Đặc biệt, bằng một số những cách tân trong nghệ thuật như sự thay thế
kết cấu tuyến tính bằng kết cấu phi tuyến tính, sự giảm dần vai trò của các sự
kiện, xung đột trong cốt truyện, cùng những phương thức nghệ thuật xây
dựng nhân vật mà đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật thông qua
những hình thức khác nhau: thư từ, nhật ký, tiểu thuyết "uyên ương hồ
điệp" đã cho thấy sự gặp gỡ giữa nghệ thuật trong tiểu thuyết truyền thống
Trung Quốc và phương pháp sáng tác phương Tây. Từ đó, tiểu thuyết "uyên
ương hồ điệp" đã mở đầu một hình thức sáng tạo nghệ thuật mới, mở đường
cho những tiểu thuyết thông tục trong các thời kỳ sau.
71 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2368 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiểu thuyết uyên ương hồ điệp - Sự gặp gỡ Đông Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên tưởng đến thân phận của con người, của cuộc đời, về
nhân sinh. Có lẽ vì vậy mà, dưới gốc lê lại xuất hiện: “một người con gái áo
trắng quần là, dong nhan yểu điệu, dạng bộ đoan trang, đầu không phấn điểm
son tô, cũng đã tưởng tượng như một người tiên nữ. Bây giờ, đương lúc trăng
trong như nước, đêm sáng như ngày, cuối mắt đầu mày, trông rõ mồn một,
người đó chăng? Hoa hiện hình đó chăng? Mái đầu tơ rối, giọt lệ mưa rào,
cơn cớ chi đây, tựa bên cây khóc lóc?” [3;11]. Người đọc không thể phân biệt
đâu là hoa, đâu là người, hay chính là hiện thân của hoa. Bởi vì người con gái
ấy, trong khung cảnh ấy tuyệt nhiên không có chút nào giống người bình
thường mà chỉ có thể là hiện thân của cây hoa lê xấu số kia mà thôi.
Người con gái ấy đang làm gì? Nàng đang khóc, nhưng tiếng khóc của nàng
cũng không phải là tiếng khóc bình thường mà là: “tiếng khóc thánh thót não
nùng, nỉ non rầu rĩ, như lẻ bạn tiếng loan gọi nguyệt, như lạc đàn tiếng nhạn
kêu sương, làm cho đàn chim chích ngủ trên cành cây, nghe tiếng phải giật
mình tỉnh dậy.” [3;11]. Tác giả sử dụng một loạt những hình ảnh so sánh
“tiếng loan gọi nguyệt”, “nhạn lạc kêu sương” với tiếng khóc bi thương, não
nùng để thể hiện tình cảnh cô độc, từ đó, càng làm tăng thêm vẻ u sầu, bí
hiểm của người con gái đó.
Đặc biệt, Từ Chẩm Á không chỉ miêu tả dáng người con gái vừa thướt tha,
thanh tao, giản dị vừa giữ được cái vẻ thần sắc của một người con gái tuyệt
sắc mà từng bước chân của nàng cũng được ông miêu tả như những “gót sen
rón rén”[3;11], những ngón tay “trắng muốt sờ vào mặt đá” [3;11]càng làm
nổi bật vẻ đẹp tinh khiết của nàng. Ngay cả cái vẻ “chau mày nghĩ ngợi”
[3;11] cũng làm Mộng Hà phải chăm chú ngước nhìn. Và khi tiếng khóc của
người con gái ấy một lần nữa cất lên thì không khác gì nàng Lâm Đại Ngọc
đa sầu, đa cảm khóc thương hoa thuở trước: “Lần khóc này so với lần trước
lại càng ảo não hơn, thê thảm hơn, khiến người nghe như buốt đến tim gan,
so với Lâm Tần Khanh khóc ở mồ Mai Hương khi xưa thật chẳng còn bảo ai
hơn kém”.[3;11]
Đoạn trích mang môt màu sắc liêu trai huyền ảo, lấy hoa để nói người, lấy
cảnh để làm nổi bật tình. Những hình ảnh này mang tính ước lệ nhưng lại
pha lẫn nghệ thuật tả chân trong tiểu thuyết phương Tây ở cái nhìn khá chi
tiết. Hình ảnh Lê Nương không còn là sự miêu tả một cách khái quát chung
chung nữa mà là sự kết hợp giữa bút pháp miêu tả ước lệ truyền thống của
Trung Quốc và lối tả chân hiện đại của phương Tây. Bời, Từ Chẩm Á đã bắt
đầu chú trọng xây dựng ngoại hình, tính cách nhân vật qua chi tiết bình
thường nhỏ nhặt với từng yếu đố: mái tóc, quần áo, vẻ mặt, ánh mắt, dáng đi.
Đó là những cử chỉ nhỏ nhặt của một con người bình thường của cuộc đời
thực. Và Từ Chẩm Á đã khá thành công trong việc khắc họa hình ảnh, tính
cách và số phận của nhân vật Lê Nương thông qua sự kết hợp tinh tế và khéo
léo này.
Nếu bằng hình ảnh cây hoa lê, Từ Chẩm Á đã khắc họa thành công hình
tượng nhân vật Lê Nương thì sau đó ông lại thành công không kém khi dùng
hình ảnh cây hoa tân di để so sánh với nhân vật Quân Thiến.
Cây hoa tân di kia, bấy giờ lại đang độ ra hoa: “Phía tả song thơ, bên
hòn núi giả, lại có một cây tân di, bông hoa mới nở, choi chói màu hồng,
sương sớm chưa tan, long lanh cành biếc, sắc đẹp màu tươi, rực rỡ ở dưới
bóng mặt trời mới mọc, trông chẳng khác như một bức chướng gấm, khiến
người ta trông vào nhau mà phải mắt quáng thần mê.” [3;1]. Nếu so vẻ đẹp ủ
rủ,tan tác của cây hoa lê được so với cái vẻ đẹp não nùng, bi thương của Lê
Nương thì cái vẻ đẹp rực rỡ của cây hoa tân di này phải là vẻ đẹp của một
thiếu nữ mơn mởn, tươi sắc; vẻ đẹp của người con gái đương độ xuân thì,
tràn đầy sức sống như Quân Thiến lúc này: “Quân Thiến tuổi càng lớn lên,
người càng xinh đẹp, chiều thanh vẻ lịch, tót bậc trần ai, mà cuối mắt đầu
mày, thường lộ ra cái vẻ kiêu kỳ ngạo nghễ”.[3;83].
Thông qua miêu tả sự yếu ớt, chết dần chết mòn của hoa lê và sự tươi mới,
rực rỡ của hoa tân di, Từ Chẩm Á đã thể hiện được tình cảnh hiện thời của
hai cô gái Lê Nương và Quân Thiến: “Hai cây hoa song song đối nhau, mà
một bên như sùi sụt khóc, một bên như nhởn nhơ cười, mỗi bên đều như mở
riêng ra một cái trời đất khác. Cùng ở trong một cảnh mà bên nở bên tàn, bên
tươi bên héo; gốc hoa lê tiều tụy nọ, thật đã chẳng khác như số phận các chị
em bạc mệnh trong thiên hạ, đứng đối với cây tân di đương độ khoe thắm,
phô tươi, màu xuân hớn hở, há chẳng cũng đau lòng mà thương cho thân
phận lắm sao!” [3;1]. Tình cảnh cây hoa lê cũng chính là tình cảnh đáng
thương của nàng Lê Nương mà vẻ kiêu ngạo của cây tân di kia cũng chính là
cái thế của Quân Thiến lúc này.
Đặc biệt, Từ Chẩm Á dùng hình ảnh hoa để khắc họa nhân vật không chỉ để
thấy sự khác biệt giữa hai nhân vật mà thông qua đó, ông còn đề cập đến số
phận của người phụ nữ. Bởi đã là giống hoa, đã có lúc nở thì phải có khắc
tàn, số phận của cây hoa tân di cũng không khác gì cây hoa lê đáng thương
kia: “Cây hoa kia sao mà tốt đẹp làm vậy? Ỷ thế chúa xuân chiều chuộng,
mặc lòng chuốt lục tô đồng, trăm sáu thiều quang, chiếm cả chữ còn nhường
ai nữa! Thế nhưng, hoa tươi nào được mấy, cảnh đẹp chẳng bao lâu, dì gió
kia đối với trăm hoa, thường lúc ra ân, mà lúc lại ra uy, trước đã giục giã cho
hoa nở, sau lại vùi vập cho hoa tàn”[3; 9]. Vì vậy mà, “hoa tân di này số phận
rồi đây tất cũng lại đến như hoa lê trong mả mà thôi, ngày nay đỏ ối đầy
cành, ta trông chẳng khác những giọt lệ sầu nhuốm máu.” [3; 9].
Cuối cùng đã là hoa thì cũng đều phận mỏng như nhau, chỉ khác là vào lúc
nào mà thôi. Số phận Quân Thiến cũng vậy, là một cô gái đang độ xuân xanh,
sức khỏe dồi dào, tinh thần phấn chấn nhưng cuối cùng chẳng bao lâu cũng
phải lìa trần: “Ta ốm nặng lắm, một giọt nước cũng không uống được vào
miệng, chân tay tê dại, dần dần mất cả tri giác, họng khô ráo, không nói được
ra tiếng, đờm lên hơi nghẹn, tiếng thở khò khe, tựa như có người chẹn cổ ta,
nỗi khổ thật không sao siết nói”. [3; 211,212]. Số phận của hoa cũng là số
phận của Lê Nương, Quân Thiến mà số phận của Lê Nương, Quân Thiến
cũng chính là số phận của hai cây hoa đó. Vì vậy mà: “Sau khi Lê phu nhân
chết, cây lê sang xuân liền không ra hoa, tân di tuy có ra hoa, nhưng cũng
không được như năm trước. Tháng sáu năm ấy Quân cô nương lại chết, hai
cây đều khô héo đi dần, cành lá thướt tha, đã không còn vẻ tốt tươi ngày
trước. Đến sau khi ông chủ tôi chết, chúng tôi đến đây, thì chỉ thấy hai cái
gốc khô, đứng trơ sừng sững, cành lá đều mất hết cả rồi.” [3]. Đây cũng là
một cách xây dựng nhân vật tinh tế tạo cho tác phẩm vừa thơ mộng vừa mang
đậm chất bi thương.
Mặc dù nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật thông qua ngoại hình trong tiểu
thuyết Từ Chẩm Á còn nhiều hạn chế, chưa thoát khỏi lối miêu tả truyền
thống trong. Nhưng so với kiểu miêu tả nhân vật: “ví hoa hoa biết nói, ví
ngọc ngọc thêm hương” trong tiểu thuyết tài tử giai nhân, cách miêu tả chân
dung nhân vật trong tiểu thuyết Từ Chẩm Á đã bước đầu có những biểu hiện
theo hướng cụ thể hóa, cá thể hóa của bút pháp tả chân trong tiểu thuyết của
phương Tây. Nhân vật có thể được miêu tả một cách kỹ càng từ chân dung
ngoại hình cho đến suy tư thầm kín bên trong, từ hành trạng cho đến quá
trình phát triển tâm lý, từ quan hệ này đến quan hệ khác.
Bên cạnh hình tượng nhân vật nữ còn có hình tượng nhân vật vật nam.
Nhưng khi xây dựng hình tượng nhân vật nam, Từ Chẩm Á thường ít chú
trọng đến miêu tả ngoại hình hơn so với nhân vật nữ: “Mộng Hà lúc nhỏ, mặt
mày đẹp đẽ, tư chất thông minh, cắp sách theo anh, lui tới cửa thầy, bé đã nổi
tiếng là thần đồng, lớn lại nức danh là tài tử”.[3; 12]. Hay “lại có một người
cũng ở đây đồng học với công tử nhà ta, vốn nhà thanh bần, họ Thẩm, tên là
Giát Phu, là cháu gọi phu nhân bằng cô, cùng đồng niên với công tử; cứ nghe
thầy giáo nói thì tài học của người ấy có phần giỏi hơn công tử nhà ta”. [6; 8].
Từ đó, có thể thấy, Từ Chẩm Á đặc biệt ưu ái khi khắc họa tính cách, số phận
của nhân vật nữ thông qua ngoại hình hơn so với nhân vật nam.
3.3.1.2. Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật thông qua hành động và
đối thoại.
Bên cạnh miêu tả tính cách thông qua ngoại hình, trong những tiểu thuyết cổ
điển Trung Quốc, những sự kiện trong cốt truyện đóng vai trò quan trọng nên
tác giả thường miêu tả tính cách nhân vật thông qua hành động của nhân vật.
Bởi, xây dựng nhân vật qua miêu tả hành động góp phần đáng kể vào việc thể
hiện tính cách nhân vật. Và những hành động của nhân vật được các tác giả
miêu tả sinh động sẽ có tác dụng lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. Nhưng cũng
như đã đề cập ở phần cốt truyện, càng về sau cốt truyện của những tiểu thuyết
"uyên ương hồ điệp" càng ngày càng ít xung đột và sự kiện. Vì vậy, hành
động của nhân vật cũng giảm dần mà thay vào đó là những diễn biến tâm lý.
Song bên cạnh đó, Từ Chẩm Á vẫn khắc họa tính cách của các nhân vật
thông qua một số hành động tiêu biểu. Trong đó đặc biệt là hành động chôn
hoa của Mộng Hà:
“Mộng Hà trông thấy hoa rụng mà thốt lên: “Đa tình ta lại cười ta, yêu hoa là
tính, thương hoa là tình”.
Trông xuống gốc cây thấy hoa lấm láp mà ai ngao ngán cho đời: “Chơi hoa
lúc hãy còn tươi, đến khi hoa rụng ai người thương hoa!”
Bắt chước Giả Bảo Ngọc ngày xưa, lần thần ra nhặt những cánh hoa rụng
đem chôn một đống.” [4; tr.22].
Lê Ảnh trông mộ hoa mà xót xa cho phận mình:
“Đêm lạnh như tuyết, bóng trăng tờ mờ, ước chừng non nửa đêm,
thấy có tiếng khóc sùi sụt, ngóc dậy rồi ngó ra, thấy một người con gái
mặc áo trắng đứng ở bên cây lê mà khóc thầm.
Người ấy là ai?
Chính là Bạch Lê Ảnh, Lê Ảnh làm sao mà khóc hoa? Đã một
người chôn hoa, lại một người khóc hoa! Hoa ôi! Thôi hoa đừng khóc
nữa mà hoa nên cười, gặp người tri kỷ may đời cho hoa.
Nước mắt ngồi nhìn người nước mắt;
Đau lòng lại gặp khách đau lòng.” [4; tr.22].
Như đã nói ở trên, một trong những đặc tính của cả nhân vật nam và nữ trong
tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" nói chung và tiểu thuyết Từ Chẩm Á nói
riêng là bên cạnh vẻ đẹp và tài năng, những nhân vật này còn rất nhạy cảm và
đa tình. Mộng Hà từ nhỏ đã yêu thích Hồng lâu mộng, thích những tập văn
chương âu sầu, đau thương. Đặc biệt mỗi khi đọc đến đoạn Lâm Đại Ngọc
chôn hoa lại càng buồn bã. Vì vậy mà khi thấy hoa rụng, Mộng Hà không
khỏi đau lòng, thương cảm mà nhặt hoa đem chôn. Còn Lê Nương kia lại
thấy hoa rụng mà khóc thương hoa, cũng là người đa sầu, đa cảm chẳng khác
gì Lâm Đại Ngọc thuở trước. Thông qua đoạn trích miêu tả hành động của
nhân vật Mộng Hà, Từ Chẩm Á đã khắc họa một chàng Mộng hà đa tình
nhưng cũng đa tình; một góa phụ Lê Nương yếu đuối, nhạy cảm.
Ngoài việc miêu tả tính cách nhân vật thông qua ngoại hình và hành động,
Từ Chẩm Á cũng chú ý và dụng công miêu tả nhân vật qua đối thoại. Mặc dù
đối thoại trong tiểu thuyết Từ Chẩm Á không nhiều.
Khi mối tình của Mộng Hà và Lê Nương bị thầy giáo Lý phát hiện, hai người
hẹn gặp nhau. Thông qua đối thoại của hai nhân vật, chúng ta có thể thấy
được tính cách của từng nhân vật:
“Mộng Hà cũng khóc mà rằng: Không phải, tôi cũng chỉ tự oán mình tôi đấy
thôi. Nhưng hai tình đã đến thế này cũng chẳng làm sao được nữa. Trời xanh
độc địa, cố ý làm cho mình phải chia rẽ, nên mới để ác ma được toại mưu
gian, nỗi ngăn trở sau này chắc chắn sẽ còn nhiều lắm. Kế lại hậm hực mà nói
rằng: “Thằng giặc này quyết không để được, tôi sẽ phải khu trừ nó đi cho
tuyệt mối lo về sau này.”[3; 128].
Lê Nương biến sắc mà rằng:
“Không nên thế, không nên thế. Anh muốn một mình hắn biết chuyện hay
muốn cả mọi người cùng biết hay sao? Hắn đã dò biết được chuyện bí mật
của mình, nay hắn chỉ nhích lưỡi hé môi là chuyện của mình vỡ lở. Vậy anh
phải lấy đạo nghĩa mà giao thiệp với hắn, cùng hắn vẫn thân mật như ngày
trước, tựa hồ như không biết chuyện gì. Nếu hắn mà còn có lương tâm, tất
chịu sức cảm hóa của anh mà sinh ra lòng hổ thẹn.”[3;129].
Tính cách của nhân vật Mộng Hà và Lê Nương ngày càng hiện rõ hơn thông
qua đoạn đối thoại trên: Mộng Hà là người nhu nhược, suy nghĩ không được
thấu đáo, hành động còn quá nông cạn, trong khi Lê Nương tuy là phụ nữ
nhưng có phần lý trí hơn, suy nghĩ trước sau đều cân nhắc hơn thiệt.
Chúng ta cũng sẽ bắt gặp tình huống tương tự trong đoạn đối thoại của nhân
vật Giát Phu và Lê Vân (Giấc mộng nàng Lê):
“Bấy giờ trong nhà duy có Lê Vân với Giát Phu. Giát Phu không thể cầm
lòng, bèn sang phòng Lê Vân đến bên giường sẽ gọi mấy tiếng. Lê Vân vén
màn trông xem bất giác cả kinh mà rằng:
Công tử sao mà đến đây làm gì?
Giát Phu không biết nói làm sao, sẵn mỗi thương tâm, liền giàn dụa hai hàng
nước mắt, giọt châu thánh thót rơi cả vào bàn tay Lê Vân. Lê Vân thương
cảm vô cùng, bất giác cũng rưng rưng hàng lệ. Hai người nhìn nhau phẳng
lặng, không nói gì cả. Một lúc lâu, Lê Vân giục Giát Phu đi ra. Giát Phu chưa
chịu ra. Lê Vân đương lúc nặng lòng cảm kích bỗng buột miệng nói ra rằng:
Công tử nên đi ra đi. Cái thịnh tình của công tử tôi đã biết lắm rồi. Nay tôi
đương ốm, công tử muốn tỏ tình thương tôi; nhưng tôi e rằng chính là công tử
sẽ để lụy cho tôi; công tử há lại nỡ lòng sao?”[6; 33]
Sự khác biệt trong tính cách của nhân vật Giát Phu và Lê Vân cũng giống
như sự khác biệt trong tính cách của Mộng Hà và Lê Nương. So với nhân vật
nữ, các nhân vật nam có phần nhu nhược, dễ xúc động, thường bị chi phối
bằng tình cảm nhiều hơn. Còn các nhân vật nữ lại tự chủ, quyết đoán, táo bạo
hơn. Với cách miêu tả nhân vật này, Từ Chẩm Á đã mang lại màu sắc, âm
hưởng mới so với những tiểu thuyết cũ về hình tượng nhân vật nữ.
Có thể thấy rằng, tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" đã thành công trong việc
miêu tả tính cách thông qua hành động và đối thoại giữa các nhân vật. Bởi
những hành động, những lời thoại nhân vật xuất phát từ chính những suy
nghĩ, những diễn biến tâm lý, tính cách bên trong của nhân vật. Đó là một
trong những phương diện đặc trưng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nói
riêng và nghệ thuật tiểu thuyết nói chung.
3.3.3. Nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật
Cũng bởi vì tính cách nhân vật thường được thể hiện qua hình dáng, cử chỉ,
bên ngoài nên trong tiểu thuyết tài tử giai nhân các nhân vật thường mang
tính cách ổn định, bất biến. Các hành động thường đơn giản, dứt khoát, ít có
sự xung đột, đấu tranh nội tâm. Điều này cho thấy trong giai đoạn trước,
người sáng tác chưa nhận thức được những diễn biến tâm lý, những đấu tranh
mâu thuẫn bên trong nhân vật sẽ có thể tác động đến số phận nhân vật đó.
Nhưng đến thời kỳ này, các nhà văn phái "uyên ương hồ điệp" mà Từ Chẩm
Á là một trong những người đi tiên phong cũng như đánh dấu sự thành công
trong việc cách tân nghệ thuật tiểu thuyết Trung Quốc đã đem đến một làn
gió mới, một hơi thở thực sự cho nhân vật bằng cách tạo nên một tâm hồn
thật, một con người thật với đầy đủ những biến đổi tâm lý, những mâu thuẫn
nội tâm. Và trong phần này chúng tôi sẽ đề cập đến nghệ thuật xây dựng tâm
lý nhân vật tập trung trong ba phương diện chính: thư từ, thơ, và nhật ký.
3.3.3.1. Nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật thông qua thư từ
Từ Chẩm Á đã phát hiện thế giới nội tâm của nhân vật bằng những bức thư
tâm tình. Như chúng ta đã biết, thư là một hình thức tự sự mang tính cá nhân.
Thông thường một bức thư được viết thể hiện những tâm trạng, suy nghĩ của
người viết và chỉ gửi cho một đối tượng nhất định, có quan hệ mật thiết đối
với chủ thể bức thư mà thôi. Vì vậy, thư từ mà một phương tiện rất giá trị để
nhân vật tự bộc lộ mình rõ rất trong những nỗi niềm riềng tư sâu kín nhất.
Trong tiểu thuyết Ngọc lê hồn và Tuyết hồng lệ sử do tính chất mối quan hệ
giữa Mộng Hà và Lê Nương nên hai người không thể gặp mặt nhau. Mỗi lần
Lê Nương đến phòng Mộng Hà đều phải lựa lúc Mộng Hà đi vắng và phải
trao đổi tâm tình qua những bức thư được chuyển bởi cậu bé Bằng Lang.
Những bức thư là lời tâm tình mà hai người không thể bày tỏ trực tiếp với đối
phương. Thông qua bức thư những suy tư, lo lắng, nhớ mong được thể hiện
rất rõ nét. Đó là niềm vui sướng khi tìm được người tri kỷ, đồng cảm với
nhau. Là những lời tâm sự của những người trẻ tuổi không để vượt qua
những ranh giới đạo đức mà đến với nhau:
“Đọc thơ lời lẽ ân cần, hình như muốn nín nhịn không xong; Lê Nương dầu
ngu, lẽ nào không biết cảm. Thế nhưng nghĩ lại thì tơ duyên đã lỗi, lửa tình
đã nguội,âu đành cam phận mà thôi. Song the vò võ một mình, ngồi mà nhớ
lại hồi trẻ ngày xưa, hăm tư trận gió hoa rụng hết rồi; trăm sáu thiều quang,
xuân đâu còn nữa. Gương trót vỡ chắp làm sao được, trâm đã lìa nối có liền
đâu! Lòng này đã như nước giếng thơi, can chi còn gây gợn phong ba để tự
mở lấy đường chìm đắm; tấm thân bạc mệnh, thực không còn muốn để lụy
cho người quân tử làm gì. “[4; 33].
Qua những lời lẽ trong bức thư, Lê Nương đã thể hiện những suy nghĩ của
nàng. Nàng biết được tình cảm sâu sắc Mộng Hà dành cho mình, nhưng vì
đạo đức, vì lễ giáo, vì danh tiết màLê Nương vẫn một mực khước từ. Nàng
thấy mình đã trở thành góa phụ thì tình duyên cũng đã đứt. Nếu mà cứ vương
vấn tơ tình với Mộng Hà thì sẽ làm ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp của
chàng, vậy há chảng phải là hại chàng sao? Những lời tâm tình này nếu
không nhờ những bức thư để bày tỏ có lẽ sẽ khó chân thực, sâu sắc được đến
vậy.
Đặc biệt, khi những những bức thư trao đổi giữa Mộng Hà và Lê Nương ngày
càng nhiều, tình cảm giữa hai người càng sâu nặng, đồng nghĩa với những
mâu thuẫn trong nội tâm nhân vật càng cao. Nhân vật lúc này bị mâu thuẫn
giữa nhu cầu hạnh phúc cá nhân và lễ giáo phong kiến. Bởi, một mặt nhân vật
không chịu từ bỏ tình cảm, nhất quyết chung tình nhưng một mặt lại không
dám vượt qua những lễ giáo phong kiến, những định kiến xã hội mà đến với
nhau. Và những mâu thuẫn này cũng được miêu tả lên đến đỉnh điểm khi Lê
Ảnh gửi trả Mộng Hà tập một cái khăn tay bọc một tập thơ Thạch đầu ký, và
một tờ giấy viết: “… Xưa nay sắc tức là không chắc gì trước mắt; thảng hoặc
tình còn chưa hết, xin hẹn kiếp sau” [4; 125]. Sau đó, khi nhận được huyết
thư trả lời của Mộng Hà, mặc dù tim gan đau nhói nhưng Lê Ảnh vẫn phải
quyết định chết để Mộng Hà quên hẳn nàng mà dành tình cảm cho Quân
Thiếu: “Nghĩ bụng dễ thường không chết không xong, chết thì cũng không
làm gì. Nghĩ là mắc vào lưới tình mà không biết tìm đường thoát ra, ngã
xuống bể ái mà không biết mệt sức mà bơi lên, thì khác gì chui vào áo quan
mà cầu sống sao được?”. [4; 127].
Về phần Mộng Hà, tâm lý chàng có sự vận động dữ dội trong mỗi bức thư.
Ban đầu Mộng Hà còn thề nếu kiếp này không lấy được Lê Nương cũng sẽ
không kết hôn với ai cho đến trọn đời: “Không những rằng trong nữ giới đời
này đã mấy người được như mợ, nhưng nếu có nữa, tôi cũng không chung
tình với ai nữa. Nếu không được mợ thì tôi cũng xin thôi cái sự nhân duyên
một đời. Sống đã vô duyên, thà chết đi cho xong, để kết cái duyên kiếp sau
vậy”. [4; 45]. Vậy mà, khi Lê Ảnh ốm nặng, chàng lại tự trách mình: “Lời thề
bên tai là một cái bùa dáng mệnh. Giá tôi không có tờ trước thì mợ cũng chưa
đến nỗi ốm”. [4; 50]. Mà sau đó, Mộng Hà cũng đành chấp nhận cưới Quân
Thiếu theo ý của Lê Ảnh: “Than ôi! Lê Ảnh ơi! bây giờ tôi xin vâng rồi, tôi
vẫn thường nói rằng: người ta không bằng bù-dìn. Từ nay trở đi, tôi xin bù-
dìn, muốn dắt vào đâu, muốn làm thế nào, bảo sống, bảo chết, bảo đi ngược,
bảo xuống xuôi, tôi xin nhường quyền cho mợ hết cả”. [4; 61]. Nhưng dù
đồng ý kết hôn với Quân Thiếu,vậy mà, khi Lê Ảnh gửi trả tập thơ để đoạn
ân tình, Mộng Hà vẫn không chấp nhận và sau đó lại còn viết thư cho Lê
Nương bằng những lời hờn dỗi, oán trách: “Tôi không phải là cây gỗ, không
phải là hòn đá, há chẳng biết mợ vì một người tri kỷ mà đến nỗi nát ruột tan
gan, hết lòng hết sức đến thế là cùng. Mợ không yêu tôi thì còn yêu ai nữa?
Mợ không thương tôi thì còn thương ai nữa? Mợ muốn tuyệt tôi, thế là mợ
muốn giết chết tôi, mợ nỡ giết chết tôi ư?”. [3; 125].
Với hình thức đối thoại qua thư, những diễn biến, trạng thái tâm lý của nhân
vật được thể hiện hết sức tự nhiên và sinh động. Người đọc có thể khám phá
chiều sâu con người bên trong của nhân vật, từ đó thấy được bản chất, thế
giới tâm hồn, trí tuệ và những diễn biến tâm lý mà nhân vật không biểu lộ ra
ngoài. Đặc biệt, sự tương tác qua lại giữa những bức thư đã góp phần thúc
đẩy tâm lý nhân vật vận động và phát triển. Bởi, thông qua những bức thư,
những suy nghĩ của nhân vật này sẽ tác động đến tâm lý nhân vật kia không
dứt, khiến cho mỗi nhân vật phải luôn suy nghĩ và dằn vặt. Vì vậy, có thể
thấy rằng, nếu trong tiểu thuyết truyền thống, đặc biệt là tiểu thuyết tài tử giai
nhân các sự kiện, mâu thuẫn bên ngoài thúc đẩy hành động của nhân vật thì
trong tiểu thuyết của Từ Chẩm Á những suy nghĩ, mâu thuẫn bên trong giữa
các nhân vật được thể hiện trong thư đã thúc đẩy quá trình phát triển tâm lý
của các nhân vật đó.
Và chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy rằng, miêu tả tâm lý qua thư là
cũng một hình thức mà Từ Chẩm Á đã tiếp thu từ tiểu thuyết Trà hoa nữ của
nhà văn Pháp Alexandre Dumas. Trong Trà hoa nữ, nhà văn Dumas cũng
thông qua những bức thư để đi sâu vào những suy nghĩ của hai nhân vật
Marguerite và Duval. Chúng ta có thể thấy, trong mỗi bức thư những diễn
biễn tâm lý Duval lại hiện lên khác nhau, lúc thì: “Vĩnh biệt Marguerite yêu
dấu, anh không đủ giàu để yêu em, như anh mơ ước, và cũng chẳng phải
nghèo để yêu theo ý muốn của em. Vậy ta hãy quên nhau đi, em hãy quên
một cái tên hầu như xa lạ, còn anh, quên một hạnh phúc đã trở nên vô vọng.”
[11; 159]. Nhưng chỉ ngay sau đó lại: “Có người ăn năn về lá thư đã viết hôm
qua. Ngày mai sẽ ra đi nếu không được em tha thứ, người ấy muốn biết bao
giờ thì anh ta có thể phủ phục dưới chân em mà sám hối.” [11; 170]. Những
suy nghĩ của nhân vật Duval không bao giờ nhất quán mà qua mỗi bức thư,
tình cảm của chàng cũng thay phiên nhau bộc tả: lúc yêu thương, lúc giận
dỗi, khi lại xa lạ, trách móc,…giống như tâm trạng của nhân vật Mộng Hà
trong mỗi bức thư gửi cho Lê Nương.
Bên cạnh đó, có lẽ Từ Chẩm Á cũng chịu ảnh hưởng về nghệ thuật miêu tả
tâm lý nhân vật qua thư từ Nỗi đau của chàng Werther, tiểu thuyết theo thể
thư tín của đại thi hào người Đức Johann Wolfgang von Goethe. Đây là cuốn
tiểu thuyết vừa ra đời đã gây nên tiếng vang chấn động trên văn đàn cũng như
trong lòng xã hội Đức. Thông qua những bức gửi cho người bạn Winhelm,
Werther kể cho người bạn của mình những cảm xúc đầu tiên từ khi chàng đến
một vùng quê:
“Ngày 4 tháng 5 năm 1771
Thật vui sướng biết bao khi tôi đã đi rồi! Bạn quý ơi, có nghĩa chi đâu trái tim
của con người! Phải từ giã bạn ra đi, từ giã người tôi yêu thương vô hạn, từ
giã người tôi không thể tách rời, thế mà lòng tôi lại sướng vui! Tôi biết bạn sẽ
lượng thứ cho tôi. Nhưng còn những mối tình giao du khác của tôi thì phải
chăng định mệnh đã cố tình run rủi, khiến cho một trái tim như trái tim tôi
phải lo âu sợ hãi?”[17;21]
Sau đó là câu chuyện tình đầy lãng mạn của chàng và nàng Lothea, con gái
một viên pháp quan ở vùng quê đó:
“Tôi không sao cưỡng lại được lòng mình, và đã phải lên ngựa đến thăm
nàng. Tôi vừa về nhà đấy, Winhelm ạ, tôi sẽ ăn bánh mì thay cho bữa tối và
viết tiếp cho bạn. Ôi chao! Thật là diễm phúc cho tâm hồn khi tôi được ngắm
nàng giữa tám đứa em trai và gái; linh lợi và dễ thương biết bao, đương xúm
xít quanh nàng!” [17;43].
Những lời lẽ mà chàng Wether viết trong thư cho người bạn Winhelm chính
là những diễn biến, sự kiện trong cuộc sống cũng như trong tâm lý của chàng.
Nhờ hình thức miêu tả tâm lý khéo léo, chân thực, Nỗi đau của chàng
Werther đã làm vơi đi nỗi u uất, khiến cho thanh niên Đức đương thời như
trút bỏ được sự sầu khổ tích tụ trong lòng và từng được bình chọn là một
trong một trăm cuốn sách có sức ảnh hưởng khắp thế giới. Vì vậy, có lẽ khi
sáng tác Tuyết hồng lệ sử, Từ Chẩm Á phần nào cũng chịu ảnh hưởng từ
phương pháp sáng tác này của Goethe.
3.3.3.2. Nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật thông qua thơ
Thơ là một thể loại trữ tình, một mặt nó “tác động đến người đọc bằng sự
nhận thức cuộc sống vừa bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với
những cảm xúc suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua liên tưởng và những tưởng
tượng phong phú, vừa theo những mạch cảm nghĩ, vừa bằng sự rung động
của ngôn từ giàu nhạc điệu” [16; 206]; mặt khác nó là sự giải phóng những gì
ẩn sâu trong tâm hồn và thế giới nội tâm sâu kín của người sáng tác ra nó.
Đúng như Belinsky đã từng nói: “thơ là tất cả những gì làm cho phải quan
tâm, gây xúc động với niềm vui, nỗi buồn, thú say mê, sự đau khổ, nỗi lo
lắng, niềm an tâm,… tóm lại tất cả những gì tạo nên cuộc sống tinh thần của
chủ thể, hòa nhập và nảy sinh trong tác giả.” [16; 210].
Trong văn học Trung Quốc, thơ ca là một trong những thành tựu nổi bật, luôn
gắn liền với văn học chính thống, văn học thanh nhã. Bởi vì thơ chính là hình
thức cao nhất trong việc phản ánh tinh thần và tư tưởng của một con người.
Đến khi tiểu thuyết được hình thành và trở thành một trong những thể loại tự
sự quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc, thơ ca vẫn giữa một địa vị
nhất định không hề thay đổi. Bên cạnh đó, thơ thường được các nhà văn đưa
vào tác phẩm, làm câu chuyện trở nên phong phú, đa dạng và hấp dẫn hơn.
Đặc biệt, trong những truyện giai nhân tài tử, các nhân vật thường lấy thơ ca
để phân định tài năng. Vì vậy, các tác giả thường thêm thơ ca vào để thể hiện
tài hoa của các nhân vật và giúp tác phẩm tăng phần thi vị, phong nhã. Nhưng
càng về sau, thơ ca lại trở thành một phương tiện đắc dụng dùng để miêu tả
tâm tính nhân vật mà bộ tiểu thuyết trường thiên Hồng lâu mộng của nhà văn
Tào Tuyết Cần đã đạt đến đỉnh cao đó. Đến Từ Chẩm Á, thơ trở thành một bộ
phận quan trọng trong các thiên tiểu thuyết của ông. Mỗi suy nghĩ, tâm trạng
của từng nhân vật đều được thể hiện trong thơ của họ. Theo thống kê có thể
thấy, riêng tác phẩm Vợ tôi không có sự xuất hiện của các bài thơ. Còn trong
ba tác phẩm còn lại Từ Chẩm Á đều xen kẽ vào câu chuyện những bài thơ đối
đáp giữa các nhân vật.
Giấc mộng nàng Lê có tất cả bốn bài thơ, một bài tiểu từ theo điệu
Giang Nam. Trong đó, có một bài thơ và một bài tiểu từ do Huệ Xuân sáng
tác, một bài thơ do Lê Vân sáng tác, còn hai bài còn lại là của Giát Phu.
Những bài thơ này tuy thiên về mặt xướng họa mua vui nhưng cũng thể hiện
được phần nào tâm lý của từng nhân vật. Như một bài thơ của Huệ Xuân là
do nàng sáng tác lúc đương ốm, nhìn ngắm thiên nhiên ngoài kia mà buồn
tủi. Còn bài tiểu từ được nàng viết khi ốm nặng, biết không còn hi vọng gì
cứu chữa được:
“I
Dung nhan tốt
Thảm não bóng trong gương!
Việc tốt chồn mong, ngao ngán thiếp,
Thơ sầu ngại đọc, ngóng trông chàng,
Bao thuở thấy tin sương?
II
Dung nhan tốt
Chi kém vẻ hoa đào.
Ngán nỗi xuân quang trò biến huyễn,
Buồn tênh thân thế giấc chiêm bao.
Tâm sự khổ dường bao!
III
Dung nhan tốt,
E nỗi tốt khôn bền,
Ngọn sắp châu rơi lau chẳng ráo.
Lò hương khói tắt thổi không nhen
Gan ruột đứt lòi phen.
IV
Dung nhan tốt.
Ai lấy kẻ ấy tri âm?
Hoa rụng tơi bời hoa có ý,
Nước trôi cuồn cuộn nước vô tâm
Nông nỗi nghĩ thương thầm.”[6;60]
Trong bài từ này, mỗi đoạn Huệ Xuân đều bắt đầu bằng một câu “dung nhan
tốt” để thể hiện sự chua xót cho số phận của mình. Sinh ra trong một gia đình
quyền quý, không có chi phải lo phiền, dung mạo, tài năng lại hơn người
nhưng tình duyên lại lạnh lẽo. Từ khi Giát Phu phẫn chí bỏ đi, ngày tháng cứ
trôi qua vùn vụt. Huệ Xuân mong mỏi Giát Phu trở về nhưng bóng dáng của
chàng vẫn mịt mờ, xa xăm. Từ đó, nàng thành ra như dại như ngây, chẳng
thiết tha gì đến vui thu cuộc đời, sầu xuân muôn bộc, u uất tình riêng khôn tỏ,
dung nhan vì thế mà càng tiều tụy. Đặc biệt ở đoạn cuối, câu hỏi bắt đầu bằng
chữ “ai” nhấn mạnh thêm sự trống vắng và tâm trạng cô đơn; còn hình ảnh
“hoa rụng”, “nước trôi” lại càng thể hiện thân phận yếu ớt, mỏng manh của
nàng.
Còn khi Giát Phu ôm nặng một mối tư tình mà không thể bày tỏ cũng chỉ biết
ngâm thơ mà trút sầu hận trong lòng:
“Thơ thẩn này ai tựa mái lầu,
Bên giời trông thẳm biết là đâu!
Mấy hàng thư gửi trăm hàng lệ,
Một mối tình mang vạn mối sầu.
Vùn vụt xuân đưa thoi én gấp,
Tơi bời hoa phải trận mưa mau.
Gặp nhau chẳng dễ, trao thơ khó
Lối hẻm thuyền con gió tạt đầu!
…….
Tình ở tâm đầu khôn vạch tỏ,
Mình không lông cánh khó bay sang!
Nước trôi sóng vỗ thân phiêu bạc,
Én ghét oanh ghen phận nhỡ nhàng.
Lệ thảm vì ai rơi thấm áo,
Trăm năm duyên kiếp uổng mơ màng.” [6; 52]
Với những hình ảnh hiu hắt, ảm đạm, bài thơ thể hiện tâm trạng u sầu, uất ức
của Giát Phu vì quá thương nhớ Lê Vân khi nàng bỏ đi. Chàng cho rằng Lê
Vân đi cũng vì do người nào đó bức bách nhưng không thể nói ra mà đành
xót thương cho thân phận của hai người: Không biết lúc này Lê Vân trôi dạt
về đâu, tình duyên của hai người chẳng lẽ dừng tại đây?
Trong Ngọc lê hồn, các bài thơ chiếm một số lượng lớn, theo thống kê, Ngọc
lê hồn có khoảng trên dưới 50 bài thơ. Mỗi bài thơ đều là những tâm tư tình
cảm xuất phát từ những suy nghĩ bên trong nhân vật. Sau khi bắt gặp cảnh
Mộng Hà thương hoa mà nhặt cánh hoa đem chôn, Lê Nương đã viết một bài
từ thể hiện sự đồng cảm và xúc động của mình đối với Mộng Hà:
“Khéo phũ phàng thay trận gió đông,
Chôn hoa để khách ngẩn ngơ lòng
Chiều hôm dạo gót vườn xuân vắng,
Man mác sầu ai chửa dễ đong
Tình một mối,
Lệ đôi dòng.
Đoạn trường sổ rút được tên không?
Buồn tênh nước chảy bông hoa rụng,
Lạnh ngắt song khuya bóng nguyệt lồng.”[3; 35]
Thông qua bài từ trên, Lê Nương thể hiện nỗi lòng sầu muộn của mình. Thấy
cảnh Mộng Hà chôn hoa vừa thầm cảm mến cái lòng tiếc thương hoa của
chàng, từ đó xem Mộng Hà như người tri âm tri kỷ; sau đó Lê Nương lại vừa
lấy hình ảnh “buồn tênh nước chảy bông hoa rụng”, “lạnh ngắt song khuya
bóng nguyệt hồng” để giãi bày cùng Mộng Hà thân phận mỏng manh, cô đơn,
lạnh lẽo của mình. Chỉ một bài từ đã thể hiện hết mọi tâm tư của Lê Nương.
Để đáp lại tấm lòng Lê Nương, Mộng Hà cũng viết lại tám bài thơ để trút nỗi
lòng bực tức của mình:
“I
Nhiều sầu lắm bệnh ngán cho thân,
Cợt ghẹo người chi oanh trước sân
Ánh ỏi dường than xuân sắp hết,
Hoa hương thôi đã nhạt phai dần.
II.
Đã rõ cho nhau một tấm tình,
Mộng hồn vơ vất lúc tàn canh;
Lòng gần xót nỗi người xa lắc,
Thâp thoáng này ai dưới bóng cành?”[3;36].
Mượn những hình ảnh của thiên nhiên, những biến đổi của thời gian, lời thơ
của Mộng Hà vừa xen lẫn cảm xúc bi thương đau khổ cho số phận lênh đênh,
trắc trở của mình nhưng lại vừa len lỏi niệm vui sướng. Vì trước đây Mộng
Hà vốn đã yêu thích tác phẩm Thạch đầu ký, vẫn mong mỏi tìm được người
tri âm tri kỷ như Lâm Đại Ngọc. Nay đã tìm được người khóc thương hoa
không khác gì Lâm Đại Ngọc, lại đồng cảm với nỗi lòng của mình, cùng
nhau xướng họa thơ từ, trao đổi tình ý thì không vui sướng nào bằng:
“Đôi phen thảm biệt lại thương xuân,
Bể cả bèo trôi một tấm thân;
Chiếc bóng đèn tàn cam tịch mịch,
Vì đây may mắn gặp tình nhân.”[3;36]
Sau đó, mỗi lần Mộng Hà bệnh nặng, không thể đi đâu lại làm thơ gửi cho Lê
Nương để giải nỗi sầu. Mặc dù làm thơ có mục đích giải khuây nhưng mỗi
vần thơ của Mộng Hà đều chan chứa tâm sự u uất, đau buồn. Lúc thì đau khổ
vì ly biệt:
“Ngược gió con thuyền đến chẳng mau,
Tình sâu nên nỗi vạ càng sâu;
Sầu không bút mực nào ghi hết
Mộng có đèn xanh họa biết nhau,…”[3; 130]
Khi lại bi thương chồng chất, tâm sự ngổn ngang khiến mỗi lần nhận được
thơ chàng, Lê Nương lại đau đớn, xúc động, đến nỗi tâm thần ngẩn ngơ, trào
cả nước mắt:
“Gặp nhau quá chậm ngoại mười niên,
Gương vỡ mong chi chắp được liền!
Nghìn thuở hãy còn đeo đẳng hận,
Ba sinh thôi đã lỡ làng duyên;
Hầu khô giếng nọ trào khôn rậy,
Đã tắt lò kia lửa lại nhen;
Bể khổ mông mênh tìm giải thoát,
Bờ xa chưa dễ dắt nhau lên.” [3; 140]
Trong Ngọc lê hồn thơ đã nhiều, tình cũng theo đó mà thẩm thấu nhưng Tuyết
hồng lệ sử, thơ càng tăng, tình lại càng nặng hơn. Xuyên suốt tác phẩm, hầu
như mỗi trang sách đều rải rác có một vài câu thơ của nhân vật Mộng Hà.
Đến nỗi người đọc không còn có thể phân biệt đâu là thơ, đâu là lời thoại
Mộng Hà bởi, thơ đã trở thành phương tiện phát ngôn, thể hiện suy nghĩ của
chàng. Mỗi lần viết thư, hai người thường làm những bài thơ bày rỏ tâm sự
của mình:
“Gặp nhau duyên nợ lần này,
Trăm năm cũng gọi một ngày tương tri,
Thương ôi, một khối tình si.
Trừ câu thơ nữa lấy gì cho nhay?
Nghìn thu còn lúc bạch đầu,
Thư đi, từ lại với nhau là tình.
Thôi thôi:
Bao giờ sạch nợ ba sinh,
Yêu thương thì mến mối tình cho hoa
“Mộng Hà kính thứ”.[4;25]
Và trong một lần uống rượu say, Mộng Hà làm một bài ca gửi cho Lê Nương
nói hết những tâm sự uất ức trong lòng:
“Mộng Hà ơi hỡi Mộng Hà!
Nam nhi mà chịu thế này a!
Như cái dùi cùn nhụt cho qua một đời?
Đợi đến khi công danh trọn vẹn
Thân thế vui cười,
Thì cây xương bồ kia dễ cũng mấy lần nở hoa, …
Cai khổ riêng này ai biết cho,
Nước mắt đã cạn máu chưa khô
Trời đất vô tình không biết cho
Vứt rượu đứng lên kêu thật to,
Đoạn trường một khúc viết cho ai làm gì?”[4;30,31]
Bằng một bài thơ dài, Mộng Hà đã trút hết những đắng cay, tâm sự về cuộc
đời long đong, xui rủi của chàng. Sinh ra làm thân nam nhi, từ thuở bé đã biết
bao nhiêu người yêu quý, thán phục vì tư chất thông minh, tài hoa hơn người
nhưng đến nay vẫn chưa đạt được công danh gì. Những tâm sự này Mộng Hà
đã cất giấu từ lâu trong lòng, nay tất cả được bộc bạch hết qua những lời thơ
trên với hi vọng rằng tìm được người đồng cảm:
“Nét mực đen sì.
Hạt lệ đầm đìa
Giọt máu lân li
Mực hay là lệ.
Lệ hay là máu,
Gửi để tình nhân,
Nhìn kỹ xem rằng những thứ chi.” [4;31]
Đối với Mộng Hà, thơ và tâm hồn không thể phân biệt được. Bởi, dù là mực
hay là nước mắt, máu của chàng không thể biết được nữa vì tất cả đã hòa làm
một. Mỗi vần thơ, mỗi bài thơ là những tâm sự sâu kín, những điều ẩn uất
nhất bên trong tâm hồn mà trước nay chàng chưa bao giờ thể hiện ra ngoài.
Có thể thấy rằng, thơ luôn giữ đúng vai trò và chức năng của nó là chuyển tải
những biến động, những u uất trong tâm hồn con người mà họ không thể thể
hiện qua bên ngoài bằng những lời nói bình thường được. Qua thơ, nhân vật
như đang được sống với những cảm xúc của chính mình, giải thoát những
đau khổ, những dằn vặt ghê gớm nhất trong tâm hồn mình. Và Từ Chẩm Á đã
dùng nó để bộc lộ hết những nỗi niềm ẩn sâu bên trong từng nhân vật của
mình một cách khéo léo, tinh tế nhưng cũng đầy đủ và sâu sắc nhất.
3.3.3.3. Nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật thông qua nhật ký
Một trong những thành tựu có giá trị và quan trọng nhất trong cách tân nghệ
thuật của Từ Chẩm Á là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật thông qua nhật
ký. Nếu như thơ làm ra để cho người khác ca ngâm, bình luận. Thư viết ra để
gửi cho một ai đó thì nhật ký chỉ dùng để viết riêng cho chính tác giả. Vì vậy,
nhật ký một trong những hình thức tự sự mang tính chất khép kín và riêng tư
nhất. Trong nhật ký, chủ thể sẽ kể lại tất cả những gì diễn ra trong cuộc sống
của họ, những điều họ suy nghĩ, cảm nhận về nó mà họ không bao giờ tiết lộ
ra bên ngoài cho một ai khác biết. Và Từ Chẩm Á đã tận dụng cơ hội đó để
miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết Tuyết hồng lệ sử của ông.
Có cùng nội dung với Ngọc lê hồn nhưng sau đó Từ Chẩm Á lại viết lại
dưới hình thức nhật ký. Bản thân tiểu thuyết Ngọc lê hồn ngay từ khi được
xuất bản đã được nhiều độc giả đón nhận và trở thành một hiện tượng trong
văn học thông tục Thượng Hải thời bấy giờ. Nhưng khi Tuyết hồng lệ sử ra
đời, những nội dung ấy không hề cũ mà càng được độc giả quan tâm và đón
nhận bởi những cách tân nghệ thuật của nó. Đó là những đổi mới trong nghệ
thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Và trong đó, hình thức nhật ký đóng vai trò
chủ đạo quyết định sự tồn tại và sức hấp dẫn của tác phẩm.
Dưới hình thức nhật ký, Tuyết hồng lệ sử được kể lại bằng ngôi kể thứ nhất,
điểm nhìn bên trong của nhân vật Mộng Hà. Trong đó, nhân vật Mộng Hà kể
lại từ những tâm sự thầm kín, những cảm xúc riêng tư từ khi cha Mộng Hà
mất:
“Tỉnh dậy, nghe tiếng pháo đùng, ra vườn thấy cảnh hoa nở vui
vẻ thay cho tết nguyên đán, mà sao tôi buồn bã thay cho tết nguyên
đán? Tết nguyên đán cũ đã bỏ tôi mà đi, tết nguyên đán mới nó lại đuổi
theo tôi mà chạy. Tôi nghĩ tết nguyên đán khi trước thì tôi rớm nước
mắt; tôi lại chưa biết tết nguyên đán sau này ra làm sao, thì tôi lại bâng
khuâng như giấc mộng hồn vậy. Cũng có người cười tôi, trái chứng,
trái nết, gặp sự gì cũng mua lấy một khối sầu. Than ôi! Tôi cũng là
người, tôi cũng có mồm miệng, tôi biết cười, tôi cũng có mặt mày, tôi
biết tươi; nếu thật lòng vui tôi tội gì không ốm mà tôi rên?”[4; 14].
Đến những biến đổi trong cuộc đời của chàng từ khi Mộng Hà đến làm gia sư
cho nhà họ Thôi và gặp Quân Thiến:
“Từ khi đến nhà ông cụ Thôi, vì chủ nhân sẵn lòng yêu khách, nên bữa cơm
nào cũng có nậm rượu. Khi buồn, buồn đến thế nào, quỳnh tương đánh bạn
cỡ sao lại buồn, nhân thế ngày nào tôi cũng uống rượu, mỗi khi uống rượu
xong thì ngà ngà mà say, ngày ngày mà sầu, rồi rầu rầu mà khóc. Người ta
vẫn bảo uống rượu cho đỡ buồn, nhưng nếu buồn thật, thì càng uống rượu,
càng buồn thêm.”[4; 31].
Và những diễn biễn, những xung đột sâu bên trong tâm lý của Mộng Hà mỗi
khi chàng gửi thư cho Lê Nương:
“Tôi gửi thư ấy sang rồi tôi lại lo; bây giờ nghĩ lại gửi thư ấy thật liều quá,
bậy quá nghĩ là bụng người ta đã như giếng khô, thân như cây thông già bỗng
dưng mình đem lời hữu tình để khêu nhau thì chắc không bằng lòng, lỡ vỡ
chuyện ra, mình còn ra gì nữa. Nhưng cũng không sợ, ấy tại ai gợi ra trước,
tưởng như người này xem bức thư ấy mà động lòng thương nhau chăng? Nếu
không thì nước trôi cứ việc trôi xuôi, mảnh tình kia có vì ai mà sầu! Chỉ e
rằng: lưới tình mắc míu lấy nhau đây duyên ai gỡ mối sầu cho ra?” [4;25]
Mỗi lần gửi thư cho Lê Nương là mỗi lần Mộng Hà lại thấp thỏm lo âu.
Chàng lo Lê Nương có vui không hay Lê Nương sẽ giận? Lê Nương có trả lời
thư mình không, có quan tâm đến mình không? Tất cả những ý nghĩa ấy cứ
quay quanh, ám ảnh tâm trí của Mộng Hà:
“Tay cần lấy bút viết lảm nhảm mấy câu mà cái thần hồn của tôi cũng bay
theo. Không biết Lê Ảnh xem thư này thì mừng hay giận, cười hay khóc,
nhưng tôi cũng tệ quá, cái người đã thương tâm, sao đem cái lời nói thương
tâm cho người ta nghe làm gì? Bức thư ấy qua mắt Lê Ảnh được bốn mưới
tám giờ đồng hồ, trong bốn mươi tám giờ đồng hồ ấy, tôi không có một phút
nào không để bụng vào đấy. Chỉ mong Lê Ảnh đem một lời thương yêu mà
trả lời mình, vốc một nắm nước mắt mà đền cho mình. Cái bụng tôi không
khác gì đại hạn đợi trời mưa, cái cây lúa ấy sống hay chết là giờ giọt mưa ấy
cả. “[4; 47]
Nếu mỗi lần gửi thư cho Lê Nương, Mộng Hà lo lắng bao nhiêu thì mỗi lần
nhận được thư, được tin của nàng, Mộng Hà lại suy nghĩ, dằn vặt bấy nhiêu:
“Than ôi! Lạ quá! Lê Ảnh tại tôi mà đau ư? Bây giờ mới biết nhé, xưa nay cứ
bảo tôi là si tình! Bây giờ mới biết ai si tình hơn, không những một mình tôi
nhé! Đêm dài dằng dặc, ngọn đèn lờ mờ; hồn phách không về, ruột gan đã
chết. Tôi nghe cái tin ấy thì còn vui thú sao được nữa. Nếu Lê Ảnh tại tôi mà
ốm, thì tật tôi cũng tệ quá, cố bắt cho Lê Ảnh phải ốm. Nhưng nếu không có
cái tờ của tôi, Lê Ảnh cũng vẫn không quên được tôi. Hôm nọ tôi vì Lê Ảnh
ốm, thế thì bây giờ Lê Ảnh yên lành một mình sao được? [4;49]
Ôi! Nhưng đã trót nói ra rồi, còn lấy lại làm làm sao được nữa. Nhưng nếu Lê
Ảnh ốm mà chết thì tôi cũng chết.” [4; 49]
Khi biết tin Lê Ảnh ốm, một mặt Mộng Hà vừa lo lắng, vừa tự trách mình sao
nỡ viết những lời lẽ đau lòng làm tổn thương đến Lê Ảnh, trách mình đã làm
Lê Ảnh lâm bệnh. Song một mặt Mộng Hà cũng phủ nhận lại hành động của
mình để tự trấn an. Nhưng chỉ ngay sau đó, chàng lại hối hận vì việc mình đã
làm. Cứ thế những suy nghĩ mâu thuẫn nhau cứ thay phiên nhau hiện lên qua
lời bộc bạch của Mộng Hà.
So với Ngọc lê hồn, những diễn biến tâm lý trong Tuyết hồng lệ sử ngày càng
tường tận và sâu sắc. Ngọc lê hồn chỉ được kể lại bởi lời kể của người ký giả
mà người ký giả này chỉ được nghe lại câu chuyện chứ không phải là người
trực tiếp trải qua. Vì vậy trong Ngọc lê hồn những đoạn lời tự thuật của nhân
vật Mộng Hà như ở trên không có, đặc biệt những diễn biến, mâu thuẫn của
Mộng Hà giữa việc gửi bức thư đi và việc không nên gửi đã tạo nên đời sống
thực cho nhân vật.
Có thể thấy rằng, nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lý nhân vật dưới
hình thức nhật ký, tác giả sẽ không thể can thiệp vào suy nghĩ, nội tâm của
nhân vật. Thay vào đó, nhân vật sẽ bộc lộ những nỗi lo lắng sâu bên trong
tâm hồn mình và suy nghĩ của mình về những người xung quanh. Những suy
nghĩ này không phải bao giờ cũng có điều kiện để bộc bạch, tỏ bày. Chỉ khi
nhân vật tự viết dưới hình thức nhật ký, tức là riêng cho bản thân mình nhân
vật mới bộc lộ hết. Do đó, nếu thư từ là hình thức thúc đẩy tâm lý nhân vật
phát triển, thơ ca là phương tiện giải thoát cho những đau khổ ẩn sâu trong
tâm hồn nhân vật, nhật ký chính là hình thức miêu tả tâm lý nhân vật một
cách trọn vẹn, bao quát và xác thực nhất. Và có thể thấy rằng, trong tiểu
thuyết truyền thống Trung Quốc, chưa có tác giả nào miêu tả tâm lý nhân vật
thông qua hình thức nhật ký. Vì vậy, miêu tả tâm lý nhân vật cũng là một
trong những cách tân trong nghệ thuật mà Từ Chẩm Á đã ảnh hưởng từ tác
phẩm Trà hoa nữ của nhà văn Pháp Alexandre Dumas. Như đã nói ở phần kết
cấu, Tuyết hồng lệ sử có kết cấu mô phỏng với thể nhật ký của tiểu thuyết Trà
hoa nữ. Trong đó, nhân vật Duval cũng trực tiếp kể lại câu chuyện tình và
giãi bày tâm sự thầm kín của chàng:
“Về đến nhà, tôi khóc như một đứa trẻ. Có người đàn ông nào mà chẳng bị
lừa dối, ít nhất một lần, và chẳng biết thế nào là đau khổ?
Dằn vặt bởi nỗi đau cay nghiệt mà ta cứ tưởng đủ sức chịu đựng, tôi tự nhủ
phải cắt đứt ngay cuộc tình này, và tôi xốn xang chờ đợi đêm hết để phóng ra
ga lấy vé nhanh chóng quay về bên cha và cô em gái, hai kẻ thân thiết chẳng
phản bội tôi bao giờ.
Song le, tôi không muốn ra đi mà chẳng cho Marguerite biết rõ lí do. Chỉ kẻ
nào không còn yêu nữa, mới có thể ra đi mà không để lại lời từ biệt người
tình của mình.
Tôi viết đi viết lại hàng chục lá thư trong đầu.
Tôi dính vào một cô gái bao, như trăm ngàn cô khác, tôi đã khéo lãng mạn
hóa cô ta, rõ ràng là ả xem tôi như cậu học trò ngờ nghệch vì để lừa dối tôi, ả
chỉ cần sử dụng một mưu chước thật ngây ngô. Lòng tự ái sôi sục. Phải rời bỏ
người đàn bà này mà không cho cô ả được hả hê, vì sự đoạn tuyệt sẽ làm tôi
đau khổ và đây là những gì tôi viết bằng nét chữ bay bướm nhất, với những
giọt lệ oán hờn và cõi lòng tan nát.”[11; 159].
Đoạn tự thuật trên của nhân vật Duval không khác gì những lời tự thuật của
Mộng Hà được viết trong nhật ký của chàng. Tất cả những điều được hai
nhân vật này nói ra đều là những cảm xúc và suy nghĩ bên trong của họ mà
bình thường người khác không dễ nhận thấy được.
Thông qua sự tương đồng trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật qua
những trang nhật ký của Tuyết hồng lệ sử và Trà hoa nữ, có thể thấy, Từ
Chẩm Á không chỉ dừng lại ở những cách thức miêu tả nhân vật của tiểu
thuyết truyền thống mà ông đã nỗ lực học hỏi và tiếp nhận một cách khéo léo
những phương thức miêu tả từ tiểu thuyết phương Tây để tạo cho nhân vật
của mình có sức sống hơn, gần gũi hơn, chân thật hơn. Và đây cũng là
phương diện quan trọng nhất trong tiểu thuyết của Từ Chẩm Á đóng vai trò
tiên phong trong sự cách tân tiểu thuyết Trung Quốc vào thế kỷ XX.
Tiểu kết
Trong bốn thiên tiểu thuyết của Từ Chẩm Á là Vợ tôi, Ngọc lê hồn,
Tuyết hồng lệ sử, Giấc mộng nàng Lê có giá trị nghệ thuật không đồng đều
nhau. Hai tác phẩm Vợ tôi và Giấc mộng nàng Lê vẫn còn quá thiên về nghệ
thuật truyền thống của loại tiểu thuyết tài tử giai nhân mà ít chứa đựng những
cách tân mới mẻ. Nhưng không thể phủ nhận rằng hai tác phẩm còn lại là
Ngọc lê hồn và Tuyết hồng lệ sử là hai tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng
sáng tác hiện đại. Với kết cấu phi tuyến tính, tồn tại dưới nhiều hình thức mới
như nhật ký, thư từ, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất (xưng tôi), đời sống tinh
thần, tình cảm của nhân vật được hiện lên một cách tinh tế, khéo léo nhất. Từ
đó, Từ Chẩm Á đã dẫn nhận thấy những quá trình tâm lý, đấu tranh giằng xé
nội tâm có thể làm thay đổi số phận của nhân vật và đã đem lại hơi thở mới
cho tác phẩm của mình bằng sự cách tân độc đáo mà trước đây chưa nhà văn
nào từng thể hiện. Và nhắc đến sự cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của
Từ Chẩm Á không thể nhắc đến những ảnh hưởng khá lớn từ phương pháp
sáng tác và nghệ thuật từ các tác phẩm phương Tây như tiểu thuyết nổi tiếng
Trà hoa nữ của nhà văn Dumas và Nỗi đau của chàng Werther, tiểu thuyết
theo thể thư tín của văn hào Johann Wolfgang von Goethe - hai cuốn tiểu
thuyết tình cảm đã gây nên tiếng vang chấn động trên văn đàn thế giới bởi vì
sức hấp dẫn từ phương pháp sáng tác của nó.
KẾT LUẬN
Đầu thế kỷ XX, với những thay đổi về mọi mặt, từ chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, … văn học cũng bắt đầu có những bước chuyển mình đáng
kể. Để đáp ứng những nhu cầu của thời đại, những dòng văn học mới ra đời
và tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" là một trong những dòng văn học đó. Và
khi đặt tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" vào trong một bối cảnh lịch sử cụ thể
cũng như tìm hiểu sự tương quan giữa tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" và các
loại tiểu thuyết bình dân ở các nước phương Tây, có thể thấy sự xuất hiện của
tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" là một trong những quy luật tất yếu trong
quá trình phát triển của văn học Trung Quốc nói chung và văn học thông tục
Trung Quốc nói riêng.
Tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" là một thể loại tiểu thuyết tình cảm. Trong
đó, bằng những câu chuyện tình yêu đầy màu sắc, nhà văn đã mang độc giả
đến với những giây phút giải trí nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng cũng để lại cho
họ những cảm xúc bi thương, đau xót, cùng những ám ảnh khôn nguôi về
những mối tình tan vỡ, về những mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc và
hiện thực đau khổ của những đôi thanh niên nam nữ Trung Quốc trong giai
đoạn bấy giờ.
Thông qua những tác phẩm của mình, nhà văn đã mở ra bức tranh xã
hội Trung Quốc nói chung và Thượng Hải nói riêng vào những năm cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở những góc độ khác nhau. Tuy bức tranh này còn
nhỏ hẹp và mờ nhạt nhưng đã phần gợi cho người đọc những âm vang của
cuộc sống đời thường: từ một cái xã hội Trung Quốc tăm tối với đầy rẫy
những tệ nạn như bán người, mại dâm, cờ bạc, tham nhũng,… đến những
cuộc chiến tranh xâm lược, nhưng biến động của thời đại, những thay đổi của
lịch sử.
Từ những vấn đề của xã hội Trung Quốc trong thời đại mới, khi mà chế
độ phong kiến và tư tưởng Nho giáo đang dần sụp đổ, và những luồng gió
mới từ phương Tây mà đặc biệt là phong trào nữ quyền lần thứ nhất thổi vào
đời sống tinh thần của người dân Trung Quốc, tiểu thuyết "uyên ương hồ
điệp" cũng đã phác họa lại bức chân dung của người phụ nữ Trung Quốc khi
lịch sử chuyển mình. Trong bức chân dung đó, hai mẫu người phụ nữ hiện
lên: một là người phụ nữ đại diện cho phụ nữ Trung Quốc truyền thống, một
là người phụ nữ đại diện cho phụ nữ tân học theo lối sống mới. Với người
phụ nữ truyền thống, tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" đề cập đến những đau
khổ, bất hạnh trong cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc của người phụ nữ
và từ bi kịch của họ, nhà văn đã phản ánh những quan niệm hôn nhân lạc hậu,
những hủ tục bất công, phi nhân tính đới với người phụ nữ, mà đặc biệt là
những người góa phụ Trung Quốc hàng trăm, hàng ngàn năm qua. Còn với
người phụ nữ tân học, tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" đã cho thấy những rạn
nứt của hệ tư tưởng cũ và đề xuất những nhận thức của người phụ nữ Trung
Quốc trong thời đại mới khi người phụ nữ bắt đầu tiếp xúc với những tư
tưởng tiến bộ và bắt đầu có chỗ đứng bên ngoài xã hội.
Đặc biệt, bằng một số những cách tân trong nghệ thuật như sự thay thế
kết cấu tuyến tính bằng kết cấu phi tuyến tính, sự giảm dần vai trò của các sự
kiện, xung đột trong cốt truyện, cùng những phương thức nghệ thuật xây
dựng nhân vật mà đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật thông qua
những hình thức khác nhau: thư từ, nhật ký,… tiểu thuyết "uyên ương hồ
điệp" đã cho thấy sự gặp gỡ giữa nghệ thuật trong tiểu thuyết truyền thống
Trung Quốc và phương pháp sáng tác phương Tây. Từ đó, tiểu thuyết "uyên
ương hồ điệp" đã mở đầu một hình thức sáng tạo nghệ thuật mới, mở đường
cho những tiểu thuyết thông tục trong các thời kỳ sau.
Với một số lượng lớn những tác phẩm được dịch và xuất bản được đông đảo
bạn đọc ở nhiều quốc gia Châu Á và trên thế giới, trong đó có Việt Nam, tiểu
thuyết "uyên ương hồ điệp" có một sức lan tỏa ảnh hưởng rộng lớn không chỉ
đối với độc giả mà còn đối với các nhà văn Việt Nam trong quá trình đổi mới
tiểu thuyết vào những thập niên đầu của thế kỷ XX.
Những nội dung được đề cập trên đây là những gì mà chúng tôi đã
nghiên cứu trong khả năng cho phép của mình. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng
hi vọng, từ những vấn đề và đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết "uyên ương hồ
điệp" qua bốn tác phẩm Giấc mộng nàng Lê, Tuyết hồng lệ sử, Ngọc lê hồn,
Vợ tôi của Từ Chẩm Á, đề tài sẽ mở ra một hướng nghiên cứu, tiếp cận mới
đối với tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp". Đặc biệt là thông qua đó, sẽ giúp
mọi người đánh giá lại vị trí cúa tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" trong văn
học cận đại Trung Quốc cũng như tầm ảnh hưởng, và vai trò của nó đối với
sự phát triển của văn học thông tục Trung Quốc nói riêng và văn học các
nước trong khu vực Châu Á nói chung.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv_ngon_ngu_hoc_32__1525.pdf