Luận văn Thương mại và các biện pháp phát triển thương mại trong giai đoạn hiện nay

Trong điều kiện hiện nay, khi mà nền kinh tế nước ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn bất cập, đối với thị trường trong nước, sức mua của người dân có phần chững lại, thậm chí có thời điểm giảm nhiều. Thì việc phát triển một hệ thống thương nghiệp là điều hết sức quan trọng. Đứng trước một nền kinh tế mà tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm, thu nhập bình quân đầu người còn rất thấp, bên cạnh đó cùng với xu hướng hội nhập thế giới, thực hiện việc cắt giảm thuế quan vào năm 2000 trong cam kết với AFTA tiến hành đàm phán để được gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì thách thức đặt ra cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng nặng nề hơn.

pdf29 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2174 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thương mại và các biện pháp phát triển thương mại trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta sử dụng, song để thực hiện được nó thì còn rất nhiều khó khăn nan giải. Do đó để kiểm soát được nền kinh tế nói chung và ngành thương mại nói riêng thì Nhà nước cũng đã đưa ra nhiều chính sách, bộ luật để hướng dẫn điều tiết các hoạt động của nó đi cùng với xu hướng mục tiêu của nền kinh tế. c, Nội dung của hoạt động thương mại. Thương mại là một ngành, một lĩnh vực phức tạp và khó kiểm soát đặc biệt là trong giai đoạn như hiện nay khi mà chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường, đồng thời là mở cửa giao lưu buôn bán với nước ngoài. Do đó để điều tiết hướng dẫn thương mại đi đúng hướng của nó thì trên cơ sở chúng ta phải nghiên cứu kỹ các nội dung cơ bản của hoạt động này. Một trong những nội dung có thể được kể đến là: Thứ nhất là nghiên cứu, xác định nhu cầu và cầu của thị trường về các loại hàng hoá, dịch vụ. Đây là công việc đầu tiên trong quá trinh hoạt động kinh doanh thương mại. Đối với các nhà kinh doanh thương mại, điều quan trọng là phải nắm cho được các loại nhu cầu hàng hoá, dịch vụ, đặc biệt là nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất và nhu cầu đặt mua của xã hội và dân cư. Thứ hai là xác định và khai thác các nguồn hàng để thoả mãn các nhu cầu của xã hội. Trong điều kiện vẫn còn tồn tại nhu cầu về hàng hoá kinh tế, việc tạo nguồn hàng để đáp ứng các nhu cầu là công việc rất quan trọng. Thứ ba là thực hiện cân đối giữa nhu cầu và nguồn hàng tím các biện pháp bảo đảm cân đối như tăng cường sản xuất trong nước, tìm các nguồn hàng thay thế... Thứ tư là tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại. Ở khâu công tác này phải giải quyết các vấn đề về kinh tế, tổ chức và luật pháp phát sinh giữa các doanh nghiệp trong quá trình mua bán hàng hoá. 7 Thứ năm là tổ chức hợp lý các kênh phân phối hàng hoá. Đây là qúa trình liên quan tới việc điều hành và vận chuyển hàng hoá, dịch vụ từ sản xuất đến tiêu dùng nhằm đạt hiệu quả tối đa. Quá trình này giải quyết các vấn đề: thay đổi quyền sở hữu tài sản, di chuyển hàng dự trữ, bảo quản đóng gói, bốc dỡ và cung cấp thông tin thị trường cho nhà sản xuất, tránh rủi ro trong kinh doanh. d, Vị trí và vai trò của thương mại trong nền kinh tế thị trường. - Vị trí: thương mại có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trước hết thương mại là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất. Thương mại nối liền giữa sản xuất với tiêu dùng. Dòng vận động của sản phẩm hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng phải thông qua khâu phân phối và trao đổi. Thì chính thương mại đã bao gồm cả hai khâu này. Ở vị trí cấu thành của tái sản xuất, thương mại được coi như là hệ thống dẫn lưu, tạo ra sự liên tục của quá trình tái sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất hàng hoá với mục đích là để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng để trao đổi, mua bán hàng hoá và để thực hiện được mục đích này khi và chỉ khi phải thông qua thương mại. Thứ ba là thương mại là lĩnh vực kinh doanh, thu hút trí lực và tiền vốn của các nhà đầu tư để thu lợi nhuận. Bởi vậy kinh doanh thương mại đã trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai theo như nhận xét của một số nhà kinh tế thì thương mại là một ngành sản xuất đặc biệt. - Vai trò của thương mại: Thương mại đã được coi là công cụ quan trọng, một mũi nhọn đột kích phá vỡ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để chuyển sang cơ chế thị trường. Thứ nhất, thương mại thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích người sản xuất không ngừng gia tăng khối lượng sản phẩm của mình, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá lớn. Phát triển thương mại cũng có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Đó là con đường ngắn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên thành sản xuất hàng hoá. Thứ hai, thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, kích thích nhu cầu và gợi mở nhu cầu. Thứ ba, thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế làm cho quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác không ngừng phát triển. 8 Trong tầm vĩ mô, thương mại có vai trò quan trọng, định hướng cho sự sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Thứ nhất, thương mại bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường và liên tục. Quá trình tái sản xuất ở đây được khởi đầu bằng việc đầu tư vốn cho mua sắm các yếu tố sản xuất, tiếp theo là quá trình sản xuất ra hàng hoá, rồi khâu cuối cùng là tiến hành tiêu thụ sản phẩm. Trong chu kỳ của quá trình tái sản xuất đó, thương mại có mặt ở hai khâu là phân phối và trao đổi. Thương mại bảo đảm các yếu tố đầu vào cho sản xuất và thực hiện khâu tiêu thụ sản phẩm. Thứ hai, thương mại đảm bảo thực hiện được mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có lợi nhuận, lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp, để đạt được mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải thực hiện được mục tiêu trung gian là tiêu thụ sản phẩm. Thứ ba, thương mại có vai trò điều tiết, hướng dẫn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Qua hoạt động thương mại sẽ có những thông tin từ phía người mua, từ thị trường. Trên cơ sở đó, nó sẽ hướng dẫn sản xuất phù hợp với nhu cầu thường xuyên thay đổi của thị trường. Thứ tư, thương mại tác động đến vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. II-/ THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA. 1-/ Trong thời gian qua, cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, thương mại đã cùng các ngành, các địa phương khác nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng, tạo đà, bước để cho những năm tiếp theo. Trên lĩnh vực thương mại, có những chuyển biến rõ nét, góp phần quan trọng vào mục tiêu chung của nền kinh tế. Điều này thể hiện ở trên những khía cạnh sau: Thứ nhất, trên lĩnh vực mua bán hàng hoá, chúng ta đã chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu. Trong thương mại nói chung là không còn tình trạng ép giá đầu ra, nâng giá đầu vào, Nhà nước không chi phối hoàn toàn giá cả trên thị trường mà chỉ tác động vào thị trường bằng những công cụ điều tiết của mình để cho thị trường tự điều tiết lấy, tự bình ổn lấy. Thêm vào đó, do đời sống của người dân có nhiều cải thiện, được nâng cao nên sức mua trên thị trường tăng lên đáng kể. Tính đến năm 1999, tổng mức luân chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội ước đạt 195 ngàn tỷ đồng, 9 tăng khoảng 6% so với năm 1998 (184 ngàn tỷ đồng), nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng khoảng 1,5%, đây là năm có tốc độ tăng thấp nhất trong giai đoạn 1991- 1999. Thông thường, ở nước ta tốc độ tăng trưởng GDP năm 1999 là 4,8% thì lưu chuyển hàng hoá bán lẻ phải tăng ở mức thấp nhất là 10% mới tương xứng. Vậy mà nếu tốc độ lưu chuyển hàng hoá là 6% thì vấn đề đặt ra cho tổng cung, tổng cầu là một vấn đề đáng lưu ý. Giá cả nói chung trong những năm qua không có nhiều biến động, phù hợp với thu nhập của người dân, ngày càng đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Nếu như trước kia, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, giá cả nói riêng và toàn bộ các hoạt động mua bán trao đổi đều do Nhà nước chi phối quyết định dẫn đến tình trạng cung không đáp ứng nổi cầu, sản xuất cầm chừng, lãi giả lỗ thật, việc hạch toán sản xuất kinh doanh thực hiện theo chế độ hạch toán kinh tế. Thì bây giờ trong cơ chế thị trường, Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế tự do sản xuất kinh doanh, do vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để giảm mức tối đa chi phí đầu vào thì từ đó mới có được lợi nhuận. Do đó, các doanh nghiệp phải chuyển sang hạch toán theo chế độ hạch toán kinh doanh, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị, phần lớn là các doanh nghiệp phải chấp nhận giá thị trường. Chính điều này đã trở thành động lực cho kinh tế phát triển, tạo bước chuyển lớn về mặt kinh tế xã hội ở nước ta trong những năm qua. Thứ hai, một khía cạnh quan trọng của thương mại góp phần làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế trong những năm qua và ngày càng có triển vọng trong những năm tới phải kể đến là lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nhờ chính sách đổi mới đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta trong hơn 10 năm qua, đặc biệt từ năm 1991 đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng. Đến nay, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 140 nước trên hầu khắp các châu lục trên thế giới. Chất lượng, số lượng và chủng loại mặt hàng có những cải thiện đáng kể. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã dần được thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 9 năm (1991- 1999) đạt 43 tỷ USD, tăng trung bình hàng năm là 22%, đáp ứng được 3/4 nhu cầu nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng từ 36,3USD năm 1991 lên 118USD năm 1998 và dự kiến tăng lên 136USD năm 2000. Những kết quả trên đây có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế trọng thời gian qua. 10 Trong lịch sử ngoại thương của nước nhà - một nước nghèo, chiến tranh liên miên, thiên tai chồng chất, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu vượt qua ngưỡng cửa 10 tỷ USD, theo số liệu của Bộ Thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu của năm 1999 đã lên 11,523 tỷ USD, tăng 23% so với mức thực hiện của năm 1998, vượt 15% kế hoạch đặt ra. Trong đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đạt 8,946 tỷ USD, chiếm 77,6% và tăng 21,2%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,577 tỷ USD, chiếm 22,4% và tăng 30%. Tuy nhiên, những con số đấy còn cho thấy nhiều điều khác: Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta hồi phục rất nhanh. Sự tăng nhanh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong năm 1999 có phần do sức mua của thị trường khu vực đã bước vào giai đoạn hồi phục. Theo đánh giá của Bộ Thương mại, sức mua của nhiều thị trường khu vực châu Á đang dần trở lại bình thường như trước khi khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Thứ hai, giá một số mặt hàng chủ lực của nước ta trên thị trường thế giới tăng nhanh. Cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, nhiều mặt hàng xuất khẩu của ta đã có mặt trên nhiều thị trường khu vực và thế giới và ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình. Những mặt hàng chủ lực có thể kể đến là gạo, cà phê, dầu thô, hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản... Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Trong những năm tới, để tăng nhanh tốc độ xuất khẩu thì Nhà nước phải chú trọng quan tâm nhiều đến cơ cấu của những mặt hàng này, có như thế mới đạt được những mục tiêu đã đề ra cho những năm sau này. Cơ cấu xuất nhập khẩu được mô tả thông qua bảng số liệu sau: BẢNG 1 - CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN TỔNG TRỊ GIÁ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU 10 NĂM (1990-1999). (Đơn vị %) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Năm Xuất khẩu Nhập khẩu 1990 123,5 107,3 1995 134,4 140,0 1991 86,8 84,9 1996 133,2 136,6 1992 123,7 108,7 1997 126,6 104,0 1993 115,7 154,4 1998 101,9 92,2 1994 135,8 148,5 1999 123,1 100,9 11 12 BẢNG 2 - XUẤT NHẬP KHẨU QUA CÁC NĂM. 1995 1996 1997 1998 Tăng giảm so với 97 (%) Xuất khẩu 5.448.9 7.255,9 9.269 9.356 - DN có vốn ĐTNNXK trực tiếp 440,1 786,0 1,790 1,990 11,2 + Hạt điều 76,0 133,3 117 - 12, + Hạt tiêu 47,0 62,8 63 0 + Hàng rau quả 56,1 90,0 68,3 53 - 22,1 + Hàng hải sản 621,4 696 781 850 8,8 + Hàng dệt, may 850 1.150 1.349 1350 0,1 + Giày dép các loại 296,4 530 965 960 - 0,5 + Hàng thủ công mỹ nghệ 66,0 78,7 121 108 - 10,7 + Máy vi tính cá nhân và linh kiện 404 58,4 Nhập khẩu Triệu USD 8.155,0 11.144 11.217 11.390 - 3,0 - DN có vốn ĐTNN NK trực tiếp 1.468,1 2.043 2.902 2.646 - 17,2 - Máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế 2.168 1.777 2004 12,8 - Hoá chất 193 216 236 9,3 - Tân dược 69,1 206 312 295 - 5,4 - Nguyên liệu và phụ kiện dệt, may, da 829 1173 717 - 38,9 - Về nhập khẩu: Trong hơn 10 năm qua chúng ta vẫn không ngừng tăng nhanh việc nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được. Nếu xét theo cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu, có thể thấy rõ các xu thế biến động và kèm theo đó là các tác động không tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Do nhu cầu trong nước ngày càng cao, đồng thời nguồn lực thì không thể đáp ứng được nên phần lớn chúng ta vẫn phải nhập khẩu các mặt hàng kỹ thuật như máy móc thiết bị, phân bón...Trong những năm qua cán cân thương mại luôn bị thâm hụt theo số liệu của Bộ Thương mại, năm 1999 tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 11,623 tỷ USD, tăng 1% so với năm 1998, trong đó các doanh nghiệp có vốn trong nước đạt 8,238 tỷ USD, chiếm 70,8% và giảm 7% các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,398 tỷ USD, chiếm 29,2% và tăng 27,3%. Về cơ cấu, dự kiến nhóm công nghệ - máy móc - thiết bị - phụ tùng đạt 3,376 tỷ USD chiếm 29% và giảm 6,4%; nhóm nguyên - nhiên - vật liệu đạt 7,66 Tỷ USD, 13 chiếm 65,8% và tăng 8,3%; nhóm hàng tiêu dùng đạt 0,6 tỷ USD, chiếm 5,2% và giảm 29,4% so với năm 1998. Nhập siêu là khoảng 113 triệu USD, chiếm 1% tổng kim ngạch xuất khẩu, bằng 5,2% mức nhập siêu năm 1998. - Về thị trường: Trong những năm đổi mới vừa qua, thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại cộng thêm những nỗ lực to lớn của Đảng và nhân dân ta, đã góp phần vào việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của nước ta. Tính đến hết tháng 11/ 1999 chúng ta đã có quan hệ mua bán với tất cả các châu lục: Á, Úc, Âu, Mỹ và Phi. Trong đó châu Á vẫn là thị trường đứng đầu với kim ngạch chiếm 59% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Sau cuộc khủng hoảng châu Á đang trên đà hồi phục và phát triển nên xuất khẩu sang các khu vực này tăng, đặc biệt xuất khẩu sang các nước Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Lào, Nhật và Philippin tăng trung bình từ 18 - 35% so với năm 1998. Quan hệ buôn bán giữa nước ta với các nước khác ngày càng xiết chặt, với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” thì chúng ta đã, đang và sẽ ngày càng có nhiều đối tác làm ăn, buôn bán hơn. Theo thông báo của Bộ Thương mại thì cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tính đến 11/ 1999 là: Đối với thị trường trong nước, sau hơn 10 năm đổi mới, thị trường đã chuyển từ trạng thái chia cắt khép kín theo địa giới hành chính kiểu “tự cấp tự túc” sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế bước đầu đã huy động được các tiềm năng về vốn, kỹ thuật vào lưu thông hàng hoá, làm cho thị trường trong nước phát triển, sức mua của người dân tăng lên, tổng mức lưu chuyển hàng hoá xã hội không ngừng tăng lên. Hầu hết các mặt hàng chủ lực đều đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của sản xuất và tiêu dùng trên thị trường xã hội, Giá cả các loại vật tư, vật liệu xây dựng và hầu hết các loại hàng tiêu dùng về cơ bản là 6% 26% 3% 6% 59% Mü ¢u Phi vµ n¬ i kh¸ c óc ¸ 14 ổn định. Sự ổn định tương đối của giá cả thị trường làm cho chỉ số lạm phát được giữ vững. Thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo điều tiết các thành phần kinh tế khác hoạt động theo đúng pháp luật. Thứ ba, thương nghiệp Nhà nước đã có sự chuyển đổi tổ chức và phương thức kinh doanh, từng bước thích ứng với cơ chế mới đang giữ tỷ trọng tuyệt đối về xuất nhập khẩu, 70% bán buôn, có tỷ trọng cao trong bán lẻ ở một số ngành hàng thiết yếu, đóng góp ngày càng nhiều cho Nhà nước, thực hiện các mặt hàng chính sách đối với đồng bào miền núi và dân tộc. Một số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, phát huy được vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa, bước đầu tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Một số doanh nghiệp đang chuyển đổi tổ chức, thực hiện quá trình liên kết và tích tụ đầu tư vào sản xuất và chế biến, qua đó tạo nguồn hàng và mở rộng thị trường là lực lượng kinh tế mạnh của Nhà nước trong việc điều hoà cung cầu, ổn định giá cả. Thứ tư, các loại hình dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng hoá phát triển mạnh, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, góp phần phục vụ đời sống và giải quyết việc làm cho người lao động. Thứ năm là quản lý Nhà nước về thị trường và hoạt động thương mại có tiến bộ về tổ chức hệ thống, hoạch định chính sách vĩ mô, tạo điều kiện sản xuất, kinh doanh phát triển. Thứ sáu là nhiều cán bộ quản lý và kinh doanh thương nghiệp qua sàng lọc và đào tạo trong cơ chế mới, khẳng định được phẩm chất và năng lực, đang tích cực học tập, nâng cao trình độ có thể đối tác trong điều kiện quốc tế hoá các quan hệ kinh tế. Thứ bảy là hoạt động thương nghiệp đã góp phần đảm bảo các nhu cầu về vật tư, hàng hoá cho nền kinh tế quốc dân, quốc phòng và đời sống nhân dân. Hàng hoá trong nước phong phú, giá cả tương đối ổn định, lạm phát được kiềm chế, ngày càng có nhiều mặt hàng Việt Nam có mặt trên thị trường thế giới. Thương nghiệp góp phần tích cực vào việc phát triển sản xuất, phân công lao động xã hội, thúc đẩy các ngành đổi mới công nghệ, cải tiến cơ cấu sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho sản xuất từng bước gắn với nhu cầu thị trường bước đầu phát huy được lợi thế so sánh giữa các vùng, các miền, giữa thị trường nước ta với thị trường thế giới, tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Đạt được những thành tự bước đầu rất quan trọng này là do có đường lối và chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của các 15 ngành, các cấp, tinh thần khắc phục khó khăn, hoạt động năng động của các doanh nghiệp, gắn liền với sự chuyển biến tích cực của toàn bộ nền kinh tế. 2-/ Những hạn chế của hoạt động thương mại trong thời gian qua. Bên cạnh những thành tựu và kết quả đã đạt được, thương mại nước ta vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, thiếu sót, phát sinh những vấn đề phức tạp mới, cần có chủ trương và biện pháp giải quyết đúng đắn nhằm đảm bảo định hướng của sự phát triển, phát huy những mặt tích cực và hạn chế, giảm thiểu mức tối đa những mặt yếu kém. Có thể kể đến những yếu kém khuyết điểm đó như sau: - Thứ nhất, thị trường hàng hoá và số lượng doanh nghiệp bung ra kinh doanh phát triển với tốc độ nhanh, nhưng mang nặng tính tự phát. Nếu thương nghiệp về cơ bản vẫn là một nền thương nghiệp nhỏ, tổ chức phân tán, manh mún, buôn bán theo kiểu chụp giựt qua nhiều tầng nấc, dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra ở thị trường trong nước, bị chèn ép ở thị trường nước ngoài. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong những năm qua số lượng các doanh nghiệp tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh ngày càng nhều. Bên cạnh đó hệ thống pháp luật của nước ta còn yếu kém, không kiểm soát được thị trường trong nước và số lượng thương nhân kinh doanh nên về cơ bản nền kinh tế nước ta đứng trước bối cảnh thị trường chưa khả quan, còn nhiều khó khăn, bất ổn định. Thị trường trong nước hiện đang mất cân đối lớn giữa cung - cầu, nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội đang suy giảm, một số hàng hoá không có khả năng tiêu thụ bị ứ đọng, tồn kho số lượng lớn (xi măng, sắt thep, than đường..) trong khi đó hàng lậu, hàng giả còn đầy rẫy, chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả. Tình hình buôn bán còn diễn ra theo kiểu từng phi vụ, vấn đề tổ chức quản lý thị trường chưa chặt chẽ, Nhà nước chưa kiểm soát được số lượng hàng hoá bày bán trên thị trường. Bên cạnh đó còn diễn ra tình trạng mất cân đối, cần phân biệt giữa quốc doanh và tư nhân. Tình hình giá cả thường xuyên thay đổi, thường xảy ra cơn sốt hàng hoá trên thị trường Nhà nước vẫn có những chính sách bảo hộ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, kém năng lực cạnh tranh, giá thành cao. Để rồi bắt người tiêu dùng và xã hội chấp nhận những hàng hoá đó với giá cao, bất lợi cho nền kinh tế. Đồng thời với chính sách bảo hộ cao, thì hoạt động buôn lậu gian lận thương mại cũng gia tăng. Việc đánh thuế nhập khẩu cao và vào một mặt hàng nào đó thì buôn lậu mặt hàng đó phát triển bởi lẽ thuế cao, thuế cao cùng các chính sách hạn chế nhập khẩu sẽ đẩy giá hàng nhập khẩu hợp phấp lên quá cao so với những mặt hàng nhập lậu cùng loại. Với ưu thế giá rẻ, chất lượng tốt, hàng nhập lậu lại quay lại cạnh tranh với chính những 16 mặt hàng được bảo hộ sản xuất trong nước, làm cho hàng trong nước bị ứ đọng, không tiêu thụ được ( hiện tượng thừa ế 300.000 tấn đường năm 1998 của ngành mía đường là một minh chứng). Như vậy nhiều doanh nghiệp tưởng là được bảo hộ nhưng trên thực tế lại hoá ra không được bảo hộ. Vì thế đối với các doanh nghiệp, cách bảo hộ tốt nhất là phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh, giá rẻ chất lượng tốt. - Thứ hai là công tác quản lý thị trường nói chung chưa đạt được kết quả theo yêu cầu đặt ra, tình trạng buôn lậu, hàng giả, gian dối trong thương mại không những không suy giảm mà ngày càng trầm trọng. Về mặt chủ trương chính sách có lúc xem nhẹ thị trường trong nước hơn thị trường nước ngoài. Tình trạng kinh doanh không đăng ký, không chấp hành chế độ hoá đơn chứng từ, trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh còn diễn ra ở nhiều nơi. Trình độ văn minh thương nghiệp, tiêu chuẩn vệ sinh trong kinh doanh ăn uống và thực phẩm thấp. Hoạt động quảng cáo thương mại cũng như thị trường văn hoá phẩm chưa được quản lý tốt, gây tác hại đến đạo đức lối sống, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục. - Thứ ba là quản lý Nhà nước về thương nghiệp còn nhiều yếu kém, không ít tiêu cực. Chỉ đạo xuất nhập khẩu và điều hành thị trường có khuyết điểm và thiếu sót, tổ chức thu thập và xử lý thông tin để dự báo các động thái của thị trường chưa tốt, không kịp thời, bị tư thương lợi dụng đầu cơ tăng giá. Chưa hỗ trợ đúng mức cho phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước sản xuất có hiệu quả. Chưa làm tốt việc điều tiết và hướng dẫn tiêu dùng, thực hiện chính sách tiết kiệm cho đầu tư phát triển, tạo ra năng lực mới, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề này được xem xét một cách cụ thể như sau: + Thứ nhất, hoạt động thương mại mang nặng tính tự phát còn nhiều thiếu sót về vai trò của Sở Thương mại trong việc giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo phát triển các mặt hàng xuất khẩu, phát triển thị trường nông thôn, miền núi, thị trường nước ngoài. Sở chưa giúp nhiều được cho các doanh nghiệp chưa có cac biện pháp hữu hiệu tổ chức sản xuất kinh doanh quản lý vốn, quản lý lao động, ưl doanh nghiệp, mở rộng thị trường - Vai trò của Sở đối với các doanh nghiệp thường là hướng dẫn, nhắc nhở, góp ý...thực chất Sở không có vai trò chỉ đạo điều hành cho nên mối quan hệ giữa Sở với các doanh nghiệp lỏng lẻo, kém hiệu lực, vai trò của Sở ngày càng lu mờ. Các đối tượng này còn nhiều lúng túng và bất cập - Việc hướng dẫn, kiểm tra nắm bắt tình hình xử lý các vi phạm của các đối tượng ngoài quốc doanh còn hạn chế. 17 + Thứ hai là mặc dù Đảng và Nhà nước ta vẫn đưa ra phương hướng phát triển là “giảm dần nhập siêu, hạn chế nhập những hàng tiêu dùng chưa vào loại thiết yếu. Có chính sách bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý”. Song trên thực tế thì chúng ta vẫn chưa thực hiện được chủ trương đó, do Nhà nước chưa quản lý được hết hoạt động nhập khẩu nên nạn nhập lậu vẫn diễn ra thường xuyên, với tốc độ nhanh khiến cho sản xuất trong nước ế thừa, tồn đọng không tiêu thụ được, vốn tồn trong các doanh nghiệp tăng lên dẫn đến những doanh nghiệp nào mà không có lượng vốn lớn thì dẫn đến phá sản không trụ vững được trên thị trường. Những tồn tại của những yếu kém về thương mại trong thời gian qua có thể kể đến nữa là: Về lĩnh vực xuất nhập khẩu: Mặc dù tốc độ tăng xuất khẩu không ngừng tăng cao nhưng trên thực tế khả năng cạnh tranh của sản phẩm nước ra trên thị trường thế giới vẫn còn yếu kém. Các doanh nghiệp có vốn trong nước đã có nhiều cố gắng để tìm kiếm thị trường xuất khẩu nhưng kết quả và hiệu quả chung vẫn còn thấp. Hiện nay, xuất khẩu chủ yếu dựa vào nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế là những mặt hàng khó tăng mạnh về lượng, lại bấp bênh về giá trên thị trường. Thị trường xuất nhập khẩu tuy đã được mở rộng hơn trước nhưng vẫn còn rất hạn chế, ta chưa đứng chận được trên một số thị trường tiêu thụ trực tiếp của ta mà còn phải thông qua thị trường trung gian nên giá hàng xuất khẩu còn thấp hơn một số nước trong vùng như gạo, cao su...do đó hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu nói chung vẫn còn rất hạn chế. Cơ chế điều hành, quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều mặt chưa hợp lý, còn mang nặng nếp hành chính quan liêu sự vụ, chưa ngang tầm với chính sách vĩ mô, chiến lược của ngành. Hiệu lực quản lý còn thấp, do đó ngành thương mại còn có những hạn chế trong việc góp phần giải quyết những cân đối lớn của nền kinh tế, chưa ngăn chặn và khắc phục có hiệu quả các cơn sốt hàng hoá trong thời gian qua. Thêm vào đó do phần lớn hàng hoá của nước ta là xuất khẩu sang khu vực Châu Á cho nên chúng ta còn phụ thuộc quá nhiều vào thị trường này. Song thị trường của khu vực này còn rất hạn chế, nên việc đặt ra là chúng ta phải không ngừng tiến sâu vào các thị trường rộng lớn và có tiềm năng như Châu Phi, Bắc Mỹ, Nam Mỹ. Bên cạnh đó việc triển khai một số thủ tục theo quy định mới của Nhà nước về xuất, nhập khẩu còn gây phiền hà cho các doanh nghiệp do một số quy định thiếu rõ ràng và chưa cụ thể, luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp mới được áp đụng nên các cơ quan quản lý Nhà nước còn nhiều lúng túng. Luật thuế mới ra đời nhưng đã phải diều chỉnh liên tục, phương pháp thu 18 thuế và hoàn thành thuế còn nhiều bất cập đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại Nhà nước. Thứ năm là hợp tác xã mua bán không được quan tâm giúp đỡ để đổi mới, hầu hết bị tan rã, thị trường nông thôn phần lớn do tư thương chi phối. 3-/ Nguyên nhân của những hạn chế đó. Sở dĩ trong thời gian qua, hoạt động thương mại nước ta còn tồn tại nhiều khuyết điểm, yếu kém hạn chế sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ công nông, quan hệ thành thị nông thôn, dẫn đến sự tiến bộ và công bằng xã hội là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây: Thứ nhất quá trìh chuyển đổi nền kinh tế đã gây ra những khó khăn và mât cân đối lớn trong nền kinh tế, tính phức tạp của quá trình chuyển đổi và sự bất cập trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế Nhà nước, nhưng về mặt chủ quan chủ yếu là do: - Bộ Chính trị, Ban bí thư chưa kịp thời ban hành những nghị quyết, chỉ thị hướng dẫn để đổi mới và phát triển định hướng hoạt động thương nghiệp tròn cơ chế mới. - Nhận thức về cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu chuyển đổi còn nhiều lúng túng, còn những lệch lạc, kiến thức và năng lực quản lý điều hành còn yếu. Từ đó có sơ hở, không đồng bộ và thiếu nhất quán trong việc hoạch định chính sách vĩ mô trong quản lý và phát triển thương nghiệp. - Xử lý chưa đúng mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, giữa chức năng quản lý Nhà nước và quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, vừa chưa phát huy đầy đủ vai trò của Nhà nước đối với lĩnh vực phân phối lưu thông, vừa chưa phát huy tốt tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp. - Chưa chăm lo đúng công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp thương nghiệp Nhà nước; chậm đổi mới, chưa xây dựng được cơ chế và giải pháp đúng để phát huy vai trò của thương nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. - Bộ máy quản lý Nhà nước về thương nghiệp từ trung ương đến tình, huyện chưa tương xứng với sự phát triển của thị trường và lưu thông hàng hoá. Cơ chế quản lý còn mang nặng tính tập trung, quan liệu cửa quyền. Đội ngũ cán bộ chưa được sắp xếp lại, đào tạo, rèn luyện kịp với tình hình và nhiệm vụ mới, một bộ phận thoái hoá biến chất không được xử lý kịp thời và kiên quyết. Cụ thể 19 trong hoạt động xuất nhập khẩu. Sở dĩ do hàng hoá của nước ta khả năng cạnh tranh kém trên thị trường khu vực và thế giới, đặc biệt ngay ở trong sân chơi nhà là do các nguyên nhân: Thứ nhất, công nghệ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, lạc hậu mấy thế hệ, không thích hợp với nền kinh tế thị trường. Mấy năm gần đây các xí nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng thông thường là sử dụng chắp vá, không đồng bộ, vốn đầu tư còn hạn hẹp, tổ chức sản xuất và bộ máy quản lý cồng kềnh, bất cập với công nghệ. Thứ hai là tuy có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu hàng chế biến nhưng nhìn tổng thể thì hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam phần lớn còn ở dạng nguyên liệu và ở dạng thô. Thứ ba là các doanh nghiệp Việt Nam vừa mới bắt đầu tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường trong điều kiện phải chấp nhận cạnh tranh. Cơ quan quản lý Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc sản xuất xuất khẩu. Trình độ tổ chức quản lý điều hành hoạt động xuất nhập khẩu, trình độ tiếp thị còn yếu của các doanh nghiệp. Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại trong lĩnh vực thương mại. Để cho thương mại nước ta trong thời gian tới phát huy được vai trò lãnh đạo của nó, đặc biệt là trong giai đoạn quốc tế hoá như hiện nay, thì Đảng và Nhà nước ta trên cơ sở thực tiễn đã phân tích những mặt tốt và những mặt yếu kém của nó đã đưa ra các giải pháp nhằm ngày càng hoàn thiện các chính sách thương mại. 20 PHẦN II NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI I-/ Mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian tới. Phát triển kinh tế là một trong những chiến lược lâu dài và quan trọng nhất đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Nó bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy xác định mục tiêu phát triển kinh tế là một vấn đề có tính chất chiến lược, sống còn đối với đất nước ta. Trên cơ sở nhận thức vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Ban chấp hành Trung Ương Đảng đã đưa ra mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay và cả trong những năm tới như sau: Thứ nhất là thực hiện đồng thời 3 mục tiêu về kinh tế: tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô; chuẩn bị các tiền đề cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000 chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế. Thứ hai là tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đổi mới căn bản tổ chức và quản lý, nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước để phát huy vai trò chỉ đạo. Đổi mới và phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, triển khai thực hiện luật hợp tác xã. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước, phát huy khả năng của kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội. Thứ ba là kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội - văn hoá, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế vừa phục vụ quốc phòng, an ninh. Mục tiêu trong năm 2000 là GDP bình quân đầu nguời tăng gấp đôi năm 1990. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân là 14 - 15%/ năm, nông nghiệp 4,5 - 5%, dịch vụ 12 - 13% và trong chỉ đạo thực hiện phải tranh thủ mọi khả năng mới phấn đấu đạt cao hơn. Đến năm 2000 tỷ trọng công nghiệp và xây 21 dựng chiếm khoảng 19 - 20% đồng thời thu hút mạnh các nguồn vốn bên ngoài để đưa tỷ lệ đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2000 lên khoảng 30% GDP. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiềm chế và kiểm soát lạm phát, loại trừ các nguy cơ tái lạm phát cao, giữ chỉ số giá tiêu dùng dưới 10%/ năm, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Về kinh tế đối ngoại: Mục tiêu trong những năm tới là mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng khả năng cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm khoảng 28%, nâng mức xuất khẩu bình quân đầu người năm 2000 lên 200 USD, phát triển mạnh du lịch và các dịch vụ thu ngoại tệ, kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân hàng năm là khoảng 24%. Trên đây là những mục tiêu phát triển kinh tế chủ yếu của nước ta trong những năm tới. Nhưng để thực hiện được mục tiêu đã đề ra trong toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành thương mại nói riêng thì phải xây dựng và thực hiện một hệ thống các giải pháp mà nghị quyết 12 của Bộ Chính trị đã đưa ra vào ngày 3/ 1/ 1996. II-/ QUAN ĐIỂM VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI. 1-/ Quan điểm: Phát huy và sử dụng tốt khả năng, tính tích cực của các thành phần kinh tế trong giao lưu hàng hoá đi đôi với việc xây dựng thương nghiệp Nhà nước và hợp tác xã mua bán nhằm giữ vững vai trò chủ đạo của thương nghiệp Nhà nước trên những lĩnh vực, địa bàn và mặt hàng quan trọng. Mở rộng thị trường ngoài nứoc gắn với việc phát triển ổn định thị trường trong nước, lấy thị trường trong nước làm cơ sở, đặt hiệu quả kinh doanh thương nghiệp trong hiệu quả kinh tế - xã hội của toàn bộ nền kinh tế. Đặt sự phát triển của lưu thông hàng hoá và hoạt động của các doanh nghiệp dưới sự quản lý của Nhà nước; khuyến khích, phát huy mặt tích cực, đồng thời có biện pháp hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển. 2-/ Những biện pháp chủ yếu. 2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách và công cụ quản lý. 22 Xây dựng và ban hành luật Thương mại nhằm điều chỉnh mọi việc mua bán, lưu thông hàng hoá và các hoạt động dịch vụ trên thị trường. Đồng thời xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật các chính sách thị trường, bao gồm chính sách giá cả, các định chế về thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, về kiểm tra, kiểm soát...ban hành quy chế đại lý nhằm thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế và ban hành các kênh lưu thông. Chấn chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng khuyến khích mạnh xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu vật tư cho sản xuất, hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống, bảo đảm cân đối cung - cầu, ổn định giá cả. Hết sức tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, tạo điều kiện rộng rãi cho các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu tát cả các mặt hàng xuất khẩu. Xoá bỏ cơ chế xin - cho mà quản lý, điều hành theo pháp luật. Điều gì pháp luật không cấm làm thì phải được tự do kinh doanh theo đúng nghĩa của nó, chứ không nên để tình trạng gây khó khăn, phiền hà, dẫn tới xin - cho dưới mọi hình thức. Quản lý chặt chẽ và điều hành công tác nhập khẩu phối hợp tốt với các ngành sản xuất, các cơ quan chức năng góp phần giữ vững các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân, ngăn ngừa và khắc phục các cơn sốt hàng hoá có thể và đã xảy ra. Đồng thời phải thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước một cách hợp lý đúng mức xết trên góc độ hiệu quả kinh tế cao nhất, chứ không phải chỉ nghe theo một cách thiếu cân nhắc những tiếng gào “miễn giảm thuế”, “bảo hộ sản xuất” thường thấy từ phía các doanh nghiệp làm ăn kinh doanh kém hiệu quả, tuỳ thuộc vào từng mặt hàng để vừa thúc đẩy các cơ sở sản xuất vươn lên cạnh tranh được với hàng ngoại trên thị trường, đáp ứng lợi ích người tiêu dùng. Như vậy bảo hộ sản xuất vươn lên cạnh tranh chúng ta chủ trương duy trì cạnh tranh là vì lẽ cạnh tranh mới thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, có lợi cho nền kinh tế. 2.2. Sử dụng đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá và các công cụ tài chính, tín dụng: Kế hoạch hoá thương mại trong nền kinh tế thị trường phải thể hiện các nội dung: xây dựng chiến lược thị trường và quy hoạch phát triển thương mại đáp ứng yêu cầu của kinh tế hàng hoá tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Xác định các cân đối lớn, sử dụng đúng đắn các công cụ tài chính, tín dụng để điều tiết thị trường và định hướng hoạt động của các doanh nghiệp, bảo đảm các mục tiêu kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Theo dõi và phát hiện kịp thời các biến động trên thị trường, áp dụng các biện pháp kể cả sử dụng lực lượng kinh tế của Nhà nước can thiệp vào thị trường khi cần thiết để duy trì cân đối. 23 Tiếp tục cải cách hệ thống thuế, phát triển thị trường vốn, hiện đại hoá ngành ngân hàng, đổi mới công nghệ thanh toán góp phần thúc đẩy thương nghiệp phát triển. Hoàn thiện cơ chế bình ổn giá và sử dụng quỹ bình ổn giá, quản lý tốt dự trữ quốc gia, xác định mức dự trữ quốc gia trong mối quan hệ với dự trữ lưu thông nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn dự trữ này. 2.3. Tổ chức lại thị trường trên từng địa bàn theo các định hướng sau đây: Tổ chức hệ thống thương mại dịch vụ gắn với quy hoạch phát triển trên từng địa bàn, bảo đảm mua bán thuận tiện, xác lập trật tự thị trường, thực hiện văn minh thương nghiệp. Phát huy vai trò phát luồng hàng, khả năng định hướng và điều tiết thị trường xã hội trong khu vực của thị trường đô thị, đặc biệt là các trung tâm thương mại lớn. Thị trường đô thị được tổ chức theo nhiều quy mô và cấp độ khác nhau, toạ điều kiện hình thành các Công ty lớn có khả năng tích tụ và tsập trung vốn, liên kết chặt chẽ với sản xuất, đầu tư vào sản xuất, thực hiện kinh doanh theo phương thức tiên tiến, làm đầu tàu hiện đại hoá ngành thương mại. Bố trí hợp lý các chợ trung tâm là nơi phát luồng hàng, phát triển mạng lưới bán lẻ đa dạng. Phát triển mạng lưới thương mại ở nông thôn, lấy chợ và các cụm kinh tế thương mại dịch vụ ở thị trấn làm mô hình chủ yếu. Thúc đẩy việc hình thành các cơ sở sơ chế, phân loại đóng gói, bảo quản gắn với các cửa hàng mua bán tư liệu sản xuất, vật tư nông nghiệp nông sản thực phẩm, hàng tiêu dùng của thương nghiệp Nhà nước, hợp tác xã mua bán và của các thành phần kinh tế khác tại các cụm kinh tế thương mại dịch vụ. Tạo lập các quan hệ liên kết lâu dài, ổn định giữa sản xuất và thương nghiệp, qua đó thúc đẩy sản xuất mở rộng thị trường, bảo đảm ổn định lưu thông và giá cả một số mặt hàng thiết yếu. 2.4. Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ: Tổng kết thực trạng hợp tác xã mua bán trong những năm qua phát hiện mô hình tốt mới xuất hiện. Chính Phủ quy định các chính sách cụ thể áp dụng cho loại hình thương mại dịch vụ. Trên cơ sở đó, chỉ đạo việc củng cố và xây dựng mới các hợp tác xã mua bán, trước hết là ở địa bàn nông thôn. 24 2.5. Tổ chức và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác kinh doanh thương mại: Phát huy vai trò tích cực của các thành phần kinh tế khác trong việc mở rộng thị trường, phát triển giao lưu hàng hoá tổ chức hướng dẫn các thành phần kinh tế này kinh doanh theo đúng pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh chính sách thuế, các quy định về đăng ký kinh doanh, chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Xây dựng mối quan hệ hợp tác, liên kết kinh doanh giữa thương nghiệp Nhà nước với thương nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích thương nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đầu tư vào sản xuất, kết hợp sản xuất với thương mại. Đấu tranh ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, khắc phục tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, thôn tính lẫn nhau. 2.6. Xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại. Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện tk quản lý thương mại ở các ngành, các cấp nhằm thực hiện tốt các chức năng: xây dựng pháp luật, hoạch định cơ chế, chính sách bao gồm các chính sách về kinh tế đối ngoại và tổ chức thị trường ở cấp vĩ mô; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thi hành pháp luật, cơ chế chính sách, thanh tra và kiểm soát thị trường. Kiện toàn tổ chức Bộ Thương mại và các bộ tổng hợp. Thiết lập cơ chế phân phối giữa các cơ quan này khi hoạch định chính sách thương mại trên cơ sở đề cao chức năng quản lý ngành của Bộ Thương mại. Quy định rõ trách nhiệm của các bộ quản lý, ngành kinh tế kỹ thuật, chuyên ngành sản xuất trong việc đảm bảo cân đối cung - cầu và tổ chức lưu thông các mặt hàng thiết yếu. Cơ quan sáng lập doanh nghiệp phải chỉ đạo, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, các chế độ, chính sách của Nhà nước ở các doanh nghiệp. Chấn chỉnh và đổi mới tổ chức hoạt động của các sở thương mại phát huy vai trò của Sở trong việc giúp uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố thực hiện quản lý thương nghiệp trên địa bàn. Xây dựng lực lượng quản lý thị trường theo yêu cầu chính quy, tổ chức chặt chẽ. Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý Nhà nước và cán bộ quản trị kinh doanh. Tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ cho phù hợp với yêu cầu mới. Xây dựng và ban hành cơ chế tuyển dụng cán bộ, có chính sách đãi ngộ và sử dụng nhân tài. Kiên quyết thay thế những cán bộ có phẩm chất đạo đức kém. 2.7. Về thị trường xuất nhập khẩu: 25 Hết sức coi trọng thị trường trong nước. Xem việc nắm và ổn định thị trường trong nước là một trong những mục tiêu hàng đầu của chính sách thương mại. Thị trường ngoài nước là quan trọng đối với xuất khẩu của mọi quốc gia trong xu thế hội nhập hiện nay nhưng không bao giờ thị trường nước ngoài có thể thay thế thị trường trong nước nhất là đối với nền kinh tế thị trường chưa phát triển của nước ta hiện nay. Ngành thương mại phải luôn chăm lo thị trường trong nước, thị trường trong nước phải là địa bàn hoạt động của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, Nhà nước phải tạo ra các sân chơi bình đẳng đó, cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng, hợp pháp trên thị trường. 2.8. Đấu tranh chống buôn lậu và các hành vi kinh doanh trái phép. Đề cao trách nhiệm của cấp uỷ đảng và chính quyền ở các ngành các cấp từ trung ương đến cơ sở trong tổ chức và chỉ đạo đấu tranh chống buôn lậu, làm hàng giả, gian dối thương mại và mọi biểu hiện của hiện tượng độc quyền. Sử dụng các biện pháp đồng bộ kiên quyết để ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn này. Kiện toàn lực lượng làm công tác chống buôn lậu, làm hàng giả...tổ chức tốt sự phối hợp giữa các lực lượng để nâng cao hiệu quả hoạt động. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chính sách, pháp luật, các quy định về đăng ký kinh doanh, về hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán ở các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. 2.9. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực thương mại. Hoàn thiện sự lãnh đạo của các ban cán sự, các cấp uỷ đảng trong các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại. Củng cố tổ chức quản lý cán bộ, nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ và tổ chức đảng cơ sở ở các tổng công ty, công ty trong việc xác định phương hướng kinh doanh, ngăn chặn và đáu tranh với các biểu hiện tiêu cực về quan điểm, tư tưởng và đạo đức trong doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò chủ đạo của thương nghiệp Nhà nước trên thị trường. Chấn chỉnh hoạt động của các tổ chức đảng trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế khác, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức quần chúng cán bộ công nhân viên chức, giám sát việc chấp hành luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của người lao động. Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất và lãnh đạo và quản lý công tác cán bộ. 2.10 Hoàn thiện tổ chức và quản lý thương nghiệp Nhà nước. 26 Làm cho thương nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền thương nghiệp nhiều thành phần. 27 KẾT LUẬN Trong điều kiện hiện nay, khi mà nền kinh tế nước ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn bất cập, đối với thị trường trong nước, sức mua của người dân có phần chững lại, thậm chí có thời điểm giảm nhiều. Thì việc phát triển một hệ thống thương nghiệp là điều hết sức quan trọng. Đứng trước một nền kinh tế mà tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm, thu nhập bình quân đầu người còn rất thấp, bên cạnh đó cùng với xu hướng hội nhập thế giới, thực hiện việc cắt giảm thuế quan vào năm 2000 trong cam kết với AFTA tiến hành đàm phán để được gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì thách thức đặt ra cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng nặng nề hơn. Trong nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế mà Đảng đã đề ra ở nước ta trong những năm tới thì Đảng đã nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của ngành thương mại và trên cơ sở đó đã đưa ra những biện pháp, chủ trương để phát triển nó dựa trên cơ sở phân tích những thuận lợi và khó khăn của ngành trong giai đoạn hiện nay. Thương mại được khẳng định như một ngành có tầm quan trọng chiến lược trong giai đoạn hiện nay và trong những năm tới, đặc biệt là trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới hiện nay. Để cho thương mại phát huy được vai trò to lớn của nó trong cơ cấu tổng thể các ngành kinh tế quốc dân thì chúng ta phải không ngừng đưa ra những chính sách, giải pháp để hoàn thiện nó, làm cho nó trở thành ngành then chốt, dẫn đầu trong xu thế hội nhập hiện nay và cả những năm sau này. 28 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1-/ Tạp chí Thời báo kinh tế - Số 1999 - 2000 2-/ Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch thương mại năm 1999 và mục tiêu kế hoạch thương mại năm 2000 của Vụ kế hoạch thống kê (HN 6/ 1/ 2000). 3-/ Tạp chí Tài chính tháng 11/ 1999. 4-/ Tạp chí Thương mại - Số 24 năm 1999. 5-/ Nghị quyết 12 của Bộ Chính trị (HN 3/ 1/ 1996). 6-/ Giáo trình quản trị doanh nghiệp thương mại - Trường Đại học Kinh tế quốc dân. 7-/ Giáo trình Kinh tế thương mại dịch vụ - Đại học Kinh tế quốc dân. 8-/ Tài liệu tham khảo môn học kinh tế thương mại của PGS .PTS Đặng Đình Đào. 29 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 PHẦN I- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI .................. 3 I-/ TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI. ....................................................................................3 1-/ Khái niệm và bản chất của thương mại. ..................................................................... 3 a, Khái niệm:........................................................................................................ 3 b, Bản chất kinh tế của thương mại....................................................................... 3 2-/ Nguyên nhân hình thành thương mại. ....................................................................... 4 3-/ Quan điểm về thương mại. .......................................................................................... 4 a, Chức năng, nhiệm vụ của thương mại. .............................................................. 4 b, Đặc trưng của thương mại trong nền kinh tế thị trường. .................................... 5 c, Nội dung của hoạt động thương mại. ................................................................ 6 d, Vị trí và vai trò của thương mại trong nền kinh tế thị trường. ........................... 7 II-/ THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA. ...................8 2-/ Những hạn chế của hoạt động thương mại trong thời gian qua. ...............................15 3-/ Nguyên nhân của những hạn chế đó. ........................................................................18 PHẦN II-NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI................................................................................ 20 I-/ Mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian tới. ......................................20 II-/ QUAN ĐIỂM VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI. ................................................................................................21 1-/ Quan điểm: ................................................................................................................21 2-/ Những biện pháp chủ yếu. .........................................................................................21 2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách và công cụ quản lý. .. 21 2.2. Sử dụng đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá và các công cụ tài chính, tín dụng: ... 22 2.3. Tổ chức lại thị trường trên từng địa bàn theo các định hướng sau đây: ......... 23 2.4. Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ: .......................................................................................................................... 23 2.5. Tổ chức và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác kinh doanh thương mại: 24 2.6. Xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại. ................................... 24 2.7. Về thị trường xuất nhập khẩu: ..................................................................... 24 2.8. Đấu tranh chống buôn lậu và các hành vi kinh doanh trái phép. ................... 25 2.9. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực thương mại. ..................... 25 2.10 Hoàn thiện tổ chức và quản lý thương nghiệp Nhà nước. ............................ 25 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 28 MỤC LỤC ................................................................................................................ 29

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Thương mại và các biện pháp phát triển thương mại trong giai đoạn hiện nay.pdf
Luận văn liên quan