Qua nghiên cứu lý lu ận và phát triển thực tế về chuy ển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp từ trước những năm 1986 đến nay, bài viết đã đưa ra một số giải
pháp cho xu hướng chuy ển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới.
Những giải ph áp này có thể đã được đề cập tới ở nhiều nguồn, số khác chưa thực
tế hoặc chưa thể hiện được trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, song các giải
pháp này đưa ra đã phản ánh thái độ nghiêm túc trong nghiên cứu.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2729 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam từ trước năm 1985-1988 tới nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời kỳ này vẫn là cơ cấu truyền thông. Năm 1953, trong cơ cấu nông nghiệp, giá
trị sản lượng trồng trọt chiếm 71,9%, chăn nuôi chiếm 15,6%, thuỷ sản chiếm
7,4%, lâm nghiệp chiếm 5,1%. Trong ngành trồng trọt: lua chiếm 58,7 %, mì màu
13,3%, cây công nghiệp 19,7%, rau 4,8, quả 3,5%. Trong ngành nông sản xuất
khẩu năm 1952 đạt 114 triệu USD chiếm 95,5% kim ngạch xuất khẩu. Nó đánh
dấu bước ngoặc đầu tiên của sản xuất nông nghiệp chuyển từ hướng nội thuần tuý
sang hướng ngoại.
* Thời kỳ thứ hai
Cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ phát triển nông nghiệp để nuôi dưỡng
công nghiệp (1953-1968): Đây là thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá ở Đài
Loan nó được thực hiện trong 4 kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia (NEDP)
Trang 9
Biểu 1: Cơ cấu nông nghiệp thời kỳ 1953-1968
Năm Giá trị sản lượng
nông nghiệp
Trồng trọt Chăn nuôi Ngư nghiệp Lâm nghiệp
1953 10.390 (1) 71,9% 15,6% 7,4% 5,1%
1968 48.883 60,1% 23,0% 10,6% 6,3%
(1) Triệu đồng Đài Loan.
Với chức năng phát triển nông nghiệp để nuôi dưỡng công nghiệp trong
thời gian 1953-1968, nông nghiệp Đài Loan tập trung vào các mục tiêu:
-Nâng cao nông nghiệp bằng đa dạng hoá sản phẩm và cạnh tranh để đảm
bảo nhu cầu dinh dưỡng cho nhân dân.
-Mở rộng xuất khẩu nông sản phẩm phục vụ công nghiệp hoá .
-Cung cấp nguyên liệu và lao động cho công nghiệp để phát triển công
nghiệp hoá.
Kết quả: sản phẩm trồng trọt chính (lúa, mía, rau quả) tăng từ 60-400%,
năng suất cấy trồng từ 50-200%, sản lượng thuỷ sản tăng 400%, lâm sản tăng
50%-120%. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 266,590 triệu USD, tăng
220%. Điểm chủ ý ở đây là cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ 1953-1968 đã có sự
chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá. Giá trị sản lượng nông, lâm
ngư nghiệp năm 1968 tăng 5 lần so với 1953, cơ cấu giá trị chăn nuôi tăng từ
15,6% lên 23%, ngư nghiệp từ 7,4%-10,6%, lâm nghiệp từ 5,1%-6,3%.
* Thời kỳ thứ ba
Cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ phát triển công nghiệp để hỗ trợ nông
nghiệp (1961 đến nay). Một trong những nội dung chủ yếu trong thời kỳ này là
tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp cho phù hợp với yêu cầu và khả năng của
công nghiệp hoá.
Số trang trại gia đình bắt đầu giảm, lao động nông nghiệp giảm từ 1,6 triệu
(1969) xuống 1,09 triệu (1991). Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao
động xã hội giảm từ 38,9% (1969) xuống 12,9% (1991).
Diện tích canh tác giảm 914 ha (1969) xuống 883540 ha (1991). Giá trị sản
lượng nông nghiệp tăng 47731 triệu Đài Loan (1969) lênhà nước 234185 triệu
Trang 10
(1981). Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng 297 triệu USD (1969) lên 10,042 tỷ
USD (1991).
Biểu 2: cơ cấu giá trị sản lượng nông nghiệp (1968-1981)
Năm Giá trị Sl (1)
nông nghiệp
Tỷ trọng giá trị sản phẩm (%)
Trồng trọt Chăn nuôi Ngư nghiệp Lâm nghiệp
1968 48833 60,1 23 9,5 5,6
1981 234185 47,1 29,5 21,4 2,0
(1) triệu đồng Đài Loan
Kế hoạch của Đài Loan từ nay đến sau năm 2000 là tiếp tục chuyển dịch
nền kinh tế nông nghiệp theo phương hướng chọn được cơ cấu nông nghiệp hợp
lý trong điều kiện công nghiệp phát triển đạt trình độ cao, đất đai và lao động đất ở
trong nước tập trung và sản xuất. Kế hoạch của Đài Loan từ nay đến sau năm 2000
là tiếp tục chuyển dịch chuyển nền kinh tế nông nghiệp theo hướng chọn được cơ
cấu nông nghiệp hợp lý trong điều kiện công nghiệp phát triển đạt trình độ cao,
đất đai và lao động đất ở trong nước tậ trung vào sản xuất các sản phẩm cần ít đất
đai, lao động, đem lại giá trị kinh tế và lợi nhuận cao và tìm cách xuất khẩu vốn
công nghệ , chuyên gia nông nghiệp ra các nước ngoài, có đất đai và lao động rẻ
hơn, để sản xuất nông sản đưa về nước và đem xuất khẩu.
Kết luận:
+Trong thời gian từ 1949-1953 để mở đường cho công nghiệp hoá Đài
Loan đã thực hiện cải cách ruộng đất, chuyển phương thức sở hữu và sử dụng đất
phong kiến sang phương thức sử dụng ruộng đất tư bản chủ nghĩa.
+Đài Loan đã chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp từ hướng nội phục vụ nhu
cầu nhu cầu trong nước sang hướng ngoại phục vụ nhu cầu xuất khẩu nông sản.
+Đã chuyển dịch cơ cấu nông lâm ngư nghiệp cho phù hợp từng thời kỳ
công nghiệp hoá theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi thuỷ sản, rau quả và
giảm tỷ trọng lương thực, lâm sản.
+Chuyển dịch lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở thành thị
và nông thôn, tạo ra thu nhập cao hơn, đáp ứng nhu cầu cho công nghiệp.
Trang 11
+Chuyển dịch lao động động thủ công trong nông thôn sang lao động cơ khí
trên lao động chuồng trại và trong xí nghiệp chế biến nông sản.
+ Khi công nghiệp phát triển trình độ lao động cao, sẩn xuất nông nghiệp có
xu thế giảm sản xuất mọt số nông sản và thay thế bằng nông sản nhâp khẩu có lợi
cao, chuyển sản xuất nông nghiệp từ nội địa ra nước ngoài, nhằm vào đất nước có
đất đai và lao động rẻ để sản xuất và xuất khẩu nông sẩn từ nước ngoài có lợi hơn.
b. Kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của
Indonesia.
Với hơn 200 triệu dân và 70% dân cư sống ở nông thôn, ngành nông
nghiệp Indonesia có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Vấn đề
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nnn1 của Indonesia quan tâm sâu sắc, trong đó chính
sách phát triển nông nghiệp tập trung sản xuất lương thực, thực phẩm vì mục tiêu
an toàn lương thực, thực phẩm và đề cao vai trò khu vực nông thôn.
Để thực hiện việc dễ dàng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
chính phủ nước này đã tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng như đường sá, công
trình thuỷ lợi, nghiên cứu ứng dụng các loại giống cao sản… đều được trợ giá ở
mức độ khác nhau. Đây chính là điều kiện nhằm khuyến khích phát triển cho nền
kinh tế nông nghiệp.
Cơ cấu và diện tích cây trồng liên tục được mở rộng, chú trọng phát triển
những cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu ở các trang trại nhà nước và tư nhân.
Trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia thực hiện khá tốt chính sách phát triển
kinh tế trang trại. Nhờ đó, Indonesia trở thành nước xuất khẩu ca cao, cà phê, chè
hàng đầu thế giới. Chính phủ nước này luôn cố gắng duy trì sự cần bằng tương đối
giữa nông nghiệp và những ngành công nghiệp, dịch vụ.. đưa khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ giải quyết các yếu tố đầu vào, đầu ra cho
sản xuất nông nghiệp.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
và nông thôn.
+Vị trí đại lý và khí hậu tự nhiên: ở những vị trí địa lý khác nhau và vùng
khí hậu khác , việc xác định cơ cấu kinh tế cũng khác nhau. Xác định cơ cấu kinh
tế nông nghiệp và nông thôn cũng có nghĩa là xác định cơ cấu kinh tế nông
Trang 12
nghiệp và nông thôn ở các vùng điều kiện địa lý và khí hậu tự nhiên khác nhau của
nước ta. Bởi vậy, cơ cấu kinh tế của một nước, một vùng bao giờ cũng dựa trên qu
thế về điạ lý và khí hậu của nước đó, vùng đó.
+Các nguồn lợi: bao gồm tài nguyên khoáng sản,nguồn nước, nguồn năng
lượng, đất đai… có hay không có, có nhiều hay có ít các tài nguyên này sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến việc xác định cơ cấu kinh tế của một quốc gia nó chung và của
vùng đó nói riêng.
+Phong tục tập quán và truyền thống dân tộc: Đây là nhân tố vừa có tác
dụng thúc đẩy vừa có tác dụng kìm hãm. Một quốc gia nào hay một vùng nào đó ở
đâu đó có phong tục tập quán canh tác lạc hậu ví dụ như du canh, du cư thì ở đó có
sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất diễn ra không thể nhanh chóng và suôn sẻ được.
Ngược lại, ở đâu có tập tụ, tập quán truyền thống sản xuất tiến bộ thì ở đó việc làm
chuyển biến cơ cấu kinh tế nói chung sẽ dễ dàng hơn.
+Trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ : với trình độ này càng cao thì sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ càng dễ dàng hơn và công nghệ hiện đại, tiên tiến
đó sẽ là một trong những điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nói chung, nông nghiệp và nông thôn nói riêng.
+Con người: ta biết rằng cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, thế nhưng
việc nó hình thành nhanh hay chậm , hợp lý hay không hợp lý, lại do tác động chủ
quan của con người. Bởi vì, con người là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc
tiến hành cơ cấu kinh tế.
Ví dụ điển hình như Nhật Bản, một nước hiếm tài nguyên, đất nước vươn
lên ngang tầm với các nước phát triển nhất trên thế giới, một đất nước có nền kinh
tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển.
4. Sự cần thiết phải công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp
Chuyển dịc cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nói riêng theo hướng ngày càng tiến boọ là một xu thế tất yếu khách quan
của các nền kinh tế quốc gia khác nhau, nó vừa có những nét chung mang tính quy
luật và vừa có những nét riêng mang tính đặc thù phù hợp với yêu cầu và điều kiện
cụ thể của nền kinh tế mỗi quốc gia ấy trong từng thời kỳ lịch sử.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là kết quả của sự phát triển trong
Trang 13
cạnh tranh trên thị trường, những ngành có hiệu quả cao sẽ phát triển ngày càng
mạnh mẽ, các ngành kém hiệu quả sẽ bị thu hẹp lại, mà việc chủ động thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung theo mục tiêu và nhu cầu của sự phát triển,
gắn với dự báo tiến bộ khoa học công nghệ và thị trường là một trong những khâu
quyết định tạo ra tăng trưởng kinh tế, ở những nước có công nghệ tiên tiến thì luôn
tạo ra công nghệ mới, còn ở những nước đang phát triển thì tiếp nhận chuyển giao
công nghệ tiên tiến, từ đó hình thành cơ cấu mới trong công nghiệp và trong nền
kinh tế với các ngành nghề mới, sản phẩm mới, tạo ra sức cạnh tranh cao và tăng
trưởng nhanh.
Đất nước ta xuất phát và đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu chính vì
vậy chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn.
Trong nông nghiệp và nông thôn, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá
sẽ thúc đẩy nông nghiệp phát triển vượt bậc. Thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ thúc đẩy được nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập
trung, chuyên canh như: lúa, cao su, cà phê, chè.. Hơn nữa, với ngành công nghiệp
chế biến nông, lâm thuỷ sản đã có những bước tăng trưởng đáng kể . Đó là điều
kiện nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Trang 14
PHẦN II: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1985 ĐẾN NAY.
I. GIAI ĐOẠN TỪ TRƯỚC NĂM 1985-1988
Nông nghiệp nước ta trong giai đoạn này gặp rất nhiều những rào cản, vượt
qua tình trạng khủng hoảng và suy thoái kéo dài trong những năm 1976-1980.
Đến tháng 1-1980 - Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra đời lúc
đó với nhân dân khoán sản phẩm cây lúa đến nhóm người và hộ lao động (và đây
thực chất là khoán hộ). Chính vì vậy, đã được coi là chìa khoá vàng mở ra thời kỳ
mới của nông nghiệp và cả của kinh tế nông thôn. Những kết quả đạt được trong
giai đoạn này của sản xuất nông nghiệp là những thành tựu bước đầu hơn hẳn các
thời kỳ trước. Bình quân 5 năm 1981-1985 so với bình quân 5 năm 1976-1980 sản
lượng lương thực tăng 27%, riêng thóc tăng lên 32%, năng suất lúa tăng 23%,
lương thực bình quân đầu người tăng 14%, đàn trâu tăng 8%, đàn bò tăng 39%,
đàn lợn tăng 22%.
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (5/4/1988) về đổi mới quản lý nông nghiệp
với nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông
thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn
nước ta.
Sản xuất lương thực đã tăng lên với xu hướng năm sau cao hơn năm trước:
năm 1987 là 17,5 triệu tấn, 1988 là 19,6 triệu tấn. Trong gần 3 thập kỷ lương thực
ở nước ta luôn là vấn đề nóng bỏng, tình trạng thiếu lương thực diễn ra triền miên.
Riêng 13 năm (1976-1988) nước ta nhập khẩu 8,5 triệu tấn quy gạo, bình quân
hàng năm nhập 0,654 triệu tấn.
Mặt khác, nông nghiệp nước ta mang nặng tính độc canh (vào những năm
đấuau thời kỳ giải phóng). Diện tích cây lương thực năm 1976 chiếm 88,0% trong
đó lúa chiếm 75,2% tổng diện tích gieo trồng, các loại cây trồng khác chiếm tỷ
trọng diện tích còn thấp. Cây công nghiệp chiếm 6%, cây ăn quả 2%. Từ năm 1981
trở đi lương thực có sự phát triển, vấn đề lương thực giảm bớt khó khăn cho nhân
dân ta trong nghiên cứu năm của thời kỳ đó.
Nông nghiệp trong thời gian này cũng đã có được sự đóng góp quan trọng
trong việc tăng nguồn hàng xuất khẩu, tăng thêm nguồn ngoại tệ cho đất nước với
Trang 15
quan điểm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế, do vậy, kinh tế nước ta đã có những
tiến bộ khởi sắc và chuyển biến tích cực. Năm 1986 giá trị xuất khẩu nông lâm
thuỷ sản đạt 513 triệu rúp-đo la.
Có được những bước đầu khởi sắc của giai đoạn gần thập niên 90 này là do
sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta nhằm từng bước phát triển nền kinh
tế nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng. Trong giai đoạn này, việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mới bắt đầu được hình thành song vẫn
chưa được quan tâm đúng mức vì do điều kiện kinh tế nước ta tác động. Nông
nghiệp ta thời kỳ này vẫn độc canh là chủ yếu, cây trồng vật nuôi mới chỉ là "có
sự góp mặt" còn chủ yếu là lúa, hoa màu cho ta năng xuất thấp khiến nước ta vẫn
phải nk lương thực, thực phẩm.
II. GIAI ĐOAHN TỪ NĂM 1989 ĐẾN NĂM 1994
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
a. Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Trong giai đoạn này, Đảng ta luôn luôn khẳng định sự phát triển kinh tế
nước ta phải dựa trên cơ sở kết hợp một cách đúng đắn giữa công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ.
Trong hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khoá VII họp tháng 12
năm 1993 đã xác định "từ nay đến cuối thập kỷ phải rất quan tâm đến công nghiệp,
hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu…" (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiệnn Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Tháng 1 năm 1994). Trước đó
nhà nước ta đã có chính sách ưu tiên , phát triển cho nông nghiệp và nông thôn,
tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Tháng 1 năm 1980, chỉ thị 100 của Ban chấp hành bí thư Trung ương Đảng
với nội dung khoán sản phẩm cây lúa đến nhóm và người lao động (thực chất là
khoán hộ). Đây là chìa khoá vàng mở ra thời kỳ mới của nông nghiệp và kinh tế
nông thôn cho nước ta.
Tiếp đến là Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (5-4-1988) về đổi mới quản lý
nông nghiệp với nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ
Trang 16
nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Đây là một mốc mới đánh dấu cho
sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta.
Những chính sách của Đảng và nhà nước ở trên là một tiền đề mở ra cho
nền nông nghiệp một hướng đi mới, tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp nước ta một cách cơ nền tăng trưởng, có hiệu quả hơn.
Trong giai đoạn này, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã và đang
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta một cách có nền tảng, có hiệu
quả hơn.
Trong giai đoạn này, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã và đang
chuyển dịch theo cơ cấu ngành, theo vùng, theo lãnh thổ tới nền sản xuất hàng hoá,
với những tiến bộ đáng kể:
* Một là: cơ cấu nông nghiệp đã có sự chuyển biến khá rõ nét, đã và đang
tạo thế cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Với thành tựu to lớn nhất của
nông nghiệp trong giai đoạn này là căn bản giải quyết được vấn đề lương thực.
Sau 18 năm kể từ trước những năm 1985-1988, sau lượng lương thực nước ta tăng
86,6%, mức lương bình quân đầu người từ 274,4kg/năm năm 1976 tăng lên
359,2kg/năm 1993. Chỉ trong thời gian 6 năm ở giai đoạn này, khối lượng gạo
xuất khẩu từ 1,5-2,0 triệutấn và xếp hàng thứ 3 về xuất khẩu gạo trên thế giới.
Giải quyết được vấn đề lương thực là điều kiện quyết định để phát triển đa
dạng hoá cây trồng và vật nuôi. Đến năm 1993 diện tích cây công nghiệp tăng lên
1290.000ha, chiếm 13,3% trong đó cây công nghiệp tăng 3,77 lần, cây ăn quả tăng
3,0 lần so với trước những năm 1985-1988, tỷ trọng diện tích cây lương thực giảm
xuống 78,4% trong đó riêng lúa chiếm 65,7. Lương thực dồi dào, nguồn thức ăn
phong phú tạo điều kiện để phát triển chăn nuôi, trong đó đàn lợn là nguồn cung
cấp thịt chủ yếu cho nhân dân, năm 1991 chiếm 70,5% tổng sản lượng thịt hơi xuất
chuồng. Năm 1993 số lượng đàn bò ở Miền bắc đã gấp 2,56 lần so với năm 1976
và gấp 2,45 lần so với năm 1980. Ngoài ra, chăn nuôi gia cầm đang phát triển
mạnh về số lượng và chủng loại cùng với phương thức chăn nuôi truyền thống,
nông dân đã tiếp thu phát triển chăn nuôi theo kiểu công nghiệp.
Trong những năm của giai đoạn này, thuỷ sản đã có bước phát triển đáng
kế, công tác nuôi trồng thuỷ sản được co trọng, nhất là vùng ven biển. Những cơ
Trang 17
sở sản xuất giống và nuôi tôm xuất khẩu được phát triển , mở rộng các hình thức tổ
chức liên doanh với nước ngoài để nuôi tôm được triển khai ở ven biển Miền
trung. Việc đánh bắt hải sản đang được khôi phục và phát triển ở nhiều địa
phương, tầu thuyền, các phương tiện đánh bắt được tăng cường, nhờ vậy mà sản
lượng thuỷ hải sản tăng nhanh, sản phẩm xuất khẩu ngày càng lớn.
Biểu 3: Cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản cả nước 1991-1994 (%)
1991 1992 1993 1994
Nông nghiệp 84,5 84,7 84,5 85,3
Lâm nghiệp 7,7 6,8 7,0 6,5
Thuỷ sản 7,6 8,5 8,5 8,2
Việc giao đất, giao rừng được tiến hành rộng rãi tới người dân, việc bảo vệ,
khoanh nuôi và tái sinh rừng tốt hơn, diện tích rừng trồng tăng lên, kết hợp trồng
rừng với trồng cây công nghiệp, làm vườn và chăn nuôi, góp phần tạo ra sự bền
vững về sinh thái và xã hội để phát triển rừng. Ở nhiều vùng có dự án 327 đang
triển khai tốt bước đầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế lâm nghiệp miền núi. Nhà nước
chủ trương hạn chế khai thác xuất khẩu gỗ tròn, sản lượng gỗ và kim ngạch xuất
khẩu lâm sản có giảm xuống, những rừng đang từng bước được hồi phục.
Chính nhờ vậy, nông nghiệp đã đóng góp quan trọng việc tăng nguồn hàng
xuất khẩu, tăng thêm nguồn ngoại tệ cho đất nước. Với quan điểm xuất khẩu để
tăng trưởng kinh tế, kinh tế nước ta đã có những tiến bộ và chuyển biến tích cực.
Năm 1993 tăng gần 3 lần (1500 triệu rúp đola) đến năm 1994 tăng lên khoảng
1800 triệu đô la, chiếm 48,0% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
* Hai là: ở các vùng sinh thái của đất nước đã bước đầu khai thác lợi thế so
sánh để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng sản xuất
hàng hoá lớn có hiệu quả.
Trong những năm của giai đoạn này, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
diễn ra có giá trị kinh tế cao và xuất khẩu. Trước hết, phải khẳng định thành tựu to
lớn về sản xuất lương thực chủ yếu là cây lúa. Lúa gạo đã và đang hình thành 2
vùng sản xuất chuyên môn hoá của cả nước, những năm này tỷ trọng sản lượng
thóc so với cả nước tăng lên từ 69,6% năm 1993, trong đó vùng Đồng bằng Sông
Trang 18
Hồng từ 19,5% lên 20,6% và Đồng Bằng Sông Cửu Long từ 43,2 lên 49%. Cây
công nghiệp lâu năm phát triển mạnh và đang hình thành những vùng sản xuất với
quy mô lớn. Diện tích cao su năm 1993 của cả nước có 220.000 ha, trong đó có
93.000 ha cho thu hoạch mủ với 70.000 tấn mủ khô được phân bố chủ yếu ở mủ
khô cả nước. Sản xuất cà phê cũng đang hình thành 2 vùng lớn: vùng Tây nguyên
và vùng Đồng Nam Bộ. Vùng Tây nguyên trong đó tập trung nhất là Đaklak chiếm
45,6% diện tích thu hoạch là 54,4% sản lượng cà phê nhân của cả nước, tiếp đó
Đồng Nai chiếm 22% diện tích thu hoạch và 24,6% sản lượng cà phê nhân.
* Ba là: phát huy sức mạnh tổng hợp của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
trong quá trình phát triển sản xuất hàng hoá, những năm giai đoạn này có sự
chuyển dịch quan trọng từ kinh tế quốc doanh và kinh tế tập trung là chủ yếu sang
kinh tế hộ và các hộ nông dân đang trở thành lực lượng chủ yếu hoạt động trong
nông nghiệp và nông thôn.
Doanh nghiệp nhà nước đến nay đã có 1921 đơn vị quản lý và sử dụng 7,5
triệu ha đất (trong đó có 415 lâm trường sử dụng 6,3 triệu ha rừng và đất rừng, 318
nông trường sử dụng 1,3 triệu ha đất nông nghiệp) với 377.000 lao động, sử dụng
70% vốn đầu tư cơ bản cho nông lâm ngư nghiệp, đến nửa năm 1993 đã có 940
doanh nghiệp đăng ký lại theo nghị định 388/HĐBT.
Gần đây doanh nghiệp nhà nước về nông nghiệp nổi lên hai vấn đề:
+Một sơ sở nông nghiệp quốc doanh bước đầu phát huy vai trò trung tâm
khoa học kỹ thuật cho thành phần kinh tế và dân cư trên địa bàn như giống cây,
con, gắn công nghiệp chế biến với vùng sản xuất nguyên liệu: mía đường, chè, cao
su, cà phê.
+Với khoảng 70% đơn vị chuyển sang khoán gọn cho hộ thành viên các
khoản này đã tạo cho các hộ nhận khoán tiếp thu kỹ thuật mới, yên tâm đầu tư vốn,
lao động vào cây trồng, vật nuôi để tăng thu nhập. Trong lâm nghiệp thực hiện
chính sách giao đất, giao rừng và cơ chế khoán giữ đất lâm nghiêp cho hộ gia đình
công nhân sử dụng. Các hộ nông dân đang trở thành lực lượng chủ yếu sản xuất
lương thực và phát triển đa dạng cây trồng, vật nuôi kết hợp khai thác nông lâm
thuỷ sản, mở rộng và phát triển các ngành nghề mới…
Trang 19
Bốn là: Cơ cấu kỹ thuật trong công nghiệp và nông thôn đã và đang được
chuyển dịch một cách mạnh mẽ và rộng khắp. Hệ thống kết cấu hạ tầng được cải
tạo, nâng cấp và xây dựng mới để đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp. Những kỹ thuật truyền thống đang được thay thế bởi những kỹ
thuật tiến bộ, rõ nhất là giống cây trồng vật nuôi. Cùng với cuộc cách mạng sinh
học, vấn đề thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, điện khí hoá từng bước được tăng cường
cho nông nghiệp và nông thôn, công nghệ sau thu hoạch nhất là công nghiệp chế
biến nông sản được coi trọng và phát triển
Biểu 4 cơ cấu tỷ trọng nông nghiệp trong GDP (%) 1991-1994
1991 1992 1993 1994
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP (%) 40,5 33,9 28,9 28,7
Biểu 5: Sản lượng lương thực 1990-1994 (triệu tấn)
1990 1991 1993 1993 1994
Sản lượng lương thực quy ra thóc
b. Đánh giá chung về những hạn chế của chuyển dịch cơ cấu kinh doanh
nông nghiệp
Bên cạnh những tiến bộ và kết quả được ở trên, quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp vẫn còn những hạn chế và tồn tại.
+Một là: cơ cấu nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng độc
canh, tự cung, tự túc và vẫn còn đang ở trình độ sản xuất hàng hoá nhỏ là chủ yếu.
Mặc dù có những tiến bộ trong chính sách phát triển nông nghiệp của Đảng
và Nhà nước trong nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng ở nước ta
không thể chuyển mình nhanh chóng phát triển ngay được. Trong thời kỳ này, đất
nước ta mới bắt đầu có sự chuyể dịch nhưng còn nhỏ bé, cần phải có một khoảng
thời gian nhằm khắc phục dần những mặt yếu kém trong nền nông nghiệp của
nước ta.
Trang 20
+Hai là: các ngành nông lâm nghiệp chưa gắn bó với nhau trong cơ cấu
kinh tế thống nhất , mà thậm chí còn gây trở ngại, mâu thuẫn gay gắt trong quá
trình phát triển.
Nông nghiệp nước ta không thể phát triển cùng một lúc tất cả các ngành
nông nghiệp ngay được mà cần phải có sự hỗ trợ cho nhau, có mối liên hệ giữa
các ngành với nhau thì mới tạo đà và nền tảng cho phát triển và đặc biệt cho quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Có phát triển và cung cấp đầy đủ
lương thực thì mới có thể đưa được chăn nuôi phát triển được. Bởi vì lương thực
hay sản phẩm của nông nghiệp nói chung là sản phẩm thiết yếu đối với sự tồn tại
của con người.
+Bốn là: tỷ lệ thuần nông còn cao, chưa gắn kinh tế nông nghiệp với nông
thôn, số hộ chuyên và kiêm về ngành nghề - dịch vụ chưa nhiều phần lớn lao động
thủ công, sự chi viện của công nghiệp vào nông nghiệp còn ít.
Như ta thấy, đất nước ta từ xưa đã là một nước công nghiệp, và ngày nay,
nông nghiệp đối với nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lớn, tỷ lệ dân cư sống trong
nông nghiệp nông thôn rất lớn chiếm gần80% và còn lại là dân cư sống ở khu vực
thành thị. Nền kinh tế nước ta còn nghèo, còn lạc hậu so với những nước trong khu
vực cũng như trên thế giới, nhân dân sống chủ yếu là đồng ruộng, nền công nghiệp
vẫn chưa phát triển. Điều đó sẽ tạo ra sự chi viện giữa các ngành trong nền kinh tế
là không hiệu quả (có những không nhiều).
Với những nước trong khu vực, với một nền công nghệ đa dạng hoá, lương
thực đầy dủ cho nhân dân và xuất khẩu ra nước ngoài cùng với việc phát triển các
ngành khác như chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu thu ngoại tệ. Bên cạnh
đó còn có ngành dịch vụ phát triển mạnh…
+Bốn là: các thành phần kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn tuy được
pháp luật thừa nhận song vẫn còn những ràng buộc .
+Năm là: Kinh tế hộ tự chủ đã có bước phát triển khá, song năng lực nội
sinh của kinh tế hộ còn yếu, chưa đủ sức tự vươn lên để phát triển kinh tế hàng hoá
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
+Sáu là: thị trường nông sản còn hạn hẹp , chưa được khai thông sức mua
của nông dân còn thấp.
Trang 21
2. Một số tác động của việc đổi mới trong chính sách chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng tiến bộ là một xu thế tất
yếu, khách quan của các nền kinh tế quốc gia nói chung và nông nghiệp nói riêng.
Nền nông nghiệp nước ta phải nghiên cứu một hướng đi mới nhằm đưa
nông nghiệp phát triển , là điều kiện cho các ngành khác trong nền kinh tế quốc
dân cùng phát triển. Như vậy, trước tiên là ta phải thực hiện công nghiệp hoá hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Công nghiệp hoá nông nghiệp hướng vào việc
thực hiện thuỷ lợi hoá sớm, cơ giới hoá từng phần công việc, mở rộng điện khí hoá
phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản đồng thời tích cực xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn.
Có thể nói, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông nghiệp ý
nghĩa quyết định đối với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đảng và nhà nước ta rất quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến
nông, lâm, thuỷ sản, phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu.
Đây sẽ là một thời kỳ mở rộng thêm ra về chính sách phát triển cho nông
nghiệp. Nó sẽ tậo điều kiện cho nông nghiệp và nông thôn đi lên cùng với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sẽ dễ dàng hơn, thuận lợi hơn, và nó
sẽ là điều kiện để hỗ trợ cho công nghiệp phát triển và các ngành trong nền kinh tế
quốc dân.
Kinh nghiệm cho thấy nếu không tạo ra được một cơ cấu kinh doanh thích
hợp, năng đồn giữa nông, lâm, thuỷ sản, chế biến và dịch vụ với công nghiệp thích
ứng với cơ chế thị trường thì nền kinh tế nông nghiệp sẽ dễ dàng hơn, thuận lợi và
nó sẽ là điều kiện để hỗ trợ cho công nghiệp phát triển và các ngành trong nền kinh
tế quốc dân.
Kinh nghiệm cho thấy nếu không tạo ra được một cơ cấu ktt thích hợp, năng
động giữa nông, lâm , thuỷ sản, chế biến và dịch vụ với công nghiệp thích ứng với
cơ chế thị trường thì nền kinh tế đất nước sẽ không thể phát triển được.
Trang 22
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá phải gắn liền với quá trình phân công lại lao động nông thôn cũng như
việc góp phần cùng lao động xã hội trong cả nước.
III. GIAI ĐOẠN1995- 2003
1. Những đánh giá tình hình và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
n11 giai đoạn 1995- 2003.
Để tiếp tục thực hiện những chính sách phát triển kinh tế nó chung và nông
nghiệp nông nghiệp nói riêng, phát huy những thành tựu đã đạt được trong những
năm trước Đảng và nhà nước ta đã đề ra mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu trong văn
kiện Đại hội Đảng VIII: "Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Cùng với mục tiêu phát triển nông nghiệp
toàn diện, hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống,
tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả, cải thiện chất lượng bữa ăn.
Đảng và nhà nước ta vẫn tiếp tục thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và nông thôn một cách có hiệu quả, và dựa trên cơ sở bảo đảm bảo
vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích cây trồng công
nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển, đảo,
kinh tế rừng, khai thác có hiệu quả tiềm năng của nền nông nghiệp sinh thái, tăng
nhanh sản lượng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, mở rộng thị
trường nông thôn…
Trong những năm vừa qua, nông nghiệp nước ta dưới sự chỉ đạo của Đảng
và nhà nước đã đạt được những thành tựu đáng kể. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp được phổ biến và là chính sách nhằm phát triển nền nông
nghiệp nhà nước.
*Một là: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm mục đích phát triển
hàng hoá, nâng cao năng suất nông sản hàng hoá.
Thời kỳ này đã thực hiên chính sách chuyển dịch nông nghiệp lạc hậu, nhỏ,
nặng về tự cung, tự cấp sang nền nông nghiệp lớn sản xuất hàng hoá, là xu hướng
phát triển tất yếu của nước ta nói riêng, nền kinh tế thế giới nói chung vì vai trò
của nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế luôn được đánh giá hết sức quan trọng.
Trang 23
Việc xác định cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với nền kinh tế hiện đại trong
giai đoạn hiện nay - nền kinh tế thị trường là một sự cần thiết tất yếu.
Xét về phương diện tổng thể, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sự
đa dạng hoá hoạt động nông nghiệp sao hiệu quả kinh tế cao nhất. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp phải nhằm phát triển hàng hoá, nâng cao tỷ suất nông sản
hàng hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay hay cũng có nghĩa là vận hành nông
nghiệp sao cho đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao, tạo điều kiện, khả năng phát triển
nhanh cho bản thân nông nghiệp nói riêng và cho ngành kinh tế đất nước nói
chung .
Biểu 6: Sản lượng lương thực 1995-2000
1995 1996 1997 1998 1999 ước tính năm 2000
Sản lượng lương
thực (triệu tấn)
27,5 29,5 30,6 31,8 34,3 Trên 35,5 tấn
Sản lượng lương thực nước ta những năm vừa qua, mỗi năm tăng 5% (hay
1,3 triệu tấn) và cao hơn tốc độ tăng dân số (1,8%) nên lương thực bình quân nhân
khẩu/năm tăng 372kg (1995) lên 447 kg (1999) và ước tính sẽ tăng đến 455 kg
(2000).
Bên cạnh đó, lương thực nước ta tiếp tục phát huy những kết quả đạt được ở
giai đoạn trước ,việc mở rộng diện tích cây trông công nghiệp lâu năm được phát
triển mạnh hơn, cùng với việc áp dụng khoa học công nghệ vào trong nông nghiệp
đã cho một kết quả khả quan hơn trong sản lượng cũng như thu hoạch sản phẩm,
đa dạng hoá cây trồng như mía, lạc, càphê, cao su… làm phong phú thêm về nguồn
sản phẩm mới cho nông nghiệp. So với những năm ở giai đoạn trước, thì sản
lượng nông nghiệp tăng đáng kể: sản lượng lạc tăng 34,5%, mía tăng 74%, cà phê
tăng 2,8 lần, cao su tăng 87%, hồ tiêu tăng 68%, chè tăng 27,3%, bông tăng 2,38
lần. Đặc biệt sản lượng cà phê tăng nhanh. Một 119.000 tấn năm (1990), 320.000
tấn (1996), 509.000 tấn (1999) và xuất khẩu năm 1999 đạt 600 triệu USD.
Năm 1998, sản lượng cao su (mủ khô) đạt 199.000 tấn, tăng lên 3,5 lần so
với năm 1990. Nguyên nhân chính ở đây là do tăng diện tích cho sản phẩm, đến
năm 1999 đạt 248.000 tấn. Sản lượng cao su xuất khẩu năm 1996 đạt 194.000 tấn,
1997 đạt 197.000 tấn, 1998 đạt 195.000 tấn, 1999 đạt 263.000 tấn.
Trang 24
Ngành chăn nuôi ở giai đoạn này có sự tăng trưởng đáng kể. Trong giai
đoạn này, kết hợp với những thành tựu, kết quả đạt được trong giai đoạn trước, đa
dạng hoá vật nuôi: gia súc gia cầm, thuỷ sản… đã tạo ra khả năng tăng trưởng cao
và bền vững trong chăn nuôi. Những năm ở giai đoạn này so với những năm ở giai
đoạn trước. Nganh chăn nuôi thu được kết quả : đàn Trâu tăng 5%, bò tăng 10%,
đàn lợn tăng 20%, đàn gia cầm tăng 25%. Đặc biệt đàn bò sữa tăng khá nhanh,
năm 1999 đạt gần 34.000 con trong đó ở Thành phố Hồ Chí Minh gần 25.000 con,
đã tăng gấp 3 lần so với năm 1994.
Biểu 7: Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp ( 96 -2002)
Năm Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi
1996 5,6 6,9 5,3
1997 7,0 7,0 7,9
1998 5,7 6,0 4,8
1999 7,3 7,6 7,0
2000 5,4 5,3 6,4
2001 2,6 2,3 4,2
2002 5,2 4,3 9,9
* Hai là: chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nước ta trrong giai đoạn này đã
khai thác lợi thế so sánh và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Trong nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng ở mỗi quốc gai đều
có những điểm mạnh và điểm yếu. Như mặt hàng nào đó của người khai thác
không thể có được về khả năng vượt trội như chất lượng, mẫu mã, độ bền..
Nông nghiệp nước ta có ưu thế hơn là do tự nhiên ưu đại mang lại. Trong
đó, ngành nông sản nước ta đã và đang khai thác lợi thế để xuất khẩu ra thế giới
nhằm thu lợi nhuận cho đất nước.
* Ba là: chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp 1995-1999 đã gắn liền với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà trước hết là công nghiệp hoá ,
hiện đại hoá nông nghiệp nước ta.
Trang 25
Đất nước ta với một nền nông nghiệp lạc hậu, với dân số nông thôn đến
năm 2000 tăng đến 62 triệu người và có thể ổn định mức này tới năm 2010. Quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam gắn
liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có cơ cấu phù hợp, năng động giữa
trồng trọt với chăn nuôi, giữa nông nghiệp với lâm nghiệp, thuỷ hải sản, chế biến,
du lịch nông thôn và dịch vụ.
Qua những quan điểm trên, kinh nghiệm cho thấy rằng nếu không tạo ra
được một cơ cấu thích hợp, năng động giữa nông lâm thuỷ sản, chế biến và dịch vụ
với công nghiệp thích ứng và cơ chế thị trường thì nền kinh tế đất nước không thể
phát triển.
Bên cạnh đó, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá
hiện đại hoá với quan điểm phải gắn liền với quá trình phân công lại lao động
trong nông thôn, điều này có thể góp phần phân công lại lao động trong cả nước.
Kinh tế nông hộ xuất hiên trong thời gian này và nó đã phát huy khả năng
của nó trong nền kinh tế hàng hoá. Trong giai đoạn này đã xuất hiện các trang
nông nghiệp có năng lực trong to lớn trong sản xuất nông sản như vùng trồng cây
công nghiệp ở các tỉnh miền núi, vùng lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long… tạo khả
năng xuất hiện một mô hình mới trong nông nghiệp trang trại sản xuất hàng hoá
theo quy mô hộ gia đình.
+Đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn góp phần thúc đẩy nông nghiệp vượt bậc. Nông nghiệp nước ta đã cơ giới
hoá được một số khâu làm đất tăng từ 22% (1980) lên 34,1% (1996) và 38%
(1998) ((riêng Đồng Bằng Sông Cửu Long đạt 60-80%). Các máy móc nông
nghiệp được nông dân đầu tư mua sắm nhiều, cả nước có khoảng 600.000máy bơm
nước, 160.000 máy nghiền thức ăn gia súc, 108.000 mãyay xát, 100.000 máy tuốt
lúa có động cơ, tàu thuyền gắn động cơ đánh cá khoảng trên 70.000 chiếc với tổng
công suất trên 1,2 triệu CV, tàu thuyền vận tải cơ giới có 98.330 chiếc, trong năm
1997-1999 cả nước tăng thêm 1000 tàu đánh cá có công suất trên 90CV, đưa số tàu
đánh cá xa bờ lên 5000 chiếc.
Công nghệ tự động hoá đã được ứng dụng trong các dây truyền chế biến
nông sản, như đánh bóng, phân loại gạo, cà phê chế biến đường, bánh kẹo, ươm tơ,
Trang 26
chế biến thưc ăn gia súc… mức độ tự động hoá trong nông nghiệp nông thôn mới
chỉ chiếm khoảng 0,3% riêng khâu chế biến nông sản đạt khoảng 5%.
Công nghệ sinh học trong 10 năm gần đây đã tạo ra nhiều giống lúa, ngô,
rau, đậu, cây ăn quả, cây lâm nghiệp, năng suất cao phù hợp với các vùng sinh
thái. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật về công nghệ sinh học được áp dụng trong
trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ hải sản, công nghệ chế biến, công nghệ sản
xuất phân vi sinh. Sản xuất nấm…
+Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đã thúc
đẩy hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh như: lúa, cao
su, cà phê, chè, điêu, hồ tiêu, lạc, mía, bông, dâu tằm rau quả, lợn, bò, tôm, cá…
+Công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản đã có bước tăng trưởng đáng kể.
Giá trị sản lượng công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản liên tục tăng, tốc
độ tăng trung bình hàng năm là 12% -14% và là ngành chiếm tỷ lệ khá lớn trong
nông thôn 30%-32%. So với năm 1990 chế biến đường tăng 3,4 lần, cà phê 4 lần,
cao su (mù khô) 3,2 lần, xay xát gạo 1,9 lần, điều nhân 80 lần giá trị sản lượng
công nghiệp chế biến so với tổng sản lượng nông nghiệp ngày càng tăng, từ
33,8% năm 1990 lên 42% năm 1995 và khoảng 46% những năm gần đây. Một số
cơ sở chế biến đã tiếp cận công nghệ và thiết bị ngang với trình độ khu vực và thế
giới như xay xát gạo, tơ tằm, mía đường, bánh kẹo, nước quả cô đặc, chế biến gỗ
rừng trồng, chế biến thuỷ sản…
+ Ngành nghề nông nghiệp đang phát triển nhanh đóng góp quan trong
trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập nông thôn.
+ Trong giai đoạn này, cơ cấu nông nghiệp nông thôn đã có bước chuyển
dịch nhưng chậm, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế còn cao
Biểu 8: Cơ cấu kinh tế nông thôn (%)
Thực hiện (tỷ
đồng)
Cơ cấu % thực hiện (tỷ
đồng)
Năm
2003 so
với
2002
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2002
Năm
2003
Tổng số 5360999 605491 100.00 100.00 313135 33584 10724
Khu vực nông 123268 131998 22,99 21,80 68283 70468 103,20
Trang 27
lâm nghiệp và
thuỷ sản
Khu vực công
nghiệp và xây
dựng
206648 242033 37,55 39,97 117082 129185 110,34
Khu vực dịch vụ 206183 231460 38,46 38,23 127770 136168 106,57
+ Cơ sở hạ tầng kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ, do đó thúc đẩy nông
nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển ổn định vượt qua mọi khó khăn của thời tiết
và thiên tai.
*Bốn là: chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp gắn với việc nâng cao hiệu quả
xã hội nhằm từng bước xoá đối, giảm nghèo, tăng người giàu, hộ giàu và xây dựng
nông thôn mới.
Cùng với quan điểm hiệu quả kinh tế phải gắn với hiệu quả xã hội, ở đây ta
có thể xem đó là đặc trưng của nền kinh tế XHCN để chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp có hiệu quả phải là một sự chuyển dịch mà trong đó vấn đề xã hội
phải được giải quyết tốt đời sống văn hoá, xã hội, phúc lợi xã hội , cơ sở hạ tầng
của nền kinh tế nông nghiệp nông thôn phải được nâng cao. Vấn đề này là nhằm
nâng cao tỷ suất nông sản hàng hoá, phải gắn liền với việc chăm lo đời sống nhân
dân phát triển nông nghiệp đi đôi với việc giải quyết một cách căn bản các vấn đề
xã hội và môi trường sinh thái. Tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập của nông dân,
tích cực xoá đói, giảm nghèo, nâng cao số hộ đủ ăn đi lên giàu có, được học hành,
đào tạo nghề nghiệp, từng bước đo thị hoá nông thôn Việt Nam theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Biểu 10: tỷ trọng hộ nông nghiệp và hộ phi nông nghiệp
Cả
nước
TMTD
Bắc bộ
ĐB
Sông
Hồng
Khu
bốn cũ
Duyên
hải MT
Tây
nguyên
Đông
nam bộ
ĐB
Sông
Cửu
Long
Tỷ số (%) 100 100 100 100 100 100 100 100
Trang 28
Hộ nông
nghiệp
80,6 91,4 92,2 83,0 75,6 77,9 51,0 72,1
Hộ Phi
NN
19,4 8,6 7,8 17,0 21,4 21,1 49,0 27,9
2. Đánh giá chung về những hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp 1995-1999.
Những thành tựu và kết quả thu được trong giai đoạn 1995-1999 của nông
nghiệp nước ta cùng với chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
phát triển nông thôn có những hạn chế và tồn tại cần được khắc phục đưa nền kinh
tế Việt Nam nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng phát triển đi lên
+Một là: trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn việc đẩy mạnh thực hiện quá trình này góp phần phát triển
được nền nông nghiệp Việt Nam thế nhưng xét một cách tổng thể thì lao động thủ
công vẫn còn phổ biến, trình độ khoa học công nghệ còn thấp, thua kém nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới.
Đất nước ta xuất phát từ nền nông nghiệp độc canh, dân số đông, tỷ lệ dân
cư sống ở khu vực nông thôn còn lớn, chính vì vậy để chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mang nhiều khó khăn. Những
khó khăn này có thể giải quyết được nhưng đòi hỏi có thời gian thì mới khắc phục
chúng được. Hơn nữa, đất nước ta còn nghèo, trải qua chiến tranh gần 30 năm,
việc khắc phục nền kinh tế rất khó khăn, kinh tế lạc hậu, công nghệ kỹ thuật có
những bước tiến mới mở đường cho sự phát triển thế nhưng so với những nước
khác trong khu vực và trên thế giới là còn lạc hậu, do có sự chuyển giao công nghệ
từ những nước phát triển sang những nước kém phát triển hơn.
+Hai là: thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn
để thúc đẩy thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh nhưng
trong nhiều lĩnh vực sản xuất còn phân tán manh mún, quy mô sản xuất hộ gai
đình rất nhỏ, về lâu dài có thể gây trở ngại cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn.
Trang 29
Chính sách phát triển nông nghiệp của Đảng và nhà nước đưa ra nhằm xây
dựng một nền nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
vấn đề quy mô sản xuất của hộ gia đình còn mới, cho nên nó mới chỉ là thời gian
đầu phát triển, còn nhỏ, phân tán và manh mún. Hiện nay với khoảng hơn 10 triệu
hộ nông dân có quy mô diện tích bình quân quá thấp vào khoảng 0,8 ha/hộ, đất đại
lại phân tán, manh mún với trên 100 triệu thửa, chỉ thích hợp sử dụng lao động thủ
công, việc cơ giới hoá hết sức khó khăn. Điều này nếu không có giải pháp từng
bước tập trung đất đai thì không thể công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp có
hiệu quả, nhất là Đồng bằng Sông Hồng và Miền trung.
+Ba là trong công nghệ chế biến nông, lâm thuỷ sản vừa qua đã có bước
tăng trưởng đáng kể nhưng nhìn một cách tổng quan còn nhỏ bé phân tán, trình độ
công nghệ thấp, sản phẩm chế biết đạt chất lượng chưa cao, khả năng cạnh tranh
còn nhiều hạn chế.
Ta biết được nền kinh tế trong thời gian gần đây có sự phát triển nhưng sự
phát triển vẫn chưa ổn định và bền vững. Cơ cấu ngành đã có sự thay đổi và đặc
biệt trong nông nghiệp đã có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Công nghệ khoa học
kỹ thuật nước ta còn thấp và lạc hậu, chính điều này làm lên những ảnh hưởng cho
các ngành khác, như ngành chế biến nông sản, ngành này phụ thuộc rất nhiều vào
công nghệ kỹ thuật. Chất lượng chế biến một số ngành như chè, mía đường, rau
quả, thịt chưa cao, mặt hàng còn đơn điệu, tính cạnh tranh kém , giá trị thấp, giá
xuất khẩu thường thấp hơn giá thị trường thế giới cùng loại 10-15 %.
Mặt khác là do quy hoạch và đầu tư mới cho công nghệ chế biến chưa
tương xứng. Hệ số đổi mới thiết bị thời gian qua chỉ đạt 7%/năm (bằng 1/3-1/2
mức tối thiểu của cả nước).
+Bốn là trong giai đoạn 1995-1999, ngành nghề nông nghiệp đang phát
triển nhanh, đóng góp quan trọng trong việc tạo việc làm, thế nhưng quy mô nhỏ
bé, công nghệ, kỹ thuật, chất lượng sản phẩm còn thấp. Ngành nghề chủ yếu là
loại hình kinh tế hộ (97,1%) quy mô nhỏ bé, vốn ít, trình độ tay nghề còn thấp, và
bắt đầu từ năm 1996 và năm 1997, sự phát triển ngành nghề ở nông thôn có xu
hướng giảm sút do gặp nhiều khó khăn về thị trường và khả năng cạnh tranh.
Trang 30
+Năm là cơ cấu kinh tế nông nghiệp , nông thôn đã có sự chuyển dịch
nhưng còn chậm, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế còn cao
+Sáu là: thị trường tiêu thụ nông sản và hàng hoá nông nghiệp và nông
thôn phát triển không ổn định, sản xuất nông nghiệp tăng hầu hết các mặt nhưng
thị trường tiêu thụ khó khăn, nông sản hàng hoá ứ đọng, giá cả tụt xuống thấp.
+Bảy là vốn đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu nông nghiệp và nông thôn.
+Tám là phát triển sản xuất tăng trưởng kinh tế có sự gắn bó với bảo vệ tài
nguyên và môi trường. Tình trạng tài nguyên thiên nhiên như đất, nước, rừng, biển bị
khai thác quá mức, ảnh hưởng xấu đến môi trường sinhh thái…
Biểu 11: Xu hướng chuyển dịch cơ cấu các ngành (%)
1951 1955 1975 1985 1999
Nông-lâm-thuỷ sản 71 43 36 40 25
Công nghiệp -xây dựng 7 15 24 27 35
Dịch vụ 22 42 40 33 40
PHẦN III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
I. QUAN ĐIỂM CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
- Mục đích chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp mà đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ 9 đã đề ra đến năm 2005 cơ cấu của ngành là: tỷ trọng giá trị sản
xuất ngành nông nghiệp giảm xuống còn 75 -76%, tỷ trọng của ngành lâm nghiệp
và thuỷ sản tăng lên tương ứng là 5 -6% và 19 -20%.
- Để đạt được mục tiêu trên cần chú ý những quan điểm sau:
+ Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp phải gắn với tiến trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của toàn nền kinh tế và tiến trình hộinhập kinh tế
quốc tế.
+ Chuyển dịch cơ cấu phải gắn với hiệu quả và lợi ích của toàn ngành kinh
tế quốc tế.
+ Chuyển dịch cơ cấu phải được tiến hành từng bước, với sự nỗ lực của
toàn ngành và sự phối hợp đồng bộ của các ngành khác, các cấp và toàn thể nông
dân.
Trang 31
+ Chuyển dịch cơ cấu phải gắn với chuyển dịch cơ cấu vùng và cơ cấu
thành phần.
II. Mục tiêu cụ thể:
- Để đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến năm
2005 có hiệu quả thì phải có kế hoạch cụ thể từng ngành, từng bộ phận.
- Tốc độ tăng giá trị sản lượng trung bình ngành nông - lâm nghiệp - thủy
sản thời kỳ 1996 -2002 là: 6,1%/ năm, tổng giá trị sản xuất năm 2002 đạt 154,4
nghìn tỷ đồng, tốc độ tăng so với năm 2002 là 5,4%.
- Dự kiến thời kỳ 2004 - 2005 tốc độ tăng là: 6%.
- Trong sản xuất nông nghiệp: tốc độ tăng tổng giá trị sản xuất bình quân
toàn ngành thời kỳ 1996 - 2002 là: 5,4%/năm, năm 2002 tổng giá trị sản lượng đạt
121 nghìn tỷ đồng. Dự kiến tốc độ tăng thời kỳ 2004 -2005 là: 5%/năm.
- Sản xuất lâm nghiệp còn rất chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong tổng giá trị sản
xuất nông - lâm - thuỷ sản, tốc độ tăng trung bình tổng giá trị sản xuất của ngành
thời kỳ 1996 - 2002 là: 2%/năm, tổng giá trị sản xuất năm 2002 đạt 6 nghìn tỷ
đồng. Dự kiến tốc độ tăng trung bình thời kỳ 2004 -2005 là: 2%/năm.
- Ngành thuỷ sản: Thuỷ sản là một ngành sản xuất mũi nhọn của Việt Nam,
là ngành có tốc độ tăng tổng giá trị sản xuất thời kỳ 1996 - 2002 là: 11,23%/năm,
tổng giá trị sản xuất năm 2002 đạt 27,4 nghìn tỷ đồng.
- Khó khăn lớn nhất của ngành là thị trường đầu ra, năm 2003 gặp rất nhiều
khó khăn trong xuất khẩu.
III. Giải pháp:
- Tăng cường chủ động phòng chống thiên tai, lũ lụt, hạn hán, đặc biệt càn
phải tăng khả năng dự báo thời tiết lên trước một tháng hoặc quý hoặc năm để
nhân dân có thể chủ động phòng chống.
- Đẩy mạnh công tác trồng rừng và bảo vệ rừng nhất là rừng đầu nguồn,
rừng phòng hộ.
- Tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng nhất là vùng nông thôn, đặc biệt là
vùng sâu vùng xa vùng núi cao, trước mắt là đầu tư đường giao thông, công trình
thuỷ lợi, điện, giáo dục…
Trang 32
- Nhà nước phải có nhiều chính sách hỗ trợ nông dân tiêu thụ sản phẩm để
tránh tình trạng tư thương ép giá như hiện nay, đối với thị trường xuất khẩu cần
phải tăng cường vai trò các tổ chức, mở rộng thị trường ra nhiều nước nhiều khu
vực.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu lý luận và phát triển thực tế về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp từ trước những năm 1986 đến nay, bài viết đã đưa ra một số giải
pháp cho xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới.
Những giải pháp này có thể đã được đề cập tới ở nhiều nguồn, số khác chưa thực
tế hoặc chưa thể hiện được trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, song các giải
pháp này đưa ra đã phản ánh thái độ nghiêm túc trong nghiên cứu.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức được đào tạo của em còn hạn chế cho
nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong muốn khắc phục
được những hạn chế và khiếm khuyết này trong thời gian tới.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều
kiện cho em hoàn thành bài viết này!
Trang 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình của Khoa kế hoạch và phát triển - Trường ĐHKT QD. NXB thống kê
2000.
2. Tạp chí
- Phát triển kinh tế
- Kinh tế phát triển
- Nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu kinh tế
- Kinh tế và dự báo
- Hoạt động khoa học
- Thông tin khoa học xã hội
3. Văn kiện đại hội Đảng IX. NXB chính trị quốc gia 2001.
Trang 34
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGIỆP
I. Vai trò, vị trí, đặc điểm của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
2. Vai trò, vị trí của sản xuất nông nghiệp
II. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với phát triển nông nghiệp -
Nông thôn
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với sự phát triển của nền kinh tế quốc
dân
2. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông
thôn.
4. Sự cần thiết phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
PHẦN II. THỰC TRẠNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM TỪ TRƯỚC NĂM 1985-1988 TỚI NAY.
I. Giai đoạn từ trước năm 1989 đến năm 1988
II. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1994
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
a. Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
b. Đánh giá chung về những hạn chế của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
2. Một số tác động của việc đô mới chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp
III. Giai đoạn 1995-1999
1. Những đánh giá tình hình và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp giai đoạn 1995-1999.
2. Đánh giá chung về những hạn chế mà quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp trong giai đoạn 1995-1999
PHẦN III. GIẢI PHÁT CHO XU HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005
Trang 35
I. Những vấn đề đặt ra và phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp
1. Những vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp
2. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2001-2005
II. Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 2001-2005
KẾT LUẬN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam từ trước năm 1985-1988 tới nay.pdf