Luận văn Tìm hiểu tâm lý của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long

Tìm hiểu tâm lý người nông dân nói chung và những biểu hiện tâm lý đặc thù nói riêng là việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ trên cơ sở phát huy những biểu hiện tích cực và khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong tâm lý của họ thì vai trò của người nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay mới có vị trí xứng đáng của nó. Việc xây dựng con người mới, con người làm chủ trong nông nghiệp nói riêng và trong các lĩnh vực đời sống nói chung đòi hỏi phải xóa bỏ tâm lý cũ lạc hậu của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở phát huy những tư tưởng, tâm lý tình cảm tốt đẹp của họ là việc làm vừa có ý nghĩa thiết thực và cấp bách.

pdf71 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3045 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu tâm lý của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
do điều kiện tự nhiên, xã hội, chính trị quy định. Khác với các vùng nông thôn trong nước, đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện thiên nhiên ưu đãi, mưa thuận gió hòa, hàng mấy chục năm mới có một cơn bão. Một nền sản xuất thuận lợi như vậy đã tạo nên tâm lý ngại học văn hóa để nâng cao trình độ học vấn. Họ cho rằng, chỉ cần sức khỏe với kinh nghiệm sản xuất cũng có thể đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho họ. Tâm lý này hình thành rất sớm. Từ nhận thức như vậy cho nên người nông dân từ trước tới nay đều có tâm lý ngại học văn hóa, nghiên cứu khoa học. Hai câu thơ dưới đây nói nên điều đó: “Anh về rắng học chữ nhu Chín trăng em đợi, mười thu em cũng chờ” [22, tr 16]. Như vậy, người bạn gái khuyên người mình yêu không cần học nhiều, vì học nhiều cũng chẳng đem lại hạnh phúc cho họ; mà chỉ cần học một chữ tên mình để làm chữ ký. Trường hợp khá phổ biến ở thời kỳ Pháp mới đặt chân xâm lược đồng bằng sông Cửu Long là người giàu xuất tiền ra mướn con nhà nghèo đi học thay cho con em mình, họ lo sợ nếu cho con mình đi học bị Nhà nước trưng dụng, cha mẹ không còn quyền hạn, đứa trẻ đỗ đạt phải làm việc xa quê quán hoặc đưa qua sang bên Pháp sẽ mất con. Chính vì thế theo thống kê của Sở Giáo dục đào tạo thành phố Hồ Chí Minh, ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long dưới thời Pháp cai trị mới đạt 0,8% số người trong độ tuổi biết chữ. Dưới thời Mỹ ngụy hệ thống giáo dục có phát triển hơn so với thời kỳ Pháp, nhưng điều đó không phải nhằm nâng cao sự hiểu biết của nông dân, mà chủ yếu nhằm phục vụ âm mưu thống trị lâu dài của chúng. Nội dung giáo dục nhằm mục đích chống cộng sản, chống hiệp định Giơnevơ. Từ thực tế đó mà người nông dân đồng bằng sông Cửu Long vốn đã có tư tưởng ngại học văn hóa, lại càng không muốn học các trường lớp do Mỹ ngụy đặt ra. Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc nâng cao trình độ dân trí trong nhân dân nói chung và trong nông dân đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Nhiều Nghị quyết của Đảng về giáo dục - đào tạo, như Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đã từng bước làm thay đổi tâm lý ngại học tập của người nông dân, mà trực tiếp là thế hệ trẻ con em nông dân trong vùng. Nhìn chung nhiều địa phương trong vùng đã hoàn thành phổ cập tiểu học cho độ tuổi từ 15 đến 45. Tuy nhiên, tâm lý ngại học tập vẫn còn tồn tại ở một bộ phận không nhỏ nông dân, dẫn đến trình độ văn hóa, khoa học bị hạn chế, làm ảnh hưởng không nhỏ sự xuống cấp về đạo đức và lối sống. Biểu hiện đầu tiên của việc xuống cấp về đạo đức là lối sống thiếu văn hóa, thiếu tôn trọng truyền thống tốt đẹp của dân tộc ở một bộ phận nông dân. Trước hết là truyền thống tôn sư trọng đạo, kính già yêu trẻ, tôn trọng phụ nữ, sống có tình, có nghĩa, trung thực, thẳng thắn của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ mai một ở một số nơi. Cùng với sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội cũng ngày càng phát triển. Nạn bói toán, cưới xin, ma chay lạc hậu, nạn nhậu nhẹt, rượu chè lu bù, lan tràn không phải trong người già mà có cả ở thanh niên, phụ nữ. Tâm lý “làm chơi, ăn thiệt”, “đã làm thì làm hết mình, đã chơi thì chơi hết mình”, không phải là hiện tượng cá biệt, không phải chỉ biểu hiện ở thời trước trong nông dân mà hiện nay vẫn tồn tại. Về thói ăn nết ở của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long cũng có những biểu hiện khác biệt với người nông dân truyền thống. Nếu người nông dân ở các miền có tâm lý làm nhà hướng nam và ngôi nhà lý tưởng là ba gian hai chái, thì người nông dân đồng bằng sông Cửu Long lại có tâm lý làm nhà quay ra mé sông, mé lộ và ngôi nhà lý tưởng của họ không phải nhiều gian mà nhiều phòng. Phòng trước trang trí thờ cúng ông bà và để tiếp khách, các phòng sau dành cho bố mẹ và con cái. Sau nhà là bếp, sau bếp là vườn, qua vườn là ruộng. Người nông dân nơi đây có tâm lý làm nhà thông hai đầu, nghĩa là có một cửa vào ở trước, cửa ra ở sau. Cơ cấu kiểu nhà ở theo kiểu người nông dân đồng bằng sông Cửu Long phù hợp với tâm lý của họ, bảo đảm yên tĩnh, tự do, thuận tiện. Đó là biểu hiện tâm lý khác biệt của họ về nhà ở. Sống ở miền nhiệt đới nhiều sông rạch, việc ăn uống của họ cũng có màu sắc riêng: trên mâm cơm, phần tôm cá cũng phong phú không kém - nếu không hơn - phần thịt, chế biến nhiều cách. Nếu trong ăn uống, người nông dân truyền thống có tâm lý đơn giản, không cầu kỳ bảo đảm chất lượng. Ngược lại đối với người nông dân đồng bằng sông Cửu Long lại có tâm lý dù bận rộn thế nào bữa ăn cũng phải bảo đảm ngon miệng và bổ, ăn được nhiều. Do vậy, một loại cá, người nông dân có thể chế biến được nhiều món ăn. Cá lóc “khèn” với nghệ, lá nhàu... Mắm cá lóc, đem chưng cách thủy, thêm chút mỡ, chút thịt bằm. Cá lóc nướng trui với đọt nghè, muối ớt hoặc nước mắm me. Lươn, rùa, ếch, rắn, chuột đồng... thông qua cách nấu nướng chế biến với nhiều gia vị cũng trở thành món ăn ngon dành đãi khách quý [16; tr 76]. Người nông dân đồng bằng sông Cửu Long có tâm lý thích ăn các loại rau rừng: đọt xoài, đọt rừng, đọt rau câu, đọt chùm ruột, rau ngổ... Có nhiều món ăn trông thì đơn giản, giản dị nhưng khéo chế biến với cây trái địa phương trở thành món ăn được nhiều người ưa thích vì nó hài hòa hương vị. Mắm kho lỏng ăn với rau sống (bông súng, rau dừa); canh cá trê nấu với bầu. Thịt bò xào lá cách, nướng gói lá lốt đều là món ăn phù hợp với tâm lý của người nông dân nơi đây. Về văn hóa giao tiếp, người nông dân nơi đây cũng có những biểu hiện khác biệt. Họ thẳng thắn, chất phác không kín đáo, tế nhị. Đã nói là làm, đã chịu là đồng ý, (các vùng khác nói chịu là không đồng ý, từ chối) đã mời là ăn, đã gặp là nhậu... Nghiên cứu những biểu hiện tâm lý đặc thù của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, ta thấy họ có những đức tính truyền thống tốt đẹp. Đó là lòng yêu nước, chí anh hùng, thương yêu quý trọng con người, cần cù lao động, lạc quan yêu đời... Bên cạnh những biểu hiện tích cực, do phương thức canh tác của họ còn dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nên đã nảy sinh những biểu hiện tâm lý tiêu cực, nổi bật là: ham chơi không biết lo xa, cục bộ địa phương, cần cù nhưng không siêng năng, tự do tùy tiện, tâm lý chạy theo đồng tiền, coi thường kỷ cương pháp luật của Nhà nước... Những biểu hiện đó là những lực cản trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn nói chung và khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Điều đó đòi hỏi cần sớm có những giải pháp để khắc phục tâm lý tiêu cực của người nông dân nơi đây. Song cũng cần nhận thức cho được tính chất phức tạp, khó khăn trong việc khắc phục tâm lý lạc hậu của người nông dân. Bởi vì ở nó có sức mạnh: “sức mạnh của tập quán ở hàng triệu người là sức mạnh ghê gớm" [11; tr 31]. Chương 3 những giải pháp cơ bản để khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân đồng bằng sông cửu long 3.1. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn đồng bằng sông Cửu Long với việc khắc phục tâm lý tiêu cực của họ Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác, con người tạo ra hoàn cảnh trong chừng mực nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người trong chừng mực ấy. Hay nói cách khác con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Do vậy, về mặt nguyên tắc phương pháp luận, muốn làm thay đổi tâm lý lạc hậu của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, điều quan trọng tất yếu là phải cải tạo hoàn cảnh kinh tế - xã hội mà họ đang sống. Như ở chương 1 đã trình bày, tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, được hình thành và tồn tại trên nền tảng kinh tế - xã hội là nền sản xuất nhỏ, công cụ thủ công lạc hậu. Cho nên, muốn khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân nơi đây một cách triệt để, chúng ta không còn cách nào khác là phải tiến hành quá trình xóa bỏ nền sản xuất nhỏ đó và xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Lênin khẳng định : “Đối với người tiểu nông chỉ có một cơ sở vật chất kỹ thuật, những máy kéo, và máy móc quy mô lớn trong nông nghiệp, điện khí hóa trên quy mô lớn, mới có thể giải quyết được vấn đề đó, mới có thể làm cho tâm lý của họ trở nên lành mạnh được. Đó là biện pháp cải tạo hết sức nhanh chóng người tiểu nông về căn bản” [12, tr. 268]. Đối với nước ta, đó chính là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn là một tất yếu. Nhưng đối với mỗi nước có cách chuyển khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và điểm xuất phát của mỗi quốc gia, ở nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi mới của đại hội VI (12/1986) đến nay, chúng ta đã đạt được những bước tiến vượt bậc. Tuy nhiên, nước ta vẫn còn là nước nghèo và kém phát triển. Chúng ta chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển. Căn cứ vào thực trạng đó, Đại hội VIII của Đảng ta chỉ rõ mục tiêu cụ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có “cơ sở hạ tầng vật chất hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" [26, tr 80]. Đối với nước ta hiện nay, thực chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình cải tạo và xây dựng một cách toàn diện ở cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nhằm chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền sản xuất lớn, công nghiệp hiện đại. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 (khóa VII) của Đảng đã khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là: “Quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [29, tr. 42]. Trước kia, Ăngghen đã từng chỉ rõ: cuộc cách mạng công nghiệp không những chỉ tạo ra những bước nhảy vọt về năng suất lao động mà còn tạo ra sự chuyển biến có tính chất cách mạng trong tâm lý xã hội. Quá trình công nghiệp hóa ở nước ta được khởi xướng ngay từ Đại hội III (1960) của Đảng. Đường lối công nghiệp hóa đó dần dần được phát triển hoàn thiện hơn; đến Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trước hết, nhằm tạo ra yếu tố quan trọng có tính quyết định nhất tới việc khắc phục một cách triệt để tâm lý sản xuất nhỏ, tạo ra nền sản xuất lớn, xóa bỏ nền sản xuất nhỏ - nền tảng kinh tế xã hội của sự nảy sinh và tồn tại tâm lý người nông dân. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất là quá trình tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ đa dạng của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Quá trình đó sẽ khơi dậy mọi tiềm năng sản xuất, thúc đẩy sự xã hội hóa mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, góp phần phá vỡ những quan hệ làng, xã, thôn ấp khép kín, mở rộng giao lưu giữa các vùng, các miền, giữa nông thôn và thành thị, đồng thời mở rộng cả giao lưu quốc tế về mọi mặt. Tất cả những điều đó, trước hết mở rộng tầm nhìn của nhân dân nói chung và người nông dân nói riêng. Những biến đổi đó cũng góp phần làm thay đổi tâm lý lạc hậu của người nông dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quá trình đó quyết định thắng lợi của sự chuyển biến từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Nó tác động sâu sắc đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của đất nước cả ở tầm vĩ mô và vi mô cả ở cơ sở kinh tế đến tâm lý, ý thức của mỗi cá nhân. Song từ thực trạng kinh tế hiện nay của nước ta. Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm trước mắt là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Đối với đồng bằng sông Cửu Long, dân số chiếm tới 80% là nông dân, sản xuất nông nghiệp đã mang tính chất sản xuất hàng hóa, thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng, không chỉ trong năm 2000 mà còn cả một khoảng thời gian dài về sau. Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, trước hết phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư nghiệp, bảo đảm vững chắc yêu cầu an toàn lương thực cho vùng và cho xã hội, tạo nguồn nguyên liệu có khối lượng lớn, chất lượng cao, giá thành hạ, đủ tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến. Đồng thời phải tăng giá trị hàng hóa xuất khẩu, tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Việc phân công lại lao động trong vùng, việc hình thành các điểm công nghiệp chế biến gắn với đô thị hóa tại chỗ, mở rộng thị trường sản phẩm và dịch vụ cho công nghiệp phải được thực hiện từng bước có hiệu quả. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn đồng bằng sông Cửu Long thể hiện ở nhiều nội dung, trong đó có những nội dung trực tiếp tác động đến tâm lý của người nông dân. Trước hết là chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tích cực và hiệu quả để thực hiện phân công lại lao động, xã hội hóa nền sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động [25, tr. 31]. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đồng bằng lớn nhất của cả nước. Trong nông nghiệp, lợi thế của vùng là sản xuất lúa gạo hàng hóa. Trên cơ sở ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật, nhất là giống, thực hiện các biện pháp thâm canh tăng vụ, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, góp phần to lớn vào việc đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, ổn định nguồn hàng xuất khẩu, xây dựng các vùng trồng cây ăn quả gồm xoài, sầu riêng, nhãn, vú sữa, thanh long, chuối, dừa... để cung cấp cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu trên cơ sở cải tạo vườn tạp; quy hoạch vùng, thực hiện thâm canh. Việc phát triển vùng mía đường kết hợp với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đẩy mạnh, khai thác nuôi trồng thủy sản. Phát triển chăn nuôi lợn, gà, vịt, phát triển vùng rừng phòng hộ và rừng cung cấp gỗ sản xuất đồ gia dụng cũng là những thế mạnh mà đồng bằng sông Cửu Long có thể phát huy. Tuy nhiên, hiện thời cơ cấu việc làm trong nền kinh tế quốc dân ở đồng bằng sông Cửu Long, ngành nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều lao động nhất, chiếm tỷ lệ cao so với tổng số. Thế nhưng lao động làm việc trong ngành nông nghiệp lại chiếm tỷ lệ thời gian thấp hơn so với ngành khác. Theo kết quả điều tra lao động việc làm của nông thôn, nông dân ở Kiên giang năm 1998 do Sở Lao động - Thương binh xã hội và Cục Thống kê tỉnh kết hợp, được Trung tâm thông tin thống kê và xã hội xử lý số liệu cho thấy: Tỷ lệ thời gian lao động vùng nông thôn có hoạt động kinh tế tính theo nhóm tuổi và giới tính của người nông dân Kiên Giang. Bảng 3: [32; tr 25] Đơn vị % Tổng số Nữ Chia theo nhóm tuổi Trong độ tuổi lao động Trên độ tuổi lao động Tổng số Nữ Tổng số Nữ 69,61 69,48 69,68 69,52 67,58 68,45 Thời gian làm việc thuộc ngành nông nghiệp của người nông dân vùng này chỉ chiếm 69,61% tổng thời gian làm việc trong năm, số thời gian còn lại là nông nhàn, từ đó dễ phát sinh tâm lý tiêu cực. Vì vậy, việc định hướng tạo nghề, thâm canh tăng vụ, xen canh ... để giải quyết việc làm cho người nông dân đồng bằng sông Cửu Long nói chung và người nông dân Kiên Giang nói riêng là việc làm có tính cấp bách. Như vậy, việc chuyển biến cơ cấu nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long có ý nghĩa rất quan trọng, vừa khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng của vùng, tăng khối lượng nông sản hàng hóa, vừa tạo việc làm và tăng thu nhập cho các hộ nông dân, giảm hộ nông dân nghèo, hạn chế tình trạng hộ nông dân phải cầm cố. Việc thay đổi đời sống vật chất do công nghiệp hóa đem lại sẽ góp phần làm hạn chế tâm lý tiêu cực của người nông dân nơi đây. Chẳng hạn, biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long từ trước đến nay là ngại học văn hóa, khoa học kỹ thuật. Thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, đưa chương trình khuyến nông vào sản xuất nông nghiệp thì dù muốn hay không muốn họ cũng phải học để có trình độ học vấn tiếp thu khoa học kỹ thuật. Cùng với nội dung trên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn đồng bằng sông Cửu Long còn phải thực hiện nội dung, mở rộng và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nông thôn. Hướng phát triển của các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long, là trên cơ sở qui hoạch phát triển một số ngành mũi nhọn, tạo sự gắn bó giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh với thị trường trong nước và ngoài nước; đồng thời phát triển các ngành chế biến nhỏ ở nông thôn, đặc biệt là các ngành truyền thống có kinh nghiệm, khéo tay và nguyên liệu tại địa phương; để tạo thêm nguồn hàng hóa phong phú phục vụ cho nhu cầu đa dạng của địa phương và xuất khẩu. Sự phát triển các ngành nghề tiểu thủ công, công nghiệp ở nông thôn không những góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hóa ở đồng bằng sông Cửu Long phát triển mà nó còn làm hạn chế biểu hiện tiêu cực của người nông dân nơi đây, trước hết, tận dụng được thời gian nông nhàn, sản xuất tăng thu nhập. Đồng thời điều này cũng khắc phục tâm lý nhàn rỗi không có việc làm, bày ra cờ bạc, nhậu nhẹt lu bù, ảnh hưởng lối sống văn hóa mới ở nông thôn hiện nay. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu đòi hỏi, hình thành và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác. Hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long còn tồn tại một bộ phận nông dân không có đất. Cuộc sống của các hộ này chủ yếu dựa vào lao động làm thuê trong nông nghiệp. Phạm vi làm thuê rất rộng, tại địa phương trong và ngoài tỉnh. Tuy vậy hiện nay chưa có một tổ chức nào tập họp lực lượng lao động này nhằm bảo đảm việc làm ổn định và bảo đảm quyền lợi cho họ. Do đó dẫn đến tình trạng “mạnh ai người đó chạy”. Việc làm không ổn định, thu nhập bấp bênh [31, tr. 4]. Yêu cầu phát triển sản xuất lương thực hàng hóa ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long đặt ra là phải hình thành và phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong khu vực. Phương châm phát triển kinh tế hợp tác là khẩn trương, vững chắc dựa trên cơ sở phát triển sản xuất và sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân với tinh thần tự nguyện của nông dân, có sự hỗ trợ giúp đỡ của nhà nước. Việc xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác, mà đặc biệt quan tâm đến xây dựng hợp tác xã nông nghiệp theo yêu cầu đòi hỏi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, việc phát triển này không được làm một cách ồ ạt và gò ép đối với người nông dân như trước đây. Nông dân là người thực tế và thiết thực, đối với họ chúng ta phải cung cấp những ví dụ để chứng minh rằng: “Công xã là tốt hơn hết” [10, tr.149]. Xây dựng, phát triển hợp tác một mặt là để giải quyết việc làm cho người lao động, mặt khác quan hệ sản xuất thay đổi sẽ tạo điều kiện làm thay đổi tâm lý lạc hậu của người nông dân. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, một vấn đề đặt ra ngay từ bây giờ là phải tập trung đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động nói chung và người nông dân nói riêng. Bởi vì, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tất yếu, đòi hỏi người lao động phải có tay nghề cao. ở đồng bằng sông Cửu Long, qua số liệu thống kê so sánh, trình độ chuyên môn của một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long của Sở Lao động - Thương binh - xã hội tỉnh Kiên Giang năm 1998 cho thấy: Bảng 4: [30; tr 30] Đơn vị % Tỉnh Công nhân kỹ thuật Trình độ chuyên môn trung cấp Trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học Trình độ chuyên môn trên đại học Cần Thơ 3,29% 1,71% 1,4% 0,02% Long An 4,11% 1,91% 1,01% 0,03% Tiền Giang 3,32% 2,24% 1,65% 0,04% Kiên Giang 2,34% 1,64% 0,45% 0,01% Thực trạng như bảng trên cho thấy về chất lượng lao động đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long còn ở mức thấp, rõ ràng là một cản trở rất lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời nó cũng gây những khó khăn không nhỏ trong vấn đề sắp xếp, giải quyết việc làm cho người lao động. Với thực trạng như vậy, đồng bằng sông Cửu Long muốn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, thì phải tập trung đầu tư cho con người, vốn quí của xã hội. Từng bước đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động, nâng dần chất lượng lực lượng lao động, bảo đảm đồng bộ, tương xứng xu thế phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật, song song với việc kêu gọi đầu tư, đổi mới công nghệ ngày càng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong vùng. Nhìn chung, khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nhất là ở những vùng căn cứ của cách mạng, trong chiến tranh tàn phá và thiệt hại nặng nề về kết cấu hạ tầng (điện, đường, trường, trạm). Những năm qua cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, đồng bằng sông Cửu Long đã từng bước khắc phục, nhưng chưa khắc phục được tình trạng yếu và thiếu. Chẳng hạn như tỉnh Kiên Giang là một trong những tỉnh có thế mạnh trong khu vực, song cả tỉnh chỉ có 01 trường trung học kinh tế kỹ thuật, 01 trung tâm dịch vụ việc làm, 05 cơ sở dạy nghề tư nhân, 01 trung tâm khuyến nông, và 11 trung tâm hướng nghiệp dạy nghề của các huyện, thị, những trang thiết bị giảng dạy đã cũ kỹ, lạc hậu. Do vậy, công tác đào tạo của phần lớn cơ sở chất lượng kém, từ đó không thu hút được người lao động tham gia học nghề [30; tr 36]. Thực trạng trên là những trở ngại cho lĩnh vực giải quyết việc làm của khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Kiên Giang nói riêng. Khắc phục tình trạng đó, định hướng tới cần tập trung giải quyết vấn đề chất lượng lao động, phải đầu tư cho công tác dạy nghề đúng mức, khuyến khích phát triển công tác dạy nghề đa dạng nhằm bù đắp lỗ hổng chất lượng hiện tại; có như vậy nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn trong vùng mới có khả năng thực thi. Cùng với nội dung trên, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long còn phải gắn với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long. Kết cấu hạ tầng kinh tế ở nông thôn bao gồm hệ thống công trình đường xá nông thôn, mạng lưới điện nông thôn, hệ thống thủy lợi, thông tin liên lạc, các công trình cung cấp nước sạch, trường học, cơ sở tạo nghề, bệnh viện... Nhìn chung một cách tổng quát, thực trạng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đồng bằng sông Cửu Long còn yếu kém về số lượng, về trình độ và cơ cấu, cũng như về hiệu quả sử dụng, đặc biệt là giao thông, hệ thống chợ và các trung tâm giao lưu văn hóa, mạng lưới điện. Điều đó làm cản trở đối với việc phát triển sản xuất công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giao lưu văn hóa, đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và phân bố sử dụng lao động ở nông thôn, đối với việc nâng cao trình độ nghề nghiệp và trình độ dân trí của dân cư nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. Bởi vậy, việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội là một trong những giải pháp cơ bản trước mắt cũng như lâu dài, nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh, mạnh, vững chắc kinh tế hàng hóa nơi đây. Đồng thời một khi kinh tế phát triển, đời sống của người nông dân được cải thiện nhiều mặt thì tâm lý tiêu cực của người nông dân cũng được khắc phục. Như vậy, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn đồng bằng sông Cửu Long là một yêu cầu cấp thiết không những để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội trong vùng mà còn để làm chuyển biến một cách tích cực về tâm lý của người nông dân nơi đây. Tuy nhiên, trong điều kiện đất nước còn nghèo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn không thể chỉ trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước mà phải theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Vì vậy, cần quán triệt quan điểm của Đại hội VIII của Đảng: “công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mỗi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” [36, tr. 18]. 3.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục - đào tạo, nâng cao trình độ văn hóa cho nông dân trong vùng Đi đôi với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để xóa bỏ nền sản xuất nhỏ, xây dựng nền sản xuất lớn, tạo cơ sở kinh tế - xã hội mới - yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc khắc phục những biểu hiện tiêu cực của tâm lý người sản xuất nhỏ nói chung và người nông dân đồng bằng sông Cửu Long nói riêng là việc tăng cường công tác giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí. Trước kia các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã từng khẳng định về ảnh hưởng của quá trình văn hóa, khoa học kỹ thuật tới phương pháp tư duy của con người. Với mỗi cá nhân cụ thể, trình độ văn hóa, khoa học của họ quyết định trực tiếp phương pháp tư duy, lối suy nghĩ của họ. ở người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, trình độ học vấn còn thấp kém thì xu hướng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, tầm nhìn hạn hẹp là một kết quả tất yếu, không thể tránh khỏi. Để khắc phục hạn chế của tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long thì việc đổi mới công tác giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, trình độ cho người nông dân là giải pháp có ý nghĩa quan trọng thiết thực. ở phần trên đã khẳng định, chỉ có thể khắc phục một cách triệt để biểu hiện tiêu cực của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long khi hoàn thành quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, xóa bỏ tận gốc rễ cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của nó. Trong giai đoạn hiện nay, để hoàn thành quá trình chuyển biến đó trong phạm vi cả nước nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song cũng cần nhận thức rằng, không thể tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trình độ dân trí còn thấp. Nếu người nông dân có trình độ văn hóa thấp, chỉ quen lao động giản đơn, sử dụng các công cụ thô sơ sẽ không thể tham gia vào quá trình sản xuất mới với những máy móc hiện đại. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ hai (khóa VIII) của Đảng đã chỉ rõ: “Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi, phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững” [27, tr. 59]. Như vậy, việc nâng cao dân trí, trình độ mọi mặt cho người nông dân đồng bằng sông Cửu Long vừa có tác dụng trực tiếp khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân, vừa là điều kiện để thực hiện thắng lợi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần xóa bỏ triệt để cơ sở kinh tế - xã hội của tâm lý sản xuất nhỏ. Trình độ học vấn, trình độ khoa học của người nông dân có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong vùng. Tuy nhiên, thực trạng học vấn của người nông dân nơi đây so với các vùng trong nước, đời sống vật chất có khá hơn nhưng trình độ học vấn lại thấp. Trong chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng bộ tỉnh Kiên Giang đã đánh giá: “...công tác chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học kết quả còn hạn chế... Học sinh bỏ học và ở lại lớp, nhất là bậc tiểu học chiếm tỷ lệ cao. Tỷ lệ học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng còn thấp” [4, tr.19]. Qua số liệu của Sở Giáo dục - đào tạo Kiên Giang cho thấy, năm học 1996 - 1997, tổng số học sinh từ lớp 9 đến lớp 12 là 20.899 em. Số học sinh thi phổ thông trung học là 3.247 em, trong đó thi không đạt 710 em, chiếm 29,87%. Số học sinh thi tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 8.583 em, trong đó thi không đạt là 1.662, chiếm 19,4%. Trong số học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học chỉ có 506 em thi đậu vào các trường cao đẳng, đại học chiếm 19,9%. Niên khóa 1997-1998, tổng số học sinh từ lớp 9 đến lớp 12 là 24.179 em. Số học sinh thi phổ thông trung học là 3.348 em, trong đó thi không đạt là 465 em, chiếm 13,9%. Số học sinh thi phổ thông cơ sở là 10.410 em, trong đó thi không đạt là 2.401 em, chiếm 23%. Trong số học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, chỉ có 657 em thi đậu vào các trường cao đẳng, đại học chiếm 22,8%. Việc nâng cao trình độ học vấn cho người nông dân đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là việc làm mang tính cấp thiết, chẳng những có ý nghĩa góp phần làm hạn chế những biểu hiện tâm lý tiêu cực của họ mà còn tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong vùng. Do vậy, ở luận văn này sẽ đề cập đến hai đối tượng: “người lao động là nông dân và con em họ (lực lượng lao động dự bị)” [32, tr. 40]. Những người nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu sinh sống trên địa bàn nông thôn, có độ tuổi từ 16-55, đang là người lao động chính trong gia đình, không còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông. Nhìn chung họ là những người có trình độ học vấn thấp so với các vùng trong nước. Qua điều tra xã hội học phục vụ đề tài “Điều tra đánh giá phân hóa xã hội trong cơ chế thị trường trên địa bàn tỉnh Kiên Giang” của Trường Chính trị tỉnh Kiên Giang năm 1998, kết quả ở 6 huyện, thị trong tỉnh cho thấy: Bảng 5 [30; tr. 20] Tên huyện, thị Số người nông dân được điều tra Trình độ học vấn Cấp I Cấp II Cấp III Số người % Số người % Số người % Phú Quốc 100 66 66 28 28 6 6 An Minh 100 50 50 42 42 8 8 Hà Tiên 100 74 74 22 22 4 4 Vùng ven TX RG 100 28 28 56 56 16 16 Tân Hiệp 100 34 34 54 54 12 12 Gò Quao 100 70 70 26 26 4 4 Qua kết quả điều tra thấy rõ trình độ học vấn của người nông dân còn thấp. Trình độ học vấn thấp cũng là một trong những yếu tố làm nảy sinh biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân. Do vậy, việc nâng cao trình độ cho người nông dân nơi đây là việc làm cấp bách. Đối với nông dân, ngoài việc xóa nạn mù chữ như đã làm những năm vừa qua, hiện nay chỉ có thể nâng cao trình độ học vấn cho họ bằng cách tổ chức thật tốt phong trào bổ túc văn hóa. Bổ túc văn hóa đã được tiến hành từ lâu ở nước ta và ở đồng bằng sông Cửu Long. Vấn đề ở đây là làm thế nào để tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa cho những người nông dân (nhất là nông dân nghèo) học tập một cách có hiệu quả. Đây là vấn đề lớn cần phải nghiên cứu kỹ hơn và sẽ được bổ sung thêm qua hoạt động thực tiễn. Song, trong khuôn khổ luận văn này, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau: Trước hết cần tổ chức các lớp theo các cụm nông dân phù hợp với điều kiện sinh sống và làm ăn của họ, nhất là những hộ nông dân nghèo. Mục đích phục vụ người nông dân nghèo khó, nhưng phải vận động những gia đình nông dân khá giả, giàu có cũng tham gia học văn hóa. Sự tham gia của những người khá và giàu sẽ làm cho ý nghĩa xã hội hóa của lớp học lớn hơn, vừa tạo thêm sinh khí, vừa là đối tượng để quyên góp tài lực như là một trong những điều kiện cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của lớp học. Để kích thích nông dân nghèo ham học, ngoài việc chọn thời gian và địa điểm học thích hợp, còn phải tính đến sự khang trang của phòng học, các thiết bị dạy và học, điều rất quan trọng là phải chú ý đến người thầy, linh hồn của lớp học, thực tế giáo dục ở nước cũng như đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, các điều kiện khác là cực kỳ quan trọng, nhưng cái quyết định hơn cả là vai trò của thầy cô giáo. Chỉ có người thầy có trình độ chuyên môn vững chắc, với sự nhiệt tình năng nổ, chịu khó, chịu khổ mới động viên, khích lệ, lôi kéo được nông dân nghèo vào quá trình học tập lâu dài và có chất lượng cao. Thứ hai, nội dung giảng dạy phải phù hợp với người học, đem lại ý nghĩa trực tiếp cho cuộc sống, công việc làm ăn của họ. Người học là những người nông dân nghèo chỉ có những kiến thức (tuy là kiến thức phổ thông) nhưng đã đem lại hiểu biết và kinh nghiệm trực tiếp cho việc sinh sống và làm ăn hàng ngày mới lôi cuốn họ đến lớp học thường xuyên. Thứ ba, cần xây dựng hệ thống chính sách về bổ túc văn hóa phù hợp tới từng vùng, trong đó trọng tâm là phục vụ nông dân nghèo không có điều kiện theo học. Hệ thống chính sách này phải nhất quán từ việc tuyên truyền vận động đến việc ưu tiên cho người học nghèo khó. Có thể nêu một vài chính sách cụ thể như: chính sách đầu tư cơ sở vật chất, chính sách ưu đãi cho người dạy và người học, các lớp bổ túc văn hóa... đặc biệt là chính sách giúp đỡ nông dân nghèo phải được hết sức chú ý. Thứ tư, cần ưu tiên hơn nữa cho việc học tập của con em các gia đình nông dân ở vùng sâu, vùng xa. Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo, đại đa số thiếu niên bỏ học sớm, trình độ học vấn thấp, thiếu nhi không đến trường và số đông là con em nông dân nghèo khó. Kết quả điều tra ba huyện vùng sâu, vùng xa ở Kiên Giang do trường Chính trị tỉnh Kiên Giang khảo sát thực hiện đề tài: “Điều tra đánh giá sự phân hóa xã hội trong cơ chế thị trường trên địa bàn tỉnh Kiên giang”, cho thấy: Bảng 6 [29, tr. 30] Tên huyện Số lượng con em nông dân điều tra trong độ tuổi từ 17- 20 Trình độ học vấn Lý do bỏ học không theo cấp III Cấp I Cấp II Cấp III Tổng số Trườn g xa K.tế khó khăn Ngại học Phú Quốc 100 50 40 10 90 60 15 15 An Minh 100 55 40 5 95 65 17 13 Gò Quao 100 33 55 12 88 58 20 20 Thực tế trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Những nguyên nhân dễ thấy nhất là trường học xa, đi lại khó khăn, không có tiền mua sách vở, đóng học phí, mua quần áo... Những người này sẽ là những người lao động có trình độ thấp trong tương lai, sẽ là gánh nặng cho toàn xã hội khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, Đảng và Nhà nước nói chung và các nhà lãnh đạo trực tiếp các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long cần nghiên cứu kỹ hơn và có hệ thống chính sách ưu tiên có hiệu quả hơn nữa. Bởi vì, có nâng cao trình độ học vấn cho người nông dân đồng bằng sông Cửu Long mới có điều kiện để phát huy biểu hiện tích cực và hạn chế, khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong tâm lý người nông dân nơi đây. Như vậy, nâng cao trình độ văn hóa và ý thức của dân cư sẽ tạo ra cho họ những tập quán và nhu cầu văn hóa mới. 3.3. Xây dựng đời sống văn hóa - xã hội mới ở cơ sở với việc khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long Tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long đều do yếu tố kinh tế quyết định. Nhưng các yếu tố khác cũng ảnh hưởng quan trọng, nhất là yếu tố văn hóa. Thực tế đã chứng minh rõ ràng nếu chỉ thiên về biện pháp kinh tế mà không chú ý đến các mặt văn hóa, xã hội thì việc xóa bỏ tâm lý lạc hậu của người nông dân sẽ không có kết quả triệt để. Do vậy, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất, phải kết hợp nâng cao trình độ dân trí với việc xây dựng đời sống văn hóa - xã hội mới ở đồng bằng sông Cửu Long cũng là giải pháp thiết thực, góp phần vào việc khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân nơi đây. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phát triển và tăng trưởng kinh tế là yếu tố giữ vai trò quyết định nhất đối với tiến bộ xã hội. Nhưng đối với đồng bằng sông Cửu Long không thể thụ động, ngồi chờ đến lúc kinh tế phát triển cao mới quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội. Bởi vì chính bản thân việc giải quyết tốt các vấn đề văn hóa - xã hội lại là điều kiện quan trọng để tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Chúng ta không có ảo tưởng là sớm có một đời sống văn hóa - xã hội ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long cao khi mà người nông dân vẫn dựa trên nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, khi mà còn tồn tại một bộ phận không nhỏ nông dân thiếu đất hoặc không đất, đời sống còn bấp bênh. Song chúng ta có thể thực thi ngay từ bây giờ kết hợp đẩy mạnh phát triển kinh tế với nâng cao dân trí, đổi mới thuần phong mỹ tục, xây dựng nếp sống văn hóa có kỷ cương, lành mạnh, tiến bộ, công bằng và văn minh ở đồng bằng sông Cửu Long. Mặt khác, môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh sẽ góp phần tích cực trực tiếp khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân nơi đây. Thực tế cho ta thấy các vấn đề văn hóa - xã hội có ảnh hưởng rất lớn đối với kinh tế, ảnh hưởng này có tính hai mặt. Nếu văn hóa - xã hội lành mạnh thì sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển; ngược lại, một khi đời sống văn hóa còn nhiều tệ nạn như cờ bạc, đá gà, số đề, mê tín dị đoan, các hủ tục cưới xin, ma chay... lạc hậu thì sẽ là những trở ngại cho quá trình phát triển kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Khi nói về văn hóa trên lĩnh vực đạo đức, lối sống, Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 5 (khóa VIII) đã chỉ rõ mặt yếu kém là: “... coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội” [28, tr. 46]. Những năm qua nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, cùng với những tiến bộ vượt bậc trong đời sống kinh tế, đời sống văn hóa - xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long đã có những bước phát triển đáng kể. Các phương tiện, điều kiện vật chất phục vụ cho các nhu cầu văn hóa của nhân dân, nhất là nông dân không ngừng được nâng lên. Nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp trong quan hệ xã hội được khôi phục và phát triển trở lại đúng vị trí của nó. các phong trào nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước phát triển ở khắp nơi trong vùng, thể hiện truyền thống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, của dân tộc. Các lễ hội truyền thống và các hình thức sinh hoạt văn hóa khác đã bị lãng quên ở thời kỳ thực hiện cơ chế bao cấp, thì nay được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, đem lại cho con người tâm trạng vui tươi, phấn khởi, ôn lại truyền thống và niềm tự hào của nhân dân về quê hương đất nước. Bên cạnh những thành tựu và ưu điểm về lĩnh vực văn hóa, cũng cần phải thấy rằng, trong tình hình hiện nay, tệ nạn xã hội chưa giảm mà còn có xu hướng gia tăng: việc ăn chơi lãng phí, sử dụng chất ma túy, mại dâm, các loại tội khác... làm tha hóa xã hội; đạo đức, quan hệ xã hội bị xuống cấp. Những biểu hiện tiêu cực khác như các hủ tục trong cưới xin, ma chay, các loại mê tín dị đoan đang có nguy cơ phục hồi và phát triển mạnh mẽ ở nhiều nơi. Việc mở rộng giao lưu với nước ngoài, bên cạnh những mặt tích cực, cũng đang làm cho nền văn hóa truyền thống có thể bị mai một bởi sự xâm nhập của nền văn hóa ngoại lai. Trong hoạt động văn hóa, văn nghệ có sự nảy sinh của khuynh hướng coi nhẹ văn hóa, văn nghệ dân tộc chạy theo thị hiếu không lành mạnh, để cho các văn hóa phẩm độc hại phổ biến tràn lan, những lối sống thực dụng đồi trụy có dịp lan rộng trong vùng, gây tác hại lớn, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Biểu hiện tiêu cực của văn hóa như đã nêu trên đã tạo ra môi trường nuôi dưỡng biểu hiện tâm lý tiêu cực của người dân ở đồng bằng sông Cửu Long. Do vậy để khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân nơi đây, việc xây dựng đời sống văn hóa - xã hội mới là giải pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Xây dựng đời sống văn hóa - xã hội mới ở đồng bằng sông Cửu Long, thực chất là nhằm xây dựng nông thôn mới “kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong phú, lành mạnh, cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của nông thôn và nông dân. Hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội; tăng cường đoàn kết và ổn định chính trị, trật tự xã hội và quốc phòng an ninh vững chắc" [25, tr. 55]. Những giải pháp lớn để xây dựng và phát triển văn hóa mới của đất nước nói chung và văn hóa mới ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng là: “Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” [28, tr.70]. Để biến giải pháp chung trên thành hiện thực, trong những năm trước mắt đồng bằng sông Cửu Long cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau: thực hiện các chính sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu tư và có các giải pháp phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục trong vùng, nhất là ở nông thôn sâu, vùng căn cứ cách mạng cho nông dân. Phát triển hệ thống truyền thanh, truyền hình, thư viện, nhà văn hóa nông thôn. Đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, kế hoạch hóa gia đình, đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao. Phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, bài trừ hủ tục mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội. Phát động phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII). Xây dựng gia đình văn hóa mới ở nông thôn... kết hợp với việc khắc phục những hủ tục và thói quen lạc hậu, những mặt tiêu cực trong tâm lý người nông dân, những tiêu cực nảy sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường [5, tr.10]. Cùng với việc khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, chúng ta cần phải có giải pháp để nuôi dưỡng và phát huy các yếu tố, các biểu hiện tâm lý tích cực của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long như yêu nước, cần cù lao động, yêu thương con người, sống có tình có nghĩa, lạc quan yêu đời v.v... để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Từ thực tế trên ta thấy rằng, cùng với việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng cường công tác giáo dục - đào tạo nâng cao dân trí, trình độ mọi mặt cho người nông dân, tiến hành xây dựng đời sống văn hóa - xã hội mới ở đồng bằng sông Cửu Long là những giải pháp cơ bản để phát huy biểu hiện tâm lý tính và khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Giữa những giải pháp trên có mối quan hệ tác động biện chứng với nhau. Kết quả của một giải pháp này có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của giải pháp khác và cùng nhằm mục đích chung: xóa bỏ những biểu hiện tâm lý tiêu cực để phát huy biểu hiện tích cực trong tâm lý người nông dân vùng đất mới, xuất phát từ vị trí quan trọng, cho nên khi thực hiện giải pháp đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ và nhất quán. Chỉ như vậy mới mang lại hiệu quả thiết thực theo mong muốn. Kết luận Tìm hiểu tâm lý người nông dân nói chung và những biểu hiện tâm lý đặc thù nói riêng là việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ trên cơ sở phát huy những biểu hiện tích cực và khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong tâm lý của họ thì vai trò của người nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay mới có vị trí xứng đáng của nó. Việc xây dựng con người mới, con người làm chủ trong nông nghiệp nói riêng và trong các lĩnh vực đời sống nói chung đòi hỏi phải xóa bỏ tâm lý cũ lạc hậu của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở phát huy những tư tưởng, tâm lý tình cảm tốt đẹp của họ là việc làm vừa có ý nghĩa thiết thực và cấp bách. Qua nghiên cứu biểu hiện tâm lý đặc thù của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, luận văn nêu lên những nhận xét ban đầu dưới đây: Người nông dân đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung mang tâm lý của nông dân Việt Nam. Nhưng do điều kiện thiên nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, cấu trúc thôn ấp... quy định, ngoài những nét biểu hiện mang tính chất truyền thống, họ còn bao hàm cả tâm lý đặc thù (cả biểu hiện tích cực và biểu hiện tiêu cực). Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân muốn thực hiện sự liên minh vững chắc với giai cấp nông dân đồng bằng sông Cửu Long, cần phải hiểu được tâm lý của họ. Tìm hiểu biểu hiện tâm lý nông dân đồng bằng sông Cửu Long, cần phải thấy đặc trưng của tâm lý nông dân thể hiện ở hai mặt, lao động và tư hữu, hai mặt của nông dân đã chi phối các quan hệ khác nhau của họ. Song người nông dân đồng bằng sông Cửu Long vốn có tinh thần yêu nước, có nhiệt tình cách mạng cao, một khi mà họ được giác ngộ sâu sắc. Đó là cơ sở thuận lợi, trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Mặt khác, xem xét biểu hiện tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, nên có quan điểm khách quan, toàn diện, phải thấy hết được biểu hiện tích cực của tâm lý để phát huy và những biểu hiện tâm lý tiêu cực để khắc phục. Tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long có cơ sở kinh tế xã hội của nó. Vì vậy, muốn cải tạo tâm lý tiêu cực của người nông dân ở đây, phải cải tạo cơ sở xã hội sinh ra nó. Phương hướng và giải pháp cải tạo tâm lý của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long là nắm vững đường lối đổi mới của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nông dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ dân trí cho người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, việc xây dựng đời sống văn hóa xã hội mới ở cơ sở v.v... là những giải pháp cơ bản chủ yếu để khắc phục tâm lý lạc hậu của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long. Danh mục tài liệu tham khảo [1]. Toan ánh, Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, Nxb thành phố HCM, 1991. [2]. Ca dao Nam Bộ. [3]. Ca dao Bắc Bộ. [4]. Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết trung ương 2 (khóa VIII) của Đảng bộ Kiên Giang. [5]. Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng bộ Kiên Giang. [6]. Lê Duẩn, Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội 1975. [7]. Trần Hữu Đính: Một vài đặc điểm của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4 - 1993. [8]. Trần Văn Giàu, Phong trào cứu thế ở Nam bộ từ thế kỷ XIX đến nay. [9]. V.I. Lê nin, Toàn tập, tập 41: Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977. [10]. V.I. Lê nin, Toàn tập, tập 1: Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961. [11]. V.I. Lê nin, Toàn tập, tập 1: Nxb Sự thật, Hà Nội, 1969. [12]. V.I. Lê nin, Về cách mạng kỹ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1969. [13]. Đỗ Long: Văn hóa làng và tâm lý làng, Tạp chí Tâm lý học, tháng 4/1998. [14]. Đỗ Long, Tâm lý xã hội... Nxb Khoa học xã hội, 1973. [15]. C. Mác, Tư bản, quyển 1, tập 3, Nxb Sự thật 1960. [16]. C. Mác, Góp phần phê phán chính trị kinh tế học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971. [17]. C. Mác - Ph.Ăng ghen, Tuyển tập 1, tập 1: Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971. [18]. C. Mác - Ph. Ăng ghen: Chống Đuy Rinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984. [19]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội. [20]. Hồ Chí Minh, Về giáo dục, Nxb Giáo dục, 1990. [21]. Hồ Chí Minh, Về vai trò của nông dân Việt Nam. [22]. Sơn Nam, Đất Gia Định xưa và nay, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1984. [23]. Sơn Nam, Văn minh miệt vườn, Nxb Văn hóa, 1992. [24]. Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long, nét sinh hoạt xưa, Nxb Văn hóa, 1993. [25]. Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5 (khóa VII) Về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và nông thôn, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1994. [26]. Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 7 (khóa VII) Về xây dựng giai cấp công nhân và công nghiệp hóa đất nước, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1994. [27]. Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 2 (khóa VIII) Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia. [28]. Nghị quyết BCH trung ương 5 (khóa VIII) Về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. [29]. Sở Giáo dục Kiên Giang, Truyền thống của ngành giáo dục Hà Tiên, Rạch Giá nay là Kiên Giang. [30]. Sở Lao động - thương binh xã hội tỉnh Kiên Giang. Đề tài điều tra nghiên cứu đào tạo việc làm cho thanh niên giai đoạn 1997-2005. [31]. Lê Đình Thắng, Giải pháp khắc phục hộ nông dân không có ruộng, thiếu ruộng ở đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 11 - 1998. [32]. Trường Chính trị tỉnh Kiên Giang, Điều tra đánh giá phân hóa xã hội trong cơ chế thị trường trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, 1998. [33]. Thơ văn yêu nước Nam bộ, Nxb Văn hóa 1997. [34]. Từ điển triết học tiếng Việt, Nxb Sự thật, Hà Nội 1969. [35]. Đặng Nghiêm Vạn, Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài, Nxb Khoa học xã hội, 1995. [36]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. [37]. Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ Kiên Giang lần thứ VI - 1996. [38]. Văn thơ yêu nước Nam bộ nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Văn hóa, 1997. [39]. Lê Hữu Xanh, Tâm lý người nông dân đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. [40]. Mục lục Trang Phần mở đầu 1 Chương 1: Vấn đề tâm lý và những yếu tố tác động đến việc hình thành tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long 4 1.1. Tâm lý nông dân 4 1.2. Cơ sở hình thành tâm lý của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long 11 Chương 2: Một số biểu hiện tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long 30 2.1. Tinh thần yêu nước 32 2.2. Tình cảm giữa con người trong cộng đồng 36 2.3. Tinh thần trong lao động 40 2.4. Lối sống 46 Chương 3: Những giải pháp cơ bản để khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long 51 3.1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa 51 3.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục - đào tạo 60 3.3. Xây dựng đời sống văn hóa - xã hội mới 66 Kết luận 71 Danh mục tài liệu tham khảo 73

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Tìm hiểu tâm lý của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long.pdf
Luận văn liên quan