Hiện nay, công tác quản lý đất đai ởnước ta nói chung và trên địa bàn quận
Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội nói riêng cần phải tiếp tục đổi mới nhằm nâng cao
hiệu quảcủa công tác này. Yêu cầu đó xuất phát từ nhiệm vụ phát triển kinh tế
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và từ thực trạng quản lý đất đai ở nước ta
hiện nay. Công tác quản lý đất đai ở Hà Nội và ởquận Cầu Giấy trong những
năm qua đã thu được nhiều kết qủa to lớn, từng bước đưa công tác quản lý đất đai
vào kỷ cương theo quy định của pháp luật. Những kết quả đạt được đã góp phần
tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn quận, cơbản đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, phát triển đô thị, góp phần ổn định
chính trị, trật tự an toàn của quận và của Thủ đô đang bước vào thời kỳcông
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
130 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2714 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất Đô thị qua ví dụ tại quận Cầu Giấy - Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận Cầu Giấy nhất là
trong cơ chế thị trường đã và đang đi sâu vào mọi lĩnh vực đối với đời sống xã
hội.
Việc cải cách hành chính tuy có nhiều tiến bộ trong khâu thủ tục hành
chính nhưng vẫn chưa đấp ứng được yêu cầu đặt ra của công cuộc đổi mới:
đổi mới cơ chế (guồng máy) và tổ chức (bộ máy).
CHƯƠNG III
104
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
ĐẤT ĐÔ THỊ
I-QUAN ĐIỂM SỬ DỤNG ĐẤT.
1-Quan điểm tập trung thống nhất quản lý của Nhà nước.
Đất đai là tài sản quốc gia, là lãnh thổ bất khả xâm phạm của cả dân tộc. Vì
vậy không thể có bất kỳ một cá nhân nào hay một nhóm người nào có thể chiếm
hữu tài sản chung thành của riêng và tùy ý áp đặt quyền định đoạt cá nhân đối với
tài sản chung đó. Chỉ có Nhà nước-người đại diện hợp pháp duy nhất của mọi
tầng lớp nhân dân mới được giao quyền quản lý tối cao về đất đai. Trên phương
diện này chúng ta có thể thấy tất cả các quốc gia trên thế giới từ xưa tới nay, Nhà
nước đều thực hiện quản lý tập trung thống nhất về đất đai.
Đối với nước ta đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý. Điều này đã được
ghi nhận trong Điều 1 Luật đất đai năm 1993 của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam: ’’Đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”.
Mặt khác, đất đai là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, của các doanh
nghiệp là nền tảng của các tổ chức chính trị xã hội khác, được Nhà nước giao
quyền tổ chức quản lý, sử dụng với mục tiêu tăng cường quản lý chặt chẽ và sử
dụng hợp lý hiệu qủa đất đai. Tuy nhiên quyền sử dụng đất phải trong khuôn khổ
pháp luật và quản lý thống nhất của Nhà nước.
Quyền quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước được thực hiện theo Luật
pháp và được thể hiện trên nhiều mặt như: đại diện chủ quyền quốc gia về lãnh
thổ, quyền giao đất sử dụng lâu dài cho cá nhân và các tổ chức kinh tế-xã hội,
105
quyền cho các tổ chức nước ngoài thuê đất, quyền xác định khung giá đất, kiểm
tra giám sát và xử lý các hành vi vi phạm pháp Luật về sử dụng đất đai...
Để thực hiện quyền quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, trước hết
Nhà nước phải nắm và sử dụng tốt các công cụ quản lý cơ bản của mình như: quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, công cụ tài chính và đặc biệt là công cụ Luật
pháp và các chính sách vĩ mô khác. Cùng với các công cụ quản lý, việc Nhà nước
nắm và sử dụng các phương pháp quản lý thích hợp cũng là điều kiện để duy trì
việc bảo đảm quyền quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước về đất đai.
Thực tế đã cho chúng ta thấy, nếu Nhà nước sử dụng tốt công cụ quản lý và
phương pháp quản lý thì quyền quản lý tập trung thống nhất về đất đai được duy
trì và bảo đảm ở mức độ cao. Ngược lại, có những thời điểm nào đó, các công cụ
quản lý không tốt, không đồng bộ, các phương pháp quản lý không mềm dẻo thì
quyền quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước về đất đai bị giảm đi, tình trạng
tranh chấp lấn chiếm và nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình sử dụng đất đai sẽ
tăng lên. Những tồn tại trên đây có thể sẽ gây ra nhiều hậu quả không tốt về trật
tự và an toàn xã hội, hiệu quả sử dụng đất đai.
2-Quan điểm về lợi ích.
Đất đai là nhân tố phản ánh quan hệ lợi ích của cá nhân, tập thể và lợi ích
của cộng đồng xã hội. Đối với các tổ chức kinh tế, đất đai là yếu tố sản xuất còn
đối với các tổ chức kinh tế xã hội đất đai là cơ sở, là nền móng để tồn tại và phát
triển. Do vậy tổ chức nào cũng cần có đất đai cho mình cũng như cho các thành
viên của mình. Mặt khác đất đai là tài sản quốc gia, vì vậy nó phản ánh lợi ích
chung của xã hội.
Nói đến lợi ích trước hết phải nói đến lợi ích của con người, vì hoạt động
của con người là hoạt động vì lợi ích. Do vậy chú ý đến lợi ích con người là
nhằm phát huy đầy đủ tính tích cực chủ động, sáng tạo của con người. Lợi ích
không chỉ là động lực, mà quan trọng hơn nó là phương tiện của quản lý dùng để
khuyến khích con người.
106
Tuy nhiên, lợi ích về đất đai không chỉ liên quan đến lợi ích cá nhân mà nó
càn quan hệ với lợi ích tập thể, lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy phải kết hợp hài
hoà các lợi ích trên. Kết hợp hài hoà ba lợi ích tức là chúng ta phải chú ý đông
thời cả ba lợi ích đó không để lợi ích này lấn áp hoặc triệt tiêu lợi ích khác.
Để kết hợp hài hoà ba lợi ích cần phải thực hiện các vấn đề cơ bản sau:
- Xây dựng và thực hiện tốt các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, trên cơ
sở vận dụng các quy luật khách quan và phù hợp với đặc điểm của đất nước.
Chiến lược đó phản ánh được lợi ích cơ bản và lâu dài của toàn xã hội cũng như
lợi ích của các thành viên trong xã hội.
- Xây dựng và thực hiện tốt các quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai. Các
loại quy hoạch và kế hoạch đó phải quy tụ được lợi ích của toàn xã hội và lợi ích
của các thành viên trong xã hội.
- Thực hiện đầy đủ chế độ thu thuế đất, xem đó là nghĩa vụ, là trách nhiệm
của mọi tổ chức, mọi cá nhân đối với đất nước, đối với toàn xã hội. Nghĩa vụ
thuế là công cụ để điều hoà lợi ích và bảo đảm sự công bằng của xã hội.
- Thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế và các đòn bẩy kinh tế nhằm thúc
đẩy các tổ chức và cá nhân quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai có hạn,
nhằm duy trì đảm bảo lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội.
- Sử dụng linh hoạt các phương pháp quản lý, không chỉ là các phương pháp
hành chính, phương pháp kinh tế mà cả phương pháp giáo dục. Trong nhiều
trường hợp, phương pháp giáo dục là phương pháp có hiệu quả để kết hợp hài
hoà các lợi ích trên.
- Thực hiên tốt công cụ luật pháp, kiên quyết xử lý các hành vi xâm phạm
lợi ích cá nhân, đồng thời phải xử lý nghiêm minh những hành động vi phạm lợi
ích tập thể và lợi ích của xã hội, nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho sự kết hài hào
ba lợi ích trên.
3-Quan điểm sử dụng đất đai tiết kiệm và hiệu quả.
107
Đất đai là tư liệu sản xuất và cũng là tư liệu tiêu dùng, là điều kiện tồn tại cơ
bản gắn liền với hoạt động của con người, của các tổ chức chính trị, các tổ chức
kinh tế xã hội và của Nhà nước. Mặt khác chúng ta đều biết đất đai có giới hạn về
diện tích, trong khi đó dân số thì mỗi ngày lại tăng lên nhiều hơn và quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước diễn ra mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh
vực: khoa học, kinh tế, văn hoá, xã hội, du lịch, dich vụ... mà các ngành này phát
triển thì nhu cầu sử dụng đất là rất lớn do đó dẫn đến tình trạng đất đai ngày càng
bị thu hẹp dần, điều này càng làm cho chúng ta thấy ý nghĩa của việc tiết kiệm và
hiệu quả trong công tác quản lý đất đai. Hơn nữa đất đai là loại bất động sản có
lượng vốn đầu tư tương đối lớn. Mọi sự sai lầm trong đầu tư hay lãng phí trong
đầu tư và sử dụng chúng đều dẫn đến thảm hoạ phá sản. Bài học về sự bất ổn
kinh tế ở châu á cuối những năm 90 của thế kỷ XX là một ví dụ cụ thể, mà một
trong những nguyên nhân của nó là vấn đề đầu tư vào bất động sản đã cho chúng
ta thấy rõ.
Để thực hiện được quan điểm tiết kiệm và hiệu quả cần phải giải quyết các
vấn đề cơ bản sau:
+ Xây dựng và thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với
các yêu cầu của quy luật khách quan.
+ Xây dựng và thực hiện các quy hoạch và kế hoạch về sử dụng đất đai,
phục vụ tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội trên cơ sở tiết kiệm đất đai, tiết
kiệm chi phí, tránh phô trương hình thức, tránh phá đi làm lại.
+ Tuyên truyền, phổ biến Luật đất đai cũng như các văn bản về quản lý và
sử dụng đất tới từng người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng...
4-Quan điểm quản lý mang tính kế thừa và tính hệ thống.
Quản lý Nhà nước phải mang tính kế thừa và tính hệ thống, đó là một quan
điểm đúng. Trong quản lý ta phải kế thừa những thành quả đã làm được từ trước
và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong quá trính quản lý. Kế thừa tức là tôn
trọng lịch sử hình thành và phát triển công tác quản lý, từ đó có những nhận định
108
phát triển, định hướng công tác quản lý trong tương lai. Điều này không chỉ đúng
với công tác quản lý Nhà nước mà còn đúng cho các môn khoa học khác. Quản
lý Nhà nước là một môn khoa học, do đó khi thực hiện quản lý ta phải xem xét
lịch sử hình thành nó hay ta kế thừa những ưu điểm và hạn chế các nhược điểm,
đây là nét nổi bật của tính kế thừa.
Tính hệ thống, ở trên ta đã nhận định rằng: Nhà nước là người duy nhất quản
lý đất đai có hiệu quả. Như vậy Nhà nước phải thống nhất quản lý từ trên xuống
dưới, bằng những văn bản pháp luật quy định trên mọi vùng lãnh thổ của đất
nước. Đảm bảo dược tính hệ thống thì sẽ có sự tập trung thống nhất quản lý, đảm
bảo quyền quản lý tối cao của Nhà nước. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường
hiện nay-quản lý nền kinh tế hỗn hợp cần sự tập trung thống nhất quản lý, điều
tiết của Nhà nước để khắc phục các nhược điểm của cơ chế thị trường, đồng thời
đảm bảo lợi ích đồng đều giữa người quản lý và người bị quản lý, giữa những
người bị quản lý với nhau.
Trong quản lý đất đai thì tính kế thừa và tính hệ thống lại càng cần thiết. Để
quản lý được đất đai thì ta cần biết lịch sử hình thành, phát triển của đất, quá
trình quản lý sử dụng đất trong lịch sử để từ đó có nhận xét, đánh giá hiệu quả
quản lý đất đai, quá trình sử dụng đã đạt hiệu quả hay chưa. Từ đó có phương
pháp quản lý sao cho đạt hiệu quả hơn. Đất đai là tài nguyên có hạn, có tính cục
bộ địa phương và trong kinh tế thị trường nó có giá trị kinh tế cao. Do đó quản lý
muốn hài hoà các lợi ích thì quản lý phải có tính hệ thống. Làm được công tác
này sẽ giúp sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm. Thông qua các văn bản pháp luật và
hướng dẫn thi hành sẽ giúp Nhà nước nắm chắc hơn vấn đề quản lý và sử dụng,
tình hình và hiện trạng sử dụng để từ đó nâng cao hiệu quả quản lý nguồn tài
nguyên có hạn là đất đai.
II-MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN
LÝ ĐẤT ĐÔ THỊ.
109
Công tác quản lý đất Đô thị hiện nay còn nhiều vấn đề bức xúc, nó liên quan
đến nhiều cấp nhiều ngành, cần có sự chỉ đạo đồng bộ, phối hợp chặt chẽ giữa
các ngành, các cấp có liên quan. Muốn vậy, cần tập trung thực hiện theo một số
giải pháp cụ thể sau:
1-Giải pháp tầm vĩ mô.
Đây là các giải pháp ở tầm vĩ mô mà người thực hiện là Nhà nước, UBND
Tỉnh (Thành phố), Tổng cục Địa chính và Sở Địa chính-Nhà đất.
1.1-Chính sách trong quản lý Nhà nước về đất đai.
Đây là khâu quyết định trong quản lý Nhà nước về đất đai, đặc biệt là đất Đô
thị. Quản lý đất Đô thị dược thực hiện trên 7 nội dung, mỗi nội dung đều được
thực hiện theo sự chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương. Do đó chính sách cần
được hệ thống hoá về quyền và nghĩa vụ của người quản lý và người sử dụng đất:
* Chính sách quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được ghi nhận trong Điều 73 và
Điều 79 của Luật đất đai năm 1993. Đây là chính sách đảm bảo cho người sử
dụng đất yên tâm sử dụng trên chính mảnh đất của mình theo đúng pháp luật.
Chính sách tạo ra phải công bằng để thúc đẩy sản xuất phát triển. Các chủ thể sử
dụng đất đều đã được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất (giao đất có thu tiền
hoặc không thu tiền, thuê đất thì phải trả tiền thuê đất). Giao đất hoặc cho thuê
đất là có thời hạn. Hiện nay có một số tổ chức, cá nhận sử dụng đất nhưng chưa
được Nhà nước công nhận. Điều này đòi hỏi phải có chính sách, biện pháp buộc
họ phải kê khai đăng ký và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nếu họ không
thực hiện phải cương quyết xử lý bằng kinh tế hoặc hành chính (phạt tiền hoặc
thu hồi đất). Để làm được điều này thì cơ cấu bộ máy quản lý cần kiện toàn từ
Trung ương đến địa phương, thông tin phản hồi phải nhanh chóng.
Trước đây ta thường ưu tiên cho doanh nghiệp Nhà nước nhưng hiện nay
thực hiện kinh tế nhiều thành phần, do đó cần phải tạo một hành lang pháp lý
110
chung, đảm bảo công bằng giữa các chủ sử dụng đất. Hiện nay tình trạng ưu tiên
kinh tế Nhà nước vẫn còn, các tổ chức chính trị xã hội, pháp nhân trong nước,
doanh nghiệp Nhà nước vẫn được ưu tiên hơn tổ chức tư nhân, nhà đầu tư nước
ngoài... Điều này cần được khắc phục để đảm bảo cho nên kinh tế phát triển
nhanh, đảm bảo công bằng theo đúng định hướng mà Nhà nước đã đề ra.
Chính sách giữa các chủ sử dụng đất còn chưa đầy đủ và toàn diện: các
doanh nghiệp được giao đất không phải nộp tiền sử dụng đất đã không tính giá trị
của đất vào chi phí nên họ thường sử dụng lãng phí đất, tự chuyển mục đích sử
dụng đất sang sử dụng vào mục đích khác nhưng không đóng nghĩa vụ đối Nhà
nước (không nộp tiền thuê đất) điều này gây mất công bằng giữa các chủ sử dụng
đất. Trên địa quận Cầu Giấy cũng đã có trường hợp này xảy ra: các đơn vị sử
dụng đất vào mục đích an ninh quốc phòng tự chia đất cho cán bộ làm nhà ở, sử
dụng vào làm kinh tế nhưng không có nghĩa vụ gì đối với Nhà nước. Để giải
quyết vấn đề này Nhà nước nên giải quyết dứt điểm, tránh để thêm thời gian nữa.
Phải yêu cầu các chủ sử dụng làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng nếu đất đó
thuộc quy hoạch được sử dụng, còn nếu xét thấy không thể cho sử dụng vào mục
đích đó được thì yêu cầu họ không được sử dụng và nếu cần thì thu hồi lại phần
đất đó.
Để bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng đất, Nhà nước nên tạo điều kiện
thuận lợi cho họ thực hiện 6 quyền của mình. Khi họ làm thủ tục chuyển đổi,
chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn... mà họ đã có GCN QSDĐ thì ta nên xem xét
ngay ở quận, huyện không nên để cơ quan Nhà nước cấp trên phải ký nhận, làm
thủ tục cho thêm rườm rà, phát sinh tiêu cực, cản trở hoạt động của thị trường đất
đai.
*Chính sách trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Hiện nay tốc độ Đô thị hoá diễn ra rất mạnh ở các Đô thị trên cả nước, đặc
biệt là ở Thủ đô Hà Nội, Quận Cầu Giấy cũng không nằm ngoài điều này. Trong
tình hình đó, công tác quy hoạch và kế hoạch đất đai chưa được thực hiện, Nhà
111
nước nên nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho từng khu
vực, nhất là các Đô thị.
Công tác quản lý đất đai là một lĩnh vực đặc thù, mà đối tượng quản lý là đất
đai giao cho các chủ sử dụng đất. Vì vậy quy hoạch quản lý đất đai là quy hoạch
tổng thể và quy hoạch chi tiết tới từng thửa đất giao cho các chủ sử dụng. Do đó
quy hoạch được xây dựng trên bản vẽ 1/1000,1/500,1/200. Để tiến hành, Nhà
nước phải có sự chỉ đạo, phối hợp với từng địa phương để hoàn thành công tác
này. Mặc dù quận Cầu Giấy vẫn chưa có quy hoạch chi tiết, song có một thuận
lợi lớn đó là Thành phố Hà Nội đã hoàn thành quy hoạch tổng thể từ năm 2000-
2010. Trong thời gian qua, công tác quy hoạch chưa được hoàn thành đó là do
các nguyên nhân đó là:
+ Quy hoạch là để dự báo cụ thể, chi tiết, cần phải thông tin đầy đủ về nhu
cầu và khả năng phát triển của tất cả các thành phần kinh tế trong toàn bộ nền
kinh tế. Nước ta là một nước có nền kinh tế đang phát triển, các chỉ tiêu kinh tế
luôn luôn bị thay đổi, vì vậy việc điều hành nền kinh tế vĩ mô làm cho các đơn vị,
quận, huyện cũng phải điều chỉnh theo cho phù hợp.
+ Quy hoạch tổng thể thay đổi sẽ làm cho quy hoạch chi tiết thay đổi, bởi vì
quy hoạch chi tiết Đô thị là quy hoạch được lập ra trên cơ sở quy hoạch tổng thể
phân khu Đô thị. Ngày 15/08/2000, Chính phủ có công văn số 736/CV- CP giao
cho UBND Thành phố điều chỉnh chi tiết một số khu vực. Quận Cầu Giấy cũng
thuộc đối tượng của công văn này. Như vậy, việc Nhà nước thường xuyên thay
đổi quy hoạch cũng ảnh hưởng rất lớn tới công tác kế hoạch sử dụng đất.
+ Việc lập và nghiên cứu quy hoạch là do văn phòng Kiến Trúc Sư Trưởng
Thành phố đảm nhiệm từ khâu triển khai đến khâu tổ chức thực hiện, thẩm định
trình UBND Thành phố phê duyệt. Cơ quan chính thực hiện là Viện Quy Hoạch
trực thuộc văn phòng Kiến Trúc Sư Trưởng Thành phố. Công việc của Viện là rất
lớn, nghiên cứu quy hoạch lại mang tính độc quyền, do đó lực lượng cán bộ
không đáp ứng được nhu cầu, tính sáng tạo nghiêm túc không đảm bảo được do
112
không có tính cạnh tranh. Vì vậy, sản phẩm làm ra thiếu tính khoa học và thực
tiễn, do đó phải chỉnh sửa nhiều lần. Đây là một vấn đề hết sức cần thiết đòi hỏi
tính hồng, chuyên rất cao của người cán bộ làm công tác quy hoạch. Nhà nước
nên can thiệp để giảm bớt khối lượng công việc do Viện quy hoạch. Tạo điều
kiện để cán bộ quy hoạch có thể phát triển hết trí tuệ và tài năng sáng tạo vào
công tác quy hoạch.
+ Các cấp thực hiện công tác quy hoạch tự điều chỉnh quy hoạch, vấn đề này
đang xảy ra ở nước ta, nhất là tại các Đô thị. Tự ý chuyển đổi cho mục đích riêng
của địa phương, nên đã làm mất lòng tin ở người dân tới Chính quyền của Nhà
nước.
Từ những lý do này yêu cầu Nhà nước nên có những chính sách cho phù
hợp trong công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để tăng cường hiệu quả quản
lý của Nhà nước, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước, giúp phát
triển kinh tế đất nước.
*Chính sách quy định về việc hình thành thị trường bất động sản.
Hiện nay thị trường này mới nhen nhóm xuất hiện, chưa được chính thức
hình thành. Tuy vậy, quá trình trao đổi bất động sản luôn vận động và phát triển
làm cho các phương thức giao dịch, trao đổi cũng diễn ra nhiều dạng khác nhau.
Hiến pháp nước ta quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống
nhất quản lý cho nên khái niệm về thị trường bất động sản ở nước ta cũng khác
so với ở các nước khác trên thế giới. Ở thị trường bất động sản nước ta, kết quả
của các cuộc trao đổi, mua bán trên thị trường chỉ là sự chuyển quyền sử dụng
đất và sở hữu nhà từ người này sang người khác với một giá cả nhất định do hai
bên tự thoả thuận. Thực chất hàng hoá trao đổi trên thị trường là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở. Như vậy, thị trường bất động sản đã hình thành ở
nước ta không bị lệ thuộc vào một vùng địa lý cụ thể. Đâu có nhà và đất thì ở đó
có thị trường bất động sản. Thị trường bất động sản có liên quan đến một vùng,
một khu vực, hoặc toàn bộ lãnh thổ đất nước. Các thị trường bất động sản ở
113
những vùng khác nhau hoạt động theo các cách khác nhau. Tuỳ theo số lượng,
quy mô của những người tham gia, cơ sở hạ tầng và các điều kiện thông tin giữa
người mua và người bán mà có thể thực hiện tiếp xúc tại địa điểm cố định hoặc
thực hiện giao dịch thông qua điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác. Do
chúng ta chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường nên việc tạo
hành lang pháp lý hình thành thị trường này là rất cần thiết vì:
- Thị trường đất đai là thị trường đầu vào, thị trường tư liệu sản xuất, quá
trình hình thành phát triển của đất đai được gắn liền với quá trình sử dụng nó để
sản xuất và xây dựng các công trình trên đất. Cho nên thị trường bất động sản
được hình thành sẽ là nền móng để kích thích các ngành khác phát triển.
- Thị trường bất động sản ra đời sẽ tạo điều kiện thuận lợi để cho nhân dân
làm giàu bằng chính tài sản thuộc quyền sở hữu toàn dân. Họ có thể tự do mua
bán nhà cửa, đất đai (chuyển nhượng) nên hình thành nghề kinh doanh nhà đất và
nó cũng sẽ phải tuân theo quy luật của nền kinh tế thị trường như: quy luật cạnh
tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá cả.
- Phát triển thị trường bất động sản sẽ giúp cho cảnh quan Đô thị khang
trang, đẹp đẽ hơn. Bởi vì trong kinh doanh thì nhà đầu tư nào cũng phải đặt lợi
nhuận lên hàng đầu, vì thế họ phải xây dựng nhà cửa trên mảnh đất có vị trí thuận
lợi, phù hợp với quy hoạch, nhà cửa sẽ được xây dựng đẹp, đồng bộ để thu hút
người mua.
- Phát triển thị trường bất động sản sẽ tạo ra được nguồn thu rất lớn cho Nhà
nước, kinh doanh thì phải đóng thuế-đó là nghĩa vụ của người kinh doanh mà
Nhà nước đặt ra. Bất động sản là những tài sản có giá trị lớn, người kinh doanh
sẽ phải đóng một tổng thuế là rất lớn.
Với những lợi thế này thì Nhà nước nên có chính sách quy định về việc hình
thành thị trường bất động sản như sau:
+ Nhà nước cần hoàn thiện văn bản pháp luật, tạo cơ sở cho việc hình thành
thị trường bất động sản bằng cách:
114
- Tạo lập một tổ chức chuyên trách giúp Nhà nước thống nhất quản lý thị
trường này.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho người kinh doanh trên thị trường này, có thể
giúp họ về vốn, ra các văn bản hoàn chỉnh, đồng bộ và ổn định.
+ Nhà nước là người điều tiết vĩ mô trên thị trường này.
- Nhà nước cung cấp đồ án quy hoạch tổng thể, quy hoạch xây dựng chính
xác, lâu dài.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng mặt bằng, chuẩn bị trước khu
tái định cư khi công bố quy hoạch.
- Tạo một môi trường đầu tư, môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm
khuyến khích các nhà đầu tư, xây dựng cơ chế vận hành cho thị trường, giảm tới
mức tối đa các thủ tục hành chính cho công tác phát triển thị trường, thành lập
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản.
1.2-Cơ chế trong quản lý đất Đô thị.
Nước ta đã chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN,
hình thức mệnh lệnh trong quản lý đất đai hiện vẫn còn tuy đã có nhiều thay đổi.
Hiện nay ta đang thực hiện quản lý theo ngành, lĩnh vực và có sự giám sát lẫn
nhau giữa các cơ quan, nhưng vẫn chưa thực hiện triệt để. Đai bộ phận các cơ
quan vẫn thực hiện theo cơ chế thủ trưởng, cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cấp trên.
Đây là vấn đề còn tồn tại, tuy Nhà nước đã tiến hành thay đổi nhưng hiện nay cơ
chế cũ vẫn còn mang tư tưởng bao trùm.
Như vậy trong quản lý đất Đô thị ta nên thực hiện việc quản lý theo kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Điều này phù
hợp với cơ chế phát triển chung của đất nước đồng thời tạo cho thị trường đất đai
hoạt động có hiệu quả. Tạo điều kiện cho việc quản lý, sử dụng đất đai tiết kiệm,
có hiệu quả và bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai.
115
2-Giải pháp tầm vi mô.
Được thực hiện trên cơ sở các quy định của Nhà nước, UBND Tỉnh (Thành
phố), các Quận (Huyện) tổ chức triển khai thực hiện các văn bản đó và thực hiện
quản lý tại địa phương. Quản lý ở tầm vi mô là các giải pháp thiết thực và cụ thể
trong công tác quản lý đất đai như: phân cấp trong quản lý, tổ chức thực hiện, cán
bộ...
2.1-Phân cấp trong quản lý đất Đô thị.
Đó là vấn đề phân định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong cơ cấu
bộ máy quản lý đất đai. Hiện nay quy định của Nhà nước về phân cấp Đô thị
chưa rõ ràng. Bộ máy quản lý theo chế độ tập trung quan liêu bao cấp theo kiểu
xin cho, chưa đổi mới kịp thời với sự đổi mới về kinh tế. Sự phân cấp trong quản
lý Đô thị giữa các cơ sở chuyên ngành với chính quyền quận chưa rõ ràng, còn
bất hợp lý. Chính quyền quận có trách nhiệm thừa hành quyền lực quản lý đất Đô
thị nhưng không có quyền trong công việc thực hiện các nội dung về quản lý đất
(nếu có thì rất ít). Quận có vai trò như một cơ quan giúp việc còn sở và UBND
Thành phố có vai trò quyết định, giải quyết cụ thể. điều này đã làm cho Sở rất
nhiều công việc, làm không hết gây trì trệ, ách tắc. Dẫn đến Sở không thể làm
tham mưu cho UBND Thành phố (Tỉnh) về xây dựng chính sách, hướng dẫn
nghiệp vụ chuyên môn cho cấp dưới và cán bộ chuyên ngành không được bổ
sung, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, thông tin khoa học quản lý cũng không
nắm bắt được để đưa vào phục vụ công tác quản lý. Tất cả các vấn đề này đã dẫn
đến bộ máy quản lý cồng kềnh nhưng đi vào hoạt động lại không được hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả quản lý, cần cải cách lại nền hành chính quốc gia, thực
hiện việc tinh giảm bộ máy quản lý, đào tạo và đào tạo lại kiến thức cơ bản về
116
lĩnh vực quản lý cho đội ngũ cán bộ công chức. Ban hành những quy định pháp
luật hoàn chỉnh, phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và Thành phố, Quận,
Huyện, Thị xã trong công tác quản lý đất Đô thị. Nên sát nhập văn phòng kiến
trúc sư trưởng, Sở xây dựng và Sở địa chính-nhà đất làm một cơ quan. Phân
quyền sâu hơn nữa cho việc xử lý ở quận, phường thực hiện công tác giữ gìn an
ninh, trật tự xã hội, cung cấp kịp thời các thông tin về những sai phạm và xác lập
hồ sơ ban đầu, không nên tập trung toàn bộ quyền quyết định việc phân phối, xử
lý nguồn lực đất Đô thị vào một cơ quan tại UBND Tỉnh, Thành phố như hiện
nay, dẫn đến tình trạng xử lý không nổi và phân quyền cho các cơ quan tham
mưu giúp việc, làm thay đổi nội dung, chức năng của chính quyền trái với quy
định của pháp luật. Chuyển một số công việc hành chính quản lý đất đai sang
dịch vụ hành chính công.
Công tác thống kê, kiểm kê, kiểm tra việc đo đạc bản đồ địa chính, xử lý các
vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất cũng như giải quyết thủ tục hành chính
liên quan đến chuyển quyền sử dụng đất dân cư nên giao cho chính quyền quận
làm, như vậy khắc phục tính trạng một người phải ký cho cả Thành phố. Có như
vậy mới đáp ứng được yêu cầu chuyển quyền sử dụng đất ngày càng tăng khi
Nhà nước ta thực sự hoà nhập vào kinh tế thị trường khu vực và thế giới đồng
thời giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính theo yêu cầu của người dân.
Thực hiện được chức năng của chính quyền nhân dân do Đảng lãnh đạo chính
quyền của nhân dân, do dân và vì dân.
2.2-Hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác quản lý đất đai.
Sau mỗi văn bản của Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền ban hành đều
có các thông tư, chỉ thị hướng dẫn thi hành văn bản đó do chính quyền cấp đó
hoặc cấp dưới ban hành cho cơ quan thực thi nó. Trong quản lý sử sụng đất đai
cũng vậy, công tác hướng dẫn tổ chức thực hiện là một khâu quan trọng. Quản lý
đất Đô thị được thực hiện theo 7 nội dung quản lý. Mỗi nội dung đều có hướng
dẫn thực hiện cụ thể. Trong những năm qua công tác giao đất, cho thuê đất, thu
117
hồi đất, cấp GCN QSDĐ, thanh tra xử lý vi phạm đất đai và việc quản lý sử dụng
đối với từng loại đất còn nhiều vấn đề nổi cộm trong hệ thống văn bản hướng dẫn
thi hành.
Công tác quản lý sử dụng đối với từng loại đất đai phải có những biện pháp
cụ thể và quy định chức năng của từng cơ quan và từng phường.
- Đất ở Đô thị: Tăng cường biện pháp đẩy nhanh tiến độ kê khai, đăn ký cấp
GCN QSDĐ và QSDNƠ Đô thị, xác định rõ nguồn gốc sử dụng đất của từng chủ
sử dụng với từng thửa đất. Đẩy nhanh tiến độ lập dự án các công trình xây dựng
nhà ở để phục vụ di dân GPMB, xây nhà bán cho cán bộ công nhân viên và nhân
dân...
- Đất chuyên dùng: Có biện pháp tích cực để hoàn thành công tác chỉ đạo
các đơn vị kinh tế hoạt động thuê đất với chính quyền đại phương và nộp tiền
thuê đất đầy đủ cho Nhà nước. Với đơn vị vi phạm phải xử lý kịp thời và có thể
thu hồi lại để phục vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
- Đất nông nghiệp trong Đô thị giảm tới mức tối đa, chỉ giữ lại một số ít để
phát triển ngành nghề truyền thống của Đô thị. Hiện tại chỉ giao sử dụng tạm thời
cho các hộ, cá nhân canh tác các loại cây ngắn ngày.
Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo, giải quyết tranh chấp đất đai
còn nhiều, thời gian giải quyết lâu. Do việc triển khai thực hiện luật của chúng ta
còn chưa có quy định thống nhất đồng bộ nên kết qủa giải quyết của một vụ
tranh chấp giữa các cơ quan thường chênh lệch nhau do đó mất niềm tin trong
nhân dân.
Từ thực tế này trong công tác thanh tra, giải quyết tranh chấp đất đai, xử lý
vi phạm phải lưu tâm từng trường hợp cụ thể để tìm nguyên nhân của nó đồng
thời linh hoạt trong việc giải quyết. Trường hợp vi phạm lớn thì dùng biện pháp
cưỡng chế buộc thi hành và có thể thu hồi đất.
Các thủ tục để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất là thủ tục hành chính
do Nhà nước tiến hành qua các cơ quan đại diện của mình để thiết lập mối quan
118
hệ giao dịch giữa người sở hữu và người thuê đất. Việc đề ra quá nhiều thủ tục
trong quá trình thụ lý hồ sơ giao đất, cho thuê đất theo quy định của Luật đất đai
và các văn bản hướng dẫn của Nhà nước và UBND Thành phố Hà Nội đã gây ra
rất nhiều phiền nhiễu cho người sử dụng đất-người sử dụng đất phải chịu thiệt hại
cả về vật chất lẫn thời gian, mất cơ hội đầu tư do thời gian thụ lý kéo dài, cụ thể:
- Khi giao đất lần đầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chịu trách nhiệm
hoàn thành mọi hồ sơ, thủ tục pháp lý để giao quyền sử dụng đất cho người có
nhu cầu sử dụng, mọi chi phí trong công tác này do Nhà nước chịu, còn người sử
dụng đất phải có nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất (nếu được giao đất) và nộp tiền
thuê đất (nếu được thuê đất).
- Khi thu hồi đất để giao lại quyền sử dụng cho người chủ sử dụng mới dưới
dạng chuyển quyền có kèm theo chuyển mục đích sử dụng. Nhà nước nên có văn
bản hướng dẫn người chủ sử dụng mới thoả thuận đền bù thiệt hại cho người chủ
sử dụng bị thu hồi. Tạo điều kiện sống và làm việc tại nơi ở mới cho người bị thu
hồi đất. Giảm thiệt hại tới mức thấp nhất cho người bị thu hồi để họ yên tâm sản
xuất và sớm ổn định cuộc sống. Khi cấp GCN lại thiết lập mối quan hệ giữa Nhà
nước với người sử dụng mới Nhà nước nên tiến hành thụ lý và xác lập, không
nên để người sử dụng đất tự đi làm và không phải chịu thiệt hại về kinh tế. Hiện
nay các thủ tục này vận hành theo cơ chế xin cho nên dẫn đến hiện tượng không
bình đẳng giữa Nhà nước và người sử dụng đất. Vấn đề này Nhà nước nên giao
cho các cơ quan kinh doanh là pháp nhân được Nhà nước công nhận và trả tiền
các hoạt động trước. Điều này sẽ làm giảm bớt biên chế trong bộ máy hành chính
Nhà nước và tạo mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và người sử dụng đất.
Tổ chức thực hiện công tác cấp GCN QSDĐ hiện nay còn rất chậm, mặc dù
Nhà nước đã thay đổi rất nhiều cho phù hợp với thực tế của công tác này nhưng
kết quả không cao đặc biệt trong Đô thị do nhiều nguyên nhân: chưa hoàn thiện
và cập nhật kịp thời công tác đo vẽ bản đồ, các việc lập hồ sơ còn thiếu, gây
nhiều thủ tục cho công tác thực hiện, cán bộ thụ lý cấp phường còn chưa hiểu hết
119
về công việc này, quá trình hình thành đất có lịch sử phức tạp đã thay đổi nhiều
chủ sử dụng mà Nhà nước không nắm được, tiền nộp cho sử dụng đất quá cao đối
với thu nhập của người dân... Để đẩy nhanh tiến độ ngành Địa chính-Nhà đất đã
đưa ra một số giải pháp:
+ Cải tiến thủ tục kê khai đăng ký cấp GCN QSDĐ khẩn trương hoàn thiện
công tác đo vẽ bản đồ dịa chính và cập nhật thường xuyên biến động.
+ Có văn bản hướng dẫn cụ thể các khoản thu về nhà đất trong từng giai
đoạn sử dụng đất cụ thể, đảm bảo được khả năng chi trả của người dân. Nếu để ở
mức quá cao mà người dân không thể trả được thì họ sẽ không thực hiện kê khai
đăng ký.
+ Khi có sự chuyển dịch đất đai giữa các chủ sử dụng, mục đích sử dụng
Nhà nước nên làm ngay thủ tục đăng ký biến động mà không cần chủ sử dụng
mới phải kê khai mới đăng ký.
+ Đào tạo đội ngũ cán bộ địa chính phường, quận về công tác này, lựa chọn
người có đủ năng lực chuyên để giảm bớt việc thực hiện thanh tra, kiểm tra lại hồ
sơ kê khai. Hiện nay phòng tiến hành thanh tra sau đó chuyển lên quận và Sở
thực hiện thanh tra lại cho chính xác, điều này kéo dài thời gian thực hiện công
tác quản lý đất đai.
Hướng dẫn thực hiện công tác quản lý đất đai của Nhà nước, phải có sự
thống nhất phối hợp của các ngành, các cấp trong bộ máy quản lý của Nhà nước
như phòng Địa chính, UBND, phòng quy hoạch... Đồng thời nên giao quyền cho
cơ quan chuyên ngành để xử lý vụ việc.
2.3-Đào tạo cán bộ trong quản lý đất đai.
Là một yêu cầu cấp thiết trong tình hình hiện nay, các cán bộ đều thiếu
nghiệp vụ quản lý Nhà nước. Hiện tại mới chỉ đào tạo nghiệp vụ để làm việc còn
công tác quản lý như thế nào thì chưa đào tạo chuyên sâu. Vì vậy trong giai đoạn
hiện nay Nhà nước cùng Tổng cục địa chính nên mở các lớp đào tạo chuyên sâu
cho cán bộ của ngành. Bên cạnh đó cần bố trí cán bộ cho phù hợp. Do đặc điểm
120
công việc ngành Địa chính là làm việc nhiều ở cơ sở, quản lý trực tiếp tới từng
thửa đất do đó cần bố trí cán bộ giỏi năng lực, chuyên môn nghiệp vụ ở phường,
quận để công tác quản lý được tốt. ở hai cấp này nên bố trí thêm cán bộ, tạo điều
kiện cho họ yên tâm công tác, cán bộ địa chính phường phải được Nhà nước trả
lương theo ngạch bậc công chức. Từ đó thì công tác quản lý đất đai Đô thị sẽ
được nâng cao.
3-Một số giải pháp cụ thể đối với quận Cầu Giấy.
Trong thời gian tới, cùng với tốc độ xây dựng Đô thị của thủ đô ngày càng
cao, nhiệm vụ đặt ra cho công tác quản lý đất đai của Thành phố Hà Nội nói
chung và của Cầu Giấy nói riêng càng nặng nề phức tạp. Để đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ quản lý đất đai trong những năm tới cần có sự phối hợp chặt chẽ,
đồng bộ giữa các ban ngành chuyên môn cùng sự chỉ đạo, hướng dẫn sâu sát, kịp
thời của các cấp chính quyền từ Trung ương đến Địa phương cũng như sự ủng hộ
của các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân. Tình hình đó, đặt ra một số giải
pháp cho công tác quản lý đất đai của quận Cầu Giấy như sau:
Xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm trên cơ sở quy hoạch sử dụng
đất của quận.
Quy hoạch sử dụng đất dài hạn được xây dựng có luận chứng, luận cứ khoa
học dựa trên cơ sở thực trạng phát triển kinh tế - xã hội: tình hình quản lý, sử
dụng đất đai, khái quát được tiềm năng đất đai của quận và dự báo những biến
động về sử dụng các loại đất trên địa bàn quận Cầu giấy.
Hiện nay quận vẫn chưa có quy hoạch sử dụng đất chi tiết tới tất cả các
phường cho nên việc cần thiết trước hết là phải tổ chức công tác này và trình lên
UBND Thành phố phê duyệt càng sớm càng tốt mặc dù quận đã có kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội đến năm 2005 và quy hoạch tổng thể của Thành phố đến năm
2020. Việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm của quận trên cơ sở quy
hoạch sử dụng đất dài hạn của quận sẽ đảm bảo sự gắn bó hữu cơ giữa việc sử
dụng đất với kế hoạch phát triển kinh tế kế hoạch phát triển Đô thị, kế hoạch đầu
121
tư phát triển hạ tầng hàng năm của Thành phố, điều đó bảo đảm việc quản lý sử
dụng đất đạt hiệu quả cao, góp phần thực hiện thắng lợi từng bước quy hoạch sử
dụng đất lâu dài của quận. Mặt khác, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển
kinh tế, CNH-HĐH trên địa bàn quận, thực hiện kế hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội quận Cầu Giấy giai đoạn 2001-2005.
Hoàn thiện và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách quản lý đất đai.
Quá trình đô thị hoá nhanh chóng trên địa bàn quận trong giai đoạn tới sẽ có
tác động tới sản xuất và đời sống của nhân dân trong quận. Quận cần có chính
sách đối với vùng đang sản xuất nông nghiệp chưa được đô thị hoá, nhằm tạo
điều kiện và khuyến khích nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất nông
nghiệp thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế cho phát triển sản xuất khi
chưa xây dựng đô thị.
Có chính sách khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất ngành
nghề truyền thống ở các thôn xóm cũ bằng kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp tư
nhân... Cần thực hiện công khai hoá các thông tin về quy hoạch, giải phóng mặt
bằng... tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân được tiếp cận với thông tin chính xác
về đất đai. Thông qua đó tạo điều kiện cho dân kiểm tra, giám sát việc thực thi
chính sách của cơ quan chức năng, hạn chế những tiêu cực trong quản lý đất có
thể xảy ra, bảo đảm chế độ chính sách của Nhà nước được thực hiện đúng, bảo
đảm quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Thành phố cần sửa đổi theo hướng đơn giản hoá một số nội dung trong
quyết định số 72/2001-UB của UBND Thành phố về quy định quy trình, thủ tục
giải phóng mặt bằng, phù hợp với hướng dẫn phân cấp cho các quận huyện.
Cần có cơ chế buộc các chủ đầu tư đưa vào sử dụng ngay quỹ đất đã giải
phóng mặt bằng, tránh tái lấn chiếm hoặc gây bất bình, thắc mắc trong nhân dân.
Trường hợp không sử dụng được ngay diện tích đất đó, cần thu hồi giao cho chủ
đầu tư khác.
122
Thành phố cần sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể về phân công phân cấp về
công tác quản lý đất đai theo luật, cho phép UBND Quận được quyền quyết định
một số vấn đề như: cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất ở, các thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, được
quyền thu hồi đất đai đối với các trường hợp vi phạm luật đất đai, để đất hoang
hoá, lãng phí quỹ đất, thu hồi các diện tích đất bị kẹt, diện tích đất nhỏ lẻ để sử
dụng vào các mục đích công cộng...
Thành phố, Sở Địa chính - Nhà đất sớm có quyết định thu hồi đất của các cơ
quan, đơn vị dã được giao từ lâu nhưng chưa sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích,
giao đất đó cho quận quản lý sử dụng hoặc giao cho các đơn vị có khả năng đầu
tư sử dụng ngay.
Thành phố cần có kế hoạch xây dựng quỹ nhà đất cho tái định cư để phục vụ
công tác giải phóng mặt bằng. Công tác này có ý nghĩa quyết định tiến độ và sự
thành công của công tác giải phóng mặt bằng.
Tiếp tục nghiên cứu cải tiến đơn giản hoá các thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ở nhằm đẩy nhanh tiến độ công tác này, góp phần tạo điều
kiện cho thị trường bất động sản hoạt động.
Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý đất đai, xây dựng chế độ làm việc khoa
học hợp lý.
Cùng với quy trình hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý đất đai cần phải
hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, nhằm đảm bảo thực hiện được những yêu cầu
nhiệm vụ ngày càng nặng nề của thực tiễn quản lý đất đai trong thời gian tới.
Đối với phòng địa chính cấp quận, cần bổ sung thêm cán bộ đủ biên chế từ
9-10 người. Nhiệm vụ quản lý đất đai trên địa bàn quận ngày càng tăng và ngày
càng phức tạp cùng với sự gia tăng nhanh chóng đô thị hoá. Tình hình đó đòi hỏi
cần phải có đủ cán bộ và cán bộ phải có đủ năng lực phẩm chất và trình độ
chuyên môn để đảm đương được công việc.
123
Đối với cấp phường cần có 2 cán bộ chuyên môn phụ trách về công tác quản
lý đất đai. Hai cán bộ này cần được đưa vào biên chế Nhà nước, hưởng lương của
ngành địa chính do UBND quận điều động bổ nhiệm và quản lý nhằm chuyên
môn hoá công tác quản lý đất đai. Số cán bộ này không kiêm nhiệm các công tác
khác, không thay đổi sau mỗi kỳ Đại hội bầu cử Hội đồng nhân dân, bảo đảm cho
việc quản lý đất đai chặt chẽ, thống nhất, tránh bị xáo trộn không cần thiết.
Bên cạnh đó, cần xây dựng chế độ làm việc khoa học hợp lý trong các cơ
quan quản lý địa chính từ cấp quận đến cấp phường.
Ở cấp quận, cần xây dựng chế độ báo cáo định kỳ của Chủ tịch UBND các
phường lên quận về tình hình quản lý sử dụng đất, những biến động về đất ở
phường cũng như những khó khăn vướng mắc nảy sinh cần giải quyết, những vi
phạm về đất ở phường cần xử lý.
Trên cơ sở báo cáo của UBND các phường, UBND quận giao cho phòng
Địa chính - Nhà đất tổng hợp hoàn chỉnh hồ sơ, báo cáo và đề xuất hướng giải
quyết cụ thể đối với từng vấn đề của mỗi phường. Ở cấp phường cần xây dựng
chế độ làm việc khoa học. Định kỳ kiểm tra, rà soát hồ sơ lưu trữ quản lý về đất,
bổ sung hồ sơ quản lý những thông tin dữ liệu còn thiếu. Xây dựng và tiến tới
hoàn thiện toàn bộ hệ thống quản lý hồ sơ, bản đồ đầy đủ và đồng bộ theo đúng
quy trình, quy định của Nhà nước.
Giải pháp về công tác giải phóng mặt bằng.
Công tác giải phóng mặt bằng là một trong những nhiệm vụ trong tâm của
công tác quản lý đất đai liên quan đến ổn định chính trị xã hội, phát triển kinh tế
và xây dựng đô thị. Đây là vấn đề nhạy cảm và ngày càng trở nên bức xúc, cần
phải có giải pháp cụ thể cho công tác này nhằm đem lại hiệu quả cao về kinh tế,
chính trị và xã hội.
Trước hết, công tác chẩn bị cho giải phóng mặt bằng phải được thực hiện
chu đáo, kỹ lưỡng ở mọi khâu: điều tra, khảo sát cụ thể, chính xác, tỷ mỉ tới từng
hộ dân thuộc diện giải toả, xây dựng các phương án, kế hoạch, quy trình giải
124
phóng mặt bằng thật chi tiết, chặt chẽ đặc biệt là phương án áp giá bồi thường, hỗ
trợ tránh có sự chênh lệch nhiều trong cùng một dự án hoặc giữa các dự án cùng
triển khai; chuẩn bị tốt quỹ nhà đất cho tái định cư, kinh phí hỗ trợ và giải quyết
việc làm.
Công bố công khai các dự án, các chính sách bồi thường, hỗ trợ của Nhà
nước và Thành phố. Công bố công khai các kết quả điều tra, các phương án được
phê duyệt tới từng hộ có đất bị thu hồi.
Cần thống nhất nhận thức giữa chính quyền Thành phố và các quận phường;
giữa các ngành từ thành phố tới các Quận phường; giữa các cơ quan thông tin,
báo chí của Trung ương và thành phố nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp trong nhận
thức, tuyên truyền và thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về
giải phóng mặt bằng, làm cho dân nhất trí cao, chú trọng công tác tuyên truyền
chung đồng thời lưu ý vận động riêng từng đối tượng.
Thực hiện dân chủ trong việc tiếp thu các ý kiến đóng góp của các tổ chức,
đoàn thể quần chúng của nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện giải phóng
mặt bằng.
Trong quá trình tổ chức triển khai giải phóng mặt bằng cần kiên quyết đồng
bộ, thực hiện từng bước liên tục nhất quán dứt điểm đúng như phương án đã
được thống nhất phê duyệt đảm bảo công bằng, công khai dân chủ.
Cần phân công nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể cho từng bộ phận đặc biệt
chú ý tới vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng: các chi bộ cần quán triệt
cho đảng viên phải gương mẫu chấp hành và vận động quần chúng cùng thực
hiện, Mặt trận Tổ quốc, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn
thanh niên đồng loạt phối hợp tuyên truyền vận động hội viên chấp hành chính
sách tuyên truyền của Nhà nước.
Các lực lượng Công an, An ninh, nhất là Công an cơ sở phải bám sát quần
chúng nhân dân kịp thời nắm bắt những tình huống mới phát sinh xử lý nhanh
nhạy phân hoá đối tượng ngăn chặn phát sinh điểm nóng. Kiên quyết xử lý theo
125
pháp luật và cưỡng chế thu hồi đất giải phóng mặt bằng đối với những đối tượng
cố tình chống đối sau khi đã được tuyên truyền vận động, thuyết phục.
Sau giải phóng mặt bằng cần phải bàn giao ngay cho các chủ dự án quản lý
chặt chẽ thi công kịp thời, chống tái lấn chiếm.
Trên đây là một số giải pháp cụ thể cho công tác giải phóng mặt bằng trên
địa bàn quận Cầu Giấy cũng như có thể áp dụng cho các quận khác trong thành
phố. Để có các giải pháp đó đạt hiệu quả cao, cần lưu ý một số điểm:
Cần có sự chỉ đạo tập trung thống nhất cụ thể và quyết tâm cao của các cấp
uỷ Đảng và chính quyền đối với công tác giải phóng mặt bằng.
Lựa chọn bố trí cán bộ có bản lĩnh trình độ năng lực, có trách nhiệm cao làm
công tác giải phóng mặt bằng .
Cần kết hợp hài hoà giữa kiên trì tuyên truyền vận động thuyết phục quần
chúng với kiên quyết trong xử lý các trường hợp cố tình chống đối. Linh hoạt,
nhạy bén xử lý hợp lý những tình huống mới nảy sinh.
Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ địa chính,
đầu tư cơ sở vật chất cho công tác quản lý Địa chính - Nhà đất.
Cán bộ địa chính là một trong những nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả
quản lý đất đai. Do đó, trong giai đoạn tới cần có kế hoạch và biện pháp cụ thể để
xây dựng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý đất đai, đảm bảo cho họ có đủ phẩm
chất chính trị và trình độ chuyên môn để họ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của
ngành trong giai đoạn mới. Cụ thể:
Quận cần có kế hoạch hướng dẫn tập huấn định kỳ cho cán bộ địa chính cấp
phường về chuyên môn nghiệp vụ như: thống kê biến động đất đai, chỉnh lý biến
động bản đồ, công tác đăng ký kê khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở
... đồng thời tập trung nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm
công tác quản lý đất ở cấp quận và cấp phường. Bên cạnh đó, cần có kế hoạch
bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, phổ biến chế độ chính sách mới về
126
quản lý đất và các lĩnh vực khác có liên quan cho cán bộ quản lý địa chính cấp
quận và phường.
Quận cần quan tâm đầu tư từng bước cơ sở vật chất theo hướng ứng dụng
công nghệ quản lý đất đai hiện đại. Đây là yếu tố quan trọng hỗ trợ tích cực cho
công tác quản lý địa chính đáp ứng yêu cầu cập nhật xử lý thông tin nhanh phục
vụ công tác lãnh đạo và cung cấp thông tin chính xác kịp thời về lĩnh vực đất đai
cho các tổ chức cá nhân cần quan tâm, nâng cao hiệu quả quản lý đất. Mặt khác,
đây cũng là điều kiện để tinh giản bộ máy tổ chức của ngành.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phối hợp giữa các ban ngành, tổ
chức, đoàn thể trong công tác quản lý đất đai, thực hiện các chế độ chính sách
của Nhà nước.
Bài học kinh nghiệm những năm qua cho thấy khi có sự quan tâm chỉ đạo
của các cấp uỷ Đảng đối với công tác quản lý địa chính, có sự phối hợp đồng bộ
thống nhất giữa các ban ngành, các tổ chức đoàn thể trong công tác quản lý Địa
chính - Nhà đất, quản lý địa chính đạt hiệu quả cao, kịp thời và chính xác hơn,
không để xảy ra các điểm nóng, tình hình xã hội và đời sống nhân dân được ổn
định, do đó trong thời gian tới, sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng một cách
thường xuyên đối với công tác quản lý địa chính là rất cần thiết và cần tiếp tục
được phát huy.
Tích cực tuyên truyền phổ biến giáo dục về pháp luật, chế độ chính sách
nhà đất. kiên quyết xử lý dứt điểm các trường hợp vi phạm pháp luật, chính
sách đất đai của Đảng và Nhà nước.
Để đưa công tác quản lý đất đai vào nề nếp theo quy định của Pháp luật, cần
coi trọng và tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền bồi dưỡng, phổ biến, giáo
dục chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đất ở tới tất cả các cấp
chính quyền, tổ chức đoàn thể, mọi tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức. Việc
127
đó giúp cho các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể quán triệt chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước, nhân dân hiểu rõ và tự giác chấp hành chính
sách sẽ tạo ra sự nhất trí cao trong nhận thức và hưởng ứng thực hiện, góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý đất đai.
Bên cạnh việc tuyên truyền giáo dục Pháp luật, vận động cán bộ, Đảng viên,
Đoàn viên, hội viên gương mẫu thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, vận
động nhân dân cùng thực hiện; cần kiên trì giải thích thuyết phục những trường
hợp dân chưa hiểu chính sách làm cho họ thông và tự giác chấp hành. Đồng thời
cần kiên quyết xử lý thích đáng đối với các tổ chức cá nhân vi phạm Luật đất đai.
Các vụ việc cần giải quyết nhanh gọn, tránh tình trạng kéo dài gây bất bình trong
nhân dân và nảy sinh điểm nóng về đất đai.
KẾT LUẬN
Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá của mọi quốc gia, việc quản lý đất đai
nhằm sử dụng vốn đất có hạn cho tăng trưởng phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân, ổn định chính trị, xã hội là một yêu cầu khách quan của Chính
phủ các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế. Đối với Việt
Nam, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả
quản lý đất đai. Điều đó được thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, trong pháp
128
luật và trong chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước thể hiện ở quyết định của
Chính phủ thành lập một hệ thống quản lý đất đai từ Trung ương đến cơ sở.
Hiện nay, công tác quản lý đất đai ở nước ta nói chung và trên địa bàn quận
Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội nói riêng cần phải tiếp tục đổi mới nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác này. Yêu cầu đó xuất phát từ nhiệm vụ phát triển kinh tế
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và từ thực trạng quản lý đất đai ở nước ta
hiện nay. Công tác quản lý đất đai ở Hà Nội và ở quận Cầu Giấy trong những
năm qua đã thu được nhiều kết qủa to lớn, từng bước đưa công tác quản lý đất đai
vào kỷ cương theo quy định của pháp luật. Những kết quả đạt được đã góp phần
tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn quận, cơ bản đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đô thị, góp phần ổn định
chính trị, trật tự an toàn của quận và của Thủ đô đang bước vào thời kỳ công
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Tuy nhiên, công tác quản lý đất đai trên địa bàn quận Cầu Giấy còn nhiều
bất cập: hiệu quả quản lý chưa cao, công tác giải phóng mặt bằng đang là vấn đề
cần tập trung giải quyết, quy hoạch chi tiết về sử dụng đất còn chưa đưa ra, một
số vấn đề về cơ chế, chính sách và trình độ đội ngũ cán bộ địa chính còn những
hạn chế, cần bổ sung, giải quyết nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để khắc phục các bất cập trên đảm bảo
cho công tác quản lý đất đai đạt kết quả tốt đòi hỏi phải hoàn thiện bộ máy tổ
chức quản lý, nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ địa chính, cần bổ
sung thêm cán bộ biên chế cho phòng Địa chính quận, hoàn thiện các văn bản
pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên truyền để người dân hiểu và thực hiện đúng luật
đất đai, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
các đối tượng sử dụng đất... Có như thế thì mục tiêu đặt ra cho công tác quản lý
Nhà nước về đất đai mới đảm bảo được, bảo vệ được tài sản vô cúng quý giá của
quốc gia và bảo đảm được công bằng trong xã hội.
129
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1- GS.TSKH Lê Đình Thắng: Giáo trình Quản lý Nhà nước về Đất đai và
Nhà ở-NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội 2000.
2- GS.TSKH Lê Đình Thắng: Giáo trình Nguyên lý thị trường đất đai- NXB
Chính trị quốc gia-Hà Nội 2000.
3- PGS.TS Ngô Đức Cát: Giáo trình Kinh tế tài nguyên đất-NXB Nông
nghiệp-Hà Nội 2000.
4- GS.TS Nguyễn Thế Bá: Quy hoạch xây dựng phát triển Đô thị-NXB Xây
dựng-Hà Nội 1997.
5- Phạm Ngọc Côn: Kinh tế Đô thị-NXB Khoa học kỹ thuật-1998.
6- Luật đất đai 1993 và Luật sửa đổi bổ sung.
7- GS.TSKH Lê Đình Thắng: Giáo trình Thống kê đất đai- NXB Chính trị
quốc gia-Hà Nội 2000.
8- Tạp chí Địa chính các số năm 1998, 1999, 2000.
9- Tạp chí Xây dựng các số năm 1998, 1999, 2000.
10- Tài liệu hội nghị công bố và triển khai: Định hướng quy hoạch phát
triển tổng thể Đô thị và định hướng phát triển cấp nước Đô thị Việt Nam
đến năm 2020-NXB Xây dựng.
11- Tài liệu hội nghị Đô thị toàn quốc lần thứ II.
130
12- Báo cáo kết quả tổng kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng
sử dụng đất năm 2001 trên địa bàn quận Cầu Giấy.
13- Báo cáo thi đua năm 2001 của phòng Địa chính-Nhà đất quận Cầu
Giấy.
14- Báo cáo thực hiện Tổng kiểm tra biến động đất đai năm 2001 của
phòng Địa chính-Nhà đất quận Cầu Giấy.
15- Báo cáo về giải phóng mặt bằng năm 2001 của phòng Địa chính-
Nhà đất quận Cầu Giấy.
16- Báo cáo Thuyết minh số liệu thống kê đất đai năm 2001 của phòng
Địa chính-Nhà đất quận Cầu Giấy.
17- Niên giám thống kê quận Cầu Giấy năm 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- th_c_tr_ng_va_gi_i_phap_tang_cu_ng_cong_tac_qu_n_ly_nha_nu_c_v_d_t_o__.pdf