 2010 BẢNG 4: CHÊNH LỆCH KIM NGẠCH KHẨU NĂM 2010 SO VỚI NĂM 2009 Thị trường xuất khẩu Khối lượng (tấn) Kim ngạch (USD) Chênh lệch kim ngạch so với năm 2009(%) Philippines 1.278.759 819.989.741 -3,42 Singapore 339.046 138.864.526 110,59 Đài loan 288.874 111.491.086 213,36 Maylaisia 181.181 81.578.665 -47,77 Cuba 148.400 66.326.176 -42,22 Hồng kông 71.077 31.286.701 281,19 Nga 30.941 13.384.939 -30,76 Indonesia 16.545 10.023.520 45,61 Nam phi 17.031 6.893.452 -48,69 Ucraina 8.259 3.809.423 -62,24 Các thị trường xuất khẩu gạo của nước ta 6 tháng đầu năm 2010 nhìn chung không thay đổi nhiều so với năm 2009. Nhưng có sự thay đổi về vị trí giữa các thị trường. Philipines vẫn là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của nước ta với khối lượng 1.278 nghìn tấn, trị giá gần 820 triệu USD, giảm 18,26% về khối lượng và giảm 3,42% về kim ngạch so với cùng kì năm trước. Tiếp đến là Singapore với khối lượng 339.046 tấn, kim ngạch đạt gần 139 triệu USD, Đài Loan với khối lượng 288.874 tấn đạt kim ngạch hơn 111 triệu USD. Mặt khác, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu sang 2 nước Malaysia va Cuba lại sụt giảm so với cùng ki năm trước. Malaysia giảm 47,77% về giá trị, Cuba giảm 42,22%. Nhìn năm 2010, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo ở hầu hết các thị trường đều giảm. Chỉ có Singapre, Đài loan, Hồng Công là tăng mạnh. 2.3. Những đánh giá chung và nhân tố ảnh hưởng khả năng xuất khẩu gạo ở Việt Nam trên thị trường Thế giới 2.3.1 Những đánh giá chung 2.3.1.1 Về sản xuất chế biến 2.3.1.1.1 Về sản xuất Trong nhưng năm vừa qua sản xuất lúa gạo Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng bên cạnh đó còn rất nhiềt bất cập tồn tại: - Sản xuất chưa thực sự trở thành ngành sản xuất hàng hoá lớn,chưa có quy hoạch tổng thể và kế hoạch cụ thể về sản xuất lúa gạo xuất khẩu (vùng nào, địa phương, nào bao nhiêu, cơ cấu giống, đầu tư thâm canh). Một sốvùng và địa phương đã hình thành vùng quy hoạch và kế hoạch nhưng vẫn nặng tính tự phát, cục bộkể cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. - Trong vài năm vừa qua diện tích gieo trồng có xu hướng giảm đi, năng xuất , sản lượngtăng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. - Sản xuất lúa gạo đặc sản chưa đước chú trọng một cách thoả đáng. Nguyên nhân: - Mặc dù đã có nhiều cố gắng khắc phục nhưng tình trạng không ổn định của thời tiết cũng đã có ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp đặc biệt cho sản xuất lúa gạo. - Hiện nay với trình độ đo thị hoá cao đã làm giảm một lượng lớn diện tích gieo trồng lúa gạo. - Do sự dịch chuyển cơ cấu gieo trồng nên những diện tích trồng lúa kém hiệu quả được chuyển sang gieo trồng các loại cây trồng hiệu quả hơn hoặc nuôi trồng thuỷ sản. - Trình độ thâm canh của nước ta còn thấp, năng suất lao động chưa cao; công nghệ sản xuất giống lạc hậu do đó giống lúa chất lượng kém, năng xuất thấp còn phổ biến; trình độ cơ giới hoá thấp chủ yếu là lao động thủ công (đặc biệt vùng Đồng bằng sông Hồng). - Với sự ảnh hưởng của một thời gian dài chiến tranh, rồi sang thời kỳ kế hoạch hoá tập trung nước ta không chú trọng tới việc giữ gìn và phát triển các giống lúa đắc sản nên hiện nay lúa ác sản của nước ta chất lượng không cao, năng xuất thấp do đó không được chú trọng trong trông lúa xuất khẩu. 2.3.1.1.2 Công nghệ sau thu hoạch - Cơ sở vật chất phục vụ chế biến, bảo quản xuất khẩu còn yếu kém lại phân bố không đều. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng gạo xuất khẩu hiện nay tuy có đước trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại hơn nhưng số lượng còn ít, chủ yếu được bố chí ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Trpng khi đó, những vùng và địa phương có nhiều lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu như An Gianh, Đồng Tháp, Sóc Trăng…lại không có các nhà máy chế biến và đánh bóng gạo xuất khẩu hiện đại. Đầu mối xuất khẩu gạo tập chung quá lớn ở thành phố Hồ Chí Minh, trong khi đó nguồn gạo là ở Đồng bằng sông Cửu Long, làm tăng chí phí vận chuyển và chí phí trung gian khác. Vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải Nam Trung Bộ tuy có thừa lúa gạo nhưng thu gom, chế biến rất khó khăn nên xuất khẩu không đáng kể. - Tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch khá cao 10 – 12%, trong khi ở các nước tiên tiến như Nhật Bản tỷ lệ này là 3.9 – 5.6%. Nếu lấy mức tổn thất trung bình là 10% và sản lượng lúa năm 2001 là 32 triệu tấn thì mức tổn thất là 3.2 triệu tấn lúa, khoảng 1,92 triệu tấn gạo và tương ứng 460 triệu USD. Để có thêm 3.2 triệu tấn lúa cần có được một diện tích trồng lúa là 640 nghìn ha. Điều này là không thể có được trong thực tế. 2.3.1.2 Về xuất khẩu Xuất khẩu gạo nước ta 3 năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, đóng góp một lượng ngoại tệ lớn cho nền kinh tế trong nước, nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết. Về thị trường Chúng ta vẫn chưa thiết lập được hệ thống thị trường thực sự ổn định với mạng lưới khách hàng thực sự tin cậy. Cho đến nay, phương thức xuất khẩu qua khâu trung gian vẫn còn chiếm tỷ trọng khá lớn, mặc dù chúng ta có nhiều cố gắng để tăng cường xuất khẩu trực tiếp. Đặc biệt việc xuất khẩu qua khâu trung gian vào Châu Phi vẫn còn diễn ra khá phổ biến. Nguyên nhân do việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu chưa được chú trọng, các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần nắm bắt kịp thời mọi thông tin cập nhật, chính xác nhằm bảo đảm hiệu quả hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu. Nhiều năm qua, các nguồn và loại tài liệu về thị trường gạo thế giới phục vụ hoạt động kinh doanh xuất khẩu cũng như phục vụ cho công tác quản lý xuất khẩu và công tác nghiên cứu, nhìn chung còn quá ít ỏi chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu đòi hỏi phải có những thông tin sâu rộng về thị trường để theo dõi kịp thời về hệ thống và diễn biến cung - cầu và giá cả. Chất lượng và chủng loại gạo Hiện nay chất lượng gạo Việt Nam còn thấp, gạo xuất khẩu loại cấp cao năm 2008 là 51.2% đến năm 2010 là 40% ngược lại gạo có phẩm chất thấp lại tăng từ 27.3% đến 45%. Nguyên nhân chính là do trình độ sản xuất và chế biến lúa gạo hiện nay còn quá thấp không theo kịp yêu cầu của thị trường thế giới, không thể cạnh tranh với các nước xuất khẩu gạo khác trên thế giới. Do chưa có sự chú trọng tới chủng loại gạo xuất khẩu nên chủng loại gạo xuất khẩu còn nghèo nàn, không phong phú so với các nước xuất khẩu khác. Về vấn đề tổ chức Việc điều hành xuất khẩu gạo hiện nay đang bộc lộ những nhược điểm. Hạn ngạch xuất khẩu giao từ đầu năm trong khi chưa biết kết quả sản xuất lúa trong năm như thế nào, do đó liên tục phải điều chỉnh kế hoạch, kể cả huỷ hợp đồng đã ký với khách hàng. Hạn ngạch xuất khẩu gạo giao cho từng tỉnh cũng dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương. Từ 2001 tuy đã bỏ quota nhưng tổ chức thu mua xuất khẩu gạo còn nhiều bất cập. Đã xuất hiện tình trạng một số tỉnh báo cáo sản lượng lúa hàng hoá nhiều hơn so với thực tế để xin hạn ngạch xuất khẩu gạo, sau đó lại đi mua gạo của địa phương khác về “tái xuất”. Một số địa phương không có lúa hàng hoá vẫn xin hạn ngạch xuất khẩu gạo và được cấp. Việc phân bố lợi nhuận xuất khẩu gạo giữa người nông dân trồng lúa với các doang nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo chưa hợp lý, trong đó phần thiệt thòi vẫn thuộc về nhà nước và nguời nông dân. Năm 2001 nhà nước phải bù lỗ hàng trăm tỷ đồng để mua tạm trữ 2 triệu tấn là thí dụ rõ nét nhất. Các bộ, ngành chức năng, Hiệp hội lương thực Việt Nam và các địa phương chưa chủ động đưa ra những quyết định quản lý kịp thời vào những thời điểm thị trường có những biến động phức tạp. Dẫn tới những hiện tượng các doanh nghiệp tranh bán khi thị trường tiêu thụ khó khăn, tranh mua khi thị trường xuất khẩu thuận lợi thường xuyên diễn ra, chưa khắc phục được trong những năm qua. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẶT RA CHO XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM 3.1. Hoàn thiện việc tổ chức khâu trồng lúa cung cấp cho xuất khẩu 3.1.1 Thực hiện tốt quy hoạch phân vùng thâm canh trồng lúa cho xuất khẩu Trọng điểm là các Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long vốn có những điều kiện ưu đãi về thổ những, hệ thống kênh mương tưới tiêu nội đồng khá phát triển cũng như tập quán – kinh nghiệm canh tác lúa nước. Đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là vùng lúa trọng điểm số một của nước ta. Trong tương lai, đây vẫn là vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu chủ yếu. Vùng này nên quy hoạch phát triển sản xuất các loại gạo có chất lượng tốt, khối lượng xuất khẩu lớn. Tuy nhiên, dù là vùng sản xuất gạo xuất khẩu loại nào đều phải phấn đấu trước hết về mặt chất lượng. Để nâng cao phẩm chất gạo xuất khẩu, cần chú ý quy hoạch tổng thể hệ thống cơ sở hạ tầng từ sản xuất đến chế biến lúa gạo. Ngoài ra ở vùng này nên tiến thí điểm việc khu vực hoá một số giống lúa chất lượng cao có thể nhập nội. Từng bước tăng dần tỷ lệ gạo xuất khẩu chất lượng cao và một phần lúa gạo đặc sản như Nàng Hương, Chợ Đào… trong cơ cấu gạo xuất khẩu của vùng này. Đối với vùng Đồng bằng sông Hồng. Đây là vùng lúa trọng điểm thứ hai của nước ta. Tuy nhiên vùng này có những mặt hạn chế về số lượng gạo xuất khẩu do đất chật người đông, đất canh tác không được bổ sung độ phì nhiêu tự nhiên hàng năm như ĐBSCL. Nhưng vùng này lại có những ưu thế về mặt chất đất, nguồn nước, thời tiết khí hậu rất thuận lợi cho phát triển các giống lúa đặc sản chất lượng cao như: Tám Thơm, lúa Dự… Đó là các sản phẩm có thể nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường thế giới, trước hết là những nước phát triển như Bắc Mỹ, Tây âu, Nhật Bản. Đồng thời đó cũng là loại gạo có thể thu được lượng ngoại tệ khá cao trên một đơn vị diên tích. Mỗi tỉnh, mỗi huyện trong vùng cần quy haọch từng tiểu vùng, từng huyện, từng xã phục hồi lại các giống lúa truyền thống có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Ngoài ra, cần tiến hành thí điểm khu vực hoá các giống lúa nhập nội có chất lượng cao, năng suất khá của một số nước trong khu vực. Điều đó làm phong phú thêm chủng loại gạo cao cấp cho xuất khẩu, khai thác tốt hơn lợi thế của vùng này trong sản xuất và xuất khẩu gạo. Đối với các vùng khác Nhìn chung những vùng này không có nhiều tiềm năng về xuất khẩu gạo vì diện tích ít, năng suất thấp, thường bị thiếu đói lương thực. Đối với những vùng này cố gắng phấn đấu sản xuất lúa để có thể tự túc được nhu cầu lương thực, góp phần tích cực bảo đảm bền vững yêu cầu an ninh lương thực quốc gia. 3.1.2 Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi về tín dụng, bảo trợ sản xuất Khá động những người trồng lúa xuất khẩu ở nước ta thuộc tầng lớp nghèo của xã hội. Những hộ gia đình xếp loại trung bình của nông thôn đời sống cũng rất khó khăn nên thường xuyên thiếu vốn cho sản xuất. Trong điều kiện hiện nay, để có sản phẩm lúa gạo xuất khẩu trong quá trình trồng trọt chế biến nhiều khi phải tuân thủ quy trình kỹ thuật ngặt nghèo và tốn kém, đặc biệt là các loại lúa đặc sản chất lượng cao. Trong tình hình đó cần có sự hỗ trợ về vốn cho nông dân. Hiện nay với sự ổn định của nền kinh tế các ngân hàng cần tăng cường vốn cho nông dân vay có thể dưới hình thức ngắn hạn hay dài hạn, có như vậy các hộ gia đình mới có điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất theo cả bề rộng lẫn theo chiều sâu. Cùng với tăng số lượng cho vay, cần cấp tín dụng kịp thời đến hộ nông dân đúng thời vụ sản xuất. Có thể nói, sự ràng buộc bởi những quy định hành chính đã kéo dài thời gian làm thủ tục cho vay mỗi lần đến hộ nông dân. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn: ngân hàng Nhà nước thừa tiền cho vay, hộ nông dân vẫn phải đi vay nóng ở các thị trường tín dụng chợ đen. Hiện nay chế độ hành chính đã thông thoáng hơn, Nhà nước đã chú ý nhiều hơn tới việc cho người nông dân vay phát triển sản xuất nhưng vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm cần khắc phục. 3.1.3 Thực hiện đồng bộ các giải pháp khoa học - kỹ thuật trong sản xuất gạo xuất khẩu - Giải pháp về giống lúa: Đây là giải pháp cần đi trước một bước, kể cả nghiên cứu, triển khai và việc áp dụng vào thực tiễn, nhằm tạo ra những tiền đề cơ bản cho các giải pháp kỹ thuật khác phát huy hiệu quả cải tiến cơ cấu sản xuất. + Xúc tiến nhanh việc bình tuyển các loại giống lúa đặc sản của các địa phương, từ đó hình thành quỹ gen về giống lúa chất lượng cao để xuất khẩu. + Hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về giống lúa theo hướng: rút ngắn thời gian từ khâu thử nghiệm đến sản xuất đại trà, đồng thời vẫn giữ được độ an toàn khi đưa các giống mới ra sản xuất đại trà. + Hình thành hệ thống nhân giống lúa thích hợp để thường xuyên thay giống lai tạp bằng giống thuần cho nông dân, do phần lớn các giống lúa mới đều bị xuống cấp nhanh, dễ bị lai tạp. + Mỗi vùng, tỉnh, huyện cần nghiên cứu đế xác định được cơ cấu giống lúa, chủng loại lúa thích hợp với nhu cầu của thị trường ngoài nước. Hiện nay có rất nhiều giống lúa phẩm chất tốt: ngắn ngày, năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng chống chịu được sâu bệnh, hay thiên tai như CR203, OM 80-81,IR58, IR64, các giống lai Trung Quốc, hay các giống đặc sản… nhưng thực sự trong khâu giống chưa có được những đột pháđáng kể, nguyên nhân là do khoa học công nghệ kém phát triển, vốn ít… Do đó nhà nước cần chú ý tới công tác đầu tư nghiên cứu giống đồng thời cần có chính sách ưu đãi đôí với các nhà khoa học, tránh tình trạng các nhà khoa học bỏ công việc nghiên cứu của mình chỉ vì vấn đề thu nhập không thoả đáng. - Giải pháp về phân bón. Đây là giải pháp kỹ thuật cần tiến hành đồng bộ với giải pháp về giống lúa . Vì rằng, phần lớn các loại giống lúa mới kể cả một số giống lúa đặc sản đều chịu được cường độ thâm canh cao, và chỉ trong điều kiện đó các giống lúa mới đạt hiệu quả kinh doanh cao. + Với điều kiện kinh doanh hiện nay cần duy trì việc sử dụng phân hữu cơ truyền thống (phân chuồng, phân xanh…). Do các loại phân hữu cơ rẻ tiền, có tác dụng tốt với cây trồng và đất, có sẵn đặc biệt tại các vùng trồng lúa. Sử dụng loại phân này là một cách tận dụng có hiệu quả chất thải của ngành chăn nuôi, lại có tác dụng bảo vệ môi trường. + Cần chuyển dịch cơ cấu phân bón giữa các loại phân hoá học và phân hữu cơ công nghiệp và phân vi sinh theo hướng tăng dần tỷ trọng phân hữu cơ công nghiệp và phân vi sinh. + Tăng cường sản xuất phân trong nước kết hợp với nhập khẩu các loại phân hoá học tổng hợp. Cách đó vừa để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón vừa tránh lối bón phân đơn điệu kếm hiệu quả của nông dân ta: chỉ chý ý tới bón phân đạm, ít chý ý tới các loại phân lân, kali và các yếu tố vi lượng kkhác. + Cần chấn chỉnh lại cơ chế quản lý sản xuất và nhập khẩu các loại phân bón. + Cần tăng cường quản lý của Nhà nước về lĩnh vực kinh doanh phân bón: đảm bảo quảng cáo chất lượng phân bón trung thực, sản xuất đúng chất lượng đã đăng ký, chống sản xuất phân bón giả… - Giải pháp về phòng trừ sâu bệnh Khi sử dụng thuốc trừ sâu cần chý ý nguyên tắc: đúng chỗ, đúng mức, đúng cách, đúng lúc. Hiện nay việc sử dụng thuốc trừ sâu đang bị lạm dụng ảnh hưởng đến vấn đề kinh tế và sức khoẻ của người nông dân. Do đó cần nâng cao hiểu biết của người nông dân về các loại sâu bệnh cũng như tính năng của các loại hoá chất phòng trừ. Nhà nước cần có biện pháp quản lý chặt chẽ việc sản xuất và mua bán thuốc phòng trừ sâu bệnh trên thị trường tránh được hàng giả xâm nhập thị trường. 3.2. Hoàn thiện khâu tổ chức nguồn hàng cho xuất khẩu Do tổn thất sau thu hoạch còn khá lớn, mất mát ở các công đoạn như: thu hoạch, phơi sấy, vận chuyển, đập tuốt, bảo quản, xay xát, chế biến; điều này có ý nghĩa giá thành lúa gạo tăng lên một cách không cần thiết (12- 15%). Nếu mức tổn thất sau thu hoạch hợp lý là 5- 7% thì đây chính là tiềm năng nâng cao hiệu quả, hạ giá thành sản xuất lúa gạo xuất khẩu. Hiện nay tổng lượng bảo quản lương thực cả nước là 1875 ngàn tấn, nhưng hiệu suất sử dụng mới đạt 57%. Về mặt năng lực chế biến và công nghệ xay xát, cơ bản chúng ta đã đáp ứng dược yêu cầu của các thị trường cấp cao (công suất xay xát thiêt kế là 15 triêụ tấn gạo/năm với các trang thiết bị hiện đại, đồng bộ của Nhật và một số nước tiên tiến kể cả thiết bị tách tấm, phân loại, đánh bóng gạo…). Như vậy, chất lượng gạo chế biến chỉ còn phụ thuộc vào chất lượng nguyên liệu đầu vào, thời gian cần thiết để hạt lúa có thể chuyển hoá hoàn toàn trước khi chế biến là 1,5- 2 tháng lưu kho. Nhưng hầu hết các nhà máy mua tới đâu chế biến tới đó, không có điều kiện kho bãi và khả năng dự trữ. Trên thực tế chỉ đáp ứng 30- 35% tổng chế biến gạo xuất khẩu. Đây có thể là sự lệch pha giữa sản xuất và yêu cầu chế biến gạo cho xuất khẩu có nguồn gốc từ nguyên liệu. Về mặt tổ chức thu mua lúa gạo cho xuất khẩu, hiện nay do chúng ta đã bãi bỏ quy định hạn chế đầu mối xuất khẩu gạo, mà số lượng các đơn vị kinh doanh lên tới khoảng 100 doanh nghiệp. Điều này tạo nên sự cạnh tranh tích cực trong việc thu mua lúa gạo xuất khẩu. Trong đó tổng công ty lương thực miền Bắc (Vinafood I) và tổng công ty lương thực miền Nam (Vinafood II) là hai đơn vị Nhà nước chủ lực đã xuất khẩu khối lượng lớn các hợp đồng chính phủ cũng như các hợp đồng thương maị thuần tuý. Tuy nhiên, theo đánh giá thì hiện 80% lượng lúa hàng hoá ở ĐBSCL lượng mua chủ yếu qua các kênh tư nhân để sau đó bán lại cho các đơn vị kinh doanh xuất khẩu. Vì vây, lúa hàng hoá từ sau khi thu hoạch và xay xát đã liên tục được hcuyển quyền sở hữu đảo kho vận chuyển và sơ chế nhiều lần. Điều này khác với Thái Lan, lúa hàng hoá sau khi thu hoạch được người dân đem bán “tươi” cho các công ty chế biến, rồi thông qua các công ty xuất khẩu để bán ra nước ngoài. Trong khi ở Việt Nam, người nông dân luôn bị động trước giá cả thị trường, thì người xuất khẩu lại không phải là người có hàng, nên xảy ra tình trạng tranh bán khi thị trường tiêu thụ khó kkhăn, tranh mua khi tiêu thụ thuận lợi. Hiện tượng một doanh nghiệp cùng chào bán cho một khách hàng thường xảy ra, đây là nguyên nhân gây ép giá và hiệu quả xuất khẩu lúa gạo thấp. Một số giải pháp giải quyết tình trạng trên: 3.2.1 Hệ thống phơi sấy Sử dụng và lắp đặt hệ thống máy sấy phù hợp, từ đó cần hoàn thiện kỹ thuật và nhân ra diện rộng một số mô hình thiết bị sấy có quy mô phù hợp, sử dụng các loại nguyên liệu rẻ tiền có sẵn tại địa phương (như rơm, trấu, củi, than…) do các cơ sở trong nước nghiên cứu và chế tạo. 3.2.1.1. Tăng cường công nghệ bảo quản thóc gạo theo hướng: - Áp dụng công nghệ và thiết bị bảo quản kín gạo xát trắng, gạo lật bằng cách sử dụng màng PVC trong môi trường khí CO2 hoặc khí N2 trong các kho dự trữ quốc gia và dự trữ kinh doanh. - Sản xuất và áp dụng một số chế phẩm vi sinh, các chế phẩm từ thực vật có tác dụng diệt côn trùng mà không gây độc hại cho người và gia súc không làm nhiễm bẩn môi trường để bảo quản thóc ở các kho lớn và gia đình. - Sản xuất các thiết bị kho chứa có dung tích gia đình từ 200- 2000kg cho các tỉnh phía Bắc và 1000- 5000kg cho các tỉnh phía Nam. - Nâng cấp hệ thống kho chứa, bến bãi tại các đầu mối thu mua thóc gạo ở ĐBSCL. đầu tư vào hệ thống này vừa làm giảm tổn thất vừa nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, đồng thời làm giảm thời gian bốc xếp tại các bến bãi đầu mối. 3.2.1.2. Nâng cao công nghệ xay xát Đối với hệ thống máy móc nhỏ dưới 1 tấn/giờ, nên cải tiến theo kiểu Nhật Bản: dùng máy xay quả lô cao su, sàng phân ly kiểu Yanmar và dùng máy xát Nada. Đối với các máy xay xát 15 tấn/ca cần cải tạo và bổ sung vào đoạn cuối dây truyền các thiết bị tách tấm, đánh bóng, phân loại gạo. Trong tương lai gần, cần trang bị hơn nữa các công nghệ xay xát tiên tiến của thế giới. 3.2.1.3. Nhà nước thực hiện các biện pháp tín dụng hỗ trợ xuất khẩu Nhà nước cần tăng cường cấp tín dụng cho một số doanh nghiệp và địa phương mua tạm trữ lúa gạo đẻ điều tiết cung- cầu, lập quỹ bình ổn giá cả trong nước xây dựng hạ tầng nhà kho, bến bãi, sân phơi, tàu thuyền vận tải phục vụ cho vận chuyển và dự trữ, bảo quản lúa gạo xuất khẩu nghiên cứu xây dựng thí điểm và áp dụng một cơ chế khuyến khích nông dân gửi gạo vào kho chờ tiêu thụ, nhằm giúp người nông dân bảo quản thóc, vừa bảo đảm cho doanh nghiệp có lượng gạo ổn định để xuất khẩu, đảm bảo cho các hợp đồng xuất khẩu đến cuối năm với giá cao. Để có thể tránh “nghịch cảnh” như hiện nay: nhu cầu xuất khẩu gạo trên thế giới đang tăng và các hợp đồng với bạn hành đã cam kết, nhưng giá gạo thu mua nội lại tăng lên vòn vọt, có nguy cơ thua lỗ cho các nhà xuất khẩu nếu thực hiện đúng hợp đồng. 3.3 Đẩy mạnh hoạt động marketing trong xuất khẩu gạo 3.3.1 Các biện pháp thích ứng với thị trường Thị trường xuất khẩu gạo nhìn chung không ổn định về khách hàng và lượng hàng. Thực tế một số nước nhập khẩu gạo cũng là những nước sản xuất nhưng chưa tự túc được lương thực. Để đảm bảo hơn hiệu quả kinh tế xã hội của sản xuất và xuất khẩu gạo, cần nâng caokhả năng thích ứng với những biến động của thị trường thế giới. Để làm được như vậy cần phải: - Kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá các doanh nghiệp xuất khẩu gạo về loại hình doanh nghiệp, về quy mô daonh nghiệp. - Cần có cơ chế mềm trong quản lý và giao hạn ngạch xuất khẩu gạo cho các doanh nghiệp. Có cơ chế quản lý giám sát chặt chẽ xuất khẩu gạo tiểu ngạch thông qua các nước láng giềng nhằm tăng khả năng, cân đối cung cầu gạo trên thị trường nội địa. - Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường để lắm bắt kịp thời nhu cầu gạo, đồng hợp không bị khách hàng ép giá bán cũng như các điều kiện khác. Kinh phí để nghiên cứu thị trường nên có cơ chế để huy động thích hợp từ các doanh nghiệp, giảm gánh nặng đối với ngân sách Nhà nước. - Quan hệ chính trị đối ngoại cần đi trước một bước dể tạo điều kiện cho việc thâm nhập và mở rộng thị trường. Ví dụ như thị trường Châu Phi có nhu cầu lớn, song khả năng thanh toán lại bị giới hạn. Thời gian qua để chiếm lĩnh thi trường này phải thông qua các nước Châu Âu, bán gạo cho họ để họ viện trợ cho các nước Châu Phi. Làm như vậy là do ta có quan hệ tương đối tốt với các nước chủ dự ánviện trợ. Cần phát huy tiếp tục hướng đi này trong thời gian tới. 3.3.2 Các biện pháp chống tranh giành bán gạo ở thị trường thế giới - Thực hiện phân đoạn thị trường theo khu vực cho một số đầu mối xuất khẩu gạo lớn. - Có cơ chế quản lý giá xuất khẩu gạo thích hợp. - Tăng cường hiệp định xuất khẩu gạo cho các nước theo cấp chính phủ. Sự phân bố hạn ngạch hàng năm cần hướng vào các hiệp định, các hợp đồng dài hạn tương đối ổn định. 3.3.3 Nâng cao khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu Để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường gạo thế giới, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp trước hết là những giải pháp cấp bách và thiết thực sau: - Không ngừng nâng cao chất lượng. Nếu muốn vậy phải hoàn thiện từ khâu lai tạo giống lúa, xác định cơ cấu giống phù hợp với nhu cầu thị trường. Tiếp đó cần hoàn chỉnh hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ thu hoạch, bảo quản và xay xát gạo. Hơn nữa để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu cần tăng dần tỷ trọng các loại gạo cao cấp và đặc sản. Điều này có liên quan đến việc quy hoạch các vùng trồng lúa đặc sản; việc xây dựng đồng bộ hệ thống chế biến, vận chuyển; việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa đặc sản. - Cần chủ động chân hàng để chủ động đàm phán và thực hiện nhanh chóng các hợp đồng đã ký kết, nhất là trong khâu giao hàng. Hiện nay tâm lý khách nước ngoài chưa thật tin tưởng vào khả năng thực hiện hợp đồng của nhiều doanh nghiệp Việt Nam và cũng rất ngại thời gian giao hàng tại cảng bị kéo dài. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới giá xuất khẩu gạo của Việt Nam thường thấp hơn giá xuất khẩu gạo của Thái Lan. Để chủ động chân hàng cần tăng cường dự trữ kinh doanh, kết hợp giữa dự trữ quốc gia và dự trữ kinh doanh xuất khẩu gạo. - Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần xây dựng cho mình một thương hiệu có uy tín trên thị trường quốc tế. Hiện nay, rất nhiều nông sản Việt Nam bị các công ty nước ngoài đăng ký bản quyền, do đó các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần chú ý tới vấn đề bản quyền và nghiên cứu kỹ về luật kinh doanh ở những nước mà mình xuất khẩu. Hiện nay kiến thức về luật kinh doanh của các công ty còn rất kếm đó cũng là nguyên nhân làm cho các công ty này luôn thua thiệt trên thị trường quốc tế. Khắc phục tình trạng này nỗ lực chính là từ các công ty và Nhà nước cũng cần kết hợp với các công ty trong vấn đề này bởi trên thị trường quốc tế mọi vấn đề đều liên quan đến lợi ích quốc gia. - Đầu tư thoả đáng cho việc xây dựng đồng bộ hệ thống chế biến, giao thông vận chuyển, cảng khẩu, hệ thống thiết bị bốc xếp tại các bến bãi đầu mối. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc rút ngắn thời gian bốc xếp gạo xuất khẩu. Giảm hao hụt về số lượng, tăng cường chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu gạo. - Về quan hệ đối ngoại, cần tăng cường liên minh với các nước xuất khẩu gạo trước hết là với Thái Lan tăng cường quan hệ với các trung tâm tài chính quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu gạo trược tiếp, đa phương hoá các hình thức như hiệp định dài hạn xuất khẩu, tín dụng xuất khẩu, đấu thầu xuất khẩu … 3.3.4 Các giải pháp mở rộng thị trường Trong thời gian tới cần tăng nhanh tỷ trọng gạo đặc sản trong xuất khẩu. Nên coi đó là một trong những phương sách để mở rộng thị trường gạo cao cấp như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản… Từ uy tín của gạo đặc sản để mở rộng thị trường tiêu thu các loại gạo thông thường. Hợp tác với các nước Tây âu và các tổ chức quốc tế để tranh thủ bán gạo theo các chương trình viện trợ cho Châu Phi. Giải pháp này cần được coi như một trong những phương sách để mở rộng thị trường xuất khẩu gạo. Hiện nay gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước, một số nước đã trở thành bạn hàng truyền thống nhưng việc ổn định các thị trường này cũng cần phải đưọc chú ý, bởi đây là những thị trường dễ tính, phù hợp với gạo Việt Nam. Do đó trong xuất khẩu cần luôn đảm bảo uy tín về chất lượng, thời gian, lượng hàng…đồng thời cần luôn có những biện pháp thị trường để tăng cầu. Bên cạnh đó cần chú ý tới việc mởi rộng thị trường ở các nước này, cần lắm vững đặc tính của từng vùng để có thể cung cấp tốt nhất loại gạo phù hợp với thị hiếu khách hàng. Cùng với phát triển kinh tế, tiềm lực tài chính của Nhà nước ta sẽ lớn mạnh, theo đà đó cần tăng cường trợ cấp cho xuất khẩu gạo. Có thể trong vòng một vài thập niên tới, ý nghĩa xuất khẩu gạo để thu ngoại tệ về tỷ trọng sẽ giảm dần nhưng ý nghĩa về tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động vẫn không bị giảm sút. Đồng thời khi một số lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta bị giảm dần thì khi đó biện pháp trợ cấp sản xuất gạo sẽ phải tăng dần lên về mức độ. Tình hình đó cần lường trước ngay từ bây giờ để có định hướng phát triển thích hợp. 3.4. Đổi mới một số chính sách vĩ mô 3.4.1 Nhất quán chính sách kuyến khích nhiều thành phần kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu gạo Đây là một trong các chính sách có tác dụnh khai thác mọi tiềm năng để phát triển kinh tế, trong đó có lúa gạo. trong lĩnh vực xuất khẩu gạo cần có nhiều thành phần kinh tế tham gia, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh, khả năng thích ứng linh hoạt với thị trường gạo thế giới. Điều quan trọng để công tác xuất khẩu gạo đi vào nền nếp là khâu quản lý Nhà nước theo luật pháp trong hoạt động này. Dù doanh nghiệp Nhà nước hay tư nhân, đều phải kinh doanh theo đúng pháp luật quy định. 3.4.2 Hoàn thiện chính sách ruộng đất Trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo, chính sách ruộng đất thời gian qua đã trực tiếp tạo ra động lực mới ở nông thôn. Chính sách này đã đi theo hướng chuyển dần ruộng đát từ chỗ được làm chủ bởi các tập thể đến chỗ được làm chủ bởi hộ nông dân, từ chỗ người nông dân chỉ được chủ động một số khâu công việc trogn quá trình trồng lúa đến chỗ họ được làm chủ toàn bộ quá trình đó – làm chủ việc sử dụng ruộng đất. Trong quá trình triển khai luật đất đai cần hoàn thiện một số vấn đề: - Cần khẩn trương thể chế hoá 5 quyềncủa người được giao đất. Trong đó phải làm rõ để thực hiện 5 quyền người đuợc giao đất cần làm những thủ tục gì? ở đâu?.. - Nhà nước cần phân cấp rõ ràng trong việc theo rõi sự vận động đa rạng và phức tạp các quan hệ đất đai, đưa việc quản lý đất đai vào nền nếp. 3.4.3 Hoàn thiện chính sách về chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ đến hộ nông dân Tăng cường xuất khẩu gạo không phải là vấn đề có thể giải quyết trong một thời gian ngắn, nó đòi hỏi phải có thời gian đáng kể. Chính vì vậy để thực hiện thành công cần có sự kết hợp tất cả các biện pháp, tất cả các cấp từ trung ương tới địa phương, và tất cả mọi người dân trong nước. PHẦN 3. KẾT LUẬN Trong những năm qua, khói lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng, điều đó cho thấy khả năng huy động sản lượng gạo cho xuất khẩu của nước ta ngày càng được nâng cao. Hơn nữa chất lượng gạo xuất khẩu gạo hiện nay cũng đang được nước ta quan tâm nhiêu hơn cả từ lựa chọn giống mới và đầu tư thiết bị chế biến. Bên cạnh đó, việc khẳng định và phát huy ngayf càng cao hơn nữa vị thế là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới dựa trên những thế mạnh và tiềm năng sẵn có cùng các chủ trương, chính sách kịp thời là một hướng đi đặc biệt cần thiết. Cũng vì vậy mà đề tài xuất khẩu gạo vẫn luôn là vấn đề quan trọng cho việc mở rộng thêm thi phần và sản xuất những loai gạo chất lượng cao, đáp ứng đa dạng các nhu cầu trong nước và thé giới, góp phần không nhỏ cho cong nghiệp hoá –Hiện đại hoá đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế nông nghiệp, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, Khoa Kinh Tế Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, Nhà xuất bản thống kê 2. Giáo trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Khoa Kinh Tế Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, Nhà xuất bản thống kê - Hà Nội 2001 3. PTS. Nguyễn Trung Vãn, Lương thực Việt Nam thời đổi mới, hướng xuất khẩu, Nhà xuất bản chính trị quốc gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_cuong_chi_tiet_827.doc
Luận văn liên quan