Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ập đến trong những tháng còn
lại của năm 2008 có thể xem là một vị cứu tinh của hệ thống ngân hàng Việt
Nam. Tình hình trở nên dễ thở hơn khi chính sách tiền tệ đảo chiều, lãi suất sụt
giảm, thanh khoản trở nên dồi dào hơn khi ngân hàng Nhà Nước nới lỏng các
biện pháp tiền tệ thắt chặt và gói kích cầu hỗ trợ lãi suất bỗng trở thành một liều
thuốc tiên cho các ngân hàng Việt Nam, quốc doanh cũng như cổ phần. Nhưng
điều đó không có nghĩa là chúng nên được lặp lại. Nhìn lại những năm 2006,
2007 để thấy rằng vì động cơ lợi nhuận, các ngân hàng chúng ta đã hành động
một cách rủi ro như thế nào đối với việc tài trợ kinh doanh nhà đất và chứng
khoán không khác gì các ngân hàng Mỹ khi họ khởi động các nghiệp vụ cho vay
dưới chuẩn lãi suất cao cho khách hàng mua nhà.
27 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2358 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu tình hình huy động nguồn vốn của các ngân hàng Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho Ngân hàng.
- Khi gửi tiền khách hàng được hưởng lãi suất, góp phần tăng thêm lợi
nhuận cho khách hàng. Mặt khác, khi có nhu cầu sử dụng thì khách hàng chủ
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 5
động rút ra, nên vẫn thỏa mãn nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của họ. Ngoài
ra, khách hàng còn được phép sử dụng tiền gửi để phục vụ cho công tác thanh
toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng.
- Mặc dù đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền có thể gửi tiền và rút tiền
bất cứ lúc nào, song giữa việc gửi tiền và rút tiền có sự chênh lệch về thời gian và
số lượng nên trên các loại tài khoản này luôn có số dư, Ngân hàng có thể huy
động số dư đó làm nguồn vốn tín dụng để cho vay.
b) Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền có sự
thỏa thuận về thời hạn rút tiền giữa Ngân hàng và khách hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn: là nguồn vốn mang tính chất ổn định, Ngân hàng có
thể sử dụng loại tiền gửi này một cách chủ động để làm nguồn vốn kinh doanh.
Vì vậy, để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các Ngân hàng thường đưa ra
nhiều loại kỳ hạn khác nhau để đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Thông
thường có các loại kỳ hạn như sau: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng,… với
mỗi kỳ hạn Ngân hàng áp dụng mỗi mức lãi suất khác nhau phù hợp theo nguyên
tắc: kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
2.2.1.2. Tiền gửi trong dân cư
Là một bộ phận thu nhập bằng tiền của dân cư gửi tại Ngân hàng. Là một
bộ phận thu nhập bằng tiền của dân cư gửi tại Ngân hàng bao gồm:
- Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của Ngân hàng. Trong hình
thức huy động này, người gửi tiền được cấp một sổ tiết kiệm, sổ này được coi là
một giấy chứng nhận có gửi tiền vào quỹ tiết kiệm của Ngân hàng. Tiền gửi tiết
kiệm của dân cư cũng được chia làm 2 loại: tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm
không kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: cũng giống như loại tiền gửi có kỳ hạn, nó
cũng có sự thỏa thuận về thời hạn rút tiền, nhưng nguồn hình thành của tiền gửi
tiết kiệm chủ yếu là tiền nhàn rỗi trong dân cư. Về tính chất thì tiền gửi thanh
toán và tiền gửi tiết kiệm giống nhau, hiện nay vẫn còn sự phân biệt này là do khi
gửi tiết kiệm khách hàng được cấp một sổ tiết kiệm để giao dịch với Ngân hàng.
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 6
2.2.2. Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng
phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn và ngược lại. Hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng cũng không tránh khỏi tình trạng đó. Đối với Ngân hàng cũng thường
tổ chức các hình thức huy động vốn, nhưng nhu cầu vay vốn của các tổ chức lại
thấp hơn so với vốn huy động, nên Ngân hàng cũng dùng số tiền nhàn rỗi này để
gửi vào Ngân hàng khác. Tuy nhiên, cũng có những thời điểm cầu vượt cung do
đó Ngân hàng cũng không thể đáp ứng, để đáp ứng được cầu thì Ngân hàng chủ
động vay lại của các Ngân hàng khác để đảm bảo khả năng thanh toán cho các tổ
chức.
2.2.3. Nguồn vốn vay của Ngân hàng Trung Ương
- Ngân hàng Trung Ương đóng vay trò là Ngân hàng của các Ngân hàng, là
người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Vì vậy, khi có nhu cầu, các Ngân hàng
thương mại sẽ được Ngân hàng Trung Ương cho vay vốn.
- Việc vay vốn của Ngân hàng Trung Ương đối với các Ngân hàng thương
mại thông qua hình thức tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của
Ngân hàng Trung Ương nhằm cung cấp vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh
toán cho các Ngân hàng thương mại. Ngân hàng Trung Ương thực hiện tái cấp
vốn cho các Ngân hàng thương mại thông qua các hình thức sau:
+ Cho vay theo hồ sơ tín dụng.
+ Chiết khấu các chứng từ có giá trị ngắn hạn.
+ Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố các chứng từ có giá.
2.2.4. Lãi suất huy động vốn.
Là lãi suất mà các tổ chức tín dụng sử dụng để huy động vốn cho các mục
tiêu hoạt động kinh doanh của mình như: lãi suất tiền gửi không kỳ hạn (LKK),
lãi suất tiền gửi có kỳ hạn (LCK), lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế (LTC),
lãi suất tiền gửi của dân cư (LDC).
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thì các Ngân hàng thương mại
không được huy động vốn vượt mức 20% so với vốn điều lệ của Ngân hàng.
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 7
CHƯƠNG 3
TÌM HIỂU TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. CÁC THỊ TRƯỜNG MỤC TIÊU CỦA NGÂN HÀNG
Do nét đặc thù về sản phẩm và mục tiêu kinh doanh của Ngân hàng nên ta
có thể chọn thị trường ra thành các nhóm có những nét đặc trưng khác nhau:
3.1.1 Nhóm khách hàng truyền thống
Nhóm khách hàng truyền thống là những đơn vị xây lắp, đơn vị sản xuất
kinh doanh vật liệu xây dựng: Với đặc điểm là tỉnh mới thành lập, cơ sở hạ tầng
còn thiếu thốn, nên việc đầu tư nâng cấp, sửa chữa và xây dựng mới là nhu cầu
rất cần thiết.
3.1.2. Nhóm khách hàng tiềm năng
- Nhóm khách hàng tiềm năng là dân cư có thu nhập cao và ổn định.
- Ngân hàng huy động vốn với nhiều hình thức khác nhau nhưng điển hình
nhất là tiền gửi của các tầng lớp dân cư. Để huy động triệt để nguồn vốn từ nhóm
khách hàng này Ngân hàng cần triển khai nhiều hình thức huy động vốn đa dạng
như nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ với với kỳ hạn không giống
nhau (không kỳ hạn, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 24 tháng).
- Với khách hàng có thu nhập ổn định thì việc triển khai tín dụng bằng tín
chấp là hợp lý. Lãi và gốc sẽ được trừ dần vào tiền lương hàng tháng của khách
hàng.
3.1.3. Nhóm các tổ chức kinh tế
Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân:
- Với nhóm khách hàng này thì ngoài việc nhận tiền gởi và cho vay, Ngân
hàng còn có thể thực hiện các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền,… với nhịp độ
phát triển kinh tế như hiện nay, lượng giao dịch mua bán ngày càng nhiều và đòi
hỏi cao về sự nhanh chóng, an toàn và hiệu quả thì Ngân hàng sẽ đóng vai trò
quan trọng trong việc hỗ trợ thanh toán. Để ngày càng thu hút thêm những khách
hàng ở nhóm này Ngân hàng cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ tạo
uy tín với khách hàng.
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 8
- Theo các nhà kinh tế thì cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước nói
chung và tỉnh Hậu Giang nói riêng. Đặc biệt là tỉnh mới thành lập có nhiều tiềm
năng tự nhiên chưa được khai thác hết, là nơi mưa thuận gió hòa thích hợp phát
triển kinh tế nông nghiệp, thuận lợi cho phát triển công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp, thương mại – dịch vụ phát triển theo… Thì các doanh nghiệp có quy mô
sản xuất vừa và nhỏ sẽ xuất hiện nhiều, như vậy nhu cầu vốn sẽ rất lớn. Ngân
hàng nên đặc biệt chú ý đến những nhóm khách hàng này.
Tóm lại: Qua việc phân tích trên đã giúp cho Ngân hàng có những biện
pháp tích cực để thực hiện tốt công tác huy động vốn có hiệu quả, góp phần thúc
đẩy Ngân hàng kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn.
Để hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong
năm qua tôi phân tích từng mặt, từng lĩnh vực hoạt động.
3.2. TÌM HIỂU TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN CỦA CÁC NGÂN
HÀNG
3.2.1. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta trong thời
gian qua
Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương
mại nhà nước, 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 31 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài
chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân
hàng nước ngoài. Hơn nữa, hiện nay ngân hàng nhà nước đã chấp nhận về
nguyên tắc cho ra đời thêm 4 ngân hàng nhà nước cổ phần, càng chứng tỏ hệ
thống ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì
đây quả là một sự trưởng thành vượt bậc.
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá
lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50%
vốn đầu tư toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm
2006 ước tăng khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng
cũng có nhiều đóng góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong
những năm qua.
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 9
HÌNH 1: TỐC ĐỘ TĂNG DƯ NỢ TÍN DỤNG QUA CÁC NĂM
(Nguồn: Báo cáo thông tin Ngân hàng Nhà nước)
Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản
luật đã được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân
hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; Khuôn khổ thể
chế ngày một thông thoáng và minh bạch hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại
hình tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước
ngoài đã từng bước được loại bỏ; Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho
vay tín dụng thương mại đã được tách bạch; Các ngân hàng thương mại, các tổ
chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh
của các tổ chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát
triển an toàn và hiệu quả.
Thứ ba, chính sách tiền tệ được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị
trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành chính
sách tiền tệ đã được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối
đoái đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được
mở rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành
phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân cư.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ
cho các ngân hàng thương mại nhà nước, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên
tổng dư nợ đã giảm từ gần 20% trong những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%),
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 10
đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và
thanh toán điện tử…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, hệ
thống ngân hàng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục để hội nhập
được tốt, có khả năng cạnh tranh cao trong môi trường quốc tế.
Vào năm 2006, cả hai thành phố lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh,
vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều tăng cao so
với cùng kỳ nhiều năm và có tốc độ tăng trước sự ngỡ ngàng của chính giới kinh
doanh tiền tệ. Tại thành phố Hồ Chí Minh nguồn vốn huy động là 234.224 tỷ
đồng, số dư huy động vốn tăng trên 32,5% so với năm 2005. Như vậy, tổng số dư
vốn huy động chỉ ở riêng hai thành phố nói trên sẽ bằng số dư vốn huy động của
các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tăng trưởng nhanh trong năm
2006. Nguyên nhân mức huy động vốn của ngân hàng ở hai thành phố lớn tăng là
do:
Thứ nhất: Thu nhập của người dân ngày càng cải thiện. Nhiều gia đình,
nhiều người có nhu cầu tích lũy, nguồn tiết kiệm bằng tiền lớn. Thực tế này
không chỉ thấy qua kênh tiền gửi ngân hàng, mà còn thấy một lượng vốn không
nhỏ của người dân đầu tư mua chứng khoán, mua cổ phiếu trên thị trường OTC,
mua cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, mua bảo hiểm nhân
thọ,…Nhưng kênh ngân hàng vẫn là nơi thu hút vốn trong dân lớn nhất.
Thứ hai: Trong các kênh để dành và tiết kiệm: mua vàng, cất trữ ngoại tệ
trong nhà và gửi Đồng Việt Nam tại ngân hàng, thì kênh đầu tư vào tiền gửi ngân
hàng là sự lựa chọn tối ưu và minh bạch hơn cả.
Thứ ba: Sau hơn 20 năm đổi mới đất nước, gần 18 năm đổi mới hoạt động
ngân hàng, thay cho để dành dưới nhiều hình thức khác nhau tại nhà hay trong
dân cư. Hệ thống ngân hàng ngày càng vững mạnh.
Thứ tư: dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiện ích, các loại tiền gửi đa dạng
như tiền gửi bậc thang, tiền gửi với lãi suất lũy tiến, tiền gửi ngắn hạn,…tạo sự
thuận lợi lựa chọn cho khách hàng và doanh nghiệp.
Thứ năm: Lãi suất tiền gửi hấp dẫn và được điều chỉnh linh hoạt theo diễn
biến của thị trường. Đặc biệt lãi suất tiền gửi USD của các ngân hàng thương mại
nước ta thường xuyên được điều chỉnh tăng theo xu hướng tăng lên của lãi suất
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 11
USD trên thị trường quốc tế, với mức tăng khoảng 0,5% - 0,55% năm trong năm
2006. Vốn huy động tăng nhanh đó là xu hướng tích cực và đáng mừng. Vốn
nhàn rỗi trong dân cư được huy động tối đa vào các tổ chức trung gian tài chính
từ đó đầu tư cho các nhu cầu phát triển kinh tế.
Năm 2007 tiếp tục là một năm sôi động của ngành ngân hàng Việt Nam
với tốc độ tăng trưởng huy động vốn ước đạt 36,5% và tăng trưởng dư nợ tín
dụng đạt 34% gấp gần hai lần so với mức dự báo hồi đầu năm. Theo Hiệp hội
Ngân hàng Việt Nam, trong năm qua, cơ cấu dư nợ tín dụng đã có sự thay đổi
tích cực theo hướng tăng dư nợ cho vay trung, dài hạn và tập trung hỗ trợ cho
những ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng như nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng,
bất động sản, thúc đẩy xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng thủy sản, kinh doanh
chứng khoán và tiêu dùng.
Bảng 1: TỔNG DƯ NỢ CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG TRONG NĂM 2007
Ngân hàng Tổng dư nợ Vốn điều lệ
Sacombank 35.000 tỷ đồng 4.448 tỷ đồng
ABC 31.600 tỷ đồng 2.630 tỷ đồng
VIB Bank 19.000 tỷ đồng 2.000 tỷ đông
OCB 7.557 tỷ đồng 1.000 tỷ đồng
Eximbank 18.407 tỷ đồng 2.800 tỷ đồng
DongA Bank 18.000 tỷ đồng 1.600 tỷ đồng
VAB 5.747 tỷ đồng 1.000 tỷ đồng
(Nguồn: Đầu tư – Tài chính, 2008)
Đến hết tháng 12/2007, tổng vốn huy động của các ngân hàng trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh ước đạt trên 442.500 tỷ đồng, tăng 55% so với cuối năm 2006;
tổng dư nợ cho vay tăng 51%, đạt gần 347.000 tỷ đồng. Tại Hà Nội, nơi tập trung
hội sở và đầu mối của hầu hết các ngân hàng trong cả nước, tăng trưởng huy
động vốn ước đạt khoảng 44% và tổng dư nợ cho vay ước đạt 38,5% so với năm
ngoái.
Song, trước nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp đang tăng cao vào dịp cuối năm,
trong khi huy động vốn lại có dấu hiệu chững lại, nhiều ngân hàng cổ phần đã
đua nhau tăng lãi suất huy động vốn VND, điều này gây mất ổn định mặt bằng
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 12
lãi suất, dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng và gây ảnh
hưởng đến nền kinh tế trong bối cảnh chỉ số tiêu dùng đang ở mức cao.
Năm 2008 được đánh giá là một năm đầy khó khăn và với ngành ngân
hàng. Từ đầu năm đến nay, sự biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước đã
tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng, nguyên
nhân là do:
* Lạm phát: Đầu năm phải đối mặt với lạm phát tăng cao (theo tính tóan sơ
bộ lạm phát năm nay của Việt Nam là 24%) do đó việc thắt chặt tiền tệ đã gây
khó khăn không nhỏ cho ngân hàng. Thứ nhất: họ phải tăng lãi suất vay vì thế
cho nên phải tăng lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay quá cao khiến càng ít doanh
nghiệp vay vốn, làm cản trở đến việc kinh doanh của ngân hàng. Thứ hai: Do lãi
suất cao nên khả năng hoàn trả của các con nợ bị giảm sút, việc thu hồi nợ khó
khăn hơn, các khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng rủi ro của các ngân
hàng. Thứ ba: Do lý do thứ hai nên các ngân hàng trở nên dè dặt trong việc cho
vay vốn, tiền không được mang ra sử dụng lưu thông trở thành những khoản tiền
vô ích, làm tăng chí phí cho ngân hàng.
* Cơn bão tài chính Mỹ: Gần cuối năm, ngành tài chính ngân hàng phải
đón nhận tin cơn bão tài chính ở Mỹ. Nhưng có lẽ nó có ít tác động đến ngành
ngân hàng Việt Nam mà nhiều khi còn là tin tốt. Tin tốt là vì: Khi nhìn thấy sự
khủng hoảng của ngành ngân hàng tại Mỹ, các ngân hàng Việt Nam sẽ suy xét và
nhìn nhận lại cách làm ăn của mình. Họ sẽ thận trọng hơn với các khoản cho vay
của mình; họ sẽ tìm cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; họ sẽ đề phòng và
miễn dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là
cao; họ sẽ tập trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có
sự phát triển trong tương lai.
* Cạnh tranh giữa các ngân hàng: Đầu tiên là sự cạnh tranh các ngân
hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài. Càng ngày càng có nhiều ngân
hàng nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế của họ là có nhiều vốn, có tiềm lực tài
chính và quản lý. HSBC là ngân hàng nước ngoài tích cực nhất hiện nay. HSBC
vừa được Ngân hàng Nhà nước chính thức cho phép thành lập ngân hàng con
100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Việc thành lập ngân hàng con sẽ cho phép
HSBC mở rộng mạng lưới phân phối rộng hơn, tới các khách hàng hiện tại cũng
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 13
như khách hàng mới. HSBC trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt
Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước sau khi nâng cổ phần sở
hữu tại Techcombank từ 14,4% lên 20%. Điều này cho phép HSBC mở rộng sức
ảnh hưởng và gia tăng tầm hoạt động của mình. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia
tăng đối với các ngân hàng nội. Cạnh tranh với ngân hàng trong nước: Điều này
là hiển nhiên nhưng có xu thế mới đó là việc hợp tác của các ngân hàng nội. Việc
rõ ràng nhất là “liên minh ATM”. Cầm thẻ ATM của ngân hàng Techcombank
nhưng khi đến trạm rút tiền của ngân hàng Vietcombank bạn vẫn có thể rút tiền
được. Điều này làm gia tăng tầm hoạt động, khả năng cạnh tranh, sức thu hút
khách hàng hơn là những ngân hàng không nằm trong liên minh. Nhưng sự cạnh
tranh dù là giữa nội – ngoại hay nội – nội vẫn là cần thiết. Vì như thế các ngân
hàng sẽ không ngừng cải thiện, không ngừng gia tăng chất lượng dịch vụ, luôn
luôn sáng tạo để làm thỏa mãn những đòi hỏi của đất nước, của người dân và các
doanh nghiệp.
* Cạnh tranh với thị trường chứng khoán: Càng ngày chứng khoán càng
trở nên lộ diện là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng về mặt huy động
vốn trong dân. Trước kia chưa có chứng khoán thì người dân sẽ gửi tiền nhàn rỗi
của mình vào các ngân hàng nhằm kiếm các khoản lợi tức. Nhưng nay, chứng
khoán đã làm giảm lượng huy động vốn nhàn rỗi của các ngân hàng. Những
người dân có tiền nhàn rỗi họ sẵn sàng lao vào đầu tư chứng khoán với hi vọng
kiếm lời cao hơn là gửi tiền vào ngân hàng (tuy có rủi ro cao hơn). Bên cạnh đó,
các doanh ngiệp ngoài kênh huy động vốn là vay mượn các ngân hàng họ còn có
cách là phát hành cổ phiếu ra thị trường. Đấy cũng là một cách tốt để huy động
vốn.
Bảng 2: QUI MÔ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
(ĐVT: Tỷ đồng)
Ngân
hàng
Tài sản có Vốn huy động ROA (%) ROE (%)
2007 2008 2007 2008 200
7
200
8
2007 2008
NHTMN
N
923.35
9
1.14315
5
710.63
9
842.78
7
0,64 0,69 9,7 10,8
7
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 14
NHTMCP 564,72
1
720,538 346,63
1
462,41
6
1,51 1,46 12,2
5
10,9
7
NHLD,
NN
201.78
2
255.538 112.68
0
124.09
5
1,25 1,31 14,6
5
15,0
3
(Nguồn: Đầu Tư và Tài chính, 2009)
Qua bảng trên cho ta thấy tài sản có của các ngân hàng tăng lên từ năm
2007 sang năm 2008, bên cạnh đó nguồn vốn huy động cũng tăng theo. tỷ suất
lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn chủ sơ
hữu (ROE) của NHTMNN và NHLD, NN đều tăng lên. Trong khi đó thì tỷ suất
lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và tý suất lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở
hữu (ROE) của ngân hàng thương mại cổ phần lại giảm xuống. Điều này cho
thấy tình hình hoạt động của NHTMCP vào năm 2008 lại hoạt động chưa tốt và
kém hiệu quả hơn so với NHTMNN và NHLD.
3.2.2. Tình hình hoạt động của các ngân hàng và thị trường tiền tệ trong
nước từ những tháng đầu năm 2009 đến nay
3.2.2.1. Lãi suất huy động vốn tăng
Vào những tháng đầu năm 2009 tiền gửi vào ngân hàng có tăng nhẹ do
quyết định điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ mức 8,5%/năm xuống còn 7%/năm
của ngân hàng Nhà nước từ đầu tháng 2/2009 và giữ nguyên trong tháng 3/2009
đã tạo nên những biến động lãi suất trên thị trường ngân hàng. So với thời điểm
cuối năm 2008, mặt bằng lãi suất huy động đang giảm khoảng 0,5 – 1,5%/năm và
lãi suất cho vay theo đó cũng giảm thêm 2,5 – 4%/năm. Song bắt đầu từ giữa
tháng 2, một số ngân hàng bắt đầu điều chỉnh tăng lãi suất huy động với mức
tăng 0,3 – 1%/năm. Mặt bằng lãi suất huy động nhờ đó mà phổ biến ở mức 6,8 –
7,5%/năm và vượt mức 8,0%/năm tại một số ngân hàng. Lãi suất cho vay phổ
biến ở mức 8 – 10,5%/năm và riêng lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay
được hỗ trợ lãi suất chỉ có 4 – 6%/năm. Với các khoản vay phục vụ nhu cầu đời
sống và thông qua thẻ tín dụng, lãi suất cho vay khá cao khi ở mức 12 –
14%/năm. Ngược với VND, các mức lãi suất huy động và cho vay USD đều có
xu hướng giảm so với cuối năm 2008 với mức giảm 0,2 – 0,5%/năm đối với huy
động và 0,2 – 1,5%/năm đối với cho vay. Lãi suất huy động USD do đó hiện chỉ
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 15
còn phổ biến ở mức 2,2 – 3,5%/năm và 5,7 – 7,4%/năm đối với lãi suất cho vay.
Với các điều chỉnh trên, theo tính toán của NHNN, tổng số dư tiền gửi của khách
hàng tại các TCTD đến cuối tháng 2.2009 có mức tăng nhẹ 1,62% so với tháng
trước và tăng khoảng 0,44% so với cuối năm 2008. Điểm đáng lưu ý là số dư tiền
gửi VND chỉ tăng khoảng 0,23% trong khi số dư tiền gửi ngoại tệ có mức tăng
đáng kể 1,13% so với cuối năm trước. lãnh đạo Vietcombank nhận định, nhu cầu
vay vốn của DN trong năm 2009 tăng mạnh theo chương trình hỗ trợ LS của
Chính phủ, đặc biệt với các khoản vay VND là động lực để NH tung ra các sản
phẩm mới với LS ưu đãi nhằm làm tăng vốn huy động. Ở một khía cạnh khác,
khi LS cơ bản của NHNN giảm liên tục và có khả năng được giữ ở mức 7% trong
ngắn hạn, mức LS huy động kỳ hạn 12 tháng tại các NH như hiện nay (8,0-
8,2%/năm) thực sự đang là mức LS hấp dẫn.
Tình hình hoạt động của các ngân hàng trong nước vào những tháng đầu
năm 2009 cho thấy vốn huy động ngắn hạn trên thị trường hiện cũng không dồi
dào như năm trước. Chứng khoán có nhiều triển vọng đi lên, khả năng sinh lời từ
vàng và tỷ giá, bất động sản khó giảm thêm…là những lý do khiến tiền nhàn rỗi
tìm đường đến với các kênh đầu tư sinh lợi cao hơn lãi suất tiết kiệm. Bên cạnh
nguồn vốn huy động ngắn hạn không khả quan thì vốn trung dài hạn cũng không
dễ huy động. Trong tháng 4/2009 nhu cầu vốn trung dài hạn ở một số ngân hàng
đã tăng lên khiến các ngân hàng thương mại đang tăng trưởng phát hành các giấy
tờ có giá với lãi suất cao để huy động nguồn vốn trung dài hạn. Tuy nhiên, không
phải ngân hàng cũng có điều kiện để thực hiện huy động này. Trong khi đó có
khá nhiều ngân hàng lớn đều xúc tiến cho việc ra đời các sản phẩm nhằm thu hút
vốn trung dài hạn để phục vụ cho các khách hàng của mình. Trong giữa tháng 4
ngân hàng VietinBank đã phát hành chứng chỉ tiền gửi đợt 1 năm 2009 với lãi
suất khá hấp dẫn (mức cao nhất là 9%) so với mức lãi suất trung bình 7,8 – 8,4%
của các ngân hàng trên thị trường. Tổng giá phát hàng trong đợt là 6.000 tỉ đồng
với năm loại kỳ hạn là 6, 9, 12, 24 và 36 tháng. Lãi suất nằm trong khoản từ
7,9% đến 9%/năm, cao hơn khoảng một điểm phần trăm so với lãi suất huy động
cùng kỳ hạn của ngân hàng cổ phần. Tuy nhiên, chứng chỉ tiền gửi này không
được rút vốn trước hạn. Trong khi đó ngân hàng ACB, có dành ngân sách cho
vay dài hạn với các tổng công ty lớn khoảng 10.000 tỉ đồng, nhưng ngân hàng sẽ
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 16
lấy thêm một phần vốn từ hạn mức 6.000 tỉ đồng cho vay doanh nghiệp vừa và
nhỏ trước đây để chuyển qua cho vay trung dài hạn. Trong khi đó các ngân hàng
cổ phần luôn có nhu cầu vốn trung và dài hạn nhưng cơ cấu vốn huy động
khoảng 80 – 90% là vốn ngắn hạn. Vì vậy, để phát hành giấy tờ có giá dài hạn thì
các ngân hàng quy mô nhỏ và trung bình phải tính toán rất kỹ. Nhưng nếu muốn
phát hành giấy tờ có giá trung dài hạn thành công thì lãi suất phải cao, nhưng đi
kèm đó là rủi ro khá lớn cho ngân hàng, nếu lãi suất cơ bản liên tục giảm trong
ngân hàng đã huy động vốn trung dài hạn lãi suất cao thì sẽ thiệt thòi rất nhiều.
Bên cạnh đó, các ngân hàng lớn có nguồn vốn gửi thanh toán không kỳ hạn lớn
từ các doanh nghiệp lớn, nên lãi suất đầu vào bình quân của các ngân hàng này sẽ
giảm thấp.
Trong những ngày đầu tháng 5/2009 lãi suất tăng cao ở các kỳ hạn dài từ 12
– 36 tháng. Thế nhưng các ngân hàng vẫn khó khăn trong việc thu hút vốn trung
và dài hạn bởi người dân còn mang nặng tâm lý giữ tiền mặt để ứng phó với
những biến động. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng
ước tăng 3,74% so với cuối tháng 4 và tăng 9,88% so với cuối năm trước (số dư
tiền gửi VND tăng 4,52% và số dư tiền gửi ngoại tệ tăng 1,07%). Đây là mức
tăng đáng kể nếu như so với tháng 3/2009, chỉ tăng 3,4%; tháng 2 tăng 1,62%;
tháng 1 tăng 0,18%. Trong khi đó, ở chiều ra, mức tăng trưởng tín dụng trong
tháng 4/2009 của hệ thống ngân hàng lại có sự gia tăng đột biến. Ngân hàng Nhà
nước cho biết, trong tháng 4 vừa qua, nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế ước tăng
4,86% so với cuối tháng trước và tăng 11,6% so với cuối năm 2008. Đây là tín
hiệu tốt đối với nhu cầu vốn như trên. Vì thế, các ngân hàng đã tăng lãi suất huy
động. Các đỉnh lãi suất lần lượt được vượt qua từ hơn 8% đầu tháng 4 đã nhanh
chóng lên đến 9%. Và cao nhất là lên đến 9,3% tại một số ngân hang cổ phần.
Hầu hết là huy động vốn dài hạn 12 – 60 tháng. Bên cạnh việc tăng lãi suất, các
ngân hàng đang tìm nhiều cách khác để tăng huy động vốn cho nhu cầu dài hạn.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) phát
hành giấy tờ có giá dài hạn năm 2009 với tổng mệnh giá 5.000 tỷ đồng quy đổi.
Không chỉ riêng VIB, đây cũng chỉ là cách mà các ngân hàng áp dụng để huy
động vốn trung và dài hạn. Sacombank cũng nhận được chấp nhận của ngân hàng
Nhà nước huy động 10.000 tỷ đồng, Vietinbank nhận được hạn mức 10.000 và
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 17
400 triệu USD. Tuy nhiên, tăng lãi suất chưa chắc đủ sức thu hút người dân gửi
tiền vào các kỳ hạn dài như các ngân hàng kỳ vọng. Theo nhận định của các
chuyên gia thì việc thu hút vốn là một khó khăn đối với các ngân hàng vì người
giữ tiền đang có nhiều lựa chọn khi chứng khoán và bất động sản bắt đầu ấm lại,
đầu tư vàng, ngoại tệ vẫn còn sôi động. Không chỉ vậy, khi kinh tế còn biến
động, người gửi tiền thường có tâm lý gửi tiền ngắn hạn để ứng phó với biến
động thị trường. Hơn nữa, khi các ngân hàng tạo ra xu thuế tăng lãi suất, người
gửi tiền cũng có tâm lý gửi ngắn hạn để có thể quay vòng nhanh khi lãi suất tăng
cao hơn trong các giai đoạn tiếp theo.
3.2.2.2.Lãi suất huy động tăng nhưng các ngân hàng vẫn khó hút vốn
Vốn huy động ngắn hạn trên thị trường hiện cũng không dồi dào như năm
trước, do các kênh đầu tư khác đã có dấu hiệu phục hồi. Nó được thể hiện đỉnh
lãi suất huy động đã được thiết lập ở mức 10,1% /năm trong ngày 16/6/2009 tại
HDBank cho kỳ hạn 36 tháng và xu hướng chung của lãi suất được nhiều chuyên
gia ngành ngân hàng dự báo, sẽ tiếp tục tăng cùng với nhiều chương trình khuyến
mãi tiết kiệm được ngân hàng tung ra. Song do lãi suất tăng chủ yếu ở kỳ hạn dài
ngày, từ 18 tháng trở lên, nên vẫn khó thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư. Trong
khi đó dư nợ tiếp tục được cải thiện. Đến cuối tháng 5/2009, số dư huy động bình
quân của Dong Á Bank đạt 31.368 tỷ đồng, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm
2008, bằng 98% kế hoạch năm 2009; dư nợ tín dụng đạt 26.999 tỷ đồng, tăng
23,2% so với cùng kỳ và bằng 100% kế hoạch. Hiện lãi suất tiền gửi tăng mạnh ở
một số ngân hàng quy mô vừa và nhỏ. Chẳng hạn, ABBank có ABBank có 2 sản
phẩm tiết kiệm mới với lãi suất rất hấp dẫn lên tới 9,99%/năm. Lãi suất cao nhất
áp dụng cho kỳ hạn 18 tháng tại DaiA Bank hiện là 8,6%/năm. Gửi tiết kiệm tại
OCB từ ngày 16/6, khách hàng sẽ được tặng lãi suất thưởng tùy theo số tiền gửi.
Ngoài ra, khi sổ tiết kiệm đến hạn, khách hàng tiếp tục gửi lại (với số tiền không
hạn chế) thì sẽ được tặng lãi suất thưởng lên đến 0,50%/năm…
So với đầu năm 2009, lãi suất tiền gửi đã tăng bình quân khoảng 2%/năm
tùy từng kỳ hạn khác nhau, cho dù NHNN tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản.
Các dự báo được đưa ra từ nhiều chuyên gia cũng cho thấy, khả năng lãi suất cơ
bản sẽ tiếp tục ổn định trong những tháng tới, không thay đổi nhiều so với hiện
nay. Thế nhưng, trước xu hướng tín dụng tăng trưởng mạnh qua mấy tháng qua,
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 18
các ngân hàng đã chạy đua tăng lãi suất, song vẫn khó hút được nguồn tiền nhàn
rỗi trong dân cư. Nguyên nhân chính là do giá chứng khoán tăng mạnh đã thu hút
nguồn tiền tiết kiệm. Những người có tiền nhàn rỗi cũng muốn thử sức và tìm cơ
hội lợi nhuận cao gấp hai, gấp ba, thậm chí gấp 10 lần trên sàn chứng khoán, thay
vì gửi ở ngân hàng như năm trước. Trên thực tế, so với năm 2008, hiện lãi suất
tiền gửi đã giảm xuống 2/3. Trong khi đó, chứng khoán đã tăng từ dưới 250 điểm
lên gần 500 điểm trong thời gian gần đây. Ngoài ra, bất động sản đã giảm giá khá
mạnh so với đợt “sốt” năm 2007 và năm 2008, nên nhiều người đã rút tiền gửi
tiết kiệm ngân hàng để sở hữu nhà, đất.Với những người có nhu cầu về nhà ở
thực sự cũng bắt đầu vay vốn ngân hàng trở lại, bên cạnh phần vốn tự có để tranh
thủ mua nhà, đất dưới dạng trả góp. Do đó, ngoài áp lực chứng khoán, bất động
sản, ngân hàng còn phải tăng tốc huy động tiền nhàn rỗi để đáp ứng nhu cầu vốn
của khách hàng tranh thủ cơ hội mở rộng tín dụng cá nhân. Đây cũng là lý do
khiến nhiều ngân hàng tiếp tục điều chỉnh lãi suất tiền gửi VND. Vì với tín dụng
tiêu dùng, ngân hàng được thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận. Không chỉ khó
với nguồn vốn huy động trung, dài hạn (dù lãi suất áp dụng các kỳ hạn dài ngày
luôn cao hơn ngắn ngày), vốn huy động ngắn hạn hiện cũng không dồi dào như
năm trước, do các kênh đầu tư khác đã có dấu hiệu phục hồi.
Lãi suất huy động của bình quân thị trường liên ngân hàng là 1 tháng, 3
tháng, 6 tháng, 12 tháng với mức lãi suất tương đối hấp dẫn cho khách hàng.
Song do lãi suất tăng chủ yếu ở kỳ hạn dài ngày, từ 18 tháng trở lên, nên vẫn khó
thu hút được vốn nhàn rỗi trong dân cư. Trong khi đó, tăng trưởng dư nợ tiếp tục
được cải thiện. Số liệu thống kê hoạt động 5 tháng đầu năm của các ngân hàng
cho thấy, tỷ lệ dư nợ tăng cao, đạt gần bằng tốc độ huy động vốn.
Bảng 3: LÃI SUẤT BÌNH QUÂN THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG
TRONG THÁNG 6/2009
(Đơn vị tính: %/năm)
Kỳ hạn 1 tháng 3 tháng 6 tháng 12 tháng
VND 7,33 8,14 7,95 8,48
USD 1,18 1,62 0,95 2,09
(Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Đến cuối tháng 5/2009, số dư huy động bình quân của DongA Bank đạt
31.368 tỷ đồng, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm 2008, bằng 98% kế hoạch năm
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 19
2009; dư nợ tín dụng đạt 26.999 tỷ đồng, tăng 23,2% so với cùng kỳ và bằng
100% kế hoạch năm. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, khoảng 2 tháng trở
lại đây, tỷ lệ dư nợ luôn tăng cao hơn huy động vốn. Hiện lãi suất tiền gửi tăng
mạnh ở một số ngân hàng quy mô vừa và nhỏ. Chẳng hạn, ABBank có 2 sản
phẩm tiết kiệm mới với lãi suất rất hấp dẫn lên tới 9,99%/năm. Lãi suất cao nhất
áp dụng cho kỳ hạn 18 tháng tại DaiA Bank hiện là 8,6%/năm. Gửi tiết kiệm tại
OCB từ ngày 16/6, khách hàng sẽ được tặng lãi suất thưởng tùy theo số tiền gửi.
Ngoài ra, khi sổ tiết kiệm đến hạn, khách hàng tiếp tục gửi lại (với số tiền không
hạn chế) thì sẽ được tặng lãi suất thưởng lên đến 0,50%/năm…
So với đầu năm 2009, lãi suất tiền gửi đã tăng bình quân khoảng 2%/năm tùy
từng kỳ hạn khác nhau, cho dù NHNN tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản. Các
dự báo được đưa ra từ nhiều chuyên gia cũng cho thấy, khả năng lãi suất cơ bản
sẽ tiếp tục ổn định trong những tháng tới, không thay đổi nhiều so với hiện nay.
Thế nhưng, trước xu hướng tín dụng tăng trưởng mạnh 2 tháng qua, các ngân
hàng đã chạy đua tăng lãi suất, song vẫn khó hút được nguồn tiền nhàn rỗi trong
dân cư. Nguyên nhân chính là do giá chứng khoán tăng mạnh đã thu hút nguồn
tiền tiết kiệm. Những người có tiền nhàn rỗi cũng muốn thử sức và tìm cơ hội lợi
nhuận cao gấp hai, gấp ba, thậm chí gấp 10 lần trên sàn chứng khoán, thay vì gửi
ở ngân hàng như năm trước. Trên thực tế, so với năm 2008, hiện lãi suất tiền gửi
đã giảm xuống 2/3. Trong khi đó, chứng khoán đã tăng từ dưới 250 điểm lên gần
500 điểm trong thời gian gần đây. Ngoài ra, bất động sản đã giảm giá khá mạnh
so với đợt “sốt” năm 2007 và năm 2008, nên nhiều người đã rút tiền gửi tiết kiệm
ngân hàng để sở hữu nhà, đất. Với những người có nhu cầu về nhà ở thực sự
cũng bắt đầu vay vốn ngân hàng trở lại, bên cạnh phần vốn tự có để tranh thủ
mua nhà, đất dưới dạng trả góp. Do đó, ngoài áp lực chứng khoán, bất động sản,
ngân hàng còn phải tăng tốc huy động tiền nhàn rỗi để đáp ứng nhu cầu vốn của
khách hàng tranh thủ cơ hội mở rộng tín dụng cá nhân.
Đây cũng là lý do khiến nhiều ngân hàng tiếp tục điều chỉnh lãi suất tiền
gửi VND. Vì với tín dụng tiêu dùng, ngân hàng được thực hiện cơ chế lãi suất
thỏa thuận. Không chỉ khó với nguồn vốn huy động trung, dài hạn (dù lãi suất áp
dụng các kỳ hạn dài ngày luôn cao hơn ngắn ngày), tổng giám đốc một ngân
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 20
hàng cho biết, vốn huy động ngắn hạn hiện cũng không dồi dào như năm trước,
do các kênh đầu tư khác đã có dấu hiệu phục hồi.
Bảng 4: LÃI SUẤT HUY ĐỘNG CỦA LIÊN NGÂN HÀNG TRONG
THÁNG 6/2009
Lãi suất huy
động bình
quân
Loại tiền
Không kỳ
hạn
(% năm)
3 tháng
(% năm)
6 tháng
(% năm)
12 tháng
(% năm)
Nhóm
NHTMNN
VND 2,88 7,52 7,71 8,05
USD 0,22 1,14 1,30 1,50
Nhóm
NHTMCP
VND 2,91 7,91 8,19 8,42
USD 0,41 1,49 1,66 1,99
(Nguồn: theo vntrade.com, 6/2009)
Mặt khác, lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND của nhóm Ngân hàng
thương mại nhà nước phổ biến ở mức từ 8,5-10%/năm, trung và dài hạn từ 10-
10,5%/năm. Lãi suất cho vay VND của nhóm NHTMCP phổ biến ở mức từ 10-
10,5%/năm. Lãi suất cho vay sau khi trừ đi phần hỗ trợ lãi suất phổ biến ở mức
từ 4,5-6%/năm. Lãi suất cho vay thỏa thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời
sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phổ biến từ
12-16,5%/năm. Lãi suất cho vay USD tương đối ổn định so với tuần trước. Hiện
tại lãi suất cho vay ngắn hạn bằng USD của nhóm Ngân hàng thương mại nhà
nước phổ biến ở mức 3%/năm, trung và dài hạn từ 3,5-5%/năm. Lãi suất cho vay
ngắn hạn bằng USD của nhóm NHTMCP phổ biến ở mức từ 3-5%/năm, trung và
dài hạn từ 4-6%/năm.
Theo NHNN, hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ trong nước ổn định;
lãi suất cho vay ổn định so với tuần trước. Đến ngày 11/6/2009, lãi suất huy động
bằng VND kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại nhà nước ở mức
khoảng 8,05 %/năm, của các ngân hàng thương mại cổ phần ở mức khoảng
8,42%/năm.
Lãi suất cho vay bằng VND của khối ngân hàng thương mại Nhà nước phổ
biến ở mức 8,5-10%/năm đối với cho vay ngắn hạn, 10-10,5%/năm đối với cho
vay trung và dài hạn, lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay được hỗ trợ lãi
suất là 4-6%/năm; lãi suất cho vay bằng VND của khối ngân hàng thương mại cổ
phần phổ biến ở mức 10-10,5%/năm, lãi suất cho vay phục vụ nhu cầu đời sống
và cho vay thông qua thẻ tín dụng phổ biến ở mức 12-16,5%/năm.
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 21
Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất bằng đồng Việt Nam đến ngày 11/6/2009 là
338.431,17 tỷ đồng. So với ngày 4/6/2009, số dư nợ cho vay đã tăng 6.524,62 tỷ
đồng (tương đương tăng 1,96%). Chi tiết về tình hình dư nợ cho vay hỗ trợ lãi
suất phân chia theo đối tượng như sau: 1). Dư nợ theo nhóm tổ chức tín dụng:
Nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước và Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là
243.531,07 tỷ đồng, tăng 3.498,86 tỷ đồng (tương đương tăng 1,45%); nhóm
ngân hàng thương mại cổ phần là 75.901,31 tỷ đồng, tăng 1.948,46 tỷ đồng
(tương đương tăng 2,63%); nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài là 16.286,87 tỷ đồng, tăng 668,3
tỷ đồng (tương đương tăng 4,27%); công ty tài chính là 2.711,92 tỷ đồng, tăng
409 tỷ đồng (tương đương tăng 17,76%). 2). Dư nợ phân theo đối tượng khách
hàng vay vốn: Doanh nghiệp Nhà nước 52.355,3 tỷ đồng, giảm 650,18 tỷ đồng
(tương đương giảm 1,22% so với ngày 4/6/2009); doanh nghiệp ngoài nhà nước
(công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…) 224.549,08 tỷ đồng, tăng 5.324,8 tỷ đồng
(tương đương tăng 2,42%); hợp tác xã 2.538,23 tỷ đồng, tăng 48,93 tỷ đồng
(tương đương tăng 1,96%); hộ gia đình, cá nhân 57.905,57 tỷ đồng, tăng
1.116,36 tỷ đồng (tương đương tăng 1,96%); tổ chức khác 1.082,98 tỷ đồng, tăng
684,69 tỷ đồng (tương đương tăng 171,9%).
Tỷ giá bán USD/VND của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương
chiều ngày 11/6 ở mức 17.795, tăng 6 đồng so với ngày 4/6 và sát trần. Giá vàng
bán ra của Bảo Tín Minh Châu giao dịch ở mức 2,120 triệu đồng/chỉ, giảm
15.000 đồng/chỉ so với ngày 4/6.
Thị trường chứng khoán: từ ngày 3/6 đến ngày 10/6, chỉ số VN-Index tăng
11,85% (52,72 điểm) lên mức 497,51 điểm, chỉ số Hastc-Index tăng 16,06%
(24,87 điểm) lên mức 179,73 điểm. Về khối lượng giao dịch, các nhà đầu tư nước
ngoài bán ròng 15,4 triệu cổ phiếu tương đương 572,3 tỷ đồng và mua ròng 5,7
triệu trái phiếu tương đương 593,36 tỷ đồng.
Từ những nguyên nhân trên cho thấy những tháng đầu năm 2009 các ngân
hàng trong nước đang khó khăn trong tình hình huy động nguồn vốn để triển khai
tín dụng, nhất là khi dư nợ tín dụng cho vay hỗ trợ lãi suất và tín dụng tiêu dùng
có xu hướng gia tăng.
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 22
3.3. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP
Tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và hộ sản
xuất, vòng quay vốn lưu động trong 01 năm khoảng 2 - 4 vòng (từ 3 - 6
tháng/vòng); theo đó, thời hạn trả nợ vay ngân hàng đối với các khoản vay hỗ trợ
lãi suất cũng được xác định tương ứng khoảng từ 3 - 6 tháng. Trong những tháng
đầu năm 2009, doanh nghiệp và hộ sản xuất đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, trả các
khoản vay đến hạn và tiếp tục vay vốn, quay vòng vốn lưu động để sản xuất -
kinh doanh và được hưởng hỗ trợ lãi suất theo quy định của pháp luật là hoạt
động kinh tế diễn ra bình thường. Qua 4 tháng cho vay hỗ trợ lãi suất, đến cuối
tháng 5/2009, dư nợ vay được hỗ trợ lãi suất của doanh nghiệp, hộ sản xuất
khoảng 305.763 tỷ đồng, tương ứng hơn 35% tổng dư nợ cho vay ngắn hạn bằng
đồng Việt Nam của cả hệ thống NHTM, như thế vòng quay vốn tín dụng sát với
vòng quay vốn lưu động của doanh nghiệp trong điều kiện hoạt động sản xuất -
kinh doanh gặp khó khăn.
Trước tình trạng trên, thực hiện triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất, gần
100 NHTM, công ty tài chính, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam đã thực hiện cho vay hỗ trợ lãi suất. Bên cạnh đó,
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất giảm chi phí đầu tư, bớt khó
khăn về tài chính, từ đầu năm 2009, các NHTM đã từng bước điều chỉnh giảm lãi
suất cho vay đối với các khoản vay cũ (16-17%/năm) xuống mức tối đa là
12,5%/năm và 10,5% kể từ ngày 16/4/2009. Đối với các doanh nghiệp, hộ sản
xuất gặp khó khăn, chưa có khả năng trả nợ đúng hạn, thì được NHTM xem xét
cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi cho vay và tiếp tục cho vay mới để
sản xuất - kinh doanh theo cơ chế cho vay hiện hành.
Trong quá trình triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất, khối lượng công việc
và chi phí bỏ ra để giải ngân vốn cho vay hỗ trợ lãi suất của các NHTM đã tăng
lên nhiều lần và phải thực hiện khẩn trương trong một thời gian ngắn, đảm bảo
tính kịp thời, chính xác, đúng quy định của pháp luật. Theo ước tính, doanh thu
của các NHTM giảm khoảng 10.000 tỷ đồng, trong đó riêng Ngân hàng
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 23
NN&PTNT giảm khoảng 4.300 tỷ đồng, để chia sẻ khó khăn về tài chính đối với
doanh nghiệp, hộ sản xuất và phục vụ mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế.
3.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP NÂNG CAO KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
3.4.1. Thành tựu
Thời gian qua xuất hiện ngày càng nhiều ngân hàng tạo động lực cạnh tranh
giữa các ngân hàng trong nước và nước ngoài đã tạo động lực cho các ngân hàng
ngày càng hoạt động tích cực trong hoạt động tín dụng, nhất là trong công tác
huy động nguồn vốn. Mức độ công nghiệp hoá - hiện đại hóa nghiệp vụ ngân
hàng được đẩy mạnh, các ngân hàng đổi mới từng ngày dịch vụ ngân hàng của
mình. Thời gian qua các ngân hàng ngân hàng trong nước trãi qua cơn bảo tài
chính nhưng sự tác động không đáng kể, mặt khác đã tạo ra dòng vốn ổn định
đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.4.2. Hạn chế
Hệ thống ngân hàng có nhiều đổi mới và có những bước tiến nổi bật, nhưng
để hội nhập, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập như: nợ xấu tăng cao là do
chủ trương thắt chặt tín dụng chống lạm phát, các ngân hàng đã cắt giảm hạn
mức tín dụng. Đồng thời lãi suất tín dụng tăng cao, tình hình vay vốn của doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn dẫn tới chi phí giá thành sản phẩm cao, lợi nhuận
giảm, kèm theo đó là năng lực tài chính suy giảm, vốn luân chuyển chậm, không
thực hiện đúng kế hoạch trả nợ ngân hàng dẫn tới nợ quá hạn tăng đột biến. Các
doanh nghiệp khó khăn về tài chính đều gặp phải trở ngại trong việc thanh toán
tiền hàng, việc thu tiền bán hàng chậm, doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn dẫn
đến các ngân hàng phải điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ và chuyển nợ quá hạn
vào các nhóm nợ thích hợp. Một số tổ chức tín dụng cho vay chưa khảo sát kỹ
khách hàng, phương án khả thi, cho vay vốn sai mục đích, khách hàng kinh
doanh không hiệu quả, có nguy cơ phá sản, ngân hàng khó thu hồi hoặc không
thể thu hồi được vốn và lãi vay. Việc tiếp cận được vốn tín dụng từ ngân hàng
của các doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn dẫn đến tâm lý không muốn trả các
khoản nợ đến hạn từ phía khách hàng.
- Hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa
cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 24
truyền thống. Cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn
là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tình hình nợ xấu
vẫn có xu hướng giảm chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là khối các tổ chức
tín dụng nhà nước. Nợ tồn đọng trong cho vay đầu tư xây dựng cơ bản bằng
VNĐ đang ở mức cao trên tổng dư nợ.
- Tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng
lên. Mặc dù lãi suất tăng lên tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống
ngân hàng, nhưng việc lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng
tăng thêm, và điều đó tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ
thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Trong điều kiện nói trên, một phần
không nhỏ số doanh nghiệp có thể mất khả năng thanh toán và phá sản nếu
không được tiếp tục vay vốn từ ngân hàng. Hậu quả là ngân hàng vẫn tiếp tục cho
vay để nuôi nợ, dẫn đến nguy cơ mất vốn ngày càng lớn.
- Hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn bằng ngoại
tệ còn chưa cao như mong muốn và chưa chuyển được nhiều thành vốn tín dụng
phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
3.4.3. Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của các ngân
hàng
- Mỗi ngân hàng phải hoạch định một chiến lược huy động vốn khả thi và
phù hợp với nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, chú trọng đến nguồn vốn trung và
dài hạn, đảm bảo khả năng vay vốn lâu dài và ổn định nguồn vốn vay cho
cácdoanh nghiệp.
- Từng ngân hàng tiếp tục quá trình đổi mới công nghệ, tận dụng tối đa
những ưu thế mà công nghệ mới mang lại. Trong quá trình chuyển đổi, tuyệt đối
không để những sai sót nhầm lẫn nảy sinh ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của
người gởi tiền, gây mất lòng tin nơi họ, tạo dư luận không tốt về ngân hàng.
- Thực hiện thu tiền tại chỗ, tạo sự thoải mái, thuận tiện cho khách hàng,
nhằm tăng nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư.
- Áp dụng lãi suất hợp lý, linh hoạt trong từng trường hợp để giữ khách
hàng cũ, mở rộng khách hàng mới.
- Thực hiện thăm dò ý kiến khách hàng, khắc phục nhược điểm, phát huy
ưu điểm, có biện pháp phục vụ tốt, thỏa mãn yêu cầu khách hàng.
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 25
CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. KẾT LUẬN
Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ập đến trong những tháng còn
lại của năm 2008 có thể xem là một vị cứu tinh của hệ thống ngân hàng Việt
Nam. Tình hình trở nên dễ thở hơn khi chính sách tiền tệ đảo chiều, lãi suất sụt
giảm, thanh khoản trở nên dồi dào hơn khi ngân hàng Nhà Nước nới lỏng các
biện pháp tiền tệ thắt chặt và gói kích cầu hỗ trợ lãi suất bỗng trở thành một liều
thuốc tiên cho các ngân hàng Việt Nam, quốc doanh cũng như cổ phần. Nhưng
điều đó không có nghĩa là chúng nên được lặp lại. Nhìn lại những năm 2006,
2007 để thấy rằng vì động cơ lợi nhuận, các ngân hàng chúng ta đã hành động
một cách rủi ro như thế nào đối với việc tài trợ kinh doanh nhà đất và chứng
khoán không khác gì các ngân hàng Mỹ khi họ khởi động các nghiệp vụ cho vay
dưới chuẩn lãi suất cao cho khách hàng mua nhà. Chỉ có điều khác, may mắn
thay, là chúng ta không có một hệ thống tài chính có đủ công nghệ tinh vi và
chuyên nghiệp để tạo ra các sản phẩm tài chính phức tạp nhằm chuyển các rủi ro
này cho người khác trong khi nhân nó lên nhiều lần cấp số nhân. Bên cạnh đó,
các ngân hàng nước ta phải đối mặt với sự cạnh tranh hoạt động với các ngân
hàng nước ngoài, sự diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, tình hình nợ xấu
phát sinh nhưng các ngân hàng đã hoạt động tích cực và có những giải pháp vượt
qua thử thách, kiểm soát danh mục đầu tư theo hướng an toàn hiệu quả theo mỗi
hướng khác nhau.
Nhìn chung, tình hình hoạt động của các ngân hàng ở nước ta chưa cao, khả
năng huy động nguồn vốn gặp nhiều khó khăn, nhưng vẫn đảm bảo nguồn vốn
cho hoạt động kinh tế của nền kinh tế nói chung và của doanh nghiệp nói riêng,
sử dụng một phần vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, đồng thời
áp dụng một số chính sách hỗ trợ để đảm bảo khả năng thanh toán. Để đáp ứng
được nhu cầu vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, các ngân hàng phải
cố gắng và nổ lực nhiều hơn nữa.
4.2. KIẾN NGHỊ
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 26
- Đối với ngân hàng Nhà Nước cần phải tiếp tục điều hành các công cụ
chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt, thận trọng, phù hợp với chủ
trương kích cầu để ngăn chặn suy giảm kinh tế, chủ động kiểm soát lạm phát như
giữ lãi suất cơ bản và với mức lãi suất hợp lý, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị
trường mở, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý và kiểm soát chặt chẽ các tỷ lệ
đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngày càng phát triển
mạnh hơn, có khả năng hoạch định chính sách công cụ tốt, đủ sức điều tiết thị
trường tiền tệ và thị trường hối đoái đạt được các mục tiêu mong muốn. Giữ
vững ổn định tiền tệ với mức lạm phát thấp, ổn định tỷ giá hối đoái. Cần có
những chủ trương nhằm mang lại sự bình đẳng cho các loại hình Ngân hàng
trong hoạt động kinh doanh vận động theo cơ chế thị trường với sức cạnh tranh
ngày càng dữ dội. Bên cạnh đó, cần xử lý nghiêm những trường hợp ngân hàng
cho vay với lãi suất cao trong khi các doanh nghiệp đang cần vốn.
- Đối với các ngân hàng ở nước ta hiện nay cần phải có sự canh tranh công
bằng giữa các ngân hàng và liên kết chặt chẽ với nhau trong vấn đề huy động vốn
và cho vay. Ổn định mức lãi suất để tạo cho các doanh nghiệp có thể chủ động
hơn trong công tác vay vốn nhằm mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh. Bên
cạnh đó, để tạo điều kiện nhằm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp thì các ngân
hàng nên giảm lãi suất cho vay, kéo dài thời gian trả nợ và nâng cao hạn mức cho
vay.
.
Chuyên đề tài chính ngân hàng
GVHD: Th.S Trần Bá Trí SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang Trang 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn Nguyễn (2009), tiền gửi vào ngân hàng tăng nhẹ,
nhe/20093/129064.laodong.
Thời báo kinh tế Sài Gòn điện tử (2009), vốn trung, dài hạn không dễ huy động
dong/20094/43768.dfis
Thúy Vinh (2009), lãi suất huy động tăng vẫn khó hút vốn
Hà Phan (2009), lãi suất huy động tăng: Do ngân hàng thiếu vốn
360/laisuathuydongtangdonganhangthieuvon
Đầu tư tài chính. Diệu Ngân (2008), tăng trưởng tín dụng gắn liền với huy động
vốn.
Phước Hà (2009), tăng lãi suất ngân hàng vẫn chưa hút được nhiều vốn
Vietnam (2009), cần đạt mục tiêu tăng trưởng 5% trong năm 2009
T.Triều (2009), tăng lãi suất, huy động vốn trung dài hạn vẫn khó
Lê Long Hậu (2008). Tiền tệ - Ngân hàng. Bài giảng. Tủ sách trường Đại học
Cần Thơ.
Lê Thị Thu Hà (2005). Phân tích hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn tại
Ngân hàng xuất nhập khẩu chi nhánh Cần Thơ. Luận văn tốt nghiệp đại học.
Trường Đại học Cần Thơ
CafeF (2009). Lãi suất VND kỳ hạn 12 tháng liên ngân hàng tiếp tục tăng
Theo thời báo ngân hàng (2009). Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
(từ 18/6 đến 24/6/2009)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tailieutonghop_pdf89_4673.pdf