Đa dạng hoá các hình thức đầu tưtrực tiếp nước ngoài đểkhai thác
thêm các kênh thu hút đầu tưmới; cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dự
án ởViệt Nam thành lập các công ty quản lý vốn; đẩy nhanh việc thí điểm
cổphần hóa các doanh nghiệp đầu tưnước ngoài, ban hành danh mục lĩnh
vực cho phép nhà đầu tưnước ngoài được mua cổphần của doanh nghiệp
Việt Nam; thành lập một sốmô hình khu kinh tếmở.
98 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2370 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tồn tại nữa, nhưng đã đứng dưới danh nghĩa một
tên khác để tham gia đầu tư.
2.3.2.3. Hệ thống luật pháp, chính sách đang trong quá trình hoàn
thiện nên chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán trước được, gây khó khăn
không ít cho quá trình thẩm định dự án.
Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao. Một số luật pháp,
chính sách liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài thay đổi nhiều. Có
những trường hợp chưa tính kỹ đến lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nên
đã làm đảo lộn phương án kinh doanh và gây thiệt hại cho họ. Nhiều
vướng mắc liên quan đến phạm vi điều chỉnh của các luật chuyên ngành
như luật đất đai, quản lý ngoại hối, công nghệ môi trường, lao động, xuất
nhập cảnh, pháp lệnh thi hành án…chậm được sửa đổi khiến cho nhiều khi
cán bộ thẩm định không có được những cơ sở rõ ràng và cập nhật để tiến
hành thẩm định. Thêm vào đó, nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so
với quy định. Một số văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành, địa phương có
xu hướng xiết lại, thêm quy trình dẫn đến tình trạng “trên thoáng dưới
chặt”, một số chính sách mới của Chính phủ chậm được đưa vào cuộc sống
hoặc không được cơ quan cấp dưới chấp hành nghiêm chỉnh làm giảm lòng
tin của cộng đồng đầu tư nước ngoài.
2.3.2.4. Công tác quy hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ
thể.
Các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu với động cơ tìm
kiếm lợi nhuận và nhằm vào thị trường tiêu thụ nội địa gần 80 triệu dân.
Nhưng một mặt, quy mô của thị trường Việt Nam còn nhỏ bé, sức mua
thấp, nhất là vùng nông thôn. Mặt khác ta lại chủ trương khuyến khích đầu
tư hướng về xuất khẩu, nhiều dự án phải xuất khẩu trên 80% nên tính khả
thi của dự án không cao. Nhiều lĩnh vực đầu tư có sức hấp dẫn nhưng vào
thời điểm hiện nay đã và đang bão hoà (khách sạn, văn phòng cho thuê, lắp
ráp ôtô xe máy, hàng điện tử gia dụng…). Tình hình trên cộng với ảnh
hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực đã làm cho công suất huy
động của nhiều sản phẩm thuộc khu vực đầu tư nước ngoài đạt thấp. Việc
cấp phép những năm đầu trong một vài lĩnh vực cũng còn hiện tượng thiên
về số lượng, nặng về thay thế nhập khẩu, tuy có bổ sung hàng hoá cho thị
79
trường, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu, nhưng tình trạng này kéo dài không
kịp thời điều chỉnh đã dẫn đến chênh lệch cung cầu, tạo sức ép lớn đối với
sản xuất một vài sản phẩm trong nước.
Cũng do thiếu quy hoạch cụ thể nên một mặt các địa phương phải chờ
xin ý kiến của các cơ quan trung ương mất nhiều thời gian, mặt khác dẫn
đến tình trạng quan điểm xử lý đối với dự án không nhất quán.
Hình thức đầu tư nước ngoài cũng chưa phong phú. Hơn 10 năm qua,
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thực hiện theo 4 hình thức là doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Hợp đồng hợp tác kinh
doanh và hợp đồng BOT. Tuy nhiên các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
chỉ được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong chỉ
đạo và điều hành ta dành ưu tiên cho hình thức liên doanh nhưng chính
doanh nghiệp liên doanh lại có tỷ lệ lỗ vốn, giải thể nhiều nhất, mâu thuẫn
giữa các bên liên doanh là khá phổ biến. Hình thức hợp đồng BOT tuy
được khuyến khích phát triển và thực tế đã chứng minh là chứa đựng rất
nhiều lợi thế đặc biệt đối với các nước đang phát triển trong các dự án
mang tính chất phúc lợi công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng…nhưng do
nhiều nguyên nhân khách quan vẫn chưa thực sự phát huy được sức mạnh
của mình cho dù nhà nước đã tạo nhiều điều kiện khuyến khích phát triển.
Trong quá trình thẩm định các dự án BOT, nếu không có một hệ thống toà
án tin cậy, không có khả năng đứng ra bảo vệ quyền lợi của từng cá nhân
và xí nghiệp thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không cảm thấy yên tâm khi
đưa ra những cam kết đầu tư lâu dài ở Việt Nam.
2.3.2.5. Thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài còn quá
rườm rà.
Việc xin cấp giấy phép đầu tư, thủ tục thuê đất, xin giấy phép xây dựng
cũng như các thủ tục triển khai thực hiện dự án còn nhiều phức tạp. Công
tác lập hồ sơ dự án còn nhiều thiếu sót, sơ sài và buộc phải sửa đổi bổ sung
khiến thời gian thẩm định và cấp giấy phép kéo dài. Đặc biệt khi được cấp
giấy phép đầu tư, để có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các chủ
đầu tư phải mất khá nhiều thời gian mới triển khai thực hiện được dự án.
Việc phức tạp trong thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện
đang là một vấn đề nổi cộm và làm ảnh hưởng rất lớn đến công tác thẩm
định dự án.
Bên cạnh đó, phương thức quản lý cồng kềnh, các thủ tục rắc rối phiền
hà kéo dài thời gian làm giảm lại tiến độ phê chuẩn và thực hiện dự án. Do
vậy bên cạnh Luật đầu tư nước ngoài, các văn bản dưới luật cũng phải
nhằm mục tiêu khắc phục những bất hợp lý nảy sinh. Thi hành chế độ một
cửa có hiệu lực, điều chỉnh hệ thống giá cả có liên quan nhằm giảm chi phí
cho nhà đầu tư , chú trọng đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ
thẩm định dự án. Ngoài ra cần huỷ bỏ những ràng buộc hệ thống ngân
hàng và các dịch vụ kèm theo nhằm tạo môi trường thông thoáng cho các
80
nhà đầu tư. Thành lập các khu vực mậu dịch tự do, khu chế xuất cho các
ngành công nghiệp xuất khẩu…là giải pháp hữu hiệu thu hút FDI và củng
cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào công cuộc kinh doanh ở
Việt Nam.
2.3.2.6. Mặt thẩm định công nghệ còn thiếu nhiều kinh nghiệm.
Chuyển giao công nghệ là một thành tố quan trọng của đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án
đầu tư nước ngoài được thực hiện không theo các quy định của pháp luật
(chẳng hạn như không lập và ký kết hợp đồng hoặc chỉ ký kết hợp đồng
giữa bên giao và bên nhận mà không trình để phê duyệt…) làm cho cơ
quan thẩm định rất khó có những căn cứ chính xác và nhất quán để thực
hiện công tác thẩm định về mặt công nghệ. Nhiều hợp đồng chuyển giao
công nghệ được ký kết giữa các bên là do bên nước ngoài soạn thảo sẵn
với những điêù khoản có lợi cho họ, trách nhiệm của bên giao không rõ
ràng và có những điều khoản trái với quy định của pháp luật Việt Nam, chi
phí chuyển giao công nghệ không hợp lý, vượt quá nhiều so với quy định.
Những hợp đồng đó thường bị sửa lại nhiều lần làm kéo dài thời gian phê
duyệt. Bên cạnh đó cũng chưa có được một đội ngũ cán bộ thẩm định thực
sự thông thạo về các thiết bị công nghệ hiện đại cũng như thông thạo ngoại
ngữ và luật pháp quốc tế dẫn đến nhiều trường hợp công nghệ đưa vào
không đáp ứng được mục tiêu của dự án đề ra. kinh nghiệm thẩm định giá
và mức độ tiên tiến của công nghệ và máy móc còn nhiều hạn chế dẫn đến
hiệu quả thấp, đặc biệt là trong các dự án liên doanh rất nhiều dự án bị giải
thể trước thời hạn.
2.3.2.6. Chưa có sự thống nhất giữa Chính phủ và Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trong đánh giá thẩm định dự án.
Thông thường, những kết quả đánh giá thẩm định do Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đưa ra sau quá trình thẩm định là những căn cứ trực tiếp để Chính
phủ ra quyết định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, cũng có
những trường hợp không có sự thống nhất trong đánh giá dự án giữa Chính
phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Cụ thể, trong dự án cấp nước BOT vừa
được lấy làm ví dụ, mặc dù kết quả đánh giá thẩm định do Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đưa ra về dự án là còn nhiều vấn đề tồn tại, nhiều vấn đề còn nghi
vấn cần phải xem xét kỹ lưỡng mới có thể đưa ra kết luận cuối cùng, tuy
nhiên dự án vẫn được Chính phủ chấp nhận và thông qua. Nguyên nhân
của vấn đề trên có thể ở chỗ chưa có những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá
xếp loại dự án, chưa có quy định chi tiết về những điều kiện dự án cần phải
đạt đủ để được cấp giấy phép đầu tư.
81
CHƯƠNG 3:
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3.1. Triển vọng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
3.1.1. Bối cảnh tình hình.
Những thuận lợi:
Tình hình kinh tế- xã hội của nước ta tiếp tục ổn định và phát triển. Đặc
biệt, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới đã làm
cho thế và lực của ta mạnh lên, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế
được tăng cường. Sự phát triển có nhiều triển vọng của nền kinh tế trong
môi trường chính trị xã hội cơ bản ổn định, môi trường hợp tác, liên kết
kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi cùng với những tiềm năng lớn về tài
nguyên, lao động của đát nước sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp tục
thu hút mạnh hơn nữa các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Môi trường kinh doanh nói chung và môi trường đầu tư nói riêng
không ngừng được cải thiện; công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước
ngoài đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm và dần đi vào nền nếp; đội
ngũ cán bộ trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ngày một trưởng thành.
Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang gia tăng mạnh cùng với sự phát
triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin đã thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức, tạo nên sự dịch
chuyển mạnh cơ cấu kinh tế quốc tế và gia tăng mạnh các dòng chuyển
vốn trên thế giới.
Mặt khác, kinh tế thế giới đã phục hồi và tăng trưởng trở lại. Thời gian
tới, Châu á- Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động của
thế giới. Trong bối cảnh đó, nước ta cũng có những cơ hội thuận lợi để thu
hút thêm các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
Những khó khăn.
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế 5 năm qua chậm dần. Năm 2000 có
chiều hướng tăng lên nhưng chưa đạt được mức tăng trưởng cao như 5
năm đầu thập niên 90. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm, tích luỹ nội bộ
nên kinh tế còn thấp, các cân đối vĩ mô còn thiếu vững chắc.
Môi trường kinh doanh, đầu tư còn nhiều hạn chế. Nhu cầu thị trường
tăng chậm, dung lượng thị trường nhỏ và sức mua trong nước còn rất thấp
trong khi cung về nhiều sản phẩm trong nước đã bão hoà. Quản lý nhà
nước về đầu tư nước ngoài còn bất cập, đặc biệt thủ tục hành chính còn
phiền hà, tình trạng chấp hành chưa nghiêm luật pháp chính sách còn khá
phổ biến.
82
Cạnh tranh trong thu hút các dự án đầu tư nước ngoài trên thế giới và
trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt. Hiện nay, ba phần tư vốn đầu tư
nước ngoài trên thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát
triển do sự tăng cường liên kết giữa các công ty đa quốc gia của Mỹ, Nhật,
Tây Âu. Một phần tư số vốn đầu tư nước ngoài còn lại chảy vào các nước
đang phát triển nhưng chủ yếu bị thu hút vào các nươcs công nghiệp mới
(NICS) hoặc vào các thị trường đầu tư lớn như Trung Quốc, ấn Độ,
Brazil, Mêhico…Trong bối cảnh đó, các nước trong khu vực đã và đang
cải thiện mạnh môi trường thu hút đầu tư nước ngoài nhằm vượt lên trên
các nước khác, coi đó là giải pháp chiến lược phục hồi và phát triển kinh
tế. Chính điều này tạo nên sức cạnh tranh mạnh và là thách thức to lớn với
Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hiện nay môi trường đầu tư tại Việt Nam
đang bị đánh giá là mất dần tính cạnh tranh và độ rủi ro trong kinh doanh
cao hơn các nước trong khu vực.
Sau khủng hoảng kinh tế khu vực và dựa vào kinh nghiệm thực tế tại
Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài đã đánh giá Việt Nam đúng hơn và
trở nên thận trọng, không đầu tư ồ ạt theo hướng đón đầu như những năm
đầu 90 mà thực hiện chính sách đầu tư phù hợp với tình hình kinh tế và
sức mua thực tế của người dân Việt Nam. Việc thực hiện từng bước tự do
hoá thương mại và đầu tư theo lộ trình AFTA, khu vực đầu tư ASEAN
(AIA) cũng được các nhà đầu tư nước ngoài tính toán khi lựa chọn địa
điểm đầu tư , thực hiện phân công lao động quốc tế đối với các nước trong
khu vực ASEAN, tuỳ thuộc môi trường đầu tư, tiềm lực kinh tế, nguồn tài
nguyên nhân lực tại chỗ, quy mô thị trường của mỗi nước.
3.1.2. Triển vọng
Khả năng vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 5
năm tới sơ bộ ước tính trên 11 tỷ USD, dựa vào nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài thực hiện từ các dự án đã được cấp giấy phép từ những năm
trước nhưng chưa hoặc đang tiếp tục triển khai và dựa vào vốn thực hiện
của các dự án cấp mới trong cùng kỳ, trong đó dự kiến:
+ Số vốn của các dự án đã cấp phép nhưng chưa thực hiện (khoảng
trên dưới 15 tỷ USD) sẽ tiếp tục thực hiện khoảng 4-5 tỷ USD.
+ Số dự án triển khai có hiệu quả, dự kiến tăng vốn khoảng 2 tỷ USD
+ Số vốn thực hiện của các dự án cấp mới khoảng 4-5 tỷ USD.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành, lĩnh vực.
Định hướng chung là khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút các dự án vào
các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu, cơ khí, điện tử, dầu khí, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo
thêm nhiều việc làm, khai thác thế mạnh về tài nguyên, nguyên liệu.
Trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, khuyến khích và có chính sách ưu đãi
thoả đáng đối với các dự án chế biến sản phẩm nông lâm ngư nghiệp gắn
83
với việc phát triển các vùng nguyên liệu để phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng
trong nước; chú trọng các dự án ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất các
giống mới có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; khuyến khích các dự án
công nghiệp phục vụ nông nghiệp, các dự án dịch vụ nông thôn.
Trong lĩnh vực công nghiệp, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa
hướng vào những ngành sản xuất hàng xuất khẩu, những ngành sử dụng
nhiều lao động, vừa chú trọng những ngành có công nghệ hiện đại, công
nghệ cao. Cụ thể:
- Tiếp tục thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các lĩnh
vực quan trọng: tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, phát triển
các cơ sở công nghiệp hạ nguồn dầu khí.
- Thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản Việt Nam
- Sản xuất linh kiện, lắp ráp thiết bị xe máy, thi công xây dựng, thiết
bị kỹ thuật cho ngành vận tải, thiết bị phụ tùng cho các ngành công
nghiệp.
- Phát triển nguyên liệu hoá chất cơ bản, vật liệu mới, chất bảo vệ
thực vật, nguyên liệu nhựa.
- Các dự án may mặc, da giầy xuất khẩu; các dự án sản xuất công
cụ, đồ dùng gia đình.
- Các dự án điện tử, điện gia dụng, phần mềm tin học, điện tử y tế
phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu
- Các dự án sản xuất các loại dược phẩm thay thế hàng nhập khẩu,
sản xuất thiết bị y tế…
Trong lĩnh vực dịch vụ, tập trung khuyến khích phát triển các dự án
phát triển hạ tầng kỹ thuật kinh tế, cơ sở hạ tầng ngành du lịch, các dịch vụ
tin học, chuyển giao công nghệ
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài theo địa bàn, đối tác nước ngoài.
Tiếp tục thu hút các dự án vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát
huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các
vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của các vùng phụ cận về nguyên
liệu, lao động và nguồn lực khác. Có chính sách ưu đãi hơn nữa các dự án
vào các khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê
duyệt.
Đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động
trong các tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài ở khu vực Đông á, ASEAN vào các dự án mà họ có nhiều kinh
nghiệm và thế mạnh, tăng cường thu hút mạnh các dự án từ các nước công
nghiệp phát triển nhằm tranh thủ tiềm lực kinh tế và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế.
Có kế hoạch vận động trực tiếp các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực
lớn về vốn, công nghệ, thị trường quốc tế đầu tư vào Việt Nam, đồng thời
chú ý đến cả các dự án có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại.
84
3.2. Giải pháp.
3.2.1. Giải pháp về lựa chọn đối tác tham gia đầu tư thận trọng hơn.
Đối tác nước ngoài là một yếu tố quan trọng và lựa chọn đúng đắn đối
tác là điều kiện tiên quyết để có được những dự án thành công. Tuy nhiên,
đối tác nước ngoài rất đa dạng, ở nhiều khu vực, nhiều nước khác nhau
trên thế giới nên việc tìm hiểu về đối tác và luật lệ của họ không phải dễ
dàng. Vì vậy cần phải đẩy mạnh hoạt động tư vấn đầu tư để giúp các chủ
đầu tư có cơ hội lựa chọn đúng đối tác. Đối tác nước ngoài phải được lựa
chọn thẩm tra chính xác. Đã đến lúc không phải bất cứ loại đối tác nào
chúng ta cũng hoan nghênh như trong mấy năm đầu thực hiện đầu tư. Lựa
chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần chú ý tới các tiêu chuẩn sau:
+ Thiện chí làm ăn lâu dài ở Việt Nam; kiên quyết phát hiện và loại trừ
các đối tác có tư tưởng làm ăn chộp giật, mánh mung và thậm chí lừa đảo.
Có những đối tác đến Việt Nam không phải là bạn mà sử dụng các tiểu sảo
trong giao tiếp, tranh thủ tình cảm trong giao tiếp, tình cảm của bạn hàng
bằng những lợi hoa mỹ, bằng quà kỷ niệm hoặc bằng những chuyến đi
thăm quan nước ngoài để đạt được những ý đồ của họ.
+ Có năng lực cần thiết về tài chính đủ để thực hiện dự án đầu tư.
+ Có khả năng, kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể.
Sẵn sàng chuyển giao công nghệ cần thiết vào Việt Nam.
+ Cần sớm phát hiện và có biện pháp xử lý hữu hiệu đối với một số đối
tác vào Việt Nam với mục tiêu phi kinh tế. Để làm được việc này cần có sự
tham gia của các cơ quan chức năng của nhà nước, phải đặt mục tiêu hiệu
quả kinh tế-xã hội lên hàng đầu.
Để đạt mục tiêu đó, Việt Nam đã rất mong muốn được “là bạn với tất
cả các nước” không phân biệt chế độ chính trị xã hội.
Bên cạnh đó, cũng cần phải thực hiện chuyển đổi đối tác đầu tư. Việt
Nam cần tập trung tăng cường hợp tác trực tiếp với các nước phát triển có
tiềm lực kinh tế mạnh, các công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế
giới để tranh thủ được công nghệ gốc, tiếp cận với cách thức quản lý hiện
đại, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập vào thị trường quốc tế. Tuy
nhiên, chúng ta vẫn phải chú ý thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
nước ngoài vì đó là doanh nghiệp năng động, thích ứng nhanh với những
biến động của thị trường, phù hợp với đối tác Việt Nam về khả năng góp
vốn, năng lực tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm quản lý và có điều kiện tạo
nhiều việc làm.
Đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong
các tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước ngoài ở
khu vực Đông á, ASEAN vào các dự án mà họ có nhiều kinh nghiệm và
thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng xuất khẩu, dịch vụ…cần
tăng cường thu hút mạnh đầu tư nước ngoài từ các nước công nghiệp phát
triển như Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản nhằm tranh thủ tiềm lực về tài chính,
85
công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng cao tiềm lực kinh tế và năng lực cạnh
tranh của nên kinh tế.
Đối với dự án đầu tư theo chương trình của Chính phủ, các dự án trọng
điểm của các Bộ, ngành, UBND và Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh,
các tổ chức kinh tế Việt Nam có liên quan cần tổ chức đấu thầu lựa chọn
đối tác thực hiện dự án theo quy định của Quy chế đấu thầu và Quy chế
quản lý đầu tư và xây dựng. Đối với các dự án khác, tuỳ tình hình cụ thể có
thể sử dụng các phương thức thích hợp để xác định, lựa chọn được các đối
tác đầu tư đáp ứng được yêu cầu.
3.2.2. Giải pháp về cải cách thủ tục hành chính.
Để làm cho công tác thẩm định thêm tiện lợi, nhanh chóng và chính
xác, cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cải cách thủ tục hành chính, khắc phục
sự trì trệ trong các cơ quan quản lý nhà nước, đơn giản hoá các thủ tục
hành chính theo nguyên tắc “một cửa”, “một đầu mối”, nhất là thủ tục cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi tiến hành thẩm định dự án, các cơ
quan cần tiến hành đồng thời, nếu chấp nhận chẳng hạn về quyền sử dụng
đất cần phải tiến hành giải phóng mặt bằng ngay để khi nhận được giấy
phép đầu tư có thể đưa dự án vào thực hiện.
Các cơ quan phụ trách hợp tác và đầu tư là cơ quan duy nhất tiếp nhận
hồ sơ và giải quyết các công việc tiếp theo, đồng thời thay mặt nhà đầu tư
đi liên hệ với các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho các nhà đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi cho họ khi đăng ký. Về hồ sơ đăng ký cấp giấy phép đầu tư,
các cơ quan chức năng phải thông báo công khai các loại giấy tờ cần có,
riêng các loại dự án có tỷ lệ xuất khẩu từ 80% trở lên và một số lĩnh vực
khác do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố, nhà đầu tư phải đăng ký theo
mẫu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nên chăng cần tiến tới tiêu chuẩn hoá và
thống nhất hoá thủ tục cấp giấy phép đầu tư từ địa phương đến trung ương
và phổ biến rộng rãi các tiêu chuẩn ấy trong và ngoài nước. Về lâu dài, cần
thiết phải xây dựng một cơ chế cấp giấy phép và quản lý thông tin phù hợp
với các chuẩn mực khu vực và quốc tế để đảm bảo tính minh bạch rõ ràng
và tính cạnh tranh trong môi trường đầu tư Việt Nam.
3.2.3. Giải pháp về nâng cao chất lượng khai thác, xủ lý và lưu trữ
thông tin .
Thông tin là một yếu tố rất quan trọng để tiến hành công tác thẩm định
và là điều kiện tiên quyết để lựa chọn được những dự án đầu tư có chất
lượng tốt. Do đặc trưng của các đối tác nước ngoài là rất đa dạng về đặc
điểm, hoàn cảnh địa lý và môi trường nên việc khai thác, thu thập thông tin
phục vụ cho công tác thẩm định là một công việc hết sức tốn kém về công
sức, tiền bạc và thời gian. Thông tin có thể thu thập ở rất nhiều nguồn, tuy
nhiên không phải nguồn tin nào cũng đáng tin cậy.Nên tìm hiểu các thông
tin một cách chính thống qua các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại
86
kinh tế của Việt Nam ở nước ngoài, các ngân hàng, các công ty kiểm toán
tư vấn đầu tư trong và ngoài nước. Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng
có thể đa dạng hóa nguồn thông tin từ các bạn hàng của đối tác để nắm
được tình hình tài chính, quan hệ thanh toán, tư cách , uy tín và năng lực
của nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là việc thuê các công ty kiểm toán
có uy tín xác định tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cần thiết lập quan hệ với các cơ quan quản
lý nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm,
đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ tư vấn quốc tế
để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật và
vận động đầu tư. Bên cạnh đó, thiết lập và duy trì mối quan hệ lâu dài với
các đối tác cũng là một trong những giải pháp không kém phần hiệu quả để
giải quyết vấn đề thiếu hụt thông tin. Việc thiết lập được mối quan hệ lâu
dài sẽ giảm chi phí và thời gian thu thập thông tin, chưa kể đến thông tin
thu thập được chắc chắn sẽ có tính chính xác cao hơn.
Trong phạm vi quốc gia, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động
phức tạp, liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm của những cơ quan
quản lý khác nhau. Vì vậy để tạo được nguồn thông tin tốt cho công tác
thẩm định cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước ở các
cấp. Vấn đề then chốt là nhằm đảm bảo duy trì chế độ báo cáo định kỳ theo
quy định. Ngoài chế độ báo cáo thống kê theo quy định chung của nhà
nước, các Sở kế hoạch và đầu tư cần có báo cáo và thông tin nhanh về tình
hình đầu tư nước ngoài trên địa bàn để Bộ Kế hoạch và Đầu tư kịp thời
nắm bắt và xử lý các vấn đề phát sinh.
Những năm gần đây, chúng ta đã có một bước nhảy vọt trong ngành
viễn thông, trong mạng thông tin kinh tế giúp cho việc khai thác thông tin
được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có một
định huớng cụ thể, chưa có một hoạch định đúng đắn để mạng thông tin
toàn cầu phục vụ đắc lực và tối đa cho các cơ quan cần nắm bắt thông tin
như cơ quan thẩm định. Vấn đề mấu chốt hạn chế việc khai thác mạng
thông tin toàn cầu này là giá cước truy nhập, cước viễn thông quốc tế của
chúng ta còn cao mặc dù trong thời gian gần đây cũng đã có sự điều chỉnh
giảm giá cước. Thiết nghĩ Tổng cục bưu điện cần tiếp tục có những cải tiến
nhằm đạt tới một mức giá chung bằng các nước trong khu vực và trên thế
giới để thông tin có thể đến được những đối tượng có nhu cầu một cách
hiệu quả và ít tốn kém hơn.
Để có được nguồn thông tin tốt thì vấn đề lưu trữ và xử lý thông tin
cũng hết sức quan trọng. Với sự giúp đỡ của công nghệ tin học, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện những phương
pháp thu thập, phân tích , xử lý và lưu trữ thông tin có hiệu quả. Trung
tâm thông tin của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã và đang là một nguồn cung
cấp thông tin quan trọng phục vụ không nhỏ cho công tác của Bộ. Tuy
nhiên cũng cần phải cải tiến hơn nữa hoạt động của đội ngũ nhân viên
87
trong việc khai thác và xử lý các thông tin trên mạng máy tính, đồng thời
nâng cấp hệ thống máy tính để khai thác có hiệu quả hơn nguồn thông tin
cả về số lượng và chất lượng.
3.2.4. Giải pháp về xây dựng một quy trình thẩm định hợp lý.
Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực
hiện các công việc thẩm định. Để thực hiện tôt khâu này cần phải có một
quy trình thực hiện thẩm định hợp lý, khoa học. Do nhiệm vụ tổng quát
của công tác thẩm định dự án là: Thứ nhất: phân tích đánh giá tính khả thi
của dự án về các mặt. Thứ hai: đề xuất kiến nghị với nhà nước liệu chấp
nhận hay không chấp nhận dự án. Tức công việc thứ nhất chủ yếu là xem
xét đánh giá chuyên môn, công việc thứ hai là lựa chọn phương án và điều
kiện phù hợp nên để công tác thẩm định được cặn kẽ và chính xác, việc tổ
chức thẩm định dự án nên chia các thành viên tham gia thẩm định thành
hai khối:
+ Khối chuyên môn: gồm các cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia có
trình độ chuyên môn cao liên quan đến nội dung dự án.
+ Khối quản lý: gồm các cơ quan hoặc chuyên gia về quản lý (ngành,
lãnh thổ) có hiểu biết chung về chuyên môn nhưng có thể không sâu về
chuyên ngành.
Đối với khối tư vấn về chuyên môn, có thể có các cách sử dụng tư vấn
sau:
. Thành lập nhóm chuyên gia: bao gồm các chuyên gia làm việc tại các
Bộ, sở quản lý chuyên ngành, có thể có thêm vài chuyên gia độc lập từ các
viện nghiên cứu, trường đại học bên ngoài. Trong những trường hợp cần
thiết, nhóm chuyên gia này có thể chia thành các tiểu ban chuyên môn để
thực hiện đánh giá theo từng nôị dung chuyên môn. Ví dụ: tiểu ban công
nghệ, tiều ban xây dựng, tiểu ban kinh tế…
. Các tư vấn độc lập trong và ngoài nước: đó là các tổ chức hoặc cá
nhân có trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực có liên quan. Các tổ
chức tư vấn hoặc chuyên gia này làm nhiệm vụ phản biện toàn bộ hoặc
từng phần dự án theo chuyên đề.
Tuỳ thuộc nội dung, tính chất dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có
thể trình người có thẩm quyền quyết định thành lập Nhóm chuyên gia hoặc
chọn tư vấn phản biện để tiến hành thẩm định các dự án. Cách thức sử
dụng tư vấn chuyên môn thẩm định đối với từng dự án có thể áp dụng các
cách linh hoạt: có thể đầy đủ các hình thức tổ chức nói trên (có cả nhóm
chuyên gia, có cả các tư vấn độc lập), có thể sử dụng một hay một vài hình
thức nêu trên (chỉ gồm nhóm chuyên gia hay một vài tiểu ban chuyên môn,
thậm chí có thể chỉ yêu cầu một vài chuyên gia phản biện). Trên cơ sở ý
kiến của các tư vấn chuyên môn nói trên, cơ quan thẩm định sẽ xem xét
quyết định để có ý kiến trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư.
88
Mặt khác, Bộ Kế hoạch và Đầu tư_ với tư cách là cơ quan thẩm định _
cần phối hợp với các Bộ chuyên ngành, Hiệp hội tư vấn để hình thành
mạng lưới đội ngũ chuyên gia và tổ chức tư vấn tương đối ổn định, có mối
quan hệ thường xuyên để huy động nhanh, đáp ứng kịp thời yêu cầu của
công tác thẩm định. Nhóm chuyên gia liên ngành, các tiểu ban chuyên môn
và tư vấn độc lập cũng cần sử dụng thông tin, trao đổi, phối hợp với nhau
trong quá trình thẩm định đánh giá dự án theo nhiệm vụ được giao.
Việc thực hiện tốt một quy trình thẩm định hợp lý một mặt sẽ đảm bảo
các yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý ngành và phối hợp được giữa các
ngành, các địa phương trong việc đánh giá thẩm định dự án, đồng thời đảm
bảo tính khách quan, cho phép phân tích sâu sắc, có căn cứ khoa học và
thực tế các vấn đề chuyên môn, giúp Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành
tốt hơn nhiệm vụ thẩm định của mình.
3.2.5. Giải pháp về cải cách công tác thẩm định dự án FDI.
Thông thường, các nhà đầu tư nước ngoài và đôi khi cả bên Việt Nam
chỉ quan tâm nhiều đến hiệu quả tài chính của dự án, bởi vì đứng về lợi ích
riêng của nhà đầu tư thì hiệu quả cao nhất là lợi nhuận thu được. Trong khi
đó, nhà nước khuyến khích nhiều hay ít một dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài không chỉ căn cứ vào hiệu quả tài chính mặc dù đó là một nhân tố
làm tăng nguồn thu của ngân sách nhà nước, đóng góp vào sự phát triển
của nền kinh tế. Đối với một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, hiệu quả
kinh tế xã hội phải được lấy làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương
hướng lựa chọn các dự án. Do đó, khi thẩm định xem xét một dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài cần phải đặt hiệu quả kinh tế xã hội lên trên và coi đó
là phương hướng cơ bản của những biện pháp khuyến khích đầu tư. Xuất
phát từ tinh thần đó, việc cải cách công tác thẩm định dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài hiện nay cần phải theo hướng: các cơ quan thẩm định
không nên can thiệp quá sâu vào những tính toán kinh doanh của các chủ
đầu tư đặc biệt là đôí với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
mà cần trở lại đúng chức năng của mình là đảm bảo lợi ích nhà nước trong
khuôn khổ pháp luật.Trong luận chứng kinh tế-kỹ thuật cần chú ý nhiều
hơn đến phần giải trình các lợi ích kinh tế xã hội của dự án khi triển khai
đem lại cho toàn bộ nên kinh tế. Các chỉ tiêu tài chính (NPV,IRR…) là
việc của các chủ đầu tư. Cơ quan thẩm định không nên coi đó là điều kiện
tiên quyết để cho phép đầu tư hay không.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là thẩm định mặt tài chính của
dự án bị xem nhẹ. Riêng đối với hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT, việc
thẩm định các tính toán tài chính cần được xem xét hết sức tỉ mỉ vì theo
hình thức này, sau giai đoạn đặc quyền, dự án sẽ được chuyển giao lại cho
Chính phủ Việt Nam, nghĩa là chúng ta phải hoàn toàn gánh chịu những
hậu quả về mặt tài chính mà một dự án BOT nếu không được thẩm định kỹ
mang lại.
89
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thẩm định và bên Việt Nam
khi thực hiện các dự án liên doanh. Điều này sẽ giúp chúng ta tiết kiệm
được thời gian và chi phí. Chẳng hạn khi bên Việt Nam tìm hiểu về đối tác
đầu tư sẽ phối hợp với cơ quan thẩm định để điều tra. Hoặc khi thực hiện
nghiên cứu khả thi, nhiều công đoạn có thể phối hợp để kiểm tra ngay khi
nghiên cứu, chứng minh tính đúng đắn của việc nghiên cứu đó để đến khi
thẩm định không phải thực hiện các bước này.
Một điều đáng nói nữa là hiện nay trong phần lớn các liên doanh, phía
Việt Nam thường chỉ góp vốn bằng quyền sử dụng đất, đối tác nước ngoài
góp vốn bằng vật tư trang thiết bị và một phần tiền mặt. Lợi dụng những
bất cập của các nhà kinh doanh Việt Nam nên phía nước ngoài đã đưa vào
nhiều liên doanh những thiết bị cũ không đồng bộ hoặc khai khống giá cao
hơn thực tế. Thiệt hại của chúng ta về mặt này hết sức to lớn. Do đó, để
hạn chế bớt những hậu quả đáng tiếc xảy ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư không
những chỉ thẩm định trên hồ sơ giấy tờ để cấp giấy phép đầu tư mà còn nên
bắt buộc kiểm tra tiến độ và sự góp vốn của các bên liên doanh để có cơ sở
pháp lý khẳng định giá trị góp vốn, giúp cho phía Việt Nam không phải
gánh chịu những hậu quả xấu xảy ra.
3.2.6. Giải pháp về xác định các tiêu chuẩn trong phân tích thẩm
định, đánh giá dự án .
Để thẩm định đánh giá dự án, vấn đề quan trọng và cần thiết là việc sử
dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật. Việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ
thuật cần phải giải quyết hai vấn đề là định lượng và xác định tiêu chuẩn
để đánh giá của các chỉ tiêu đó. Khâu yếu trong công tác thẩm định hiện
nay chính là hai vấn đề trên. Để khắc phục mặt yếu kém này, cần phải có
một số giải pháp kịp thời và đòi hỏi sự nỗ lực phối hợp của các cơ quan
chuyên môn có liên quan:
+ Cần nhanh chóng thống nhất về nội dung, phương pháp đo lường một
số chỉ tiêu như chỉ tiêu sử dụng đất ở các khu công nghiệp, tính toán yếu tố
lạm phát trong các chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu và phương pháp tính các chỉ
tiêu đánh giá kinh tế, chỉ tiêu đánh giá về các yếu tố xã hội….
+ Xây dựng các chỉ tiêu hướng dẫn hoặc các tiêu chuẩn áp dụng cho
từng loại hình dự án, đặc biệt là các chỉ tiêu phân tích tài chính.
+ Phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường và các cơ quan
khác có liên quan trong việc khai thác các thông tin về các chỉ tiêu kinh tế
kỹ thuật có tính chất kinh nghiệm, thực tế trong và ngoài nước, đặc biệt là
các thông tin về công nghệ, thiết bị, giá cả các loại vật tư thiết bị, các tỷ lệ
chi phí tư vấn, chuyển giao công nghệ.
Những điểm này cần phải được đặc biệt chú trọng đối với các cơ quan
đầu tư tổng hợp không chỉ Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà còn đối với các bộ
khác như Bộ tài chính, Bộ xây dựng, Bộ thương mại, Bộ khoa học công
nghệ môi trường và cả các địa phương. Việc nghiên cứu xây dựng các tiêu
90
chuẩn và các chỉ tiêu hướng dẫn là rất cần thiết cho công tác thẩm định,
bởi chúng chính là những cơ sở cho việc đánh giá dự án.
3.2.7. Giải pháp về nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với đầu
tư nước ngoài.
Một trong những mục tiêu của hoạt động đầu tư nước ngoài là xây dựng
được một cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài hợp lý, làm cho nguồn vốn này
thực sự thúc đẩy sự phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực cũng như
các địạ bàn, đặc biệt là những địa bàn có điều kiện khó khăn. Tuy nhiên,
trong thời gian qua, cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài chưa thực sự được phân
bố hợp lý, chủ yếu mới chỉ tập trung vào một số ngành công nghiệp hiện
đại mang lại lợi nhuận cao và các khu vực có điều kiện tự nhiên cũng như
môi trường đầu tư tốt. Vì vậy,để tránh sự mất cân đối, việc xem xét thẩm
định các dự án cụ thể phải có ý kiến của Bộ chuyên ngành nhằm đảm bảo
dự án phù hợp với quy hoạch, khắc phục tình trạng quá tải, cung lớn hơn
cầu, chèn ép sản xuất trong nước và độc quyền.
Cần gấp rút xây dựng quy hoạch đầu tư nước ngoài như là một bộ phận
trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực chung của cả nước; phải gắn chặt
với quy hoạch ngành, lãnh thổ, tổng sản phẩm chủ yếu. Trong quy hoạch
cần khuyến khích mạnh mẽ các dự án vào cá ngành chế biến xuất khẩu và
công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, năng lượng, những ngành ta
có thế mạnh về nguyên liệu và lao động nhằm góp phần làm biến đổi cơ
cấu kinh tế và phân công lao động xã hội. Xây dựng danh mục các dự án
gọi vốn đầu tư nước ngoài quốc gia cho thời kỳ 2001-2005, trong đó xác
định rõ sản phẩm , công suất, tiến độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa
bàn thực hiện dự án, các chính sách khuyến khích, ưu đãi.
Bên cạnh đó, công tác thẩm định cũng sẽ được hỗ trợ đắc lực và giảm
bớt được tính phức tạp đáng kể mà vẫn đạt được mục tiêu hiệu quả thông
qua việc đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư. Hoạt động này sẽ nhằm
khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành mà Việt Nam có thế mạnh
về nguyên liệu, lao động, ưu tiên các nhà đầu tư có tiềm năng về tài chính
và nắm bắt công nghệ nguồn, các dự án có công nghệ hiện đại. Đồng thời
có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với đầu tư vào các vùng sâu vùng xa. Để
hoạt động cóhiệu quả, hệ thống xúc tiến cần phải được tổ chức lại theo
hướng:
+ Hoạch định một chiến lược xúc tiến đầu tư nhằm đáp ứng được nhu
cầu của mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
+ Củng cố bộ phận xúc tiến đầu tư đủ mạnh về đội ngũ, mạnh về trình
độ, năng lực, theo hướng tập trung hoá cao độ chứ không phân tán, manh
mún như hiện nay.
+ Tăng cường và có kế hoạch đưa các Bộ, Viện, Trường và các cơ quan
làm công tác đối ngoại tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp
91
các chương trình nghiên cứu nhằm tạo thế chủ động trong giao tiếp và xử
lý các quan hệ với bên ngoài.
+ Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư của
một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm. Đẩy mạnh quan hệ với các
công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư quốc tế để có nguồn thông tin và
có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật vận động đầu tư.
+ Tổ chức mạnh mạng lưới xúc tiến đầu tư ở một số nước, khu vực
trọng yếu. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như UNDP,
UNIDO…và Việt kiều ở nước ngoài để giới thiệu môi trường đầu tư Việt
Nam.
+ Sắp xếp lại các công ty, các trung tâm dịch vụ, tư vấn đầu tư, kiên
quyết bãi bỏ và xử lý nghiêm khắc với các tổ chức yếu kém đang làm xấu
môi trường đầu tư Việt Nam. Xem lại các công ty tư nhân, trách nhiệm
hữu hạn làm chức năng tư vấn trong lĩnh vực đầu tư, nếu cần thiết phải thu
hồi giấy phép nếu các công ty này hoạt động không có hiệu quả.
+ Hoạt động tư vấn đầu tư phải giúp các chủ đầu tư có cơ hội chọn
đúng đối tác. Đặc biệt là công tác lựa chọn thẩm tra chính xác đối tác đầu
tư nước ngoài.
Bên cạnh viêc tổ chức lại hệ thống xúc tiến đầu tư, một số các biện
pháp khác cũng cần thiết phải được thực hiện. Đó là:
+ Hoàn chỉnh quy trình ban hành các văn bản pháp quy để ngăn chặn
việc các Bộ, ngành, địa phương ban hành các văn bản trái quy định chung
hoặc thực hiện không nghiêm các quyết định của Chính phủ trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài. Rà soát có hệ thống các văn bản của các ngành, các cấp
liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài.
+ Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, UBND tỉnh
trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài theo đúng thẩm quyền
trách nhiệm.
+ Quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính, công khai các
quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý; giảm đầu mối, giảm các thủ tục
không cần thiết nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản về cải cách hành
chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài; duy trì thường xuyên các cuộc gặp
gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư.
+ Từng bước mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy
phép đầu tư, từng bước thực hiện thí điểm cơ chế đăng ký đầu tư. Cơ chế
thẩm định cấp giấy phép đầu tư chỉ nên thực hiện đối với các dự án lớn và
thực sự quan trọng để có thể tập trung nhiều hơn thời gian và công sức vào
việc thẩm định các dự án này.
+ Ngăn chặn, xử lý nghiêm khắc các hiện tượng sách nhiễu, cửa quyền,
tiêu cực và sự tắc trách trong công việc của cán bộ công quyền.
3.1.8. Giải pháp về nâng cao chất lượng con người.
92
Một trong những yếu tố khiến cho công tác thẩm định dự án chưa đạt
được hiệu quả như mong muốn là do một bộ phận những cán bộ làm công
tác thẩm định còn chưa được trang bị những kiến thức đầy đủ và cập nhật
về dự án và kỹ năng thẩm định dự án. Vì vậy, để công tác thẩm định được
tốt hơn, cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những kiến thức
mới, những quy định mới nhất của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu
tư. Đây là những quy định có tính chất nghiêm ngặt và chặt chẽ để bảo vệ
lợi ích của nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng. Bên cạnh đó,
một nhiệm vụ không thể thiếu được và mang tính cấp bách là đẩy mạnh
công tác đào tạo.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ
nghiệp vụ từ trước đến nay vẫn luôn được Bộ Kế hoạch và Đầu tư quan
tâm và luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Các cán bộ
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói chung và cán bộ chuyên trách công tác
thẩm định nói riêng đều đã được cử đi đào tạo ở nhiều loại hình khác nhau,
cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên với nhu cầu đòi hỏi cấp bách hiện nay
đối với đội ngũ làm công tác thẩm định dự án, thiết thực nhất vẫn là phải
mở thêm các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ
chuyên môn. Bên cạnh việc trang bị hệ thống lý thuyết đầy đủ và cập nhật,
cần chú trọng kỹ năng thực hành bằng các chương trình phần mềm thẩm
định trực tiếp trên máy vi tính với những ví dụ thực tế, cụ thể hơn là
phương pháp truyền đạt một chiều sẽ không kích thích được tính tích cực,
chủ động và không đạt được mục tiêu nâng cao kỹ năng thực hành cho đối
tượng đang làm công tác thực tế. Với các lớp học, chương trình tập huấn
nghiệp vụ hạn chế về chỉ tiêu, cần ưu tiên tuyển chọn những cán bộ đã
được trang bị hoặc đã có tích luỹ kiến thức tương đối về thẩm định dự án,
có khả năng tiếp thu và hướng dẫn lại nghiệp vụ khi về công tác tại cơ
quan. Có như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán
bộ thẩm định mới mang lại kết quả thiết thực và tiết kiệm được chi phí.
Bên cạnh bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đội ngũ cán bộ thẩm định
cũng nhất thiết phải được nâng cao về trình độ ngoại ngữ. Do đặc thù là
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể sẽ phải tiếp xúc với các hồ sơ
văn bản bằng tiếng nước ngoài nên việc trang bị những kiến thức ngoại
ngữ chuyên môn là yêu cầu không thể thiếu được. Vì vậy, bên cạnh việc
mở rộng các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, Bộ cũng cần mở thêm
những lớp trang bị kiến thức ngoại ngữ chuyên ngành với giáo viên là
những chuyên gia ngoại ngữ có kiến thức nghiệp vụ cả trong và ngoài
nước.
Cần sớm tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ thẩm định theo hướng chuyên
môn hóa. Có như vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới đào tạo được những
chuyên gia chuyên sâu về từng mặt nghiệp vụ, từng loại dự án, đặc biệt là
những nghiệp vụ đặc thù. Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ kết
hợp với quy hoạch cán bộ, việc lập kế hoạch đào tạo sẽ đúng đối tượng,
93
hiệu quả cao hơn. Mặt khác, cũng trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ được
công khai hoá, đội ngũ cán bộ sẽ có điều kiện chủ động trau dồi kiến thức,
nâng cao trình độ, phát huy cao độ ý chí và nghị lực của mình, tự tin trong
quá trình phấn đấu và công tác.
Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là một
đơn vị then chốt, tập trung nhiều cán bộ quản lý kinh tế, quản lý dự án và
cũng là nơi cung cấp nhiều cán bộ quản lý cho hệ thống các Sở kế hoạch
và đầu tư của các tỉnh trên phạm vi toàn quốc. Vì vậy, đẩy mạnh công tác
đào tạo cần phải gắn liền với thực hiện đa dạng hoá đào tạo, phù hợp với
nhu cầu đào tạo của từng địa phương, từng lĩnh vực chuyên môn. Chỉ có đa
dạng hoá các loại hình đào tạo mới phát huy được nội lực của mỗi cán bộ
nhân viên, của từng đơn vị thành viên và toàn hệ thống, thực hiện mục tiêu
cập nhật kiến thức, vừa nâng cao trình độ cán bộ hiện tại, vừa chuẩn bị
nguồn cán bộ cho tương lai để sớm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán
bộ.
Xây dựng trung tâm đào tạo của Bộ thật sự trở thành một trung tâm
mạnh về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với cán bộ
nhân viên. Từ khi thành lập, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tập trung kinh phí
đào tạo và bồi dưỡng của cơ quan để mở các lớp tập trung về bồi dưỡng
kiến thức quản lý kinh tế cho gần 200 người, lớp nghiệp vụ cho 512 người,
lớp tại chức trung cấp lý luận 62 người và ngoại ngữ anh văn 135 người.
Với cách tổ chức như vậy đã tạo nên một đội ngũ đông đảo cán bộ được
nâng cao trình độ, kiến thức đáp ứng yêu cầu công tác. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư cũng đã mở các lớp tập huấn cho các tỉnh và thành phố về công tác
kế hoạch, tài chính, đầu tư, thẩm định dự án, đấu thầu, quản lý ODA…cho
hàng nghìn lượt người. Công tác này cần được tiếp tục phát huy và mở
rộng:
+ Cần tăng cường trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy tốt hơn, có
thêm một số phòng học, hội trường, thư viện, phòng đọc rộng rãi hơn.
+ Xây dựng kế hoạch đào tạo gắn liền với việc tổ chức biên soạn và
thẩm định, xét duyệt tài liệu, giáo trình đào tạo. Phát huy hơn nữa chức
năng của Trung tâm thông tin và Tạp chí kinh tế và dự báo trong việc cung
cấp các thông tin cập nhật và tài liệu tham khảo trên các lĩnh vực kinh tế
như thẩm định dự án, quản lý ODA, đầu tư nước ngoài, đấu thầu…
Song song với đào tạo, cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý nhất
là cán bộ trẻ để thu hút những người có năng lực và trình độ được đào tạo
chuyên sâu trong và ngoài nước về lĩnh vực thẩm định dự án. Bên cạnh đó,
cần thưòng xuyên mời những chuyên gia giỏi làm cố vấn hay cộng tác viên
phối hợp với cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong công tác thẩm định.
3.1.9. Giải pháp về hoàn thiện hệ thống luật pháp và sửa đổi một số
chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài.
94
Xây dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định và
mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Triển khai việc
nghiên cứu để tiến tới xây dựng một Bộ luật đầu tư chung cho cả đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện hệ thống pháp lý chung về
kinh tế để tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng, sớm ban
hành Luật về kinh doanh bất động sản, Luật hải quan, Luật cạnh tranh và
chống độc quyền…
Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm
việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Hoàn chỉnh hệ thống thuế
xuất nhập khẩu, VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt. Hoàn thiện các quy định về
hợp đồng kinh tế, sở hữu trí tuệ, cải tiến hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu
tư, phá sản đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác
thêm các kênh thu hút đầu tư mới; cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dự
án ở Việt Nam thành lập các công ty quản lý vốn; đẩy nhanh việc thí điểm
cổ phần hóa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, ban hành danh mục lĩnh
vực cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của doanh nghiệp
Việt Nam; thành lập một số mô hình khu kinh tế mở.
Soát lại giá cho thuê đất, miễn giảm tiền thuê đất trong một số năm đầu
để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp; giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù,
giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc triển khai dự án. Giá cả
đền bù, giải phóng mặt bằng phải hợp lý, không phân biệt đối xử với dự án
đầu tư nước ngoài và trong nước để tránh đẩy giá thuê đất thực tế lên cao.
Cần sớm chấm dứt cơ chế các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất, chuyển sang thực hiện chế độ nhà nước cho thuê đất.
Ngân hàng nhà nước cùng với Bộ tư pháp, Tổng cục địa chính ban hành
các văn bản hướng dẫn việc thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam; nghiên
cứu khả năng cho phép các dự án lớn và dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
được thế chấp quyền sử dụng đất ở tổ chức tài chính nước ngoài.
Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư : Ngoài các dự án không cấp phép
đầu tư, các dự án do yêu cầu an ninh quốc phòng, giữ gìn bản sắc dân tộc
về văn hoá, thuần phong mỹ tục và những dự án quốc kế dân sinh quan
trọng, cần mở rộng danh mục các dự án cho phép nhà đầu tư nước ngoài
được chủ động lựa chọn hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu qủa sản xuất
kinh doanh; xử lý linh hoạt việc cho phép các liên doanh trong một số
trường hợp được chuyển đổi hình thức đầu tư sang doanh nghiệp 100%
vốn trong nước hoặc 100% vốn nước ngoài.
3.3. Kiến nghị.
3.3.1.Kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
Cần nghiên cứu xây dựng một quy trình thẩm định hiện đại, phù hợp
với từng loại hình dự án đầu tư nhằm hướng đến mục tiêu đơn giản và hiệu
95
quả. Thực hiện đúng chức năng là cơ quan thẩm định đứng trên góc độ của
nhà nước và Chính phủ. Tránh can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh
của các chủ đầu tư nước ngoài mà lơ là nhiều mặt làm ảnh hưởng đến lợi
ích kinh tế xã hội của đất nước mà dự án đem lại.
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong từng bộ phận tham gia thẩm định
và quyết định đầu tư.
Hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ. Phải làm sao
để thông tin được thông suốt, đầy đủ, không phiến diện, làm cơ sở cho việc
cung cấp thông tin cho hoạt động thẩm định dự án được nhanh chóng,
thuận tiện.
Khẩn trương xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang
tính chuẩn mực và các tiêu chuẩn đánh giá dự án cho các dự án đầu tư theo
từng lĩnh vực, từng địa bàn, từng ngành…để làm cơ sở so sánh, đánh giá
dự án và ra quyết định đầu tư.
Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng nhà nước trong việc thẩm định mặt tài
chính của các dự án đầu tư nước ngoài. Cố gắng xây dựng những cơ sở và
tiêu chuẩn thẩm định về mặt tài chính thống nhất và chặt chẽ để giảm bớt
gánh nặng cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong mặt thẩm định tài chính đối
với những dự án được phép, hoặc ít nhất, những khía cạnh tài chính đã
được thẩm định bởi ngân hàng có thể trở thành cơ sở tin cậy để Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đưa ra những đánh giá cho tính khả thi về mặt tài chính
của dự án.
Phối hợp chặt chẽ với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trong
việc thẩm định mặt kỹ thuật công nghệ của dự án. Thường xuyên có sự
trao đổi, đào tạo cán bộ thẩm định thuộc chuyên môn kỹ thuật của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư với Bộ khoa học Công nghệ và Môi trường để nâng cao
trình độ cũng như cập nhật các kiến thức mới nhất về công nghệ của thế
giới nhằm nâng cao chất lượng thẩm định về mặt kỹ thuật công nghệ của
dự án.
3.3.2. Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ có liên quan.
Chính phủ cần nghiên cứu xây dựng một dự án có quy mô quốc tế về
việc hình thành một trung tâm thông tin kinh tế tại Việt Nam. Vai trò của
nó sẽ tương tự như một siêu thị thông tin mà từ đó các cá nhân và đơn vị
có nhu cầu sẽ được cung cấp các thông tin đầy đủ, nhanh chóng và chính
xác nhất phục vụ cho công tác nghiên cứu, xây dựng kế hoạch hay điều tra
kinh tế. Trung tâm sẽ hoạt động như một nguồn thông tin hai chiều, cung
cấp cho trong nước những thông tin kinh tế từ nước ngoài và ngược laị,
Chính phủ và các đối tác kinh tế nước ngoài cũng có thể tìm thấy những
thông tin cập nhật về mặt thuộc lĩnh vực kinh tế của Việt Nam.
Đề nghị Chính phủ giao cho các bộ ngành có liên quan triển khai
nghiên cứu Bộ luật đầu tư chung nhằm tạo nên một cơ sở pháp lý tiêu
96
chuẩn và ổn định hướng dẫn và điều chỉnh có hiệu quả hơn nữa đối với
hoạt động đầu tư.
Đề nghị Chính phủ chỉ đạo, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà
soát lại các văn bản pháp quy liên quan đến đầu tư nước ngoài, bãi bỏ
những văn bản, những loại giấy phép không còn cần thiết; xây dựng quy
chế phối hợp với các Bộ, ngành , địa phương trong quản lý hoạt động đầu
tư nước ngoài; xây dựng đề án về đăng ký cấp phép và đăng ký đầu tư.
97
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư.pdf