Qua bài nghiên cứu này, ta đã thấy rõ được thực trạng về tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn năm 2007 – 2008. Lạm phát bắt đầu tăng mạnh từ những tháng cuối năm 2007, phải đến tháng 5/2008 chính phủ mới thực hiện 8 giải pháp hạn chế lạm phát. Tuy nhiên vào các tháng cuối năm 2008 ta đã bắt đầu thấy tác dụng của 8 nhóm giải pháp đó, chỉ số giá tiêu dùng tuy có tăng đột biến vào tháng 7 lên mức 27.04% nhưng đã giảm dần tới mức -0.68% tháng 12. Đấy là một điều đáng mừng, tuy nhiên hiện nay vẫn có 2 khả năng đang rình rập xảy ra là có thể là thiểu phát hay lại tiếp tục nguy cơ lạm phát. Nếu năm 2009 giảm phát thì cần phải có biện pháp kích cầu đi theo ngay: như mở rộng tín dụng, kích thích tiêu dùng.
34 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7714 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp về lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn năm 2007 – 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và giải pháp về lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn năm 2007 – 2008PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Lạm phát là hiện tượng kinh tế phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới ngày nay, nó tồn tại ở cả những nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, cả trong thời kì kinh tế khủng hoảng, suy thoái lẫn thời kì hưng thịnh. Lạm phát ở một mức độ nhất định có thể là một biện pháp phát triển kinh tế, làm tăng nhu cầu, thúc đẩy các hướng đầu tư có lợi. Song khi lạm phát vượt qua một giới hạn nhất định thì nó trở thành căn bệnh gây nhiều tác hại cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay, tốc độ lạm phát đang gia tăng ở mức 2 con số là 12.63% năm 2007 và 19.89% năm 2008, tuy chưa phải là một mức cao, đáng báo động nhưng so với mặt bằng chung của nền kinh tế nhỏ, quy mô chưa cao thì đây cũng là một điều cần phải nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tối đã chọn đề tài “ Thực trạng và giải pháp về lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn năm 2007 – 2008” .
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề án là vấn đề lạm phát. Phạm vi nghiên cứu là ở Việt Nam trong giai đoạn năm 2007 – 2008.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề án đã sử dụng triệt để phương pháp logic học và phương pháp thời gian trong đó các công cụ phân tích thống kê và phân tích định lượng được sử dụng để giải quyết vấn đề.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu toàn bộ hệ thống lý thuyết và thực tiễn về vấn đề lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2008.
Đề xuất các giải pháp tương thích cho việc kiềm chế lạm phát ở Việt Nam cả trong ngắn hạn và dài hạn.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và hệ thống bảng biểu thì nội dung đề án bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về lạm phát.
Chương 2: Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2008.
Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị kiềm chế lạm phát.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT
Khái niệm
Khái niệm chung
Lạm phát là mối quan tâm của tất cả mọi người từ Chính phủ, các tổ chức kinh tế cho tới dân cư. Việc kiểm soát lạm phát là vấn đề quan trọng trong chính sách tiền tệ quốc gia nhằm duy trì môi trường kinh tế ổn định, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế bền vững. Vậy lạm phát là gì?
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp gắn liền với sự tăng lên đồng loạt của giá cả và sự mất giá của tiền tệ. Nói đến lạm phát nhiều người có cảm giác như quen thuộc và cho rằng đây là vấn đề đã gặp. Sau đây là 3 quan điểm khác nhau về lạm phát do xuất phát từ các cách nhìn nhận khác nhau về nguyên nhân và hậu quả của lạm phát gắn liền với những vấn đề chung của sự phát triển và kém phát triển của các nền kinh tế, cũng như các yếu tố về thể chế, chính sách và xã hội.
Theo quan điểm của trường phái tiền tệ thì lạm phát là một hiện tượng thuần túy tiền tệ, giá cả tăng lên là do tăng cung tiền quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan điểm này thì lạm phát xuất hiện khi có lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn khối lương tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường. Định nghĩa này chỉ đưa ra cách giải thích về nguyên nhân lạm phát chứ chưa giải thích được hiện tượng lạm phát chi phí đẩy ( xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 hoặc ở Việt Nam năm 2005) do loại lạm phát này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổn định. Nếu chỉ coi lạm phát khi sự tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
Một quan điểm phổ biến khác cho rằng lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá chung ( mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy nhiên, không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chỉ tăng tạm thời, trong ngắn hạn, sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả của những biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn đến sự cường điệu hóa nguy cơ lạm phát.
Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là Milton Friedman đã khẳng định lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong thời gian dài. Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của lạm phát được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá cao và liên tục từ thời gian này đến thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng tháng chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể là sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ tạm thời chứ không kéo dài. Chỉ khi nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi là biểu hiện của lạm phát cao. Định nghĩa này được các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes ủng hộ. Định nghĩa này cũng đặc biệt thích hợp với các nhà điều hành chính sách tiền tệ vì NHTW chỉ có thể điều chỉnh giá cả trong dài hạn chứ không thể điều chỉnh trong ngắn hạn. Những cố gắng điều chỉnh giá cả trong ngắn hạn thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ sẽ chỉ làm cho diễn biến giá cả thêm phức tạp.
Nói tóm lại, lạm phát được hiểu đơn giản là mức giá cả chung của nền kinh tế tăng lên. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay là giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác nhau thì lạm phát là sự phá giá của một loại tiền tệ so với một loại tiền tệ khác.
Phương pháp đo lường lạm phát
Vì biểu hiện của lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung nên để đo lường mức độ lạm phát, người ta căn cứ vào tốc độ tăng của mức giá chung. Tốc độ tăng của mức giá chung còn được gọi là tỷ lệ lạm phát và được xác định theo các phương pháp sau:
Phương pháp xác định dựa trên chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI - Consumer Price Index )
CPI phản ánh mức giá cả bình quân của nhóm hàng hóa và dịch vụ cho nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình. Để xác định chỉ số giá tiêu dùng, người ta chọn ra một giỏ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng của các hộ gia đình trong một giai đoạn nhất định, đồng thời xác định mức độ tiêu dùng của cá hộ gia đình đối với từng hàng hóa và dịch vụ trong giỏ. Trên cơ sở xác định chỉ số giá của từng hàng hóa và dịch vụ trong giỏ, người ta tính được chỉ số giá tiêu dùng theo công thức:
Ip = ∑ ipj * dj với j = 1 đến n
Trong đó: Ip là chỉ số giá của cả giỏ hay chỉ số giá tiêu dùng
Ipj là chỉ số giá của hàng hóa hay dịch vụ thứ j
dj là tỷ trọng mức tiêu dùng hàng hóa hay dịch vụ thứ j
( ∑ dj = 1 với j = 1 đến n)
Hầu hết các quốc gia đều sử dụng chỉ số CPI để tính tỷ lệ lạm phát theo công thức sau:
Gp = ( IP / IP-1 ) * 100%
Trong đó: Gp là tỷ lệ lạm phát (%).
Ip là chỉ số giá cả của thời kì hiện tại
Ip-1 là chỉ số giá cả thời kì trước đó.
Chỉ số giá cả sản xuất ( PPI – Producer Price Index )
PPI là chỉ số phản ánh giá cả đều vào, mà thực chất là chi phí sản xuất bình quân của xã hội. Sự biến động của chi phí sản xuất tất yếu sẽ tác động đến xu hướng biến động của mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.
Chỉ số PPI được xác định theo phương pháp gần tương tự chỉ số CPI nhưng do việc thu tập số liệu và xác định tỷ trọng thu phức tạp nên không phải quốc gia nào cũng tính và công bố chỉ số này.
Phương pháp xác định dựa trên chỉ số giảm phát GDP ( DGDP )
Chỉ số giảm phát GDP là chỉ số phản ánh mức giá bình quân của tất cả các hàng hóa và dịch vụ tạo nên tổng sản phẩm quốc nội, nó được xác định theo công thức:
DGDP = GDPdanh nghĩa / GDP thực tế * 100%
Trong đó: GDPdanh nghĩa đo lường sản lượng theo giá năm hiện hành
GDPthực tế đo lường sản lượng năm hiện tại theo giá năm được chọn làm năm gốc.
Chỉ số lạm phát cơ bản
Lạm phát cơ bản thể hiện xu hướng tăng giá hàng hóa dịch vụ tiêu dùng trong dài hạn và là một thước đo lạm phát. Nó minh họa cho sự tăng giá sau khi đã loại bỏ những dao động mang tính chất mùa vụ, cũng như những doa động bắt nguồn từ những cú sốc cung tạm thời. So sánh với chỉ số CPI, chỉ số lạm phát cơ bản đặc trưng bởi sự hoạt động trơn tru hơn, biểu hiện xu hướng dài han của lạm phát và có thể chịu tác động trực tiếp bởi chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, đây không phải là chỉ số thay thế CPI. Lạm phát cơ bản đóng vai trò như một chỉ tiêu bổ sung hữu ích đối với chỉ số CPI, cung cấp xu hướng dài hạn của giá tiêu dùng và được sử dụng như một chỉ số lạm phát tương lai. Do đó, nó trở thành công cụ phân tích hữu ích khi nghiên cứu hiện tượng lạm phát. Mức lạm phát cơ bản cũng hỗ trợ việc xác định phạm vi tác động thực sự của chính sách tiền tệ lên giá tiêu dùng.
Như vậy, tỷ lệ lạm phát cơ bản được hiểu là tỷ lệ lạm phát đã được điều chỉnh loại bỏ những biến động ngắn hạn về giá cả méo mó việc tính toán mức lạm phát. Nó giúp các nhà hoạch định chính sách xác định liệu những diễn biến giá tiêu dùng hiện tại có phải là những rối loạn tạm thời không? Đây là một thông tin quan trọng để hoạch định chính sách tiền tệ.
Phân loại lạm phát
Tùy theo tiêu thức dùng để phân loại lạm phát mà ta có các loại lạm phát khác nhau. Thông thường người ta phân loại lạm phát trên cơ sở định lượng và định tính.
Về mặt định lượng, lạm phát được chia làm 3 loại
Lạm phát vừa phải (normal inflation)
Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi giá cả tăng chậm, thường xấp xỉ bằng mức tăng số tiền lương hoặc cao hơn chút ít và có thể dự đoán trước được. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở mức một con số thường được coi là lạm phát vừa phải. Đó là mức lạm phát mà bình thường mà nền kinh tế phải trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
Lạm phát phi mã (high inflation)
Lạm phát phi mã xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng nhanh, ở mức hai, ba con số như 50%, 100% và 200%. Trong thời kì lạm phát phi mã, sản suất không phát triển, hệ thống tài chính bị biến dạng.
Siêu lạm phát (hyper inflation)
Siêu lạm phát xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã, có thể lên tới hàng nghìn lần. Siêu lạm phát có sức phá hủy mạnh toàn bộ hoạt động của nền kinh tế và thường đi kèm với suy thoái kinh tế nghiêm trọng.
Về mặt định tính, lạm phát cũng được chia thành 3 loại
Lạm phát thuần túy
Là trường hợp đặc biệt của lạm phát, hầu hết giá cả của mọi loại hàng hóa đều tăng lên với cùng một tỷ lệ trong một đơn vị thời gian. Lạm phát thuần túy là loại lạm phát có mức giá chung tăng tương ứng với mức tăng thu nhập.
Lạm phát được dự đoán trước
Là lạm phát mà mọi người có thể dự đoán trước được nhờ vào diễn tiến liên tục theo chuỗi thời gian trong nhiều năm.Loại lạm phát này chưa có tác động đáng kể đến nền kinh tế vì các hoạt động kinh tế đã được chỉ số hóa trước nên khi tính giá trị thực thì không đổi.
Lạm phát không dự đoán trước được
Là lạm phát xảy ra bất ngờ ngoài sự tiên đoán của mọi người về quy mô, cường độ cũng như mức độ tác động của nó đến nền kinh tế. Loại lạm phát này gây ra những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, làm méo mó các hoạt động kinh tế thông qua hiệu ứng phân phối lại thu nhập một cách không bình đẳng.
Tác động của lạm phát
Tác động kinh tế xã hội của lạm phát rất khác nhau tùy thuộc vào mức độ lạm phát và khả năng dự báo chính xác sự biến động của mức lạm phát. Khi giá cả có xu hướng tăng lên từ thời gian này đến thời gian khác, mọi người đều có thể nhận thức được thực tế đó và cố gắng dự đoán tỷ lệ lạm phát của thời kì tới. Do đó ta có thể xét tác động của lạm phát đến nền kinh tế theo 2 khía cạnh
1.2.1 Lạm phát có thể dự tính được
Mức lạm phát thực tế phù hợp với dự tính nên lạm phát không gây ảnh hưởng gì nhiều đến sản lượng, hiệu quả của cá hoạt đông kinh tế và phân phối thu nhập. Tuy nhiên dù những tác động của lạm phát có thể dự tính được tới nền kinh tế là ít, nó vẫn gây ra những tác động tiêu cực như sau:
Trong điều kiện có lạm phát, mức giá cả tăng lên làm chi phí cơ hội của những người giữ tiền mặt, làm cho nhu cầu giữ tiền mặt giảm xuống, mọi người cố gắng chuyển bộ phận thu nhập chưa dùng đến ngày từ tiền mặt sang tiền gửi ngân hàng, kết quả là tần số đến ngân hàng để rút tiền mặt mỗi lần cần chi tiêu tăng lên. Như vậy, lạm phát dự tính tăng lên làm cho chi phí quản lí tiền mặt tăng lên, chi phí này còn được gọi là “chi phí giầy da” của lạm phát dự tính.
Lạm phát làm bóp méo thông tin, khi giá cả biến động liên tục, nó gây khó khăn cho các quyết định liên quan đến cơ cấu tiêu dùng, tiết kiệm, quyết định đầu tư… Hơn nữa khi giá cả thay đổi thường xuyên, nó làm tăng “chi phí thực đơn” tức là các tiêu phí về nguồn lực xã hội để cập nhật với những sự thay đổi giá cả. Hầu hết các doanh nghiệp không thay đổi giá hàng ngày mà thường thông báo giá và giữ ổn định trong khoảng thời gian vài tuần, vài tháng hoặc thậm chí là vài năm. Tuy nhiên khi lạm phát cao và chi phí của doanh nghiệp tăng rất nhanh thì doanh nghiệp phải thay đổi giá thường xuyên. Do đó, doanh nghiệp phải chịu chi phí cho sự thay đổi giá này, chi phí này gọi là “chi phí thực đơn”.
Lạm phát còn ảnh hưởng tới các chủ thể kinh tế qua hệ thống thuế. Mức thu nhập danh nghĩa tăng lên cùng tỷ lệ lạm phát dự tính do chỉ số hóa thu nhập, làm tăng tỷ lệ người chịu thuế suất cao. Vì chính sách thuế thường không điều chỉnh kịp thời và phù hợp với mức thu nhập nên thực chất nhờ lạm phát cao mà chính phủ có thể tăng mức đánh thuế mà không phải tăng mức thuế suất. Và như vậy, chính sách thuế đẫ phân phối lại một phần thu nhập của người đóng thuế, làm giảm tác dụng của phương pháp chỉ số hóa trong điều kiện lạm phát có dự tính.
1.2.2 Lạm phát không thể dự tính được
Điều nguy hiểm của lạm phát không chỉ nằm ở mức độ lạm phát mà còn ở sự xuất hiện bất ngờ của nó. Khi tỷ lệ lạm phát biến động ngoài dự tính, nó tạo nên sự biến động bất thường về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trị, ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế xã hội.
1.2.2.1 Lạm phát gây ra sự bất ổn cho môi trường kinh tế xã hội
Sự biến động bất thường của tỷ lệ lạm phát từ thời gian này đến thời gian khác gây khó khăn cho việc xác định mức sinh lời chính xác của khoản đầu tư. Điều này tạo nên tâm lý ngần ngại khi quyết định đầu tư, nhất là vào các dự án đầu tư dài hạn. Hơn nữa, sự bất ổn định của thu nhập có thể làm cho nhà đầu tư vào các tài sản tài chính hơn là vào các dự án đầu tư thật sự. Kết quả là nguồn lực xã hội bị phân bổ một các thiếu hiệu quả và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện lạm phát biến động, các quyết định tài chính cũng bị bóp méo, các doanh nghiệp thích vay ngắn hạn hơn là bị buộc chặt vào hợp đồng vay dài hạn với lãi suất cố định, chứa đựng rủi ro lãi suất tiềm năng.
Lạm phát cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường lao động khi các công đoàn tìm cách đấu tranh đòi tăng lương danh nghĩa với nguy cơ của các cuộc đình công hoặc sự đe dọa của một tỷ lệ lạm phát cao hơn. Điều này làm cho tốc độ tăng trưởng giảm xuống.
1.2.2.2 Lạm phát phân phối lại thu nhập và của cải xã hội
Khi lạm phát tăng lên, tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên, nhưng trong đó chứa đựng sự phân phối lại thu nhập giữa các nhóm dân cư với nhau: giữa giới chủ và người làm công, giữa người cho vay và người đi vay và giữa chính phủ và người đóng thuế. Nói tóm lại, tác động chính của lạm phát về mặt phân phối lại nảy sinh từ những tác động không thể đoán trước đối với giá trị thực tế của thu nhập và của cải Lạm phát có xu hướng phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi suất danh nghĩa cố định sang tay những khoản nợ với lãi suất danh nghĩa cố định.
Để làm giảm tác động phân phối lại do sự biến động bất thường của lạm phát, nhiều nước áp dụng phương pháp chỉ số hóa. Phương pháp này cho phép điều chỉnh mức thu nhập và các khoản nợ danh nghĩa theo sự biến động của mức giá định kì. Chỉ số hóa được áp dụng phổ biến trong các hợp đồng giá trị dài hạn như hợp đồng tiền lương, hợp đồng vay dài hạn. Bằng cách đó, phương pháp chỉ số hóa cho phép bảo tồn giá trị thực tế của các khoản thu nhập dài hạn. Nhiều nhà kinh tế đã khuyến cáo chính phủ nên sử dụng phương pháp này để chung sống với lạm phát. Tuy nhiên chỉ số hóa không phải là phương pháp hạn chế tác động của lạm phát một cách hoàn hảo, nó đặc biệt không hợp lý trong trường hợp lạm phát xuất phát từ các cú sốc cung. Hơn nữa, chỉ số làm cho phản ứng của tiền lương nhanh hơn khi tỷ lệ lạm phát biến động, do đó càng làm cho lạm phát tăng nhanh.
1.2.2.3 Lạm phát làm cho lãi suất danh nghĩa tăng lên
Lạm phát làm cho lãi suất danh nghĩa tăng lên bởi tỷ lệ lạm phát dự tính. Vấn đề sẽ nảy sinh khi tỷ lệ lạm phát dự tính cấu thành trong mức lãi suất danh nghĩa không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế và làm ảnh hưởng đến mức lãi suất thực. Điều này, đến lượt nó lại gây những ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu tư, cuối cùng là ảnh hưởng tới mức tăng trưởng kinh tế.
1.2.2.4 Lạm phát tác động xấu đến cán cân thanh toán quốc tế
Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn tỷ lệ lạm phát nước bạn hàng thì hàng xuất khẩu trong nước trở nên kém hấp dẫn vì giá cả tăng lên, trong khi hàng xuất khẩu của nước ngoài lại trở nên rẻ hơn, thúc đẩy hoạt động nhập khẩu, làm xấu đi tình trạng của tài khoản vãng lai, gây áp lực đối với tỷ giá. Tỷ lệ lạm phát cao cùng với bội chi tài khoản vãng lai có thể tạo nên tâm lý trông đợi một sự giảm giá của đồng nội tệ so với ngoại tế, tạo áp lực mạnh hơn đối với tỷ giá. Và nếu điều này thực sự xảy ra, có có thể thúc đẩy mức lạm phát trong nước cao hơn bởi giá nội địa của hàng nhập khẩu trở nên đắt, đẩy mức giá cả chung tăng lên.
1.2.2.5 Lạm phát ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp
Mức giá cả chung tăng lên có thế gây nên sự giảm sút của tổng cầu và công ăn việc làm, do đó gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Tổng cầu giảm khi lãi suất danh nghĩa tăng lên, giá trị tài sản thực tế giảm xuống và sự giảm sút của khả năng cạnh tranh quốc tế. Tất cả các yếu tố này là hệ quả tất yếu của lạm phát.
Nguyên nhân gây ra lạm phát
Lạm phát cầu kéo
Lạm phát cầu kéo là lạm phát do tổng cầu – tổng chi tiêu của xã hội tăng lên, vượt quá mức cung ứng hàng hóa của xã hội, dẫn đến áp lực làm tăng giá cả. Nói cách khác, bất kì lý do nào làm cho tổng cầu tăng lên đều dẫn đến sự tăng giá về mặt ngắn hạn. Có thể minh họa điều này thông qua mô hình AS – AD. Khi tổng cầu tăng từ AD0 lên đến AD0 mức giá chung tăng từ P0 đến P1.
Mức giá
AS
P1
P0
AD1
AD0
Y0 Y1 Sản lượng
Tổng cầu phản ánh nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hóa và dịch vụ của xã hội. Nó bao gồm nhu cầu hàng hóa, dịch vụ của chính phủ và nhu cầu hàng hóa xuất khẩu ròng của thị trường nước ngoài. Khi nhu cầu có khả năng thanh toán của cá chủ thể này tăng lên, tiền chi tiêu nhiều hơn, giá cả tăng lên. Các lý do là:
Chi tiêu của chính phủ tăng lên: khi chi tiêu của chính phủ tăng lên, tổng cầu có thể tăng lên trực tiếp thông qua các khoản đầu tư vào các lĩnh vực thuộc phạm vi chính phủ quản lý hoặc có thể giám tiếp thông qua các khoản chi phúc lợi xã hội, trợ cấp thất nghiệp tăng lên và kết quả là giá cả hàng hóa tăng lên. Trong trường hợp nhu cầu chi tiêu vượt quá khả năng thu ngân sách và được bù đắp bằng vốn phát hành hoặc vay ngân hàng thương mại thì dễ dẫn đến trường hợp lạm phát cao và kéo dài.
Chi dùng của các hộ gia đình tăng lên: có thể do mức thu nhập thực tế tăng lên hoặc so lãi suất giảm xuống, cả hai đều có tác dụng đẩy tổng cầu lên và kéo dài.
Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên: Xuất phát từ dự đoán về triển vọng phát triển kinh tế, về khả năng mở rộng thị trường hoặc do lãi suất đầu tu giảm, về mặt ngắn hạn nó làm cho mức giá tăng.
Các yếu tố liên quan đến nhu cầu của nước ngoài như tỷ giá, giá cả hàng hóa nước ngoài so với hàng hóa cùng loại được sản xuất trong nước và thu nhập bình quân của thị trường nước ngoài có những ảnh hưởng quan trọng đến nhu cầu hàng hóa xuất khẩu và do đó đến tổng cầu cũng như mức giá cả trong nước.
Lạm phát chi phí đẩy
Đặc điểm quan trọng của lạm phát chi phí đẩy là áp lực tăng giá cả xuất phát từ sự tăng lên của chi phí sản xuất vượt quá mức tăng của năng suất lao động và làm giảm mức cung ứng hàng hóa của xã hội. Chi phí sản xuất tăng lên có thể là do:
Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng năng suất lao động. Tiền lương tăng lên có thể so thị trường lao động trở nên khan hiếm, so yêu cầu đòi tăng lương của công đoàn hoặc do mức lạm phát dự tính tăng lên.
Sự tăng lên mức lợi nhuận ròng của người sản xuất đẩy giá cả hàng hóa lên.
Giá nội địa của hàng hóa nhập khẩu tăng lên, có thể do áp lực lạm phát của nước xuất khẩu hoặc do giá trị nội tệ giảm so với ngoại tế hoặc do ảnh hưởng của khủng hoảng… nếu các loại hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu này được sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng thì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả nội địa, nếu nó được sử dụng như đầu vào của quá trình sản xuất thì sẽ là tăng giá thành sản xuất và do đó tăng giá.
Sự tăng lên của thuế và các khoản nghĩa vụ với ngân sách nhà nước từ đó ảnh hưởng đến mức sinh lời của hoạt động đầu tư, giá cả tăng lên là tất yếu nhằm duy trì mức sinh lời thực tế.
Các yếu tố trên hoặc là tác động trực tiếp vào mức lương thực tế của người làm công hoặc tác động vào các chi phí ngoài lương, làm tăng chi phí sản xuất, đẩy mức giá bình quân lên trong khi giảm mức sản xuất của xã hội xuống.
Khi chi phí đầu vào tăng khiến cho lợi nhuận của các nhà sản xuất giảm xuống, họ phải cắt giảm sản lượng, đường cung AS0 dịch chuyển thành đường AS1 làm cho giá tăng từ P0 đến P1 trong ngắn hạn. Khi đó tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, đây là điều mà chính phủ không hề mong muốn nên chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp nhằm kích cầu AD lên đưa nền kinh tế trở về điểm cân bằng E2, sản lượng ở mức tiềm năng, thất nghiệp giảm, nhưng bù lại P1 sẽ thành P2 > P 0. Tại mức giá cao hơn, các nguyên nhân làm chi phí tăng lại xuất hiện , quá trình điều chỉnh tổng cung và sự đáp lại của tổng cầu được lặp lại, làm cho giá cả tiếp tục tăng trong khi mức sản xuất dưới mức tiềm năng.
Mức giá
AS1
E2 AS0
P2
P1 E1
P0 E0 AD1
AD
Y0 Y1 Sản lượng
Lạm phát do cung tiền tăng
Do chính sách tiền tệ mở rộng: làm cho cả MB và MS tăng lên, không chỉ NHTW tăng mức phát hành tiền mà cả hệ thống ngân hàng trung gian cũng mở rộng cho vay, tạo tiền gửi và làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng lên. Kết quả là chính phủ, cá nhân và các doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu nhiều hơn, giá cả do vậy tăng nhanh hơn.
Lượng tiền cung ứng tăng liên tục và kéo dài khiến cho chi tiêu tăng lên, tổng cầu AD dịch sang phải. Trong ngăn hạn, sản lượng đạt Y1 vượt mức sản lượng tiềm năng, tỉ lệ thất nghiệp giảm tạo ra áp lực khiến tiền lương tăng lên làm lợi nhuận của nhà sản xuất giảm dẫn đến việc cắt giảm sản lượng khiến tổng cung AS dịch sang phải. Tiếp tục lại giống như trường hợp lạm phát chi phí đẩy, mức giá tăng lên đến P2 >P 0 và có thể tăng lên nữa nếu như lượng tiền cung ứng lại tiếp tục tăng.
AS1
Mức giá
P2 E2 AS0
P1
E1
P0 E0
AD1
AD
Y0 Y 1
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2008
2.1 Tình hình lạm phát ở Việt Nam năm 2007 – 2008
Ở Việt Nam lạm phát được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng CPI.Từ năm 1995 – 2000, CPI được tính căn cứ vào giỏ hàng hóa và dịch vụ bao gồm 10 nhóm hàng, được chia thánh 86 phân nhóm, gồm 236 mặt hàng tiêu dùng chính và 64 loại dịch vụ. Tỷ trọng mức tiêu dùng được xây dựng trên cơ sở điều tra đời sống kinh tế hộ gia đình năm 1995. Từ năm 2000 – 2005, số hàng hóa dịch vụ tăng lên 397 mặt hàng. Từ tháng 5/2006, con số này tăng lên 500 mặt hàng. Cùng với việc bổ sung danh mục, Tổng cục thống kê cũng tiến hành cập nhật quyền số tính CPI. Với quyền số mới, tỷ trọng tiêu dùng lương thực, thực phẩm của người dân bình quân cả nước giảm từ 47.9% trong tổng chi tiêu cho đời sống hàng ngày của người dân ( giai đoạn 2000 – 2005) xuống còn 42.8% giai đoạn 2006 -2010.
Tháng 1 năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đánh dấu một thời kì phát triển kinh tế mới. Mở của hội nhập đã đưa lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế, bên cạnh đó cũng đem lại không ít khó khăn mà chính chúng ta phải vượt qua thì mới thực sự khiến cho nền kinh tế phát triển mạnh được.
Chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục từ tháng 1/2007 đến tháng 8/2008, đến tháng 9/ 2008 chỉ số giá tiêu dùng đã có xu hướng giảm lên tục cho đến tận tháng 12/ 2008.
Bảng chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 của Việt Nam ( đơn vị %):
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
T9
T10
T11
T12
CPI so với tháng trước
1.1
2.2
-0.2
0.5
0.77
0.9
0.94
0.55
0.74
1.23
2.91
CPI so với tháng 12/06
1.1
3.2
3.0
3.5
5.2
6.2
6.78
7.3
8.12
9.45
12.63
Biểu đồ: Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 - Consumer price index of 2007
Nguồn: Tổng cục thống kê
Qua biểu đồ ta nhận thấy là chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục vào các tháng trong năm.
Bảng chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 của Việt Nam ( đơn vị %):
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
T9
T10
T11
T12
So với tháng trước
2.38
3.56
2.99
2.2
3.91
2.14
1.13
1.56
0.18
-0.19
-0.76
-0.68
So với tháng 12/06
2.38
6.02
9.19
11.6
15.96
18.44
27.04
21.65
21.87
21.64
20.71
19.89
Biểu đồ chỉ số giá tiêu dùng năm 2008
So với tháng trước
So với tháng 12/2006
Số liệu: Tổng cục thống kê.
Trên đây là những nguyên nhân làm lạm phát gia tăng trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008. Tuy nhiên đến những tháng cuối năm 2008 tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng đã có xu hướng giảm từ tháng 6/ 2008 đến tháng 7 chỉ có 1.13% đến tháng 8 là 1.56% - tuy có cao hơn tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 chủ yếu là do việc điều chỉnh giá xăng vào 21/07. Đặc biệt tốc độ tăng giá tiêu dùng của tháng 9 giảm xuống 0.18% không những thấp nhất so với các tháng trước đó mà còn so với 9 tháng cùng kì của 4 năm trước:
Đồ thị chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 các năm 2004 – 2008
Số liệu: Tổng cục thống kê
Tháng 10 giá tiêu dùng đã giảm 0.19% so với tháng trước, đây là lần giảm đầu tiên kể từ đầu năm trở lại đây. Tiếp theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 giảm 0.76% so với tháng trước, tháng 12 giảm 0.68% so với tháng 11.
Qua đây ta thấy chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao và diễn biến phức tạp, khác thường so với xu hướng giá tiêu dùng năm trước: giá tăng cao ngay từ quý I và liên tục tăng lên trong quý II, quý III, nhưng các tháng quý IV lại liên tục giảm nên chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 19.89% và chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22.97%.
Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao nhưng xu hướng diễn biến theo chiều hướng tích cực vào các tháng cuối năm cho thấy được những nỗ lực của chính phủ trong việc thực hiện các biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát.
2.2 Nguyên nhân của lạm phát
2.2.1 Nguyên nhân xuất phát từ nền kinh tế toàn cầu
2.2.1.1 Giá dầu và giá nguyên vật liệu đầu vào liên tục gia tăng
Trong 4 năm 2003 -2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước mới nổi ở Châu Á như Trung Quốc đã đẩy nhu cầu sử dụng năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến và những xung đột chính trị tại Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 147 USD/ thùng trong tháng 9/ 2008 đồng thời giá các nguyên liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng tăng liên tục. Như vậy giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hóa lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến tháng 3/ 2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước cho tới nay.
2.2.1.2 Giá lương thực thực phẩm liên tục tăng
Xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới – là những năm quá trình công nghiệp hóa được đẩy mạnh khiến diện tích đất được sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm cho sản lượng lương thực thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao khiến cho nhiều nước sử dụng một phần lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đã giảm lại càn giảm sút.
2.2.1.3 Một khối lượng lớn tiền được đưa ra nền kinh tế toàn cầu
Trước việc giá dầu và giá lương thực – thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu lên cao, tình hình này buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng một lần từ 0.25% - 0.5%/ năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3.5% – 3.75% - 4%/ năm; Anh tăng 3 lần từ 5% - 5.5%/ năm ( trong đó có 1 lần giảm); Thụy Điển tăng 4 lần từ 3% - 4%/ năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6.12% - 7.47%/ năm.
Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua việc tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực – thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008. Thêm vào đó là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn của Mĩ bắt đầu từ tháng 7/ 2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế thế giới, trong đó riêng Mĩ từ tháng 8/ 2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế là hơn 2300 tỷ USD trong đó có 300 tỷ để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải cắt giảm lãi suất từ tháng 8/ 2007 trở lại đây như Anh, Mỹ, Canada. Việc cứu vãn kinh tế thế giới bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD vào nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao.
Tuy nhiên một câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh kinh tế thế giới như nhau, tại sao các nước khác như Trung Quốc, Thái lan... lại có mức lạm phát thấp hơn so với Việt Nam? Vậy mức lạm phát của Việt Nam tăng cao trong thời gian vừa qua ngoài những yếu tố thế giới còn có những nguyên nhân nào khác?
2.2.2 Nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam
2.2.2.1 Chi phí sản xuất tăng cao
Nước ta là nước có nền kinh tế còn chưa phát triển, cơ sở hạ tầng kĩ thuật còn nhiều yếu kém, nên nước ta chỉ chủ yếu là xuất khẩu nguyên vật liệu thô, có giá trị không cao, đổi lại ta lại nhập khẩu các sản phẩm hoàn thiện, có giá trị cao. Do đó, trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu – nguyên vật liệu đầu vào chính của sản xuất.
Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/ 2007 miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn... cùng với đợt rét đậm vào cuối tháng năm 2007 khiến cho nguồn cung lương thực – thực phẩm bị sụt giảm.
Mặc dù chính phủ đã ban hành công vãn ðể khống chế lýợng gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh lương thực trong nước, nhưng việc giá lương thực thực phẩm thế giới tăng cao đã khiến giá gạo xuất khẩu và một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thủy hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đã đẩy giá lương thực – thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18.92% năm 2007 và 14.45% trong quý I năm 2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4.18% của quý I năm 2007, trong khi nhóm này có quyền số 42.85% lớn nhất trong rổ hàng hóa tính CPI.
Đồ thị chỉ số giá nhóm hàng ăn uống và dịch vụ năm 2007
Số liệu: Tổng cục thống kê năm 2007
2.2.2.2 Lạm phát do cầu tăng mạnh
Chi tiêu của chính phủ tăng, tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, bằng 14.8% tổng số chi và bằng mức bội chi dự toán đã được quốc hội thông qua đầu năm, 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng 5% GDP.
Biểu đồ tổng thu ngân sách nhà nước
Số liệu: Tổng cục thống kê năm 2007
Bên cạnh đó là nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng cao nhất là các mặt hàng cao cấp càng làm cho tổng cầu của xã hội tăng lên, cũng là một yếu tố đẩy giá tiêu dùng tăng lên.
2.2.2.3 Lạm phát do cung tiền tăng
Chính sách tài khóa và tiền tệ liên tục mở rộng từ năm 2001 – 2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là tiền đề cho sự tăng lên của cung tiền. Trong vòng 3 năm trở lại đây, kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức rất cao trên 8% và mục tiêu của giai đoạn này đối với chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho chính sách tài chính, tiên tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng chưa quản lí chặt chẽ nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ năm 2005 – 2007 tăng trên 8.01%.
Biểu đồ tốc độ tăng cung tiền M2 qua các năm
Nguồn: ADB(2007). Key Indicators 2007: Inequality in Asia
BTC “ Ngân sách Việt Nam 2007”
Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trọng làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị của mình, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và những tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trọng gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.
Tình trạng nhập siêu trở thành vấn đề nghiêm trọng, các tháng trong năm 2008 nền kinh tế đều là nhập siêu, đặc biệt là nhập siêu của 5 tháng/2008 đã trên 14,4 tỉ USD, cao hơn mức nhập siêu của cả năm 2007 (năm 2007 nhập siêu là 14,12 tỉ USD, bằng 29% kim ngạch xuất khẩu). Mức nhập siêu cả năm 2008 vào khoảng 17 tỷ USD, tăng 20.5% so với năm 2007; giảm so với kế hoạch đầu năm 19 – 20 tyrvaf tỷ lệ nhập siêu so với kim ngach xuất khẩu năm nay cũng thấp hơn năm trước 27% so với 29.1%.
Số liệu : Tổng cục hải quan
Tuy nhiên cũng một điều đáng mừng là nhập siêu có xu hướng ngày càng giảm vào các tháng cuối năm 2008, giảm áp lực làm cho lạm phát tăng. Nhưng cũng cần biết lí do của sự giảm xuống này là giá hàng hóa trên thế giới tăng cao chủ yếu vào các tháng đầu năm, bắt đầu từ tháng 8 giá các mặt hàng bắt đầu giảm làm cho giá trị kim ngạch xuất khẩu giảm xuống. Vào những tháng cuối năm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Mĩ, kinh tế toàn càu tăng trưởng chậm lại, đời sống trở nên khó khăn hơn thì mức chi tiêu của người dân cũng giảm, đồng thời các nhà sản xuất cắt giảm sản xuất dẫn đến giảm việc nhập khẩu nguyên liệu đầu vào khiến cho kim ngạch nhập khẩu và xuất khẩu đều giảm.
Nguồn: Tổng cục hải quan
Thứ ba là việc ngân hàng nhà nước mua trên 12 tỷ USD để tăng dự trữ ngoại tệ năm 2007: 9 tỷ trong 6 tháng đầu năm và 3 – 4 tỷ trong 6 thánh cuối năm đồng nghĩa với việc bơm vào thị trường khoảng hơn 200000 tỷ đồng, tương đương 16% GDP. Điều này tạo ra sức cầu khéo rất mạnh đối với giá cả.
Tiếp đến là nguồn vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20.3 tỷ USD vốn đăng kí, cao hơn nhiều so với mức 10.2 tỷ USD năm 2006 mà chủ yếu là đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, ngân hàng nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu bình ổn và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng. Tính đến cuối tháng 12/2007 tổng phương tiện thanh toán đã tăng 46.7% so với năm 2006, tổng dư nợ cho vay cảu nền kinh tế năm 2007 tăng 58% so với năm 2006, tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP.
2.3 Các giải pháp kiềm chế lạm phát mà ngân hàng nhà nước đã thực hiện
Trong những năm trước, Việt Nam thực hiện mở rộng cung tiền chấp nhận lạm phát cao ở một tỷ lệ nhất định nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng dù các dấu hiệu không an toàn và mất kiểm soát xuất hiện. Trước việc lạm phát tăng quá cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân, ngân hàng nhà nước đã thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ với mong muốn nhanh chóng đưa chỉ số giá tiêu dùng giảm xuống tuy là hơi muộn song nó đã có những hiệu quả tích cực thông qua sự giảm của chỉ số giá tiêu dùng các tháng cuối năm. Các biện pháp đó là:
Tăng dự trữ bắt buộc 2 lần vừa làm cho tăng trưởng tín dụng của ngân hàng giảm xuống, khiến cho lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế giảm xuống vừa hỗ trợ vốn cho các ngân hàng
VND
5%
10%
11%
USD
8%
10%
11%
Mở rộng kỳ hạn tiền gửi phải thực hiện dự trữ bắt buộc từ thấp hơn 24 tháng thành tất cả các kì hạn.
Tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu vào các tháng đầu năm 2008 với các mức tương ứng là 8.25% lên 8.75%; 6.5% lên 7.5%; 4.5% lên 6%. Đã có lúc lãi suất cơ bản lên đến đỉnh điểm là 14% vào tháng 11/ 6.
Đồ thị về mức thay đổi lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu năm 2008 ( đơn vị: %)
Liên tục hút tiền về trên thị trường mở: ngân hàng nhà nước phát hành tín phiếu kho bạc bắt buộc với trị giá 20300 tỷ đồng vào ngày 19/3/2008 với kì hạn 12 tháng lãi suất 7.58%.
Tiếp tục thực hiện việc chuyển khoản 50000 tỷ đồng từ tiền gửi kho bạc về ngân hàng nhà nước.
Trong quý IV/2007 ngân hàng nhà nước thực hiện hạn chế tối đa mua ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để hạn chế tổng phương tiện thanh toán tăng cao.
Thắt chặt cho vay chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ, sau đó tiếp tục kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ, đồng thời tăng hệ số rủi ro đối với cho vay đầu tư chứng khoán từ 150% lên 250% theo Quyết định 03 ngày 1/2/2008 của ngân hàng nhà nước.
Đến tháng 5/2008 Chính phủ đã ban hành quyết định thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, đó là
1. Thắt chặt tiền tệ;
2. Cắt giảm đầu tư, chi phí không cần thiết; 3. Đẩy mạnh sản xuất; 4. Đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu, chống nhập siêu;
5. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng; 6. Quản lý thị trường, chống đầu cơ; 7. Triển khai mở rộng các chính sách an sinh xã hội; 8. Ổn định tình hình kinh tế xã hội.
Trước bối cảnh Việt Nam bắt đầu trở thành thành viên của WTO nên lần đầu tiên phải đối mặt với tình hình đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng mạnh mẽ, trong khi kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều nên việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước có phần chưa linh hoạt, thể hiện việc ngân hàng nhà nước “đã thực hiện đồng thời nhiều giải pháp mạnh vào cùng một thời điểm, nhưng lại thiếu đồng bộ với các biện pháp khác, tuy có góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trên thị trường tiền tệ, nhưng cũng gây khó khăn cho ngân hàng thương mại, tạo nên việc chạy đua nâng lãi suất huy động vốn, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, ảnh hưởng đến tâm lý xã hội”
Do đó, các giải pháp của ngân hàng nhà nước tiếp theo sẽ linh hoạt hơn trong điều hành chính sách tiền tệ theo chỉ đạo của Chính phủ, nhưng vẫn là ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Các giải pháp kiềm chế lạm phát
Tăng khả năng sản xuất hàng hóa trong nước được coi là giải pháp cơ bản, tạo cơ sở ổn định tiền tệ một cách vững chắc, giúp hạn chế việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài, giảm thiểu được những ảnh hưởng của việc tăng giá hàng hóa trên thế giới.
Thực hiện chính sách khuyến khích tiết kiệm, giảm tiêu dùng. Lãi suất danh nghĩa được nâng cao hơn tỷ lệ lạm phát để hấp dẫn tiền gửi. Tuy nhiên trong thời gian áp dụng chính sách lãi suất cao, càn có dự điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp với mức độ biến động của lạm phát và hạn chế hậu quả tiềm tàng cho các tổ chức nhận tiền gửi.
Quản lí tốt đầu tư nhà nước để có sự phối hợp hiệu quả giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Cần tăng hiệu quả sử dụng vốn dành cho đầu tư công từ phía nhà nước và doanh nghiệp nhà nước để đáp ứng nhu cầu phát triển hạ tầng và mở rộng kinh doanh sản xuất.
Tăng cường giám sát đối với đầu tư của doanh nghiệp nhà nước: Chính phủ mà cụ thể là Bộ tài chính và Ngân hàng nhà nước yêu cầu ngân hàng phát triển Việt Nam và 4 ngân hàng quốc doanh có biện pháp kiểm soát nâng cao chất lượng tín dụng đối với các dự án lớn của các tập đoàn hay tổng công ty nhà nước. Điều này không chỉ giúp hướng chảy nguồn vốn vào dự án hiệu quả mà còn làm lành mạnh hóa thị trường tín dụng.
Thành lập Hội đồng quản lí đầu tư quốc giá: Hội đồng có trách nhiệm trong vai trò thẩm định lại, ra quyết định cuối cùng hoặc đầu mối đệ trình lên quốc hội với những dự án trọng điểm. Cuối cùng Hội đồng cũng phải chịu trách nhiệm trong việc đánh giá lại hiệu quả đầu tư thuê kiểm toán độc lập với một số dự án lớn.
3.2 Các kiến nghị kiềm chế lạm phát
Nghiên cứu trình Chính phủ về cơ chế kiểm soát luồng vốn gián tiếp và vấn đề các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài mua cổ phiếu bằng ngoại tệ; Tiếp tục triển khai Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Để án nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế; Dự báo tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong và ngoài nước và đề xuất các giải pháp phòng ngừa các rủi ro trong trường hợp luồng vốn đảo chiều.
Xây dựng phương án điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng trong 3 quý cuối năm 2008 để cả năm đạt được mục tiêu tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán không quá 30%, tránh những cú sốc trên thị trường tiền tệ; Tiếp tục bổ sung hoàn thiện cơ chế điều hành dự trữ bắt buộc, lãi suất, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác, kể cả các công cụ trực tiếp để sử dụng trong trường hợp cần thiết; ngân hàng nhà nước phối hợp với các ngân hàng thương mại tổ chức thị trường repo giữa các ngân hàng thương mại để tổ chức hệ thống thanh toán các giao dịch này và nắm thông tin để can thiệp thị trường với tư cách là người cho vay cuối cùng.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua bài nghiên cứu này, ta đã thấy rõ được thực trạng về tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn năm 2007 – 2008. Lạm phát bắt đầu tăng mạnh từ những tháng cuối năm 2007, phải đến tháng 5/2008 chính phủ mới thực hiện 8 giải pháp hạn chế lạm phát. Tuy nhiên vào các tháng cuối năm 2008 ta đã bắt đầu thấy tác dụng của 8 nhóm giải pháp đó, chỉ số giá tiêu dùng tuy có tăng đột biến vào tháng 7 lên mức 27.04% nhưng đã giảm dần tới mức -0.68% tháng 12. Đấy là một điều đáng mừng, tuy nhiên hiện nay vẫn có 2 khả năng đang rình rập xảy ra là có thể là thiểu phát hay lại tiếp tục nguy cơ lạm phát. Nếu năm 2009 giảm phát thì cần phải có biện pháp kích cầu đi theo ngay: như mở rộng tín dụng, kích thích tiêu dùng...
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kinh tế vĩ mô, PGS.TS Nguyễn Văn Công, Đại học kinh tế quốc dân.
Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, Frederic S. Mishkin.
Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, Học viện Ngân Hàng.
Tạp chí kinh tế và dự báo, Tạp chí số 3.
Thời báo kinh tế Việt Nam.
www.sbv.gov.vn
www.mof.gov.vn
www.investmentgroup.com.vn
www.flbt.edu.vn
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_va_giai_phap_ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_giai_doan_nam_2007_2008_3794.doc