Đất nước ta đang tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội
lần thứ VIII của Đảng đề ra, thu được nhiều thắng lợi quan trọng, tạo thế và lực mới để
bước vào thế kỷ 21 cùng với toàn nhân loại. Trong quá trình đó Đảng ta rất coi trọng lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Thủy lợi là một ngành kinh tế - kỹ thuật thuộc kết cấu hạ
tầng, công tác quản lý thủy nông phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp và có tác
dụng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân và các mặt khác của đời sống xã hội. Để phát huy
tối đa khả năng của hệ thống CTTL, phục vụ kinh tế phát triển bền vững cần phải được tiếp
tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý thủy nông.
87 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2989 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiếp tục đổi mới quản lý các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều lệ thu
thủy lợi phí, mức thu thấp và số thủy lợi phí thu được không đáng kể. Ngày 25 tháng 8
năm 1984 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành nghị định 112 /HĐBT thay
thế cho nghị định 66 CP quy định mức thu thủy lợi phí mới tính theo tỷ lệ phần trăm sản
lượng lúa bình quân trong 3 năm 1981 - 1983. Trong mức thu của nghị định đã khẳng định
"... tạm thời chưa trích khấu hao cơ bản của công trình đất xây đúc và các loại máy bơm
lớn, xem đây như một khoản trợ cấp của Nhà nước đốivới nông nghiệp, khi cần trang bị
thêm hoặc thay thế Nhà nước sẽ cấp trực tiếp không qua kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản
hàng năm". Ngày 31 tháng 8 năm 1994 Quốc hội đã ban hành pháp lệnh bảo vệ và khai
thác CTTL, nội dung cũng khẳng định về chính sách thủy lợi phí, coi thủy lợi phí là một
nguồn thu chủ yếu của các DNTN.
Qua một thời gian dài thực hiện thu thủy lợi phí theo nghị định, theo số liệu điều tra
của Cục quản lý nước và CTTL thì cả nước năm 1986 thu được 141.171 tấn thóc, năm
1997: 310.000 tấn, năm 1998: 327.000 tấn, trị giá 500 - 600 tỷ đồng, nguồn kinh phí này
dùng để trang trải các chi phí vận hành, duy tu, bảo dưỡng công trình, đã giảm được phần
đáng kể bao cấp của ngân sách Nhà nước. Song với mức thu như trên đến nay không đáp
ứng được yêu cầu chi phí hợp lý, hàng năm Nhà nước vẫn phải hỗ trợ bình quân 100 tỷ
đồng/năm, chủ yếu là hỗ trợ tiền điện tiêu úng, các chi khác chưa được quan tâm nên việc
tu sửa công trình còn hạn chế.
Xem xét cụ thể ta thấy mức thu thủy lợi phí được tính bằng tỷ lệ % sản lượng bình
quân 3 năm 1981-1983. Với mức thu này vào những năm đầu áp dụng thì hợp lý nhưng
đến nay năng suất sản lượng lúa của toàn quốc nói chung và Thanh hoá nói riêng đã tăng
nhiều lần:
+ Cả nước: năm 1980 năng suất 20,8 tạ/ha/vụ, sản lượng 11 triệu tấn
năm 1986 năng suất 28,1 tạ/ha/vụ, sản lượng 19,7 triệu tấn, năm 1992 năng suất
31,9 tạ/ha/vụ sản lượng 21,5 triệu tấn
+ Thanh hoá chỉ tính từ năm 1996 đến 1999 năng suất đã tăng từ 33,9 tạ/ha/vụ (năm
1996) lên 38,3 tạ/ha/vụ (năm 1999) và sản lượng tăng từ 1 triệu tấn lên 1,365 triệu
tấn.
Năng suất sản lượng đã tăng gần gấp 2 lần nhưng mức thu vẫn giữ nguyên do đó có
thể nói mức thu thủy lợi phí quá lạc hậu so với sản phẩm đầu ra của nông nghiệp.
- Tình trạng khê đọng thủy lợi phí xảy ra khá phổ biến: thực hiện thu thủy lợi phí
các DNTN hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, mất rất nhiều thời gian, thất thu thủy lợi phí là
vấn đề vô cùng phức tạp, nan giải chưa được giải quyết. Việc thu thủy lợi phí đã chiếm
mất quá nửa số công lao động của doanh nghiệp nhưng vẫn không thu đủ số đã nghiệm thu,
hiện tượng nợ đọng thất thu thủy lợi phí khá phổ biến và kéo dài. Theo báo cáo của Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn thì đến tháng 6 năm 1994 tổng thất thu trong toàn
quốc là 112.374 tấn thóc, trong đó năm 1993 lên tới 45.729 tấn, riêng tỉnh Hà bắc, Thanh
hoá mỗi tỉnh thất thu tới 10.000 tấn.
Trong 3 năm gần đây (bảng 12 - trang 67) tình hình thu thủy lợi phí ở Thanh hoá chỉ
đạt 90%, số nợ tồn đọng là 10%. Tính đến 31 tháng 12 năm 1999 nợ tồn đọng thủy lợi phí
lên đến 15.669 tấn thóc, trị giá 18,6 tỷ đồng. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do
nông dân gặp quá nhiều khó khăn không thu nộp thủy lợi phí, phần lớn là do các hợp tác
xã chiếm dụng chi tiêu sai mục đích. Điển hình ở huyện Thọ Xuân (thuộc Công ty thủy
nông sông Chu quản lý) có hợp tác xã nợ đến hàng tỷ đồng như: HTX Xuân Khánh: 450
triệu đồng, Thọ Diên 695 triệu đồng, Xuân Phong 1.054 triệu đồng.
* Nguyên nhân của tồn tại:
- Do hệ thống chính sách tài chính về thủy nông chưa đồng bộ, chậm đổi mới trong
khi nền kinh tế phát triển, các yếu tố kinh tế - chính trị - xã hội tác động đến đầu vào của
thủy nông, đã có nhiều chuyển đổi như: giá cả hàng hoá, vật tư đã tăng nhiều lần so với
trước đây, một số chính sách tiền lương, bảo vệ xã hội, bảo hiểm y tế đã thay đổi. Một số
chính sách mới ra đời gần đây chưa bao gồm hết đặc thù của loại hình doanh nghiệp này.
- Nhận thức về DNTN của một số địa phương còn hạn chế, còn cho rằng thủy nông
hoạt động công ích, Nhà nước bao cấp nên thiếu tinh thần trách nhiệm trong quan hệ thanh
toán. Công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao dân trí trong nhân dân còn chưa tốt, trách
nhiệm bảo vệ công trình chưa cao, thậm chí còn vi phạm pháp lệnh bảo vệ CTTL.
- Vai trò và trách nhiêm của chính quyền địa phương chưa cao, chưa đôn đốc kiểm
tra và tổ chức cho nhân dân làm công tác thủy lợi một cách thường xuyên. Một số cán bộ
hợp tác xã, chủ tịch UBND xã vi phạm pháp luật như: tham ô, làm trái nguyên tắc tài
chính, chiếm dụng thủy lợi phí, sử dụng sai mục đích chưa được xử lý nghiêm minh và kịp
thời.
Chương 3
Quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới quản lý các doanh
nghiệp thủy nông.
3.1. Một số quan điểm đổi mới đối với doanh nghiệp thủy nông
DNTN là loại hình DNNN hoạt động công ích cung ứng dịch vụ hàng hoá công
cộng phục vụ cho các ngành kinh tế và đời sống dân sinh, hướng tới mục tiêu hiệu quả
kinh tế - xã hội, đòi hỏi phải có cơ chế quản lý thích ứng được xây dựng phù hợp với điều
kiện chủ quan và khách quan nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp
và gắn với sự vận động phát triển của nền kinh tế nói chung.
Thực hiện mục tiêu trên, tiếp tục đổi mới cơ chế và tổ chức sản xuất của DNTN cần
quán triệt một số quan điểm sau đây:
3.1.1. Đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức sản xuất phải phục vụ đường lối phát triển
kinh tế của Đảng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ chế quản lý mới phải được đặt trên cơ sở quan điểm chính sách mới về cơ cấu
kinh tế bởi vì chính sách kinh tế nói chung ở mọi nước đều có hai mặt cơ bản: chính sách
cơ cấu và cơ chế quản lý. Một ngành kinh tế muốn phát triển tốt hay không trước hết chính
sách cơ cấu kinh tế phải phù hợp và gắn liền với nó là cơ chế quản lý phải phù hợp. Quan
điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân đã được Đảng ta khẳng định rõ
tại nghị quyết trung ương 5 (khoá VII) là: " đặc biệt phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu". Muốn công nghiệp hoá
sản xuất nông nghiệp chúng ta phải hoàn thành công cuộc thủy lợi hoá, cơ giới hoá, sinh
học hoá, hoá học hoá, điện khí hoá trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong đó đổi mới cơ chế
và mô hình hoạt động của DNTN có vai trò quan trọng. Cơ chế quản lý và mô hình hoạt
động của các DNTN phải được xây dựng phù hợp với đặc điểm của quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn trong từng giai đoạn, nó phải phản ánh đúng đắn tính đa dạng đan xen
giữa mô hình kinh tế cũ còn tồn tại và mô hình kinh tế mới đang được hình thành trong sản
xuất nông nghiệp hiện nay. Vì vậy cơ chế quản lý mới đối với DNTN phải được thực hiện một
cách năng động mềm dẻo.
3.1.2. Đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức sản xuất cần chú ý đến đặc thù của
công tác thủy nông.
Hoạt động thủy nông là hoạt động cung cấp dịch vụ đặc biệt, khai thác kết cấu kinh
tế kỹ thuật hạ tầng phục vụ cho nhiều mục tiêu, đối tượng khác nhau. Khác với loại hình
doanh nghiệp khác hoạt động dịch vụ, vừa đảm bảo lợi ích kinh tế của từng đối tượng dùng
nước vừa đảm bảo lợi ích xã hội và chịu chi phối bởi tính đặc thù của hàng hoá, thị trường
và các đặc điểm của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Hơn nữa hoạt động dịch vụ
thủy nông có tính địa phương và tính khu vực rất cao, chi phí tưới cho 1 ha canh tác rất
khác nhau ở các địa phương khác nhau và ở những thời điểm, thời tiết khác nhau. Hoạt
động thủy nông là một yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp nhưng sản xuất nông
nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, những năm thời tiết có thiên tai sản lượng thu
hoạch giảm hoặc mất trắng, chi phí bỏ ra của DNTN không có khả năng thu hồi. Mặt khác
vùng điều kiện tự nhiên thuận lợi chi phí thấp thì năng suất sản lượng thu hoạch lại cao,
ngược lại vùng điều kiện tự nhiên khó khăn chi phí cao thì năng suất sản lượng lại thấp. Do
vậy khi xây dựng các chính sách phải xem xét giải quyết bất hợp lý này.
Hàng hoá và thị trường của DNTN là loại đặc biệt không giống hàng hoá thị trường
của doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nên trong cơ chế quản lý, vai trò điều tiết của Nhà
nước thường chi phối khá mạnh. Chính do những đặc thù này Nhà nước đã xếp DNTN vào
loại hình công ích. Hiện nay hạch toán kinh tế trong doanh nghiệp là hạch toán không đầy
đủ, chưa phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với doanh thu thủy lợi phí, được Nhà nước cấp
bù những chi phí vượt trong năm có thiên tai hạn hán. Từ đó ta thấy Nhà nước đang hỗ trợ
nông dân, nông thôn một cách gián tiếp thông qua các doanh nghiệp, đòi hỏi cơ chế quản
lý mới phải đạt được mục tiêu cấp bù một cách hợp lý, chính xác, đảm bảo bù đắp đủ chi
phí cho các doanh nghiệp, đảm bảo lợi ích cho người lao động và tiết kiệm cho ngân sách.
Mặt khác chính sách cũng phải thể hiện được trách nhiệm của đơn vị hưởng lợi trong việc
tham gia quản lý bảo vệ CTTL.
3.1.3. Khai thác sử dụng tổng hợp các nguồn nước là nhiệm vụ quan trọng gắn
liền với quản lý tài nguyên nưóc và bảo vệ môi trường.
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi
trường, quyết định sự tồn tại phát triển bền vững của đất nước. Nước được thế giới coi là
tài nguyên thứ hai sau tài nguyên con người, vì vậy khai thác sử dụng tài nguyên nước phải
được quản lý trên cơ sở định hướng, quy hoạch trong chiến lược kinh tế.
Giai đoạn trước đây tài nguyên nước được sử dụng theo từng mục đích riêng biệt,
hiện nay được sử dụng cho nhiều mục đích, không chỉ cho sinh hoạt, canh tác nông nghiệp
mà còn nhiều mục đích khác. Trước đây chỉ lo việc phòng chống hạn hán, lũ lụt, nay lại
phải quan tấm đến mưa a xít, mặn, ô nhiễm. Trong giai đoạn này sử dụng nước tổng hợp
tức là sử dụng đồng thời cho nhiều mục đích, tài nguyên nước không thể bị quản lý riêng
rẽ theo từng mục đích sử dụng như trước đây nữa. Chính vì vậy ở bất kỳ một quốc gia nào
cũng phải quan tâm nghiên cứu thiết lập một cơ chế quản lý thích hợp cho từng giai đoạn
phát triển kinh tế. Vấn đề này được Đảng ta khẳng định tại văn kiện đại hội VIII: "phải xây
dựng quy hoạch và quản lý hợp lý nguồn nước, đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống,
cải thiện từng bước tình hình cấp thoát nước ở đô thị, ưu tiên những nơi có hệ thống cấp
thoát nước" quan điểm này được quán triệt ở mọi ngành kinh tế trong xây dựng chiến lược
phát triển của mình.
DNTN là đơn vị được Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý khai thác tài nguyên nước,
trong hoạt động sản xuất cần phải kết hợp đúng đắn giữa các lợi ích kinh tế và lợi ích xã
hội, phải khai thác quản lý trên cơ sở quy hoạch nguồn nước gắn với yêu cầu phục vụ cho
quá trình phát triển các ngành kinh tế, xây dựng cơ chế quản lý phải phù hợp với mục tiêu
kinh tế bền vững là nhiệm vụ quan trọng của quản lý tài nguyên và môi trường nước.
3.1.4. Xem xét tính toán hiệu quả trong hoạt động thủy nông phải đảm bảo lợi
ích từng vùng, từng địa phương và toàn xã hội.
Hoạt động chủ yếu của các DNTN là tưới tiêu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp,
điạ bàn hoạt động rộng: miền xuôi, miền núi, vùng biển. ở mỗi vùng, mỗi dịa phương do
điều kiện địa lý tự nhiên khác nhau các biện pháp công trình phục vụ khác nhau như tưới
bằng đập dâng, hồ chứa hoặc trạm bơm điện. Từ dó chi phí đầu vào khác nhau, nếu theo cơ
chế thị trường hạch toán đầy đủ thì yêu cầu giá bán ra cũng khác nhau, người hưởng lợi có
thể chịu được hoặc không thể chịu được, ngoài những đối tượng có địa chỉ phân bổ chi phí
còn có các đối tượng khác không thể phân bổ chi phí được. Do đó phải có quan điểm điều
hoà lợi ích giữa các vùng, các địa phương bằng cách xác định giá đầu ra bình quân và được
thống nhất trong toàn quốc để đảm bảo tính công bằng trong xã hội. Khi hoạch định chính
sách, Nhà nước cần phải can thiệp cả yếu tố đầu vào lẫn yếu tố đầu ra của doanh nghiệp để
hỗ trợ cả hai phía, người được phục vụ và người phục vụ.
3.1.5. Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế, thực hiện phương châm
Nhà nước và nhân dân cùng làm, trung ương và địa phương cùng làm đối với công tác
thủy nông.
Hoạt động của thủy lợi nói chung, thủy nông nói riêng gắn liền với đặc điểm tự
nhiên của từng vùng dân cư, lãnh thổ nhất định. Hoạt động phục vụ đa mục tiêu, sản phẩm
mang tính đặc thù không điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu được. Nơi thiếu cứ phải
cung cấp, nhưng nơi thừa phải bỏ chi phí để tiêu đi. CTTL yêu cầu mức đầu tư rất lớn,
nhưng hiệu suất đầu tư ở các vùng, miền khác nhau, do tính xã hội nên hiệu suất thấp Nhà
nước vẫn phải đầu tư để đảm bảo phát triển đi đôi với công bằng xã hội. Do đó trong quản
lý thủy nông phải phát huy hết sức mạnh của các thành phần kinh tế, có sự điều tiết giữa
các khu vực thông qua ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Nhân dân ở các
vùng hưởng lợi đều phải có sự đóng góp nhất định cùng với sự tham gia của các thành
phần kinh tế. Vì vậy cần phải có chính sách thích hợp để thu hút đầu tư của các thành phần
kinh tế, giảm dần đầu tư trực tiếp của ngân sách Nhà nước.
3.1.6. Coi trọng mục tiêu kinh tế - xã hội và môi trường trong quản lý khai thác
thủy nông.
CTTL phải kết hợp phục vụ nhiều lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt đời
sống... Nguồn nước phải được khai thác hợp lý sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau của
nền kinh tế quốc dân. Tạo nguồn nước phải đi đôi với việc quản lý khai thác, sử dụng nước
tiết kiệm theo quy hoạch hợp lý, nhằm khơi dậy tiềm năng của đất đai, khí hậu, làm cho
đất và nước kết hợp với nhau sinh lợi, giảm hại. Không vì một mục tiêu kinh tế đơn thuần
dẫn đến khai thác cạn kiệt nguồn nước, phải coi nguồn nước là một tài nguyên, biết sử
dụng hợp lý, hiệu quả, đồng thời bảo vệ và duy trì khả năng tái tạo. Nói cách khác trong
khai thác và sử dung nước phải bảo đảm ba mục tiêu: kinh tế, phát triển xã hội và sự toàn
vẹn của môi trường sinh thái.
3.2. Các mục tiêu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của các doanh nghiệp thủy nông.
Để đạt được nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, trong thời gian tới các DNTN cần
phải được tăng cường về mọi mặt, đầu tư cải tạo nâng cấp các hệ thống công trình hiện có,
xây dựng thêm các công trình mới, tăng cường quản lý, điều hành chặt chẽ việc tưới nước
trên các hệ thống công trình, phấn đấu đạt các mục tiêu sau:
- Giải quyết căn bản nguồn nước tưới cho nhu cầu phát triển nông nghiệp, tạo điều
kiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng và tiến lên sản xuấtnông sản hàng hoá có giá trị cao.
Đảm bảo đủ nước tưới cho diện tích canh tác (bao gồm lúa, màu, cây công nghiệp) vụ
chiêm xuân 125.000-130.000ha, vụ mùa 130.000-135.000ha, vụ đông 30.000-40.000ha,
phấn đấu tăng cơ cấu tưới chủ động.
- Đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt dân cư và phục vụ các khu công
nghiệp như: nhà máy đường Lam Sơn, giấy Mục Sơn, bia Thanh hoa, xi măng Nghi Sơn.
- Tiêu úng cho diện tích đất canh tác từ 100.000 - 110.000 ha và các vùng phi canh
tác, góp phần giảm nhẹ thiên tai, cải tạo môi trường sinh thái.
3.3. Các giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới quản lý doanh nghiệp thủy nông
3.3.1 Củng cố, nâng cấp hoàn thiện hệ thống công trình thủy lợi trong tỉnh.
Hệ thống CTTL có tầm chiến lược đối với phát triển kinh tế - xã hội đất nước nói
chung, cũng như Thanh Hoá nói riêng. Vấn đề đặt ra cho ngành thủy lợi rất lớn, phục vụ
tổng hợp cho nhiều ngành kinh tế khác nhau, với thực trạng công trình hiện nay chưa đáp
ứng được nhu cầu của sự phát triển.
Để CTTL thực sự trở thành một loại kết cấu hạ tầng quan trọng đặc biệt nhất để
phát triển nông nghiệp, nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái trong giai đoạn mới của đất
nước, trên cơ sở có quy hoạch cần rà soát và quy hoạch lại hệ thống thủy lợi đáp ứng yêu
cầu hiện tại và tương lai, phù hợp với thời kỳ phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Thực trạng công trình hiện nay đa số chưa phát huy hết năng lực thiết kế, một trong
những nguyên nhân là do chưa đồng bộ, thời gian khai thác đã lâu chưa được đại tu nâng
cấp, từ đó đã ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp. Để
tăng cường công tác quản lý, xác lập mô hình thủy nông hợp lý trước hết hệ thống công
trình phải được củng cố nâng cấp hoàn thiện. Khi công trình được hoàn thiện đồng bộ, hệ
thống kênh mương đã được kiên cố hoá, các công trình trên kênh có đầy đủ thiết bị đo
đếm, sẽ tạo điều kiện cho việc phân cấp quản lý và xã hội hoá công tác thủy nông. Cũng từ
đó có cơ sở để xây dựng chính sách thủy lợi phí hợp lý. Đồng thời khi công trình củng cố
hoàn thiện thì đòi hỏi quản lý phải được nâng lên thích ứng. Vì vậy củng cố nâng cấp hoàn
thiện công trình có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đổi mới quản lý thủy nông.
Trên địa bàn Thanh Hoá CTTL cần tiếp tục được củng cố và hoàn thiện:
- Về công tác điều tra quy hoạch phải được rà soát lại, hoàn thành bổ sung quy
hoạch tưới tiêu vùng Đa Bát-Hà Lĩnh (Hà Trung), vùng tiêu Hà Trung, vùng tiêu Tĩnh Gia,
tiến hành điều tra khảo sát tài nguyên nước ở một số vùng trọng điểm của tỉnh.
- Công tác đầu tư xây dựng: Chuẩn bị và tiến hành dự án hồ chứa nước Cửa Đạt,
đập sông Lèn, trạm bơm Cầu Tào. đầu tư cải tạo nâng cấp và xây dựng mới các công trình
tiêu, xây dựng mới 15 công trình, tưới tiêu úng để mở rộng tiêu chủ động 13.000 ha. Đại
tu, nâng cấp, hoàn thiện nhiệm vụ thiết kế 5 hệ thống tiêu sông Lý, sông Hoàng, Quảng
Châu, Trường Lệ, Thọ Xuân, đảm bảo tiêu úng ổn định cho diện tích 70.000 ha. Đầu tư cải
tạo nâng cấp 10 hệ thống công trình tưới để đảm bảo phát huy hiệu quả theo nhiệm vụ thiết
kế và nâng cao chất lượng tưới. Hoàn thiện dự án khôi phục cải tạo nâng cấp hệ thống Bái
Thượng và các công trình khác thuộc nguồn vốn vay ngân hàng Châu á. (ADB).
- Tập trung vốn cho kiên cố hoá kênh mương, phấn đấu đến năm 2003 Thanh hoá sẽ
đạt 100% kênh mương được kiên cố.
Đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào quản lý và vận hành hệ thống, đưa công
tác khai thác ngày càng đi vào chiều sâu, phát huy hết năng lực thiết kế công trình, áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, từng bước thay thế các loại cửa thép, gỗ bằng các loại cửa
Compozite để chống xâm thực của môi trường nhất là nước mặn. Từng bước trang bị các
thiết bị quản lý như máy đo chua, đo mặn, đo lưu tốc, đo độ lún... cho các công trình tưới.
Điện khí hoá việc đóng mở các cống, âu thuyền, thay thế hẳn lao động thủ công. Lắp đặt
hệ thống máy vi tính trong quản lý điều hành tưới, bảo đảm hệ thống thông tin liên lạc
thông suất trong mọi tình huống để bảo đảm phục vụ sản xuất, đời sống trong mùa mưa
bão.
3.3.2. Sắp xếp củng cố kiện toàn các doanh nghiệp thủy nông trong tỉnh.
Sắp xếp củng cố kiện toàn các doanh nghiệp nói chung có một ý nghĩa hết sức quan
trọng trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu mới ngày càng phục vụ tốt
hơn cho sản xuất nông nghiệp, với thực trạng tổ chức bộ máy các DNTN trên địa bàn hiện
nay cần phải được củng cố, kiện toàn cho phù hợp hơn để giảm được chi phí trực tiếp và
gián tiếp, nâng cao chất lượng hiệu quả.
Sắp xếp tổ chức lại các doanh nghiệp cần phải dựa trên các nguyên tắc sau:
- Bảo đảm tính hệ thống của CTTL. Do đặc điểm nổi bật của CTTL là mang tính
chất hệ thống liên hoàn, không bị chia cắt bởi địa giới hành chính, tổ chức doanh nghiệp
phụ thuộc vào địa bàn phục vụ khi CTTL nằm gọn trong địa bàn đó.
- Bảo đảm sự kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và
vùng lãnh thổ. CTTL là một hệ thống diễn ra trên một không gian rộng, gắn với nhiều địa
phương, nhiều vùng lãnh thổ do đó nguyên tắc này cần phải quán triệt trong sắp xếp tổ
chức cũng như trong quản lý, khai thác, bảo vệ công trình, nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế.
- Bảo đảm sự tách bạch cần thiết và mối quan hệ qua lại giữa vai trò quản lý Nhà
nước và vai trò quản lý sản xuất của các doanh nghiệp.
- Bảo đảm phân công, phân cấp tối đa về quản lý kế hoạch, tài chính, quản lý công
trình cho các đơn vị thành viên trong mỗi doanh nghiệp.
- Bộ máy tổ chức phải gọn nhẹ, có hiệu lực, vận hành công trình an toàn để phát
huy tối đa năng lực của máy móc thiết bị, nâng cao hiệu quả về mọi mặt trong quản lý.
Hiện nay toàn tỉnh Thanh hoá có 9 DNTN, trong đó có 3 công ty xí nghiệp thủy
nông liên huyện, còn lại là xí nghiệp thủy nông huyện. Thực tế cho thấy tình hình hoạt
động ở các doanh nghiệp liên huyện phát triển tốt hơn, từ khâu phục vụ tưới tiêu đến công
tác tu sửa công trình, đời sống cán bộ công nhân viên. Các DNTN huyện do có khả năng
tài chính thấp, nguốn thu ít không có điều kiện để tu sửa công trình, từ đó phục vụ tưới tiêu
còn hạn chế dẫn đến nguồn thu thấp và cứ luẩn quẩn như vậy, hàng năm ngân sách tỉnh
phải cấp bù nhiều cho các doanh nghiệp này. Đánh giá chung toàn tỉnh thì hiệu qủa hoạt
động còn thấp, nhiều công ty xí nghiệp bị thua lỗ, chi phí gián tiếp còn quá lớn, chưa tạo
sức mạnh tổng hợp trong quản lý khai thác, chưa điều hoà được nguồn tài chính giữa các
doanh nghiệp. Để tạo một mặt bằng chung, bình đẳng trong các DNTN với nhau, khắc
phục các mặt hạn chế tồn tại trên, cần phải được nghiên cứu sắp xếp tổ chức lại các doanh
nghiệp theo hướng nâng cao và mở rộng quy mô của các doanh nghiệp nhỏ, bằng cách sát
nhập theo ranh giới hành chính phù hợp.
Căn cứ vào thông tư 06/1998/TT-BNN-TCCB về "hướng dẫn tổ chức và hoạt động
của các công ty khai thác CTTL", căn cứ tình hình đặc điểm, phạm vi phục vụ của hệ
thống công trình trên địa bàn toàn tỉnh, khả năng cán bộ quản lý hiện nay, Thanh hoá nên
thành lập 3 công ty thủy nông liên huyện gồm:
+ Công ty thủy nông Sông Chu quản lý các huyện, thành phố: Ngọc Lạc, Thường
Xuân, hữu Thọ Xuân, Triệu Sơn, hữu Thiệu Hoá, Đông Sơn, Quảng Xương, Nông Cống,
Như Thanh, Tĩnh Gia và Thành phố Thanh hoá.
+ Công ty thủy nông Bắc Sông Mã quản lý các huyện: Hoàng Hoá, Hậu Lộc, Nga
Sơn, Bỉm Sơn và Thạch Thành.
+ Công ty thủy nông Nam Sông Mã quản lý các huyện: Vĩnh Lộc, Yên Định, tả Thọ
Xuân, tả Thiệu Hoá và Cẩm Thủy.
Mỗi công ty được tổ chức theo mô hình tổ chức bộ máy như sau:
sơ đồ tổ chức bộ máy các xí nghiệp thành viên
Hoạt động kinh tế trong công ty được phân công phân cấp:
* Tại công ty:
+ Chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất tài chính. Hướng dẫn kiểm tra
đôn đốc các xí nghiệp thành viên thực hiện kế hoạch sản xuất tài chính.
+ Quản lý sử dụng các nguồn vốn khấu hao cơ bản, sửa chữa lớn và các nguồn đầu
tư trợ cấp của Nhà nước hoặc các tổ chức cá nhân khác.
+ Quản lý các quỹ, điều hoà phân phối chênh lệch thu, chi giữa các đơn vị trong
công ty.
Sơ đồ tổ chức bộ máy công ty
giám đốc
Các xn hoạt
động công ích
Các phòng
nghiệp vụ
Các xn hoạt động
kinh doanh
giám đốc
Các cụm sản xuất các tổ nghiệp vụ
* Tại các xí nghiệp thành viên:
+ Thực hiện kế hoạch sản xuất tài chính hàng năm được giao đã được phân công,
phân cấp.
+ Ký hợp đồng kinh tế: tưới tiêu nước, thu thủy lợi phí và các nguồn thu khác trên
địa bàn, thực hiện các hợp đồng kinh tế về sử dụng điện, mua bán vật tư, sửa chữa thường
xuyên tài sản trên địa bàn theo kế hoạch.
+ Được mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng. Thực hiện chế độ hạch toán, kế toán
phụ thuộc.
Cùng với việc đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp thì yếu tố nguồn lực trong mỗi
doanh nghiệp hết sức quan trọng có tính chất quyết định đến kết quả hoạt động. Trong đó
đáng chú ý nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, việc phân công bố trí cán bộ phải đảm bảo tiêu
chuẩn phẩm chất đạo đức chính trị, trình độ năng lực chuyên môn để đảm nhận và hoàn
thành các nhiệm vụ được giao. Bố trí sắp xếp cán bộ phải dựa trên cơ sở đòi hỏi của sản
xuất, "từ việc bố trí người, tránh tình trạng từ người bố trí việc".
Trong tổng số 1.461 cán bộ công nhân viện hiện nay có 105 là đại học thủy lợi tập
trung ở công ty Thủy nông Sông Chu (60 người), các xí nghiệp còn lại 45 người là quá ít,
cần phải được điều chuyển, bổ sung tăng cường cho các doanh nghiệp này thông qua việc
sắp xếp lại các doanh nghiệp, kiên quyết tuyển chọn, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ lãnh đạo xí
nghiệp có đủ tiêu chuẩn. Sau khi sắp xếp lại các doanh nghiệp, biên chế phù hợp cần phải
tiếp tục bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ, tay nghề công nhân bằng các hình thức cử
cán bộ đi học các lớp tại chức, mở lớp bồi dưỡng nâng cao tay nghề, khắc phục tình trạng
công nhân trái ngành, trái nghề. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, bồi dưỡng xây dựng
được đội ngũ cán bộ, công nhân có đủ trình độ năng lực hoạt động trong điều kiện mới.
3.3.3. Đổi mới hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính
3.3.3.1. Đổi mới chính sách thủy lợi phí:
Chính sách thủy lợi phí (giá nước) là vấn đề khá phức tạp vì có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến như: kinh tế kỹ thuật, chính trị, xã hội, là một chính sách lớn có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động của các DNTN. Hiện nay thu thủy lợi phí ở nước ta đang được thực
hiện theo nghị định 112 CP của Chính phủ ban hành từ tháng 8 năm 1984 đã có nhiều nội
dung không còn phù hợp, cần phải được thay đổi, mục tiêu là nâng mức thủy lợi phí lên
cho phù hợp với chi phí của các DNTN và năng suất sản lượng lúa thu hoạch hiện nay.
Trước hết chúng ta phải khẳng định nước tưới lấy từ CTTL là hàng hoá, vì nó tồn
tại dưới hình thái vật chất và thoả mãn đầy đủ hai thuộc tính của hàng hoá, đó là giá trị và
giá trị sử dụng, do đó nhất thiết phải có giá (giá thành sản xuất và giá bán). Tuy nhiên đây
là hàng hoá đặc biệt không giống như hàng hoá thông thường vì xác định giá thành và giá
bán có những đặc điểm riêng. ở đây ta xem xét nước đối với sản xuất nông nghiệp, đối
tượng phục vụ chủ yếu của DNTN. Nước ở đây là lượng nước vừa đủ cho cây trồng phát
triển, khi thiếu cần cung cấp được gọi là tưới, khi thừa cần phải thoát đi gọi là tiêu, lượng
nước vừa đủ đó mới được gọi là "nước hàng hoá", vậy để có hàng hoá cần phải kết hợp với
tưới và tiêu được tính trên diện tích cây trồng các loại.
- Những căn cứ để xây dựng chính sách thủy lợi phí:
+ Căn cứ vào chi phí hoạt động của các DNTN bao gồm các khoản mục được quy
định trong thông tư liên tịch số 90/1997/TTLT/TC-NN ngày 19 tháng 12 năm 1997.
+ Căn cứ vào thực trạng của sản xuất nông nghiệp ở nước ta. So với nhiều nước trên thế
giới nông nghiệp nước ta còn ở trình độ thấp nhưng lại có vai trò quan trọng đối với đời sống
của toàn xã hội, do đó nâng cao hiêụ quả sản xuất nông nghiệp không chỉ là trách nhiệm của
ngành nông nghiệp mà còn là trách nhiệm của nhiều ngành kinh tế và nói chung là của toàn
xã hội. Biện pháp về thủy lợi là "đầu vào" quan trọng cho nông nghiệp thường được
Nhà nước xác định mức thủy lợi phí thấp hơn chi phí giá thành của Nhà nước.
Theo số liệu của tổng cục thống kê điều tra ở m ột số tỉnh miền Bắc và miền Trung
thì thủy lợi phí chiếm tỷ lệ chung là 5,3% tổng sản lượng thu hoạch của nông dân (vào
năm 1992). Và thủy lợi phí phân tích theo các yếu tố chi phí trong sản xuất nông nghiệp
được phản ánh ở bảng dưới đây
Bảng 13: Chi phí sản xuất cho 1 ha/năm [2]
Yếu tố Tổng chi phí
(tấn)
Tỷ lệ
(%)
Nước
Phân
Cày bừa
Giống
Chăm sóc, thu hoạch
0,38
2,70
0,64
0,40
0,81
7,7
54,8
13,0
8,2
16,4
Qua số liệu ở bảng trên cho thấy mức thủy lợi phí chiếm tỷ lệ 5,3% tổng sản lượng
thu hoạch là một tỷ lệ thấp, so với tổng chi phí sản xuất nông nghiệp chi phí về nước chiếm
7,7% đây cũng là tỷ lệ thấp không tương xứng với tỷ lệ của các yếu tố khác trong khi nước
là yếu tố quan trọng hàng đầu. Theo tính toán của ngành nông nghiệp nước ta nếu giá nước
được tính đúng, tính đủ các chi phí thì phải thu tới 17-20% tổng sản lượng thu hoạch. Rõ
ràng phải tăng mức thủy lợi phí nhưng trong lĩnh vực này không thể theo nguyên tắc ngang
giá vì 17 - 25% tổng sản lượng thu hoạch là quá lớn, nếu thu sẽ ảnh hưởng đến đời sống
của nông dân và không thúc đẩy sản xuất phát triển ( đây là đối tượng mà xã hội cần phải
quan tâm). Theo các chuyên gia của tổ chức lương thực và nông nghiệp của liên hợp quốc
thì: " Tăng thuế (giá) nước là vấn đề khá tinh tế, phải phân tích kỹ trước khi quyết định. Có
trường hợp phương pháp này đã thất bại, sau khi tăng người nông dân không nộp thuế
nước nữa"[5, 109].
Cần có sự lựa chọn giảm giá đầu vào hay tăng giá đầu ra với hàng hoá nông sản, xét
về hiệu quả thì giảm giá đầu vào nói chung vẫn là biện pháp dễ được chấp nhận hơn.
Nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã nhất trí rằng: "Lợi ích của người sản xuất được
đảm bảo bằng cách cung cấp kết cấu hạ tầng nông nghiệp để tạo điều kiện tăng năng suất
lúa" [5, 199].
+ Căn cứ vào quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với nông nghiệp,
nông thôn và nông dân, Đảng và Nhà nước ta bao giờ cũng cho rằng nông nghiệp, nông
dân, nông thôn có vai trò hết sức quan trọng, đến nay tuy đã có bước phát triển lớn song
nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật
còn nhiều yếu kém, năng suất cây trồng, vật nuôi còn thấp, sản xuất nông nghiệp chưa đáp
ứng nhu cầu đời sống nhân dân, nhiều nơi đời sống nông dân còn rất khó khăn. Do đó cần
phải có chính sách để tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông thôn phát triển, chính sách thủy
lợi phí cần phải được xem xét ở mức độ nhất định để góp phần vào việc phát triển nông
nghiệp nói trên.
+ Kinh nghiệm của một số nước về thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản các CTTL và
thu thủy lợi phí.
Đối với hệ thống công trình chính từ đầu mối đến kênh cấp II phần lớn vốn được
trích từ ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh. Một số nước như Nam Triều Tiên,
Inđônêxia, Nhà nước đầu tư 100% cho khâu quy hoạch thiết kế, 70-80% cho xây dựng cơ
bản, còn lại 20-30% là vốn vay và phải trả trong quá trình khai thác do các đối tượng
hưởng lợi thực hiện. Các nước Đông Âu cũ Nhà nước đầu tư 100%, Philippin Nhà nước
đầu tư 70%, nông dân 30%. Nhật Bản là nước công nghiệp phát triển, nông dân đóng góp
30% vốn đầu tư đốivới các dự án tưới có diện tích 3.000 ha, các dự án có diện tích nhỏ
hơn 2.000 ha thì Nhà nước hỗ trợ 45%. Một số nước trong khu vực cũng tiến hành thu
thủy lợi phí nhằm trang trải một phần chi phí nhưng còn ở mức độ thấp như: ấn Độ 12
USD/ha/năm, Băng la đet, Pakistan 5USD/ha/năm, Thái Lan không thu thủy lợi phí mà
Chính phủ cấp toàn bộ kinh phí lấy từ thuế đất. Có 4 nước xung quanh nước ta có chủ
trương trang trải lại chi phí này bằng việc thu thủy lợi phí ở mức 100 kg thóc/ha/vụ trở lên
như: Nam Triều Tiên 175 kg, Philippin 146 kg, Trung Quốc thu từ 4 đến 8% sản lượng
trên diện tích tưới. Với mức thu trên Nam Triều Tiên đủ trang trải theo yêu cầu, Philippin,
Trung Quốc đảm bảo khoảng 50%, các nước khác chỉ đủ trang trải cho chi phí quản lý,
khai thác và 15 đến 20% nhu cầu bảo dưỡng công trình.
Giá nước và vấn đề tổ chức quản lý có mối quan hệ khăng khít với nhau: cơ cấu tổ
chức, quy trình công nghệ sản xuất là căn cứ để xác định các khoản mục chi phí, xác định
giá thành sản xuất và giá bán cho người sử dụng. Trong điều kiện hiện nay muốn xác định
giá trị sản phẩm theo đơn vị m3 thì cầnphải đổimới mô hình tổ chức quản lý theo hướng
chuyển giao quản lý cho người sử dụng. Các DNTN nên chuyển giao cho các hội dùng
nước quản lý từ kênh cấp II trở xuống là hiệu quả nhất, các công ty thực hiện phương thức
bán nước đầu kênh cấp II thì việc đo đếm xác định khối lượng tiêu thụ theo m3 có thể thực
hiện được và giá bán nước chỉ nên quy định đến điểm đo nhận nước đầu kênh cấp II, các
hội dùng nước tự xây dựng giá bán nước đến người sử dụng. Do đó cần phải phân cấp
quản lý, đổi mới mô hình tổ chức, tạo tiền đề cho việc hình thành giá nước mới. Thực hiện
cơ chế giá trên cơ sở mô hình tổ chức quản lý khoa học sẽ là giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ
khó khăn cho các doanh nghiệp, thực hiện đầy đủ quyền tự chủ trong hoạt động và bình
đẳng trước pháp luật, gắn chặt quyền lợi với trách nhiệm thông qua kết quả hoạt động sản
xuất. Về phía Nhà nước rất thuận lợi trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô, bảo đảm công
bằng giữa các vùng dân cư trong cả nước, những đối tượng thuộc diện xoá đói giảm nghèo,
những nơi khó khăn như miền núi vùng sâu vùng xa Nhà nước có thể thực hiện chính sách
giảm hoặc miễn giá bán, khi thực hiện các cơ quan có thẩm quyền cũng dễ dàng trong việc
tính toán cấp bù cho các DNTN bảo đảm tính chính xác và tránh được thất thoát lãng phí
ngân sách Nhà nước.
3.3.3.2. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế tài chính
- Về chi phí nợ khó đòi: để xác định đúng kết quả hoạt động tài chính của các
DNTN điều cần thiết trước hết phải khẳng định được các yếu tố đầu vào và xác định đầu ra
của doanh nghiệp. Các yếu tố đầu ra đã được thể hiện ở phần chính sách thủy lợi phí.
Ngoài yếu tố đầu vào hiện nay đang áp dụng còn một khoản mà chưa được đề cập đến đó
là nợ khó đoì. Nợ khó đòi của các DNTN chủ yếu là thủy lợi phí, hàng năm nợ tồn đọng là
10-15% số ghi thu, thực tế khẳng định là không thu được. Trong cân đối xác định kết quả
tài chính hàng năm, so sánh doanh thu với chi phí thì đều có thu lớn hơn chi nhưng thực
chất thu nhỏ hơn chi, vì số chênh lệch này là số không thu được mà các doanh nghiệp đã
chủ động cắt giảm chi phí. Nếu được lập quỹ dự phòng khó đòi vào chi phí như các doanh
nghiệp khác thì trong cân đối sẽ không có số chênh lệch này, vì vậy cần sửa đổi chính sách
cho phép các DNTN được trích lập dự phòng nợ khó đòi vào kinh phí như các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Về phân phối thu nhập: Sau khi các DNTN được trích lạp dự phòng vào phí, các
khoản chi phí khác thực hiện theo chính sách hiện hành, giá thu thủy lợi phí được đổi mới.
Khi cân đối xác định kết quả nếu thu nhỏ hơn chi thì được Nhà nước cấp bù, nếu thu lớn
hơn chi thì thu về ngân sách Nhà nước, đây là nguyên tắc chung. Cần phải cụ thể hơn để
đảm bảo công bằng lợi ích giữa các doanh nghiệp phải có sự phân biệt khuyến khích các
doanh nghiệp có lãi, hạn chế các doanh nghiệp bị lỗ. Qua thực tế hoạt động của các doanh
nghiệp chúng tôi đề xuất nên xác định kết quả phân phối như sau: lấy doanh thu trừ chi phí
(doanh thu và chi phí đã được đổi mới ở phần trên).
+ Nếu số lãi bằng 2 tháng lương thực tế thì được trích lập 2 quỹ khen thưởng phúc
lợi bằng 2 tháng lương.
+ Nếu số lãi lớn hơn 2 tháng lương thực tế thì được trích 2 quỹ khen thưởng phúc
lợi bằng 2 tháng lương cộng 10% số lớn hơn. Số còn lại (90%) nộp ngân sách Nhà nước.
+ Nếu lỗ thì được Nhà nước cấp bù 2 quỹ khen thưởng, phúc lợi ở mức 70-90% 2
tháng lương thực tế.
+ Số lãi sau khi doanh nghiệp trích lập 2 quỹ thì được trích vào quỹ dự phòng tài
chính, không nên thực hiện phân phối như thông tư liên tịch số 90 hiện nay.
3.3.5. Đa dạng hoá, xã hội hoá công tác thủy nông, chuyển dần sang hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Hiện nay có không ít hệ thống CTTL phục vụ đạt hiệu quả chưa cao, chưa tương
xứng với đầu tư. Theo nhiều tài liệu đánh giá thì bình quân cả nước mới đảm bảo tưới chủ
động đạt 50-60% so với năng lực thiết kế (có nơi chỉ đạt 27%) thậm chí có những công
trình đã bị huỷ diệt, nhất là công trình thủylợi nhỏ. Do nhiều nguyên nhân trong đó có
nguyên nhân do tổ chức quản lý chưa được đồng bộ khép kín ở 2 cấp Nhà nước và người
dùng nước, tổ chức thủy nông cấp cơ sở chưa thích ứng. Nhiều hệ thống công trình do
thiếu vốn để duy tu bảo dưỡng, đặc biệt là không ít hệ thống thủy lợi nhỏ chưa có chủ quản
lý, một số kênh mương cấp xã thuộc hệ thống thủy lợi nhỏ đang bị bỏ ngỏ hoặc có chủ
nhưng không phải là chủ thực sự.
Trong cơ chế thị trường hiện nay các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn hạn chế,
với mô hình tổ chức hiện tại chưa thể giảm được chi phí, chưa khuyến khích người lao
động, còn tư tưởng bao cấp ỷ lại, trông chờ vào cấp bù của ngân sách. Về phía hộ dùng
nước chưa thấy rõ trách nhiệm của mình trong công tác bảo vệ CTTL, nhiều nơi đã xâm
phạm nghiêm trọng như lấn chiếm bờ kênh, hành lang bảo vệ công trình thậm chí một số
công trình còn bị phá hoại, sử dụng nước còn lãng phí.
Để khắc phục tình trạng trên, trong những năm gần đây Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn đã có nhiều văn bản hướng dẫn chỉ đạo các công ty hình thành tổ chức
thủy nông cơ sở. Nhà nước đã ban hành luật tài nguyên nước, luật hợp tác xã, pháp lệnh
bảo vệ CTTL và các quy định có liên quan đến quản lý nước và khai thác các CTTL, đặc
biệt ngày 10 tháng 1 năm 1998 Bộ chính trị đã có nghị quyết số 06 nhấn mạnh " ... trước
hết ưu tiên đầu tư nâng cấp, tăng cường công tác quản lý để nâng cao hiệu quả khai thác
công trình hiện có, có chính sách khuyến khích nhân dân tham gia đầu tư và quản lý khai
thác CTTL".
Chúng ta phải thống nhất và khẳng định lại là: CTTL thống nhất quản lý theo hệ
thống, đã có công trình thì phải có một tổ chức quản lý nhưng phải là chủ đích thực. Hiện
nay hệ thống quản lý CTTL ở địa phương đã hình thành 2 cấp: Công ty thủy nông (Nhà
nước) quản lý các hệ thống công trình vừa và lớn có kỹ thuật phức tạp, tập thể hợp tác xã
quản lý các CTTL nhỏ, mạng lưới kênh mặt ruộng. Theo kinh nghiệm cả từ trong và ngoài
nước đã rút ra bài học là phải củng cố và phát triển tổ chức thủy nông cơ sở, thực hiện theo
hướng chuyển giao cho nông dân quản lý, khai thác các công trình trên địa bàn của họ với
quy mô thích hợp, gắn quyền lợi và trách nhiệm của người dân trong quản lý vận hành,
duy tu theo phương châm: của dân, do dân quản lý, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra. Đây cũng là điều kiện ứng dụng khoa học công nghệ mới, tạo tiền đề thực hiện xã hội
hoá về thủy lợi, công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn.
Tổ chức thủy nông cơ sở theo hình thức và quy mô đa dạng, tuỳ theo điều kiện cụ
thể về công trình, dân trí, tình hình kinh tế - xã hội trong từng vùng mà lựa chọn tổ chức
thủy nông cơ sở thích hợp: hợp tác xã, hội, tổ, đội... quy mô thôn, xã hoặc liên xã. Việc
lựa chọn hình thức và quy mô phải xuất phát từ hiệu quả, vì lợi ích chung tránh tình trạng
áp đặt hoặc né tránh.
Để phát huy tổ chức thủy nông cơ sở, đa dạng hoá hoạt động thủy nông trước hết
cần phải đề cập đến một số các vấn đề vai trò của cán bộ các ngành, các cấp, của người
dân và của chính quyền địa phưong. Xây dựng chính sách tạo hành lang pháp lý cho tổ
chức này hoạt động
Vai trò của cán bộ, trước hết là cán bộ các cấp, các ngành phải thông suốt tư tưởng
đổi mới, phát huy vai trò lãnh đạo để hướng dẫn người dân hiểu rõ lợi ích và trách nhiệm
của mình. CTTL phục vụ cho dân thì người dân nên tham gia đầu tư, xây dựng và vận hành
duy tu. Quyền lợi của họ phải gắn liền với trách nhiệm, Nhà nước không làm thay (bao
cấp) vì lâu nay càng bao cấp thì càng hư hỏng và thực tế không thể bao cấp nổi. Chính
quyền các cấp có vai trò hết sức quan trọng, nơi nào Chính quyền quan tâm thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước thì nơi đó công tác thủy lợi đạt hiệu quả cao.
+ Cơ chế chính sách cho các tổ chức thủy nông cơ sở hoạt động: hiện nay ở Nghệ
An, Thanh hoá, Tuyên Quang đã hình thành các tổ chức thủy nông cơ sở là hợp tác xã
dùng nước, các hợp tác xã nhận quản lý một tuyến kênh chịu trách nhiệm vận hành, duy tu
bảo dưỡng, dẫn nước tưới cho một xã hoặc 2 xã (tuỳ thuộc năng lực của tuyến kênh đó),
thu thủy lợi phí từ các hộ nông dân để nộp cho các công ty thủy nông. UBND các tỉnh đã
có văn bản quy định mức thủy lợi phí để lại sử dụng tại các hợp tác xã là 12% số thủy lợi
phí thực thu.
Với mô hình tổ chức này bước đầu đã mang lại hiệu quả rõ rệt: tiết kiệm được nước,
không còn tình trạng nước chảy tràn lan như trước đây, kênh mương được nạo vét thông
dòng kịp thời, giảm được chi phí sửa chữa lớn, thu nộp thủy lợi phí đạt kết quả cao hơn.
Đa dạng hoá, xã hội hoá hoạt động thủy nông còn có thể thực hiện trong khâu bảo
vệ công trình. Đối với những công trình tiêu, công trình tưới phục vụ chống hạn có thời
gian hoạt động không thường xuyên, thời gian hoạt động ít, nếu cứ bố trí công nhân trông
coi bảo vệ thì chi phí sẽ rất lớn, nên chuyển giao các công trình này cho địa phương quản
lý. Đối với những vùng, địa phương công trình tưới đơn giản, thuận lợi, mức đầu tư thấp,
phạm vị phục vụ có tính độc lập, nên chuyển giao cho hợp tác xã hoặc tư nhân. Đối với hệ
thống công trình lớn sau khi hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật, trang thiết bị đầy đủ, có thể đo
đếm được khối lượng nước thì nên hình thành các doanh nghiệp đầu mối hoạt động công
ích còn các tổ chức thủy nông tiếp theo chuyển sang hoạt động kinh doanh.
3.2.6. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước trên lĩnh vực thủy nông.
Hệ thống thủy nông được xây dựng là hệ thống đa mục tiêu, trong đó mục tiêu ưu
tiên hàng đầu là cung cấp, điều hoà, phân phối nước cho nhu cầu phát triển sản xuất nông
nghiệp. Hệ thống bao gồm nhiều loại hình công trình phức tạp tổ hợp lại với nhau, phân
trải rộng theo một không gian lớn, chịu tác động rất nhiều của điều kiện tự nhiên, xã hội.
Tổ chức điều hành hoạt động của hệ thống thủy nông vừa phải tôn trọng các quy luật tự
nhiên vừa phải tôn trọng các quy luật xã hội. Hoạt động thủy nông mang tính đặc thù, đòi
hỏi phải có sự liên kết cộng đồng rất cao. Điều 29 Pháp lệnh khai thác và bảo vệ CTTL
khẳng định: "Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về khai thác và bảo vệ CTTL trong
phạm vi cả nước". Trên cơ sở đó phân công các ngành, các cấp, các cơ quan Nhà nước tuỳ
theo chức năng quyền hạn của mình để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về quản lý
thủy nông. Nội dung quản lý Nhà nước là đặc biệt quan tâm đến việc ban hành các chính
sách văn bản pháp quy về quản lý thủy nông và cũng như tổ chức thực hiện văn bản đó.
Quản lý thủy nông muốn hoạt động tốt không thể độc lập thiếu vai trò của Nhà nước.
Nâng cao vai trò của Nhà nước trước hết cần tăng cường pháp chế XHCN trong
hoạt động quản lý Nhà nước trên lĩnh vực thủy nông:
+ Xây dựng và hoàn thiện luật, văn bản dưới luật có liên quan đến công tác thủy
nông, các văn bản này phản ánh được chiến lược, chính sách, chương trình, kế hoạch, pháp
chế, quy chế điều chỉnh khi có tranh chấp.
+ Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, đặc biệt là
nông dân.
Quản lý và khai thác tài nguyên nước trong thời gian vừa qua còn có nhiều hạn chế,
đồng thời với việc tuyên truyền giáo dục nhân dân hiểu rõ, có ý thức sử dụng nước, bảo vệ
tài nguyên nước, bảo vệ công trình để phát huy bền vững nguồn tài nguyên, tài sản quý giá
này, phải làm tốt công tác giáo dục cho nhân dân hiểu rõ và thực hiện nghiêm chỉnh pháp
luật. Một mặt phải giúp nông dân nâng cao kiến thức chuyên môn về kỹ thuật sử dụng
nước, quản lý và vận hành công trình, một mặt giúp họ hiểu rõ pháp luật, từ đó tạo ra ý
thức tự giác trong việc tuân thủ pháp luật trên lĩnh vực bảo vệ, khai thác công trình thủy
nông. Tăng cường vai trò tham gia quản lý thủy nông của nông dân theo xu hướng xã hội
hoá công tác thủy nông là điều kiện bảo đảm quyền làm chủ của dân và tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thủy lợi.
+ Kiểm tra giám sát và xử lý kịp thời các vi phạm về pháp luật có liên quan đến bảo
vệ khai thác CTTL. Song song với việc bổ sung hoàn thiện pháp luật có liên quan đến thủy
nông, công tác kiểm tra giám sát thực hiện là điều kiện vô cùng quan trọng, bảo đảm cho
hệ thống pháp luật đi vào cuộc sống. Kiểm tra việc chấp hành pháp luật của cơ quan Nhà
nước, của tổ chức thủy nông, của nông dân trong lĩnh vực này. Hiện nay tình trạng vi phạm
CTTL, chiếm dụng thủy lợi phí, không thực hiện đầy đủ điều khoản thanh toán theo hợp
đồng kinh tế ở các hợp tác xã chưa được xử lý nghiêm minh, tình hình này đang là gánh
nặng cho các doanh nghiệp cần phải được kiểm tra giám sát, xử lý kịp thời, nghiêm minh
để tạo điều kiện cho quản lý thủy nông hoạt động được tốt hơn.
Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước còn thể hiện trong việc huy động đóng góp
sức dân làm CTTL. Phương châm làm thủy lợi: " Nhà nước và nhân dân cùng làm", "
Trung ương và địa phương cùng làm", là hoàn toàn đúng đắn, nhưng hiện nay do ảnh
hưởng của cơ chế thị trường, việc huy động sức dân gặp rất nhiều khó khăn, nếu Nhà
nước, chính quyền địa phương huyện, xã không tác động vào thì các doanh nghiệp không
thể huy động được. Vì vậy chính quyền các cấp từ tỉnh đến xã cần phải thể chế hoá nhiệm
vụ về công tác thủy lợi trong từng thời gian cụ thể của địa phương, hàng năm duy trì tổ
chức các chiến dịch nạo vét kênh tiêu, đắp đê..., triển khai kiểm tra tình hình thực hiện
Pháp lệnh khai thác và bảo vệ CTTL, lồng ghép chính sách thủy lợi phí với thuế nông nghiệp
để nhân dân các địa phương chấp hành giao nộp thủy lợi phí.
kết luận và kiến nghị
Đất nước ta đang tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội
lần thứ VIII của Đảng đề ra, thu được nhiều thắng lợi quan trọng, tạo thế và lực mới để
bước vào thế kỷ 21 cùng với toàn nhân loại. Trong quá trình đó Đảng ta rất coi trọng lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Thủy lợi là một ngành kinh tế - kỹ thuật thuộc kết cấu hạ
tầng, công tác quản lý thủy nông phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp và có tác
dụng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân và các mặt khác của đời sống xã hội. Để phát huy
tối đa khả năng của hệ thống CTTL, phục vụ kinh tế phát triển bền vững cần phải được tiếp
tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý thủy nông.
Trong điều kiện chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
XHCN hoạt động thủy nông còn gặp nhiều khó khăn: hệ thống công trình xuống cấp, khả
năng tài chính có hạn, thủy lợi phí ở mức lạc hậu và bị chiếm dụng lớn, hệ thống chính
sách quản lý tài chính tuy đã có nhưng còn một số chưa phù hợp, do ảnh hưởng của cơ chế
thị trường ý thức bảo vệ công trình và chấp hành pháp luật của người dân bị giảm sút. Đòi
hỏi cần phải có sự chuyển biến về nhận thức, nghiên cứu tìm các giải pháp thích hợp mới
đứng vững và phát triển.
Là một doanh nghiệp hoạt động công ích, các yếu tố đầu vào chịu chi phối của thị
trường, đầu ra do Nhà nước quy định và ổn định quá lâu. Xét cả về vi mô và vĩ mô chưa
phù hợp thích ứng trong điều kiện hiện nay.
Qua phân tích thực trạng tình hình hoạt động, các tồn tại vướng mắc hiện nay của
các DNTN trên địa bàn Thanh hoá được nêu trong luận án, luận án đã đưa ra một số hệ
thống quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới quản lý cac DNTN trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá.
Để biến các phương hướng và giải pháp thành hiện thực, chúng tôi xin đề xuất một
số kiến nghị sau:
1) Nhà nước sớm phân cấp quản lý CTTL để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức kinh tế và mọi cá nhân trong việc quản lý khai thác CTTL.
2) Nhà nước sớm ban hành Nghị định mới về thủy lợi phí thay cho Nghị định
112/CP (năm 1984) đang áp dụng hiện nay. Bảo đảm nguồn thu, đủ trang trải các chi phí
của các DNTN, tiết kiệm cấp phát ngân sách Nhà nước.
3) Nhà nước cần xem xét cấp bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp vì các
yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp này đã tăng nhiều lần trong khi đó nguồn vốn lưu
động không được bổ sung.
4) Điều chỉnh, bổ sung thông tư liên tịch số 90/1997/TTLT/TC-NN ngày 19 tháng
12 năm 1997 phần phân phối lợi tức và xem xét một số chính sách tài chính khác. Khi cân
đối xác định kết quả sản xuất của các DNNN nên cho được trích lập dự phòng nợ khó đòi
vào phí.
Danh mục tài liệu tham khảo
[1] Báo cáo quyết toán tài chính của các doanh nghiệp thuỷ nông Thanh Hoá.
Năm 1997 - 1998 - 1999.
[2] Báo cáo tổng kết công tác thuỷ lợi của Sở nông nghiệp và phát triển nông
thôn Thanh Hoá. Năm 1997 - 1998 - 1999.
[3] Ngô Chí Hoạt, Phương hướng phát triển thuỷ lợi và quản lý tài nguyên
nước đến năm 2010 để bảo đảm an toàn lương thực của Việt Nam vào thế
kỷ 21- Tạp chí thuỷ lợi số 332 (tháng 1+2/2000).
[4] Hai mươi lăm năm sự nghiệp thuỷ lợi Việt Nam. Nxb Nông nghiệp Hà
Nội - 1984.
[5] Hai thập kỷ phát triển của Châu á và triển vọng của những năm 1980.
Tập 1 - Nxb Khoa học xã hội - 1981.
[6] Nguyễn Quốc Luật, Đổi mới tổ chức và nội dung hoạt động của các xí
nghiệp thuỷ nông trong bước chuyển sang cơ chế thị trường - Luận văn
Thạc sỹ kinh tế - Hà Nội năm 1993.
[7] ThS. Đoàn Thế Lợi, Chính sách giá nước và vấn đề đổi mới mô hình tổ
chức quản lý ở các hệ thống thuỷ nông - Tạp chí thuỷ lợi số 332 (tháng
1+2/2000).
[8] Lênin, Toàn tập - Tập 39 - Nxb Tiến bộ Matxcơva năm 1979.
[9] Lênin, Tuyển tập - Tập 2 - Nxb Sự thật.
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập - Nxb Sự thật Hà Nội - 1984.
[11] Hồ Chí Minh, Tuyển tập - Nxb Sự thật Hà Nội - 1960.
[12] Nghị quyết Trung ương 5 (khoá III). Nxb Chính trị Quốc gia năm 1960.
[13] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá VII).
[14] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VIII).
[15] Niên giám thống kê. 1990-1994 - Thanh Hoá.
[16] Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi. Nxb Nông nghiệp Hà
Nội - 1996.
[17] Sơ thảo lịch sử Việt Nam, tập 1. Hà Nội - 1981.
[18] Tập san thuỷ lợi. Số 278 (tháng 1+2/1991), (tài liệu của PAO VP - Châu á
- TBD) xuất bản năm 1989.
[19] Tổng cục thống kê - Nxb Thống kê 1991,
[20] Tổ chức khai thác bảo dưỡng hệ thống tưới. Nxb Nông nghiệp - 1992.
[21] Tài liệu quy hoạch lưu trữ . Bộ Thuỷ lợi.
[22] Đào Thế Tuấn, Chiến lược phát triển nông nghiệp - Nxb năm 1986.
[23] T.S Nguyễn Đình Thịnh, Đẩy mạnh việc củng cố và phát triển thuỷ nông
cấp cơ sở, có sự tham gia của nông dân - Tạp chí thuỷ lợi số 333 (tháng
3+4/2000).
[24] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Nxb Chính trị Quốc gia năm
1960.
[25] Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII. Nxb Chính trị Quốc
gia năm 1991.
[26] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia
năm 1996.
[27] Văn kiện Đại hội Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá lần thứ XIV.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tiếp tục đổi mới quản lý các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh hoá 2.pdf