Luận văn Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về chống khủng bố

Luận văn dài 110 trang 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay. Trong quá trình toàn cầu hoá, bên cạnh những mặt tích cực còn xuất hiện những mặt trái của nó mà mỗi quốc gia không thể tự giải quyết được. Một trong những vấn đề thuộc mặt trái của toàn cầu hoá đó là khủng bố quốc tế. Khủng bố ban đầu xuất hiện là những tội phạm quốc gia, cùng với quá trình toàn cầu hoá, tội phạm này hiện nay là mối đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế, điển hình là vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, vụ khủng bố Trường trung học Beslan của Nga, vụ khủng bố các toa xe lửa ở Mardrit, Tây Ban Nha Trước sự phát triển của khủng bố quốc tế, cộng đồng quốc tế đã có nhiều nỗ lực nhằm ngăn chặn tội phạm này, trong đó có việc xây dựng các văn bản pháp luật quốc tế về chống khủng bố. Việc xây dựng văn bản pháp luật quốc tế về chống khủng bố được tiến hành từ những năm đầu thế kỷ XX nhưng tới năm 1963 mới cho ra đời điều ước quốc tế về chống khủng bố đầu tiên. Hiện nay, pháp luật quốc tế về chống khủng bố bao gồm 12 điều ước đa phương thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc, 8 điều ước khu vực và rất nhiều điều ước quốc tế song phương Tuy nhiên, pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện chưa hoàn chỉnh, chưa có điều ước nào đưa ra được định nghĩa về khủng bố vì thế hiện tại chưa thể phân biệt một cách rõ ràng hành vi khủng bố và các hành vi khác theo quy định tại các điều ước này. Đề tài luận văn được thực hiện nhằm đưa ra khái niệm ban đầu về khủng bố, giúp phân biệt khủng bố và các tội phạm khác có cấu thành gần giống trên cơ sơ nghiên cứu các quan điểm về khủng bố hiện nay trên thế giới. Đây là vấn đề có tính cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh chống khủng bố quốc tế, đồng thời hạn chế hành xử tuỳ tiện của các quốc gia trong cuộc chiến chống khủng bố. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên 8 điều ước quốc tế về chống khủng bố, tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay mà đặc biệt là Bộ luật hình sự - công cụ đặc biệt quan trọng trong đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội khủng bố nói riêng chưa tương thích với pháp luật quốc tế. Chính vì thế, việc nghiên cứu, sửa đổi các quy định tại Bộ luật hình sự là việc làm cần thiết hiện nay để nâng cao hiệu hợp tác đấu tranh chống loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm này. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Hiện nay ở Việt Nam, việc nghiên cứu pháp luật quốc tế về chống khủng bố không nhiều. Ở cấp độ luận văn chỉ có một đề tài của tác giả Nguyễn Long tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có tên: “Pháp luật quốc tế về chống khủng bố - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Ngoài ra, còn một số sách tham khảo giới thiệu các công ước quốc tế về chống khủng bố và các bài viết hội thảo về vấn đề này. Trên thế giới cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả về khủng bố quốc tế như Schmid Alex, Bruce Hoffman tuy nhiên các nghiên cứu tập trung phân tích nguyên nhân làm phát sinh khủng bố và các mặt chính trị - xã hội xung quanh nó mà ít đề cập đến vấn đề pháp lý. 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Đề tài đề cập vấn đề khá thời sự hiện nay trên thế giới: Khủng bố quốc tế. Câu hỏi: Thế nào là khủng bố cũng là vấn đề gây tranh luận gay gắt giữa các quốc gia cũng như các nhà nghiên cứu và là trở lực lớn cho việc thông qua Công ước chung về chống khủng bố. Chính vì thế, đề tài đi vào kiến giải câu hỏi này dựa trên những biểu hiện khách quan của hành vi khủng bố cũng như các quan điểm hiện nay trên thế giới về khủng bố. Qua đó, đề tài cũng góp phần vào việc nghiên cứu thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề này góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố giữa Việt Nam với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý xung quanh một vấn đề thời sự hiện nay: Khủng bố quốc tế với nguồn chủ yếu là các điều ước quốc tế về chống khủng bố và quy định pháp luật quốc gia về vấn đề này, trong đó đặc biệt là Việt Nam. Đề tài không đi sâu về các nguyên nhân làm phát sinh khủng bố cũng như các vấn đề chính trị - xã hội xung quanh nó mà chủ yếu xem xét khủng bố dưới góc độ pháp lý - một tội phạm nguy hiểm cần phải bị loại trừ ra khỏi đời sống nhân loại. Phương pháp nghiên cứu của đề tài chủ yếu là phân tích, so sánh, liệt kê với nền tảng là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và pháp biện chứng duy vật. 5. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Đề tài nghiên cứu vấn đề còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam: Khủng bố quốc tế. Việc nghiên cứu đề tài vì vậy sẽ mở ra những nghiên cứu tiếp theo sâu sắc hơn. Không những thế, những nghiên cứu của đề tài sẽ trả lời câu hỏi: Thế nào là khủng bố - một vấn đề gây tranh luận gay gắt hiện nay giữa các quốc gia và các nhà nghiên cứu và là nguyên nhân chính cản trở việc thông qua Công ước quốc tế chung về chống khủng bố. Đây mới chỉ là nghiên cứu bước đầu với kết quả còn khiêm tốn nhưng cách lý giải về khủng bố trên cơ sở pháp lý tại luận văn hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu tiếp theo. Luận văn cũng phân tích và nêu ra thực trạng và các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế của Việt Nam trong đấu tranh chống tội phạm này. 6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương: Chương 1 trình bày những vấn đề cơ bản nhất về khủng bố và pháp luật quốc tế về chống khủng bố, trong đó có nêu ra các quan điểm hiện nay trên thế giới về khủng bố, định nghĩa khủng bố cũng như các đặc điểm phân biệt khủng bố và các tội phạm khác. Chương 2 trình bày nội dung cơ bản của pháp luật quốc tế về chống khủng bố, trong đó có các nguyên tắc cơ bản trong đấu tranh chống khủng bố, các hành vi khủng bố nêu tại các điều ước quốc tế, nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia Chương 3 trình bày thực trạng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện các quy định này nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố của nước ta.

doc110 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3520 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về chống khủng bố, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư: xác định quyền tài phán của các quốc gia đối với cá nhân phạm tội, nghĩa vụ của các quốc gia trong việc tội phạm hoá các hành vi quy định tại các công ước, nghĩa vụ của các quốc gia trong việc tao đổi thông tin về tội phạm, dẫn độ… Tuy nhiên, các quy định này hiện đang nằm rải rác ở các văn bản khác nhau tạo ra việc không thống nhất, gây khó khăn cho việc áp dụng. Đây chính là điểm hạn chế lớn nhất của pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay cần sớm được hoàn thiện trong tương lai nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống tội phạm này. CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ 3.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ TẠI VIỆT NAM Khủng bố hiện nay là một trong những nguy cơ đe dọa nghiêm trọng hòa bình và an ninh quốc tế. Nhằm chung tay cùng cộng đồng quốc tế đấu tranh chống lại tội phạm này, Việt Nam đã tích cực tham gia các công ước quốc tế về chống khủng bố, đồng thời nghiên cứu và thực hiện khuyến nghị của các tổ chức quốc tế về vấn đề này. Cụ thể, Việt Nam là thành viên của 8/13 điều ước quốc tế đa phương thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc về chống khủng bố và đang nghiên cứu gia nhập các công ước còn lại; là thành viên của Công ước ASEAN về chống khủng bố; ngoài ra chúng ta còn ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương về vấn đề này mà gần đây, ngày 22/8/2007, chúng ta ký với Thổ Nhĩ Kỳ Hiệp định về hợp tác đấu tranh phòng chống khủng bố quốc tế, tội phạm có tổ chức, buôn bán trái phép các chất ma túy, các chất hướng thần, các chất tương tự, tiền chất và các loại tội phạm khác(() Hiệp định này được ký tại Akara, Thổ Nhĩ Kỳ ngày 22/08/2007, có hiệu lực từ ngày 17/07/2008. ). Mặt khác, Việt Nam cũng tích cực nghiên cứu và tuân thủ các khuyến nghị của các tổ chức quốc tế liên quan đến khủng bố, đặc biệt Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã dịch và thực hiện 49 khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền (FATF) về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố(() Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) là tổ chức chuyên nghiên cứu, đưa ra những chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, được thành lập tại Hội nghị thượng đỉnh của nhóm G7, ở Paris, vào năm 1989. Hiện tại, FATF có 34 quốc gia thành viên, 2 quốc gia quan sát viên và 5 tổ chức khu vực là thành viên liên kết. 49 khuyến nghị về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố do FATF ban hành gồm 40 khuyến nghị về chống rửa tiền và 9 khuyến nghị đặc biệt về chống tài trợ khủng bố. 40 khuyến nghị được ban hành lần đầu tiên vào năm 1990, đã được sửa đổi vào năm 1996 và năm 2003 để theo kịp các phương thức rửa tiền ngày càng tinh vi của bọn tội phạm. Từ sau vụ khủng bố tháng 9/2001 tại Mỹ, vào tháng 10/2001, FATF đã mở rộng trách nhiệm giải quyết các vấn đề về tài trợ khủng bố và đã xây dựng 8 khuyến nghị đặc biệt chống tài trợ khủng bố. Vào tháng 10/2004, FATF đã thông qua khuyến nghị đặc biệt (khuyến nghị IX) liên quan đến người vận chuyển tiền mặt qua biên giới. ). Như trên đã đề cập, đến nay Việt Nam đã gia nhập và là thành viên của 8 điều ước quốc tế về chống khủng bố, đó là Công ước Tokyo 1963 về các tội và các hành vi khác thực hiện trên tàu bay(() Việt Nam gia nhập năm 1979 và có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 8/01/1980, tuy nhiên, Việt Nam tuyên bố bảo lưu Điều 24 (1) liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về áp dụng và giải thích Công ước. ), Công ước Lahaye 1970 về trấn áp hành vi chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay(() như trên, Việt Nam bảo lưu Điều 12 (1). ), Công ước Montreal 1971 về trấn áp các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng(() như trên, Việt Nam bảo lưu Điều 14 (1). ), Công ước New York 1973 về ngăn chặn và trừng phạt các tội ác chống lại những người được bảo hộ bao gồm viên chức ngoại giao(() Việt Nam gia nhập năm 2002, có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 1/6/2002. Công ước này Việt Nam cũng bảo lưu Điều 13 (1). ), Nghị định thư Montreal 1988 về trấn áp các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế(() Việt Nam gia nhập năm 1999, có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 24/9/1999. ), Công ước Rome 1988 về trấn áp các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải(()Việt Nam gia nhập năm 2002, có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 10/10/2002, chúng ta bảo lưu Điều 16 (1) ), Nghị định thư Rome 1988 về trấn áp các hành vi bất hợp pháp chống lại các công trình cố định trên thềm lục địa(()Việt Nam gia nhập năm 2002, có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 10/10/2002 ), Công ước New York 1999 về trừng trị việc tài trợ khủng bố(()Việt Nam gia nhập năm 2002, có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 24/10/2002, chúng ta bảo lưu Điều 24 (1), đồng thời tuyên bố các quy định của Công ước sẽ không áp dụng với các tội phạm được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa là thành viên, đó là: Công ước New York 1979 về chống bắt cóc con tin, Công ước Viên 1980 về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân, Công ước New York 1997 về trừng trị tội khủng bố bằng bom. ). Trong hệ thống pháp luật quốc gia, các quy định quan trọng nhất nhằm đấu tranh trừng trị tội khủng bố nằm trong Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự là văn bản duy nhất của Việt Nam quy định về tội phạm và hình phạt, ghi nhận hành vi khủng bố tại Bộ luật hình sự thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước ta đối với hành vi này. Việt Nam mới đây (ngày 26/9/2009) đã có những sửa đổi căn bản Bộ luật hình sự nhằm phù hợp hơn với pháp luật các quốc gia trên thế giới và pháp luật quốc tế về chống khủng bố. Các quy định của pháp luật quốc tế hiện nay về các hành vi khủng bố như xâm phạm an toàn hàng không, hàng hải, tài trợ khủng bố, bắt cóc con tin… đều được ghi nhận tại Bộ luật hình sự. Bên cạnh Bộ luật hình sự, Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp lý giúp cho việc phòng ngừa, phát hiện và hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống khủng bố. Trước tiên phải kể đến đó là các quy định về quản lý và kiểm soát vũ khí, chất nổ, chất độc hóa học, chất phóng xạ… đây là những công cụ, phương tiện thường được sử dụng trong các vụ khủng bố. Kiểm soát chặt chẽ các loại công cụ, phương tiện này chính là công tác quan trọng nhằm ngăn ngừa tội phạm. Liên quan đến vấn đề này chúng ta có một hệ thống các quy định khá đồ sộ, có thể kể ra một số văn bản sau: Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 về quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; Nghị định số 27/CP ngày 20/4/1995 về quản lý, sản xuất, cung ứng và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp; Nghị định số 39/2009/NĐ-CP ngày 23/4/2009 về vật liểu nổ công nghiệp; Nghị định số 148/2006/NĐ-CP ngày 04/12/2006  về quy hoạch, xây dựng, quản lý và bảo vệ vành đai an toàn các kho đạn dược, vật liệu nổ, nhà máy sản xuất đạn dược, vật liệu nổ do Bộ Quốc phòng quản lý; Thông tư số 05/TT-BNV(C13) ngày 28/9/1996 hướng dẫn thực hiện một số vấn đề trong Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ về quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; Thông tư số 1691/TT-QP ngày 8/7/1997 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ về quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; Thông tư số 09/1998/TTLT-TDTT-CA ngày 26/12/1998 hướng dẫn việc quản lý, trang bị, sử dụng, bảo quản, vận chuyển, sửa chữa, mang vào, mang ra khỏi Việt Nam và thanh lý, tiêu huỷ các loại vũ khí thể thao; Quyết định số 19/2001/QĐ-BTC ngày 28/3/2001 về việc ban hành mức thu lệ phí về cấp giấy phép sử dụng, vận chuyển, mua và sửa chữa các loại vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; Quyết định số 03/2006/QĐ-BCN ngày 14/3/2006 về việc ban hành Danh mục vật liệu nổ công nghiệp được phép sản xuất và sử dụng tại Việt Nam; Quyết định số 51/2008/QĐ-BCT ngày 30/12/2008 về ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong bảo quản, vận chuyển, sử dụng và tiêu hủy vật liệu nổ công nghiệp; Quyết định số 31/2008/QĐ-BCT  ngày 22/9/2008 ban hành mẫu Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp, Giấy chứng nhận đủ điều kiện trong ngành công thương; … Bên cạnh các quy định về quản lý vật liệu nổ, chúng ta cũng ban hành các quy định về quản lý biên giới, chống lại các hoạt động vận chuyển vũ khí, chất cháy, chất nổ qua biên giới, vượt biên và kiểm soát các đối tượng xuất nhập cảnh. Cụ thể: Pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2000; Nghị định của Chính phủ số 21/2001/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định của Chính phủ số 136/2007/NĐ-CP về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam. … Bên cạnh đó Việt Nam cũng quy định cụ thể nhiệm vụ của các bộ, ban ngành trong việc đấu tranh chống khủng bố trong đó lực lượng nòng cốt là Công an và Quân đội. Mặt khác, Việt Nam cũng rất chủ động trong việc phòng ngừa các phương thức khủng bố mới xuất hiện trên thế giới như khủng bố sinh học, hoá học. Vì thế, ngày 31/7/2003 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 158/2003/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế tạm thời xử lý các vụ thư, bưu phẩm, bưu kiện có chứa chất lạ, vật lạ nghi liên quan đến vũ khí sinh học, hoá học. Trong cuộc đấu tranh chống khủng bố, cộng đồng quốc tế đã xác định việc ngăn chặn nguồn tài chính cung cấp cho các tổ chức khủng bố là hoạt động quan trọng giúp ngăn ngừa các hành vi tội phạm này. Nghị quyết số 1373 (2001) của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc kêu gọi các quốc gia phải hình sự hoá hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố và phong toả các nguồn tài chính không rõ nguồn gốc, các nguồn tài chính bị nghi ngờ dùng để giúp cho việc thực hiện các hành vi khủng bố, đào tạo khủng bố. Thực hiện Nghị quyết của Hội đồng bảo an và các quy định trong Công ước New York 1999 về trừng trị hành vi tài trợ khủng bố, ngoài việc hình sự hoá hành vi này Việt Nam còn có hàng loạt các quy định liên quan, cụ thể: Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành; Nghị định của Chính phủ số 74/2005/NĐ-CP ngày 7/6/2005 về phòng chống rửa tiền; Quyết định số 1002/QĐ-NHNN ngày 08/7/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (Trung tâm thông tin chống rửa tiền thuộc NHNN chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/8/2005); Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 470/QĐ-TTg ngày 13/4/2009 về việc thành lập Ban chỉ đạo phòng chống rửa tiền. … Chống rửa tiền và tài trợ khủng bố là hai mặt của một vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau. Rửa tiền là hành động chuyển lợi nhuận thu được từ những hoạt động phạm pháp sang lợi nhuận hợp pháp, trong điều kiện chống khủng bố hiện nay thì việc chuyển những khoản tiền hợp pháp để phục vụ cho mục đích khủng bố cũng được coi là một dạng rửa tiền [11]. Việc thành lập Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền và Ban chỉ đạo phòng chống rửa tiền ở Việt Nam thể hiện quyết tâm của Nhà nước ta trong việc đấu tranh chống tội phạm này, đồng thời đây sẽ là đầu mối giúp cho việc hợp tác quốc tế tốt hơn đấu tranh và ngăn chặn kịp thời các hành vi khủng bố. Trong tình hình hiện nay, khi mà các hoạt động khủng bố ngày càng diễn ra phức tạp, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 25/2007/CT-TTg về công tác phòng, chống khủng bố trong tình hình mới. Chỉ thị nhấn mạnh “Công tác phòng, chống khủng bố phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và sự chỉ đạo của Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm chỉ huy thống nhất các lực lượng phòng, chống khủng bố, trong đó công an và quân đội là lực lượng nòng cốt. Công tác phòng, chống khủng bố phải lấy phòng, ngừa là chính, chủ động nắm chắc tình hình, phát hiện âm mưu ngay từ xa, từ sớm; phải dự báo được các tình huống, các khả năng có thể xảy ra để xây dựng phương án, kế hoạch đấu tranh; tập trung xử lý, vô hiệu hoá mọi kế hoạch khủng bố, phá hoại, không để bị động, bất ngờ. Đặc biệt chú ý hoạt động khủng bố, phá hoại tại các thành phố lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và các địa bàn chiến lược, các công trình trọng điểm quốc gia”. Như trên đã trình bày, có thể thấy Việt Nam là một trong những quốc gia có hệ thống pháp luật về đấu tranh phòng, chống khủng bố khá toàn diện. Đây chính là một trong những nguyên nhân giúp cho nước ta được đánh giá là một trong những quốc gia an toàn nhất thế giới và hầu như không có sự xuất hiện của các tổ chức khủng bố quốc tế. 3.2. TỘI KHỦNG BỐ VÀ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN KHỦNG BỐ THEO QUY ĐỊNH TẠI BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Pháp luật hình sự là một trong những công cụ quan trọng trong cuộc đấu tranh chống khủng bố mà hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng bởi việc ghi nhận một hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó vào luật hình sự đồng nghĩa với thái độ nghiêm khắc và quyết tâm cao nhất của nhà nước trong việc loại trừ hành vi đó ra khỏi đời sống xã hội. Khủng bố không những là hành vi xâm phạm các quyền cơ bản nhất của con người, xâm phạm an ninh quốc gia mà còn xâm phạm đến hoà bình và an ninh quốc tế nên yêu cầu ghi nhận hành vi này tại pháp luật hình sự quốc gia chính là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi quốc gia theo quy định tại các công ước quốc tế về chống khủng bố. Ở Việt Nam, nhằm chung tay cùng cộng đồng quốc tế đấu tranh chống khủng bố, các quy định về tội phạm này ngày càng được hoàn thiện qua sự phát triển của pháp luật hình sự. 3.2.1. Tội khủng bố và các tội phạm có liên quan theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 Ở Việt Nam, tội khủng bố lần đầu tiên được ghi nhận tại Bộ luật hình sự năm 1985, nằm trong Chương I – Các tội xâm phạm an ninh quốc gia và được xếp vào mục A – Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia. Bên cạnh tội khủng bố, Bộ luật hình sự năm 1985 cũng quy định các tội phạm khác có liên quan như tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 87); tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 94); tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ (Điều 96), đây là các tội phạm được ghi nhận tại các công ước quốc tế về chống khủng bố và yêu cầu các quốc gia thành viên phải nội luật hóa. Tại Bộ luật hình sự năm 1985 tội khủng bố được ghi nhận tại Điều 78 như sau: “1. Người nào xâm phạm tính mạng của nhân viên Nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội hoặc công nhân nhằm chống chính quyền nhân dân thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. 2- Phạm tội trong trường hợp xâm phạm tự do thân thể, sức khoẻ thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 3- Phạm tội trong trường hợp đe doạ xâm phạm tính mạng hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 4- Khủng bố người nước ngoài nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cũng bị xử phạt theo Điều này”. Như vậy, theo Bộ luật hình sự năm 1985, có thể định nghĩa khủng bố là hành vi xâm phạm, đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của nhân viên nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội và công nhân nhằm chống chính quyền nhân dân hoặc thực hiện các hành vi đó với người nước ngoài nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của Việt Nam. Bộ luật hình sự năm 1985 được xây dựng sau 10 năm thống nhất đất nước, chúng ta mới ở trong giai đoạn đầu hòa bình, ổn định xây dựng đất nước nên nhìn chung pháp luật, đặc biệt là luật hình sự còn chịu ảnh hưởng của pháp luật giai đoạn trước đó – giai đoạn thực hiện cách mạng giải phóng miền Nam. Chính vì thế tội khủng bố và các tội phạm có liên quan đến khủng bố quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 đều nhằm bảo vệ an ninh quốc gia trong đó tội khủng bố được xác định là tội đặc biệt nguy hiểm đến an ninh quốc gia còn các tội liên quan nằm trong nhóm “Các tội phạm khác xâm phạm an ninh quốc gia”. Khách thể của tội khủng bố quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 rất hẹp, chỉ bao gồm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của một số đối tượng nhất định, đó là công nhân, cán bộ, viên chức nhà nước. Việc xâm phạm tài sản hay tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của các đối tượng khác không phải là công nhân, viên chức nhà nước không bị coi là phạm tội khủng bố. Hơn nữa, theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985, tính mục đích của hành vi khủng bố cũng được đặt ra, đó là “nhằm chống chính quyền nhân dân”, không có mục đích này cũng không bị coi là phạm tội khủng bố. Như vậy, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội khủng bố với phạm vi rất hẹp và với lý luận và thực tiễn về khủng bố quốc tế lúc bấy giờ thì có độ vênh rất lớn giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Hơn thế nữa, vào thời điểm ra đời và có hiệu lực của Bộ luật hình sự năm 1985 (từ ngày 1/1/1986) thì Việt Nam đã là thành viên của 3 công ước quốc tế về chống khủng bố thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc, đó là Công ước Tokyo 1963, Công ước Lahay 1970, Công ước Montreal 1971 nên việc quy định phạm vi hành vi khủng bố hẹp tại pháp luật quốc gia sẽ gây khó khăn cho việc hợp tác quốc tế chống khủng bố. Tuy quy định về tội khủng bố còn nhiều hạn chế nhưng Bộ luật hình sự năm 1985 cũng đã có nhiều quy định góp phần đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm này. Đó là các quy định về các tội chế tạo, tang trữ vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 95); tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ (Điều 96); tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 119); Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (Điều 76); Tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ (Điều 87); Tội vi phạm các quy định về hàng không, hàng hải (Điều 90, 91). Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ra đời thay thế Bộ luật năm 1985 vẫn xếp khủng bố vào Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, là một trong các tội phạm nghiêm trọng nhất tại phần Các tội phạm. Điều 84 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “1. Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc công dân thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. 2. Phạm tội trong trường hợp xâm phạm tự do thân thể, sức khoẻ thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 3. Phạm tội trong trường hợp đe doạ xâm phạm tính mạng hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 4. Khủng bố người nước ngoài nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , thì cũng bị xử phạt theo Điều này”. Về cơ bản quy định này không có gì khác so với Bộ luật hình sự năm 1985, tội khủng bố theo quy định tại Bộ luật năm 1999 là hành vi xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của cán bộ, công chức hoặc công dân nhằm chống chính quyền nhân dân. Khách thể của tội phạm vẫn là tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của con người và dấu hiệu mục đích là bắt buộc trong cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, so với quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 thì Bộ luật năm 1999 có mở rộng phạm vi khách thể hơn, không chỉ là tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của công nhân viên chức nhà nước, người nước ngoài mà còn bao gồm cả công dân Việt Nam nói chung. Ở Việt Nam, Bộ luật hình sự không phải là văn bản duy nhất đưa ra khái niệm về khủng bố. Khái niệm khủng bố từng được nêu tương đối chính xác tại Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính số 142-TCQĐ ngày 2/5/1991 về việc ban hành Quy tắc và biểu phí bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt. Tại điểm c khoản 1 Điều 3 Quy tắc ban hành kèm theo Quyết định này có ghi nhận “Khủng bố nghĩa là sử dụng bạo lực nhằm các mục đích chính trị, bao gồm cả việc sử dụng bạo lực nhằm gây hoang mang trong xã hội hay một bộ phận xã hội”. Đáng tiếc tại Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đã không quy định tội khủng bố theo hướng này. Tuy chưa khắc phục được nhiều những hạn chế tại Bộ luật năm 1985 nhưng Bộ luật hình sự năm 1999 cũng đã bổ sung nhiều quy định góp phần đấu tranh chống khủng bố theo quy định tại các công ước quốc tế về chống khủng bố, đó là tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221); Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 230); Tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231); Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ (Điều 232); Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ (Điều 235); Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ (Điều 237); Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc (Điều 238). Các quy định trên góp phần trừng trị và ngăn ngừa các hành vi khủng bố. Các quy định về quản lý vật liệu nổ, quản lý an toàn vật liệu hạt nhân đã được ghi nhận tại các công ước quốc tế về chống khủng bố và mặc dù chưa gia nhập các công ước đó nhưng pháp luật hình sự Việt Nam đã ghi nhận các tội phạm loại này, phòng ngừa vũ khí, vật liệu nổ, chất phóng xạ, chất độc… rơi vào tay các tổ chức khủng bố. Tại Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 cũng đã ghi nhận khá đầy đủ các hành vi phạm tội theo yêu cầu của các công ước quốc tế mà chúng ta đã gia nhập. Ngoài ra, để phòng ngừa các hành vi khủng bố áp dụng công nghệ hiện đại, Bộ luật hình sự cũng quy định các hành vi tội phạm công nghệ thông tin như tội tạo ra và lan truyền phát tán các chương trình vi-rút tin học. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng bộc lộ những hạn chế khi quy định về tội khủng bố và các tội liên quan, gây khó khăn cho việc hợp tác quốc tế đấu tranh chống lại tội phạm này. Cụ thể, tội khủng bố quy định tại Điều 84 Bộ luật hình sự năm 1999 dường như sao chép nguyên văn Điều 78 Bộ luật năm 1985 trong khi các hành vi khủng bố diễn ra ngày càng mạnh mẽ đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế và vấn đề hợp tác đấu tranh chống khủng bố đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Quy định tại Điều 84 không phản ánh được thực tiễn hành vi khủng bố diễn ra trên phạm vi quốc tế khi chỉ quy định tính mạng sức khỏe của con người là khách thể của tội phạm trong khi những hành vi phá hoại cơ sở vật chất, hoặc tổng hợp các hành vi như trong vụ 11/9 tại Mỹ lại không thể truy cứu về tội khủng bố mà phải truy cứu về nhiều tội phạm khác nhau… Mục đích của hành vi chỉ là nhằm chống chính quyền nhân dân, bảo vệ an ninh quốc gia chứ không phải nhằm chống khủng bố quốc tế. Bởi vì, theo cách hiểu hiện nay trong các văn kiện pháp lý quốc tế liên quan đến chống khủng bố thì mục đích của chống khủng bố không những bảo vệ an ninh của từng quốc gia mà còn góp phần bảo vệ hoà bình, an ninh khu vực và trên thế giới. Vì vậy, một số hành vi khủng bố thực hiện ở nước ngoài nhưng việc chuẩn bị tội phạm ở Việt Nam hay được giúp đỡ từ các cá nhân, tổ chức Việt Nam không nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân hoặc gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của Việt Nam thì chưa có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 84 Bộ luật hình sự Việt Nam. Bộ luật hình sự năm 1999 mặt khác cũng chưa tội phạm hóa được hết các hành vi đã được ghi nhận trong công ước quốc tế mà chúng ta đã gia nhập như Công ước New York 1999 về trừng trị hành vi tài trợ khủng bố. 3.2.2. Tội khủng bố và các tội phạm có liên quan theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung) Sau gần mười năm kể từ ngày bắt đầu có hiệu lực thi hành (từ ngày 1/7/2000), Bộ luật hình sự năm 1999 đã bộc lộ những bất cập về nhiều mặt, một số quy định không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Diễn biến phức tạp của tình hình khủng bố quốc tế và yêu cầu hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm này cũng đặt ra yêu cầu cho việc sửa đổi Bộ luật hình sự. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 (Luật số 37/2009/QH12) được ban hành ngày 29/6/2009 là bước tiến lớn trong quy định về khủng bố và các tội phạm liên quan. Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những sửa đổi cơ bản về tội khủng bố và các tội phạm liên quan theo hướng khách quan hơn, phù hợp với xu thế chung của luật hình sự các nước trên thế giới đồng thời đã tội phạm hóa một số hành vi khác liên quan đến khủng bố theo yêu cầu của các công ước quốc tế về chống khủng bố mà Việt Nam là thành viên. Về tội khủng bố, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) quy định 2 tội: Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân nằm trong Chương XI – Các tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội khủng bố nằm trong Chương XIX – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Cụ thể hơn, Điều 84 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội khủng bố có nội dung không thay đổi, Luật sửa đổi chỉ bổ sung tên Điều luật bằng cách thêm cụm từ “nhằm chống chính quyền nhân dân”. Việc thêm cụm từ này nhằm phân biệt với tội khủng bố mới được tội phạm hóa tại Điều 230a. Tội khủng bố quy định tại Điều 230a là quy định hoàn toàn mới so với các văn bản pháp luật hình sự trước đây, phù hợp với xu hướng chung của luật hình sự các nước trên thế giới. Điều 230a quy định “Tội khủng bố 1. Người nào nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng mà xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá huỷ tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. 2. Phạm tội trong trường hợp xâm phạm tự do thân thể, sức khoẻ hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 3. Phạm tội trong trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Từ quy định tại Điều 230a Bộ luật hình sự (sửa đổi) có thể định nghĩa về tội khủng bố như sau: khủng bố là hành vi xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng. Như vậy, có thể thấy quy định tại Điều 230a mang tính khách quan, chính xác khi chỉ ra các dấu hiệu của tội khủng bố. Trước hết là dấu hiệu về hành vi, quy định này đã mang đầy đủ các biểu hiện của hành vi khủng bố trên thực tế. Đó không chỉ là hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe như quy định tại các văn bản pháp luật trước mà đã mở rộng ra đến các hành vi hủy hoại tài sản, uy hiếp tinh thần. Khách thể của hành vi không chỉ là con người mà còn là các cơ quan, tổ chức. Mục đích của hành vi không phải là xâm phạm an ninh quốc gia mà nhằm gây hoảng loạn trong công chúng. Quy định về tội khủng bố tại Bộ luật hình sự Việt Nam khá tương đồng với quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga. Liên bang Nga cũng thiết kế trong Bộ luật hình sự 2 tội khủng bố: Một tội nằm trong Chương Các tội xâm phạm an toàn công cộng (Điều 202) và một tội nằm trong Chương 29 Các tội chống cơ sở chế độ Hiến pháp và an ninh quốc gia (Điều 273). Điều 202 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định “Tội khủng bố 1. Khủng bố tức là việc phá hoại, tiêu hủy, bắn bằng vũ khí nóng hoặc các hành động khác gây nguy hiểm cho tính mạng con người, gây thiệt hại đáng kể về tài sản hoặc gây những hậu quả khác nguy hiểm cho xã hội, nếu những hành động đó được thực hiện nhằm mục đích vi phạm an toàn công cộng, làm cho nhân dân hoảng sợ hoặc gây ảnh hưởng đối với các cơ quan chính quyền để các cơ quan đó ra những quyết định cũng như đe dọa thực hiện các hành động nói trên nhằm những mục đích này, thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm. 2. Cũng những hành vi đó do một nhóm người có thỏa thuận trước thực hiện hoặc được thực hiện nhiều lần thì bị phạt tù từ 8 năm đến 10 năm. 3. Những hành vi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này nếu do một nhóm người có tổ chức thực hiện hoặc vô ý gây chết người hoặc những hạu quả nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm”. Điểm khác quan trọng trong quy định của pháp luật Việt Nam và Liên bang Nga khi quy định về tội khủng bố đó là ở dấu hiệu mục đích. Mục đích khi thực hiện các hành vi được quy định tại Điều 230a Bộ luật hình sự Việt Nam (sửa đổi) đó là gây hoảng loạn trong công chúng, còn theo luật hình sự Liên bang Nga bao gồm cả gây hoảng loạn hoặc ép buộc các cơ quan chính quyền nhà nước thực hiện hành động nào đó. Ở Việt Nam, nếu hành vi được thực hiện để ép buộc cơ quan chính quyền thực hiện hoặc không thực hiện hành vi nào đó sẽ bị xử theo các tội xâm phạm an ninh quốc gia, trong đó có tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân quy định tại Điều 84 Bộ luật hình sự (sửa đổi). Bên cạnh tội khủng bố thì trong Chương các tội xâm phạm an toàn công cộng Bộ luật hình sự Liên bang Nga cũng quy định các tội phạm khác liên quan như tội chiếm con tin (Điều 203); tội cưỡng đoạt máy bay, tàu thủy hoặc phương tiện giao thông đường sắt (Điều 208); tội lấy cắp hoặc cưỡng đoạt các chất phóng xạ (Điều 218); tội sở hữu, tiêu thụ, chuyển giao hay mang trái phép vũ khí, đạn dược, chất nổ và các thiết bị gây nổ (Điều 219)… Điều 273 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định về hành vi khủng bố chống chính quyền nhà nước tương tự như tại Điều 84 Bộ luật hình sự Việt Nam, đó là “hành vi giết nhân viên nhà nước hay người hoạt động xã hội với mục đích chấm dứt hoạt động chính trị của họ”. So với Điều 84 Bộ luật hình sự Việt Nam thì Điều 273 Bộ luật hình sự Liên bang Nga có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn. Nếu Điều 84 quy định hành vi khủng bố gồm 4 nhóm hành vi: thứ nhất, xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc công dân, người nước ngoài; thứ hai, xâm phạm tự do thân thể, sức khoẻ của cán bộ, công chức hoặc công dân, người nước ngoài; thứ ba, đe doạ xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc công dân, người nước ngoài; thứ tư, uy hiếp tinh thần của cán bộ, công chức hoặc công dân, người nước ngoài thì Điều 273 chỉ quy định một nhóm hành vi, đó là: xâm phạm tính mạng của nhân viên nhà nước, người hoạt động xã hội. Đối tượng tác động của hành vi khủng bố theo quy định tại Điều 273 Bộ luật hình sự Liên bang Nga chỉ bao gồm nhân viên nhà nước và người hoạt động xã hội mà không phải là tất cả công dân, người nước ngoài như quy định tại Bộ luật hình sự Việt Nam. Nếu quy định về tội khủng bố của Việt Nam và Liên bang Nga có những điểm tương đồng thì luật hình sự Trung Quốc lại có những quy định khác biệt nhất định. Trung Quốc cũng thiết kế các tội phạm về khủng bố tại Chương Các tội xâm phạm an toàn công cộng như Việt Nam và Liên bang Nga, tuy nhiên không điều luật nào tại Chương này “mô tả” về hành vi khủng bố. Điều 120 Bộ luật hình sự Trung Quốc quy định về tội tổ chức, lãnh đạo và tham gia hoạt động khủng bố tuy nhiên cũng không giải thích thế nào là khủng bố, còn lại các điều luật khác quy định về các hành vi phạm tội liên quan đến khủng bố theo quy định tại các công ước quốc tế về chống khủng bố. Điều 120 Bộ luật hình sự Trung Quốc quy định “Người nào tổ chức, lãnh đạo hoạt động khủng bố thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở lên hoặc tù chung thân; người nào tích cực tham gia thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm, những người tham gia khác thì bị phạt tù đến 3 năm, cải tạo lao động, quản chế hoặc bị tước quyền lợi chính trị. Người nào phạm những tội trên mà lại phạm vào tội giết người, gây nổ, bắt cóc thì căn cứ vào số tội mà xử phạt theo quy định hình phạt”. Rõ ràng, khi mà cộng đồng quốc tế chưa đưa ra được định nghĩa chung về khủng bố thì quy định theo hướng né tránh định nghĩa của Trung Quốc cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu. Tuy nhiên, quy định này sẽ gây khó khăn cho quá trình tố tụng và hợp tác quốc tế chống khủng bố. Hơn nữa theo Điều 120 Bộ luật hình sự Trung Quốc “người nào phạm tội trên mà lại…”, điều đó có nghĩa tội khủng bố theo quy định trên loại trừ các hành vi gây nổ, giết người, bắt cóc. Bên cạnh Điều 120 thì Bộ luật hình sự Trung Quốc có nhiều quy định liên quan, góp phần ngăn chặn, trừng trị các hành vi khủng bố theo quy định tại các công ước quốc tế. Ví dụ, Điều 121 Bộ luật quy định về tội không tặc “Người nào dùng bạo lực, ép buộc hoặc bằng các hình thức khác nhằm cướp thiết bị bay thì bị phạt tù từ 10 năm trở lên hoặc tù chung thân, nếu dẫn đến có người bị thương nặng, bị chết hoặc khiến cho thiết bị bay hư hại nghiêm trọng thì bị tử hình”; Điều 122 quy định về tội cướp tàu thuyền. ô-tô “người nào dùng bạo lực, ép buộc hoặc bằng các hình thức khác nhằm cướp tàu thuyền ô-tô thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm, nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm trở lên hoặc tù chung thân”; Điều 114, 115 quy định về hàng loạt các hành vi có tính chất khủng bố “người nào gây cháy, làm vỡ đê, gây nổ, đầu độc phóng xạ, gây bệnh truyền nhiễm và hành vi phương hại đến trật tự an toàn công cộng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì phạt tù từ 3 năm đến 10 năm” (Điều 114); Các hành vi trên nhưng gây hậu quả nghiêm trọng làm chết người hoặc gây tổn thất lớn tài sản của cá nhân, tập thể thì bị phạt tù từ 10 năm trở lên, chung thân hoặc tử hình (Điều 115)… Bên canh các quy định này, giống như Việt Nam, luật hình sự Trung Quốc cũng có những quy định nhằm kiểm soát chặt chẽ vũ khí, nguyên liệu phóng xạ, phòng ngừa các loại vũ khí này được chuyển vào tay các tổ chức khủng bố. Như vậy, có thể thấy Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi) đã có những bước tiến quan trọng khi quy định về tội khủng bố khách quan hơn, nằm trong Chương Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng. Điều này giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc hợp tác quốc tế chống lại tội phạm nguy hiểm này. Bên cạnh những bổ sung về tội khủng bố đã nêu trên, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) còn tội phạm hóa một số hành vi liên quan đến khủng bố theo yêu cầu tại các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đó là Điều 230b: Tội tài trợ khủng bố; Điều 251: Tội rửa tiền. Tài trợ khủng bố theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) là hành vi huy động, hỗ trợ tiền, tài sản dưới mọi hình thức cho tổ chức, cá nhân khủng bố. Nhằm phòng ngừa các hành vi khủng bố bằng công nghệ cao đã xuất hiện trên thế giới, Bộ luật hình sự (sửa đổi) cũng đã sửa đổi và ghi nhận thêm một số hành vi tội phạm công nghệ thông tin như tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số (sửa đổi Điều 225); tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số của người khác (Điều 226a); tội phát tán vi-rút, chương trình tin học có tính năng gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số (sửa đổi Điều 224)… 3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI KHỦNG BỐ VÀ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN Qua các lần sửa đổi, quy định về tội khủng bố và các tội phạm liên quan tại Bộ luật hình sự Việt Nam đã tương đối hoàn thiện, phù hợp với xu hướng phát triển của pháp luật quốc tế về chống khủng bố và tương đồng với pháp luật các nước trên thế giới. Tuy nhiên, quy định tại Bộ luật hình sự về tội phạm này vẫn còn một số bất cập sau đây: Thứ nhất, tội khủng bố tại Điều 84 Bộ luật hình sự quy định “người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc công dân” và “khủng bố người nước ngoài nhằm…”. Như vậy, đối tượng tác động của hành vi ở đây là cán bộ, hoặc công chức hoặc công dân hoặc người nước ngoài. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì chỉ cần quy định công dân và người nước ngoài đã đủ bao gồm hết tất cả các đối tượng trên. Như vậy, nên sửa lại Điều 84 như sau “người nào nhằm chống chính quyền nhân dân hoặc gây khó khăn cho quan hệ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà xâm phạm tính mạng của người khác thì…” Thứ hai, ngay trong Bộ luật hình sự còn tồn tại hai quy định khác nhau về tội khủng bố: Điều 84 - Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và Điều 230a: Tội khủng bố. Hai tội phạm này có cấu thành rất khác nhau thể hiện chính sách xử lý riêng biệt của Nhà nước ta đối với hai loại hành vi phạm tội này. Đối với tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân quy định tại Điều 84 thì hành vi cấu thành tội phạm là xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tự do thân thể con người với mục đích chống chính quyền nhân dân còn tội khủng bố quy định tại Điều 230a có cấu thành là các hành vi xâm phạm tính mạng, tự do thân thể, tài sản của cá nhân, tổ chức có mục đích là gây hoảng loạn trong dân chúng. Rõ ràng cùng là hành vi khủng bố tuy nhiên hai tội phạm này có cấu thành hoàn toàn khác nhau gây khó khăn cho việc xử lý và hợp tác quốc tế đấu tranh chống khủng bố. Điều này cũng thể hiện sự lúng túng của nhà làm luật khi đưa ra định nghĩa khủng bố. Việc quy định song song hai tội khủng bố tại hai chương và hai điều luật khác nhau với cấu thành khác nhau là điều bất cập cần được sửa đổi cho phù hợp với xu hướng của pháp luật quốc tế trên cơ sở nghiên cứu pháp luật một số quốc gia khác. Theo quan điểm của chúng tôi, để giải quyết vấn đề này cần bỏ tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân tại Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, hành vi khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân sẽ bổ sung và xử về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 Bộ luật hình sự năm 1999). Thiết nghĩ, đây là điều hợp lý nhằm đảm bảo tính thống nhất nội tại của Bộ luật, đồng thời giúp cho việc hợp tác quốc tế đấu tranh chống khủng bố trên cơ sở định nghĩa về khủng bố khách quan. Điều 79 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định như sau: “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân: Người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, thì bị phạt như sau: 1. Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình; 2. Người đồng phạm khác thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm”. Hiện nay, tội này chỉ xét xử người có hành vi hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Thiết nghĩ, từ “hoạt động” ở Điều luật này cần được giải thích mở rộng hơn chứ không chỉ là “hoạt động thành lập hay “tham gia tổ chức”. Hoạt động cần hiểu theo đúng “Từ điển tiếng Việt” đó là “tiến hành những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội”. Thứ ba, theo quy định của pháp luật một số nước trên thế giới và quy định tại các công ước quốc tế về chống khủng bố (ví dụ Công ước New York 1999 về tài trợ khủng bố, Công ước New York 1997 về chống khủng bố bằng bom…) thì hành vi khủng bố được thực hiện nhằm ba mục đích: Một là, gây hoảng loạn trong công chúng; Hai là, ép buộc chính quyền làm hoặc không làm một việc nhất định theo yêu cầu của bọn khủng bố; Ba là, ép buộc tổ chức quốc tế làm hoặc không làm công việc nhất định theo yêu cầu của những kẻ khủng bố. Tuy nhiên, tội khủng bố theo quy định tại Điều 230a Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 mới chỉ ghi nhận một mục đích của hành vi khủng bố, đó là hành vi nhằm gây hoảng loạn trong công chúng. Chính vì thế, thiết nghĩ Bộ luật hình sự cần tiếp tục sửa đổi theo hướng ghi nhận các mục đích trên vào tội khủng bố quy định tại Điều 230a. Nếu giữ nguyên quy định như hiện nay có nghĩa là hành vi có mục đích gây hoảng loạn trong công chúng thì sẽ xử lý về tội khủng bố còn hành vi có một trong 2 mục đích còn lại sẽ xử về các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Điều này không phù hợp với pháp luật quốc tế, pháp luật các nước trên thế giới đồng thời chưa ghi nhận hết các dấu hiệu cấu thành tội khủng bố tại Điều 230a. Theo quan điểm của chúng tôi, Điều 230a nên sửa đổi cụ thể như sau: “Điều 230a. Tội khủng bố 1. Người nào xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá huỷ tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng loạn trong công chúng, nhằm ép buộc chính cơ quan chính quyền hoặc nhằm ép buộc tổ chức quốc tế thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. 2. Phạm tội trong trường hợp xâm phạm tự do thân thể, sức khoẻ hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 3. Phạm tội trong trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt quản chế, cấm cư trú từ một năm đến năm năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Thứ tư, về các tội liên quan đến khủng bố, Bộ luật hình sự Việt Nam đã ghi nhận tương đối đầy đủ các hành vi theo yêu cầu của các công ước quốc tế về chống khủng bố mà Việt Nam là thành viên. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng ghi nhận các hành vi khủng bố thực tế đã diễn ra trên thế giới như hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186), hành vi phát tán vi-rút, chương trình tin học có tính năng gây thiệt hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số (Điều 224)… Tuy nhiên, các điều luật này được sắp xếp chưa hợp lý, chưa đúng với tính chất của hành vi. Ví dụ, hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186) là hành vi đặc biệt nguy hiểm cho cộng đồng lại xếp vào các tội phạm về môi trường. Hành vi này nên xếp vào Chương các tội xâm phạm an toàn công cộng như các tội phạm cùng tính chất khác như tội khủng bố, tội phát tán chương trình vi-rút máy tính, chiếm đoạt tàu bay… Thứ năm, việc quy định tội khủng bố và các tội liên quan tại Bộ luật hình sự Việt Nam hiện nay làm xuất hiện vấn đề sau: Khi xuất hiện một hành vi, ví dụ như chiếm đoạt tàu bay, tàu biển, khi nào thì bị truy tố, xét xử về tội khủng bố (Điều 230a Bộ luật hình sự), khi nào bị truy tố xét xử về các tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ (Điều 221 Bộ luật hình sự). Đây là vấn đề cần được hướng dẫn cụ thể. Theo quan điểm của chúng tôi, dấu hiệu quan trọng nhất phân biệt tội khủng bố và các tội phạm khác là tính mục đích. Nếu hành vi phạm tội có mục đích gây hoảng loạn trong công chúng sẽ bị truy tố, xét xử về tội khủng bố, còn khi không có mục đích hoặc có mục đích khác thì truy tố, xét xử về các tội phạm khác như chiếm đoạt tàu bay, tàu biển, nếu các hành vi này có mục đích xâm phạm an ninh quốc gia lại xét xử về các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Như vậy, nhìn chung pháp luật hình sự Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện và tương thích hơn với pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia khác trên thế giới cũng như ghi nhận một cách khách quan biểu hiện của hành vi khủng bố trên thực tế. Điều này giúp nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Tuy nhiên, các quy định về tội khủng bố cũng như các tội phạm liên quan trong luật hình sự Việt Nam còn một số bất cập như trên đã trình bày, điều này cần sớm được khác phục để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động hợp tác đấu tranh chống khủng bố. KẾT LUẬN Khủng bố hiện nay là một trong những nguy cơ đe doạ lớn tới hoà bình và an ninh quốc tế. Do vậy, đấu tranh chống khủng bố là hành động cấp thiết và lâu dài trên nhiều phương diện, trong đó pháp luật là công cụ chủ yếu. Tuy nhiên, tồn tại lớn nhất hiện nay trong việc hoàn thiện pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố chính là Công ước chung về chống khủng bố với một định nghĩa toàn diện về tội phạm này. Hiện nay trên thế giới tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về khủng bố và chưa có định nghĩa về khủng bố nào đưa ra nhận được sự đồng thuận của tất cả các quốc gia. Vấn đề phân biệt giữa khủng bố và các tội phạm khác, vấn đề chủ thể của hành vi khủng bố… vẫn là chủ đề tranh cãi giữa các quốc gia. Mặc dù, thông qua các biểu hiện của hành vi khủng bố trên thực tế cũng như qua lý luận chung của pháp luật hình sự quốc tế không khó khăn để đưa ra định nghĩa khách quan về khủng bố, tuy nhiên các quốc gia sẽ chỉ đạt được định nghĩa thống nhất khi có sự tách bạch giữa các vấn đề chính trị và pháp lý. Bởi lợi ích chính trị là một trong những rào cản của một định nghĩa chung về khủng bố. Thiết nghĩ, để đạt được định nghĩa thống nhất, các quốc gia cần đặt lợi ích chung của nhân loại, mục tiêu bảo vệ con người lên trên hết. Pháp luật quốc tế về chống khủng bố nhìn chung được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, nhưng bên cạnh đó cũng có những nguyên tắc đặc thù. Các nguyên tắc này là tư tưởng chính trị-pháp lý định hướng cho toàn bộ hoạt động đấu tranh chống khủng bố ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay quy định nghĩa vụ của các quốc gia phải tội phạm hoá các hành vi được nêu trong công ước, nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia và các biện pháp phòng ngừa hành vi khủng bố. Pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay cũng quy định việc xác định quyền tài phán của quốc gia đối với những cá nhân phạm tội khủng bố với các căn cứ như: lãnh thổ, quốc tịch, của người bị tình nghi, quyền tài phán phổ quát… Thế nhưng, các quy định này hiện nằm rải rác ở nhiều điều ước khác nhau vì cộng đồng quốc tế chưa xây dựng được công ước chung về chống khủng bố. Hiện trạng này đã gây ra những khó khăn nhất định cho cuộc đấu tranh chống khủng bố ở mỗi quốc gia nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Thiết nghĩ, đây chính là hạn chế của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố cần được khắc phục trong thời gian tới. Luận văn này trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm hiện nay trên thế giới, nghiên cứu pháp luật các nước và pháp luật quốc tế về chống khủng bố với mục đích tìm ra được một định nghĩa về khủng bố khách quan nhất, được nhiều người chấp nhận nhất. Từ đó hướng tới việc hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về chống khủng bố. Bởi vì, Bộ luật hình sự là Bộ luật duy nhất của Việt Nam ghi nhận về tội phạm về hình phạt, thể hiện quan điểm và thái độ nghiêm khắc nhất của Nhà nước ta đối với hành vi phạm tội này. Luận văn hy vọng sẽ góp một phần nhỏ bé vào việc trả lời câu hỏi lớn gây tranh cãi hiện nay trên thế giới: Khủng bố là gì? Đồng thời qua đó có thể đóng góp ý kiến tích cực về mặt cơ sở lý luận và thực tiễn giúp cho việc hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam trong tương lai về vấn đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985; Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999; Các điều ước quốc tế đa phương về ngăn ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế (2002), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; GS. La Cương, (2009) Quốc gia - Vấn đề tranh luận gay gắt trong tiến trình chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, Tạp chí luật học số 10/2009 (bản dịch của Trần Văn Đình); Chủ nghĩa khủng bố: Đánh giá mối đe dọa, biện pháp và chính sách đối phó, Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 11/2001; Cuộc chiến toàn cầu chống tài trợ khủng bố (từ bài 1-4), Trí Đường, Liên hợp quốc loay hoay định nghĩa khủng bố, Báo mới, thứ 2 ngày 25/07/2005; Nguyễn Trường Giang (2008), Những phát triển của luật pháp quốc tế thế kỷ XXI, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đinh Bích Hà (dịch và giới thiệu) (2007), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, NXB. Tư pháp, Hà Nội; Hoàng Văn Hiệu (2008), Hoàn thiện pháp luật về đấu tranh phòng, chống khủng bố ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/2008; ThS. Phạm Thị Thu Hương (2006), Vài nét về quyền tài phán phổ quát của quốc gia, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 5/2006; thứ bảy ngày 21/01/2007; Nguyễn Long (2003), Pháp luật quốc tế về chống khủng bố, một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Luât số 37/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19/06/2009, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2010; & TS. Vũ Quang Vinh (2005), Quan hệ quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI: Vấn đề, sự kiện và quan điểm. NXB. Lý luận chính trị, Hà Nội; Singapore chi 367 tỉ đồng (38 triệu SGD) chống khủng bố tin học (2005), Báo Người lao động điện tử, thứ 5 ngày 24/02/2005; Tạp chí dân chủ và pháp luật – Bộ Tư pháp (1998), Số chuyên đề về luật hình sự một số nước trên thế giới, tháng 4/1998; ThS. Nguyễn Thị Thanh Hải (2005), Quyền con người và cuộc chiến chống khủng bố, Tạp chí Cộng sản số 88/2005; Võ Thủ Phương, Vài nét về chủ nghĩa khủng bố dưới con mắt của nhà nghiên cứu, Tạp chí Cộng sản số 73/2004; GS.TS. Lại Văn Toàn (2004), Chủ nghĩa khủng bố toàn cầu - Vấn đề và cách tiếp cận, NXB. Văn hoá thông tin, Hà Nội; ThS. Nguyễn Thị Thuận (chủ biên) (2007), Luật hình sự quốc tế, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội; Khủng bố và chống khủng bố qua lăng kính báo chí (2006), NXB. Thông tấn, Hà Nội; Nguyễn Hồng Thao (2000), Toà án công lý quốc tế, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trung tâm luật biển và hàng hải quốc tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, Phái đoàn châu Âu tại Việt Nam, Đại sứ quán Anh tại Việt Nam, Đại sứ quán Đức tại Việt Nam (2006), Tòa án hình sự quốc tế và việc gia nhập của Việt Nam, NXB. Tư pháp, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội; Trường Đại học luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. CAND, Hà Nội; TS. Trần Quang Tiệp (2006), “Một số vấn đề về khủng bố quốc tế dưới góc độ pháp lý hình sự”, Tạp chí Toà án số 10/2006 (số 19); TS. Trần Văn Thắng, ThS. Lê Mai Anh (2001), Luật quốc tế, lý luận và thực tiễn, NXB. Giáo dục; Nguyễn Ngọc Trường (2009), Cuộc chiến chống khủng bố 8 năm sau 11/9, website: Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 1995; Văn phòng điều phối viên chống khủng bố - Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (2004), Các hình thái của chủ nghĩa khủng bố toàn cầu năm 2003; Viện Khoa học pháp lý (2005), Pháp luật về chống khủng bố một số nước trên thế giới, NXB. Tư pháp, Hà Nội; Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội; Viện thông tin khoa học xã hội (2004), Chủ nghĩa khủng bố toàn cầu - Vấn đề và cách tiếp cận, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội; Tiếng Anh P. Schmid Alex (1983), Political Terrorism, Criminal Code Act 1995, ASEAN convention counter terrorism, Article II, Alex Schmid (1983), Political terrorism, Transaction Publishers, U.S, 1983; Bruce Hoffman (1998), Inside terrorism, Nesi, Giuseppe (Editor) (2006). International Cooperation in Counter-terrorism: The United Nations And Regional Organizations in the Fight Against Terrorism, Ashgate Publishing; Tiếng Anh P. Schmid Alex (1983), Political Terrorism, Criminal Code Act 1995, ASEAN convention counter terrorism, Article II, Alex Schmid (1983), Political terrorism, Transaction Publishers, U.S, 1983; Bruce Hoffman (1998), Inside terrorism, Nesi, Giuseppe (Editor) (2006). International Cooperation in Counter-terrorism: The United Nations And Regional Organizations in the Fight Against Terrorism, Ashgate Publishing;

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn thạc sỹ Luật- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự việt nam về chống khủng bố.doc