Lãi suất là một loại giá cả đặc biệt, được sử dụng làm đòn bẩy cho các mục
tiêu khác nhau của nền kinh tế. Việc điều chỉnh và đưa ra chính sách lãi suất phù
hợp với từng thời k ỳ khác nhau sẽ phát huy được tính hiệu quả của chính sách lãi
suất nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong n ền kinh tế, khuy ến khích mở rộng sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với Việt Nam đặc biệtlà trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang thực hiện đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm theo kịp được với
các nước phát triển trên thế giới, hoà nhập vào nền kinh tế th ế giới.
44 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2345 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho thị trường liên ngân hàng và phản ánh bên cung của thị
trường liên ngân hàng. Sự gặp gỡ cung cầu của eác ngân hàng lớn phản ánh cung
cầu tín dụng của nền kinh tế. Nếu cung > cầu, lãi suất hạ xuống, nếu cung < cầu,
lãi suất tăng lên. NHTƯ với vai trò là người cho vay cuối cùng trên thị trường liên
ngân hàng có thể không muốn lãi suất tăng lên sẽ cho vay một phần hoặc toàn bộ
số cung < cầu. Có thể nói đây là một công cụ hữu hiệu để NHTƯ tác động vào lãi
suất trên thị trường. Nhưng trong thực tế, lãi suất chỉ đạo đã biến động rất mạnh
chứng tỏ vai trò quyết định hành chính của NHTƯ.
Lãi suất chiết chiết khấu của NHTƯ Pháp hoàn toàn không phụ thuộc vào
lãi suất cơ bản mà phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường tiền tệ.
5.3. Kinh nghiệm của Hồng Kông.
Hồng Kông có một nền kinh tế thị trường tự do - Phương Đông, do vậy mà
lãi suất trên thị trường cũng là thả nổi. Hồng Kông không có các quan chức tiền tệ
Trang 17
Trung ương. Viên toàn quyền và Hội đồng lập pháp chịu trách nhiệm công việc tài
chính và tiền tệ.
Hồng Kông không có chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất độc lập trong
dài hạn. Hiệp hội ngân hàng Hồng Kông đặt ra lãi suất tiền gửi tối đa để các ngân
hàng căn cứ vào đó mà tự do định lãi suất cụ thể.
5.4 Kinh nghiệm của Malaysia.
Từ những năm 70, Malaysia đã có nhiều đổi mới trong điều hành chính
sách lãi suất theo hướng tự do hoá. Tuy nhiên, không phải tự do hoá lúc nào cũng
là giải pháp tối ưu. NHTƯ Malaysia đã liên tục điều chỉnh lãi suất, phục vụ linh
hoạt việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm
1981, Malaysia cho phép các NHTM tự tính mức lãi suất cơ bản cho ngân hàng
mình dựa trên cơ sở chi phí thực tế. Nhưng ngay sau đó, NHTƯ nhận thấy trong
điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển, việc cho phép các NHTM tự
xác định mức lãi suất cơ bản như vậy theo nguyên tắc tự do hoá lãi suất sẽ dẫn đến
cạnh tranh quá mức về lãi suất giữa các ngân hàng và khi đó vấn đề an toàn trong
hoạt động kinh doanh của các NHTM sẽ bị đe doạ. Chính vì vậy, để giải quyết kịp
thời vấn đề nêu trên nhất là sau thời kỳ suy thoái kinh tế (1985 - 1986), vào năm
1987, Malaysia đã chuyển sang điều hành lãi suất theo hướng vừa đảm bảo sự phối
hợp chỉ đạo của NHTƯ, vừa duy trì ở một mức độ nào đó quyền tự chủ của các
NHTM. Với tinh thần đó, NHTƯ yêu cầu các NHTM tính lãi suất cơ bản của ngân
hàng mình dựa trên mức lãi suất cơ bản của hai ngân hàng lớn "leader banks ".
Các NHTM sẽ điều chỉnh lãi suất cơ bản của mình theo nguyên tắc áp dụng biên
độ giao động xung quanh lãi suất cơ bản.
Hiện nay, các ngân hàng được phép tính lãi suất cơ bản cho ngân hàng
mình, nhưng để đảm bảo tính khách quan và tương đồng giữa các ngân hàng trong
khi tính lãi suất cơ bản, NHTƯ đưa ra công thức chuẩn chung nhất để tính lãi suất
cơ bản. Lãi suất cơ bản được xây dựng trên cơ sở các yếu tố: chi phí huy động (sau
khi đã tính đến cả chi phí đáp ứng yêu cầu về dự trữ bắt buộc); các chi phí cho vay
(gồm chi lương cho cán bộ, chi phí hành chính, các chi phí khác liên quan đến việc
Trang 18
cho vay, nhưng không bao gồm chi phí liên quan đến các khoản nợ khó đòi); tỷ lệ
lợi nhuận "profit margin" cho phép.
Trên cơ sở lãi suất cơ bản được công bố, các NHTM sẽ niêm yết mức lãi
suất cơ bản của mình. Mức lãi suất cho vay thực tế của ngân hàng sẽ là lãi suất cơ
bản cộng với tỷ lệ phí rủi ro "risk premium" trong hoạt động ngân hàng áp dụng
linh hoạt cho từng món vay. Các ngân hàng không được cho vay dưới mức lãi suất
cơ bản đã công bố.
Như vậy, lãi suất đã được điều hành theo hướng vừa có sự chỉ đạo của
NHTƯ, nhưng vẫn duy trì được quyền tự chủ của các NHTM trong việc quy định
lãi suất. Lãi suất được quản lý linh hoạt theo diễn biến thay đổi của thị trường, dựa
trên cơ sở đảm bảo an toàn hệ thống.
Như vậy theo kinh nghiệm của các nước, sự tác động của Nhà nước những
khi cần thiết vẫn là những quyết định hành chính về lãi suất công bố trên báo chí.
Từ kinh nghiệm của các nước, chúng ta có thể tham khảo và vận dụng một
cách thích hợp vào điều kiện thực tế của Việt Nam để xây dựng một chính sách lãi
suất tín dụng phù hợp.
CHƯƠNG II.
Đánh giá quá trình điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt
Nam trong thời gian qua.
Từ khi có Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988, tiếp đến là hai Pháp lệnh về
ngân hàng tháng 10/1990, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua hơn 10 năm đổi
Trang 19
mới, trong thời gian đó cũng là hơn 10 năm không ngừng đổi mới chính sách lãi
suất theo hướng từng bước tiến dần đến một chính sách lãi suất thị trường khi điều
kiện kinh tế và tiền tệ cho phép. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt
Nam trong hơn 10 năm qua đã trải qua các giai đoạn như sau:
1. Giai đoạn lãi suất âm từ 1988 đến 1992.
Đây là thời kỳ Việt Nam đang trong giai đoạn khủng hoảng, lạm phát ở
mức cao, lãi suất luôn trong tình trạng âm. NHNN quy định cụ thể lãi suất tiền gửi
và cho vay. Lãi suất âm có đặc điểm là lãi suất tiền gửi thấp hơn lạm phát và lãi
suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động vốn và thấp hơn lạm phát.
Lãi suất âm trong giai đoạn đó gây ra rất nhiều tiêu cực đối với nền kinh tế.
Do lãi suất thực của tiền gửi là số âm nên không khuyến khích dân cư gửi tiền vào
ngân hàng để thực hiện việc tập trung vốn cho đầu tư phát triển, gây áp lực đối với
giá cả hàng hoá, do đó làm cho mức lạm phát ngày càng tăng. Nhu cầu vốn của
nền kinh tế tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả cho doanh nghiệp. Ngân
hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng và
ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường.
2. Từ tháng 10/1992 chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương.
Trước tình hình trên, NHNN đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển
từ lãi suất âm sang lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát để
người gửi tiền có lãi thực, vừa bảo toàn được giá trị tiền gửi, vừa có lãi và lãi suất
tiền vay cao hơn lãi suất tiền gửi đảm bảo cho ngân hàng bù đắp được chi phí và
có lãi.
Trong giai đoạn này, NHNN công bố các mức lãi suất tiền gửi và cho vay
bằng các quyết định hành chính để các NHTM thực hiện.
Chính sách lãi suất dương đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá
trình chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường, bảo đảm lợi ích thực sự
của ba bên: người gửi tiền, người vay tiền và ngân hàng, xoá bỏ bao cấp trong hoạt
Trang 20
động tín dụng. Chính sách lãi suất phù hợp trên đã góp phần thu hút và tập trung
được một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng đầu tư cho
phát triển, giảm áp lực đối với lạm phát.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn có quá nhiều
mức lãi suất tiền gửi và cho vay. NHNN vẫn còn quy định các mức lãi suất tiền
gửi và cho vay cụ thể, phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế: lãi suất cho
vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn lãi suất cho vay đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung
và dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh
tế. Do vậy, trong giai đoạn này, các TCTD chủ yếu phục vụ vốn ngắn hạn cho nền
kinh tế mà không quan tâm nhiều đến việc cho vay trung và dài hạn để cải tiến kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ.
3. Giai đoạn vừa quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho
vay theo lãi suất thoả thuận.
Theo Quyết định số 184/ QĐ-NH1 ngày 28/9/1993, NHNN quy định các
mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất
thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể.
Lãi suất trong giai đoạn này có hai loại: lãi suất cho vay doanh nghiệp Nhà
nước 1,8%/tháng và lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh cao nhất là
2,1%/tháng.
Lãi suất cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng: Trường
hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát
hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất
huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là 0,2%/tháng và cho vay
cao hơn mức trần 2,1%/tháng.
Trong thực tế, khoảng 30 - 60% tổng dư nợ lúc bấy giờ làt ừ các khoản cho
vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5%/tháng.
Trang 21
Trong lãi suất thoả thuận mức chênh lệch giữa sàn (tiền gửi) và trần (cho
vay) rất lớn, khoảng từ 0,7% - 1,0%/tháng, làm cho các NHTM có mức lợi nhuận
quá cao, trong khi doanh nghiệp và hộ nông dân gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế
này, Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8, tháng 8/1995, cùng với nghị quyết bỏ
thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết
kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay
bình quân là 0,35%/tháng. Đây là lý do để cơ chế lãi suất trần ra đời và bãi bỏ lãi
suất cho vay theo thoả thuận từ 01/01/1996.
3. Chuyển từ lãi suất thoả thuận sang trần lãi suất.
Vào đầu năm 1996, khi lạm phát đã ổn định, NHNN điều hành chính sách
lãi suất tín dụng theo trần lãi suất (lãi suất cho vay tối đa) và quy định về chênh
lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ở mức 0,35%/tháng.
Điểm cơ bản của chính sách lãi suất trong giai đoạn này xuất phát từ đặc điểm có
nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn khác nhau, quy mô
khác nhau và do đó chi phí hoạt động khác nhau, nên NHNN đã quy định nhiều
trần lãi suất cho vay khác nhau phù hợp với đặc điểm từng loại vay, từng loại hình
TCTD và các vùng khác nhau, gồm 4 trần lãi suất: Trần lãi suất cho vay ngắn hạn;
trần lãi suất cho vay trung và dài hạn; trần lãi suất áp dụng cho các TCTD cho vay
trên địa bàn nông thôn; trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã
tín dụng đối với các thành viên.
Trong đó, trần lãi suất cho vay ngắn hạn là thấp nhất và áp dụng cho khu
vực thành thị. Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn ngắn hạn một ít phù
hợp với thông lệ quốc tế và tính chất cho vay thời hạn dài rủi ro hơn thời hạn ngắn.
Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn cao hơn trần lãi suất cho vay ngắn hạn và
trung dài hạn một ít và áp dụng chung cho cả hai loại cho vay này và sự chênh lệch
này dần dần được rút ngắn qua các lần điều chỉnh trần lãi suất. Trần lãi suất cho
vay của các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với các thành viên là trần lãi suất cho
vay cao nhất so với các trần lãi suất ở trên (quỹ tín dụng nhân dân cơ sở là loại
hình tổ chức tín dụng có quy mô rất nhỏ bé, đang trong quá trình thí điểm và chỉ
Trang 22
được huy động và cho vay vốn trong nội bộ các thành viên) nhưng khoảng cách
chênh lệch so với các trần khác cũng dần dần được rút ngắn qua các lần điều chỉnh
trần lãi suất.
Một thực tế khách quan của cơ chế thị trường cho thấy nơi có chi phí cao,
cho vay món nhỏ, chi phí lớn, rủi ro cao, thiếu vốn là khu vực nông thôn, một khu
vực luôn có nhu cầu vốn lớn nhưng huy động tại chỗ được rất ít và chi phí hoạt
động ngân hàng ở nông thôn cao, nên NHNN quy định trần lãi suất cho vay nông
thôn cao hơn thành thị nhằm thu hút vốn về nông thôn, điều hoà vốn từ thành thị
về nông thôn cho vay bằng công cụ lãi suất và bảo đảm cho các NHTM ở nông
thôn bù đắp được chi phí. Nhưng có nhiều quan điểm cho rằng lãi suất cho vay
nông thôn phải thấp hơn hoặc bằng thành thị mới ưu đãi nông nghiệp, mới khuyến
khích được nông nghiệp phát triển. Cho nên với Quyết Định số
39/1998/QĐ/NHNN1 của Thống đốc NHNN từ ngày 21/1/1998 đã xoá bỏ sự cách
biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn bằng cách rút từ 4 trần lãi suất
xuống còn 3 trần lãi suất cho vay khác nhau và không quy định chênh lệch
0,35%/tháng giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, cụ thể như sau: trần lãi
suất cho vay ngắn hạn; trần lãi suất cho vay trung và dài hạn; trần lãi suất cho vay
của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với các thành viên. Chính sách này quy định
khoảng cách giữa các trần lãi suất cũng dần dần được rút ngắn lại phù hợp với tình
hình mới.
Đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, NHNN cũng đã khống chế trần lãi suất
cho vay và khi có sự biến động tỷ giá, phối hợp chặt chẽ với công cụ lãi suất và tỷ
giá để tăng cường quản lý ngoại tệ, chống hiện tượng đô la hoá.
Đối với chính sách lãi suất này, NHNN chỉ quản lý lãi suất cho vay tối đa
trong phạm vi trần lãi suất đã quy định và cho phép các tổ chức tín dụng được tự
do ấn định các mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi huy động cụ thể, linh hoạt,
phù hợp với đặc điểm hoạt động, tình hình về cung cầu vốn, chính sách khách
hàng và cạnh tranh của từng TCTD và phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động
ngân hàng giữa các vùng khác nhau trong từng thời kỳ. Mặt khác, khi điều hành
chính sách lãi suất theo trần đã khuyến khích các TCTD trong việc cạnh tranh lành
Trang 23
mạnh và tăng cường vai trò tự chủ trong kinh doanh tiền tệ, chủ động trong việc
điều hoà quan hệ cung cầu về vốn kinh doanh bằng công cụ lãi suất một cách rất
linh hoạt nhạy bén theo cơ chế thị trường. Việc quy định cho vay theo trần lãi suất
tạo ra mặt bằng chung về lãi suất cho vay trong phạm vi cả nước, xoá bỏ tình trạng
cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt xa các mức lãi suất do NHNN quy định. Các
TCTD không cho vay với lãi suất vượt trần nhằm bảo vệ lợi ích của người vay, tạo
mặt bằng về phân phối lợi nhuận giữa các thành phần kinh tế với các TCTD và
người gửi tiền. Tăng cường được công tác quản lý về lãi suất và tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về lãi suất của NHNN.
Tuy nhiên, đối với chính sách điều hành lãi suất trần còn một số hạn chế
nhất định. Việc quy định cho vay theo trần lãi suất của NHNN thực chất là các
TCTD được cho vay theo mức trần tối đa, vì vậy một số TCTD đã có xu hướng
luôn cho vay hết trần lãi suất để đạt mức lợi nhuận tối đa. NHNN đã không biệt
các mức lãi suất khác nhau giữa các vùng có điều kiện khó khăn, thuận lợi và điều
kiện về cung - cầu vốn trong từng thời kỳ. Việc quy định chênh lệch lãi suất cho
vay và lãi suất huy động vốn là 0,35%/tháng trong thời kỳ đầu đã tạo nên sự gò bó,
cứng nhắc và triệt tiêu tính cạnh tranh tự chủ trong kinh doanh của các TCTD.
Chính sách lãi suất này đã hạn chế chiến lược khách hàng của các TCTD, nhất là
khách hàng có rủi ro lớn vẫn được áp dụng lãi suất như các khách hàng có độ rủi
ro ít hơn hoặc không có rủi ro. Trong điều kiện lạm phát ra tăng, tỷ giá USD thay
đổi, các NHTM thường xuyên phải điều chỉnh tăng lãi suất huy động để giữ nguồn
vốn ổn định thì chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào ngày càng thu
hẹp, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của TCTD.
Một bộ phận quan trọng của chính sách lãi suất trong việc điều hành chính
sách tiền tệ của NHNN là lãi suất NHNN tái cấp vốn cho NHTM. Từ tháng 10
năm 1994 đến tháng 6 năm 1997, NHNN áp dụng lãi suất tái cấp vốn bằng 100%
lãi suất trên hợp đồng tín dụng các NHTM cho khách hàng vay. Từ tháng 6 năm
1997 đến tháng 1 năm 1998 áp dụng lãi suất 10,8% năm và từ tháng 1 năm 1998
đến nay là 13,2% - năm. Nếu so sánh sự biến động về lãi suất trên thị trường thì lãi
suất tái cấp vốn của NHNN khá ổn định với mục đích kìm chế lạm phát ở mức
Trang 24
thấp. Nhưng lạm phát được kìm chế hay bùng nổ không chỉ phụ thuộc vào yếu tố
lãi suất mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, trong đó thâm hụt Ngân sách
và tăng trưởng GDP thấp là yếu tố không thể xem nhẹ.
Song câu hỏi được đặt ra là lãi suất ở Việt Nam phải chăng đã thực sự linh
hoạt, mềm dẻo và biến động phù hợp với nền kinh tế. Trên thực tế, lãi suất ở Việt
Nam vẫn chỉ là lãi suất ngân hàng do NHTƯ quy định và áp dụng cho toàn bộ hệ
thống ngân hàng. Chúng ta vẫn chưa có lãi suất thị trường, chưa cho phép lãi suất
được xác định trên cơ sở thị trường. Về vấn đề này, xét trên góc độ nền kinh tế
Việt Nam mới đang ở giai đoạn đầu tiên bước sang cơ chế thị trường, có thể khẳng
định rằng chưa thể cho phép tự do hoá lãi suất, tức là xác định lãi suất theo các lực
lượng thị trường, nhưng trên một giác độ khác, muốn phát triển nền kinh tế thị
trường, hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng
khoán nói riêng ở Việt Nam đòi hỏi chúng ta phái từng bước thực hiện tự do hoá
lãi suất.
5. Một số nhận thức về lãi suất theo tinh thần luật NHNN và sự điều chỉnh cơ
chế điều hành lãi suất ở Việt Nam.
Sau nhiều năm đổi mới hoạt động và liên tục đổi mới cơ chế điều hành lãi
suất, đã đến lúc xuất hiện các điều kiện cần và đủ để NHNN và các TCTD chuyển
sang giai đoạn mới của việc điều hành lãi suất và thực hiện chính sách lãi suất.
Những điều kiện đó là:
- Luật NHNN và Luật các TCTD có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 10
năm 1998, trong đó Điều 18 Luật NHNN quy định: "NHNN xác định và công bố
lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn".
- Quy định trần lãi suất cho vay của NHNN đối với các TCTD đã có những
dấu hiệu chỉ mang tính định hướng. Một số NHTM do điều kiện cụ thể của mình
đã thực hiện một số mức lãi suất cho vay dưới trần quy định của NHNN, trong khi
đó một số NHTM Cổ phần đặc biệt là TCTD Nông thôn do nhu cầu của khách
Trang 25
hàng, của thị trường vốn của địa phương và được sự chấp thuận của UBND Tỉnh
đã có những vận dụng thu thêm phí ngoài mức trần lãi suất quy định.
- Mặt khác do yêu cầu phải tiếp tục hoà nhập với hoạt động ngân hàng các
nước trong khu vực và cộng đồng ngân hàng Quốc tế, yêu cầu tự do hoá hơn nữa
thị trường tiền tệ và thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn.
- Sự thống nhất cao độ trong việc điều hành lãi suất trong nền kinh tế của
NHNN bao gồm cả lãi suất của hệ thống các NHTM, TCTD và kho bạc Nhà nước.
Do đó đòi hỏi có tính cấp bách, khách quan là NHNN cần phải điều hành
theo lãi suất cơ bản trong nền kinh tế. Song để thực hiện được cơ chế đó, cần có sự
thống nhất quan điểm và nhận thức về lãi suất cơ bản theo tư tưởng của Luật
NHNN.
Điều 9 - Khoản 12 Luật NHNN quy định: " Lãi suất cơ bản là lãi suất do
NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh."
Như vậy việc quy định của Luật NHNN về lãi suất cơ bản có ý nghĩa trên sả
hai mặt. Trước hết, nó khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc quản lý và điều
hành lãi suất mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là NHNN. Vai trò quản lý của
Nhà nước về lãi suất phải được thể hiện nhằm đạt mục tiêu: bảo đảm an toàn hệ
thống các TCTD, bảo vệ quyền lợi một cách hài hoà gữa các bên: người gửi, người
vay và TCTD; sử dụng công cụ lãi suất làm đòn bẩy để kích thích huy động vốn và
điều hoà vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, góp phần thúc đầy tăng trưởng kinh tế,
vừa sử dụng làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Mặt khác, lãi suất cơ bản
mà NHNN công bố vừa phải phù hợp với điều kiện kinh tế, tiền tệ của nước ta
trong từng thời kỳ, vừa phải đảm bảo tính linh hoạt theo cung cầu vốn trong nền
kinh tế thị trường và tăng tính cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD.
Khi xác định lãi suất cơ bản phải dựa vào các yếu tố như tăng trưởng kinh
tế dự kiến hàng năm, chỉ số lạm phát dự kiến trong năm, lãi suất thực dương của
người gửi tiền để khuyến khích người gửi tiền vào ngân hàng, yêu cầu của việc
điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, tình hình cung cầu vốn tín dụng
trên thị trường, mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ, giữa lãi suất nội tệ và
Trang 26
lãi suất ngoại tệ, lãi suất thị trường đấu thầu thị trường trái phiếu Kho bạc Nhà
nước trong những phiên đấu thầu gần nhất...
Trên cơ sở đó, ngày 02/02/2000, Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết
dịnh về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất có hiệu lực thi hành kể từ ngày
05/08/2000: Quyết dịnh số 241/ 2000/QĐ - NHNN1 về việc thay đổi cơ chế điều
hành lãi suất cho vay của các TCTD đối với khách hàng; Quyết định số
242/2000/QĐ - NHNN1 công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các TCTD ấn định
lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng; Quyết định số
243/2000/QĐ - NHNN1 công bố biên độ lãi suất đôla Mỹ làm cơ sở cho các
TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đôla suất Mỹ đối với khách hàng; Quyết định
số 244/2000/QĐ - NHNN1 về việc cung cấp thông tin tham khảo về lãi suất của
các NHTM cho NHNN.
Cơ chế mới về điều hành lãi suất của NHNN ra đời nhằm quán triệt chủ
trương đổi mới hoạt động ngân hàng của Đảng, Nhà nước và Quốc hội đề ra và
được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương lần thú 4, khoá VIII, Thông báo số
144/TB-TƯ ngày 03/03/1998 của Bộ chính trị: " Xây dựng và thực hiện cơ chế
mới phù hợp hơn về tỷ giá và lãi suất, với bước đi thích hợp, không để xảy ra biến
động xấu về kinh tế, xã hội... Cụ thể là thực hiện lãi suất thực dương, linh hoạt,
phản ánh đúng cung cầu vốn trên thị trường, từng bước áp dụng lãi suất cơ bản
thay dần cho việc ấn định trần lãi suất." và quán triệt theo tư tưởng của Luật
NHNN Việt Nam.
Tư tưởng của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là từng bước tự do hoá lãi
suất nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường, phù
hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô, với điều kiện thực tế của thị trường, hạn chế tối đa
rủi ro và tác động xấu của biến động thị trường tiền tệ thế giới, phù hợp với mức
độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và quốc tế, làm cho lãi suất trong nước
bám sát với lãi suất trên thị trường quốc tế.
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam:
NHNN bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của TCTD đối với khách
hàng, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ % biên độ trên.
Trang 27
NHNN công bố lãi suất cơ bản dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn
thông thường của các NHTM áp dụng đối với khách hàng vay có uy tín trong việc
sử dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro thấp. Lãi suất cho vay và huy động vốn của
TCTD gắn với lãi suất cơ bản. Theo đó:
Lãi suất cho vay cao nhất của TCTD = Lãi suất cơ bản + tỷ lệ %
Lãi suất cơ bản và biên độ giao động đựợc công bố định kỳ hàng tháng,
trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời. Tại thời điểm hịện
nay, lãi suất cơ bản là 1,75%/tháng, biên độ đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là
0,3%/tháng và đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn là 0,5%/tháng.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ :
Cho vay bằng đôla Mỹ: Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của NHTM
đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh hoạt, phù hợp với thị trường
quốc tế nhưng vẫn có sự kiểm soát của Nhà nước, cụ thể là lãi suất cho vay ngắn
hạn (từ 01 năm trở xuống) không vượt quá mức SIBOR (lãi suất thị trường tiền tệ
liên ngân hàng Singapore) kỳ hạn 3tháng + 1,0%/năm; lãi suất cho vay trung và
dài hạn (từ trên 01 năm trở lên) không vượt quá mức SIBOR kỳ hạn 6 tháng +
2,5%/năm.
Cho vay bằng các loại ngoại tệ khác: Do chiếm tỷ lệ nhỏ trong hoạt động
tiền gửi và tín dụng trên thị trường, nên cho phép các NHTM tự xem xét quyết
định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các loại ngoai tệ này trên cơ sở lãi suất
thị trường quốc tế và cung - cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ trong nước.
Các NHTM cung cấp thông tin tham khảo cho NHNN về lãi suất bao gồm:
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam, NHTM cổ phần Á Châu, Ngân hàng ANZ, Ngân hàng HSBC và
Ngân hàng VID PUBLIC.
Đồng thời với việc triển khai cơ chế lãi suất mới, NHNN theo dõi chặt chẽ
sự diễn biến của kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, có thể điều chỉnh thích hợp các
Trang 28
công cụ tiền tệ khác đảm bảo cho sự vận hành cơ chế lãi suất mới phù hợp với mục
tiêu đề ra.
CHƯƠNG III.
Giải pháp nhằm củng cố và hoàn thiện chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng
ở Việt Nam.
Như vậy là trong hơn 10 năm đổi mới, chính sách lãi suất tín dụng của ngân
hàng đã được điều hành theo hướng tích cực, phù hợp với điều kiện của nền kinh
tế nước ta. Chính sách lãi suất của nước ta đã từng bước được nới lỏng theo hướng
tự do hoá, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước, mức độ hội nhập kinh
tế của nền kinh tế nước ta. Cơ chế điều hành lãi suất ngày càng trở nên linh hoạt
hơn, bám sát cung - cầu vốn thị trường, quyền chủ động ấn định lãi suất kinh
doanh của các TCTD ngày càng được mở rộng, nên làm tăng khả năng cạnh tranh
nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ, góp phần
phát triển thị trường tài chính trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá
trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội
nhập quốc tế, NHNN phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất,
từng bước thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
1. Định hướng.
Để thúc đẩy phát triển nền kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế quốc
tế, chúng ta phải xây dựng được một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện của
nền kinh tế nước ta và chính sách lãi suất đó phải đảm bảo những mục tiêu cơ bản
sau:
Trang 29
Chính sách lãi suất là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia
vì thế trước hết nó phải hướng tới mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đó là
ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và kích thích tăng trưởng kinh tế.
Chính sách lãi suất phải phù hợp với đặc điểm thị trường tín dụng của nước
ta. Nước ta thực hiện đổi mới xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Vì vậy,
thị trường tín dụng vẫn bao hàm cả thị trường cho vay nặng lãi đặc biệt là ở vùng
nông thôn rộng lớn. Tỷ lệ người gửi tiền ngân hàng ở nước ta chiếm một tỷ lệ thấp
trong dân số. Đặc biệt, ở nông thôn miền Nam, người dân chỉ có thói quen mua
vàng cất trữ. Miền Bắc đã có phong trào gửi tiết kiệm khá cao ở nông thôn hồi
kháng chiến chống Mỹ với các hợp tác xã tín dụng. Nhưng phong trào này đã tan
vỡ vì lãi suất âm trong thời kỳ lạm phát phi mã và chưa hồi phục. Tình hình này
tạo ra đặc điểm: thị trường tín dụng ở nước ta không đồng nhất và tự nhiên tồn tại
những lãi suất khác biệt khá xa ở các vùng khác nhau, do cung cầu tín dụng khác
nhau. Nó đã dấn đến tình trạng có lúc lãi suất tiền gửi của một vài ngân hàng ở
thành phố cao hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng khác gây ra tình trạng phải
đồng loạt nâng lãi suất để tránh bị hút mất tiền gửi. Nước ta mới có từng mảnh thị
trường tài chính và tiền tệ như thị trường tín phiếu kho bạc hàng hoạt động không
thường xuyên và cung cấp không đủ lượng tín phiếu cho thị trường liên ngân hàng
qua những đấu thầu quá ít ỏi. Thị trường liên ngân hàng đã có từ lâu nhưng hầu
như không hoạt động và các ngân hàng ít vay mượn lẫn nhau hoặc vay mượn trực
tiếp qua bảo đảm bằng tín phiếu kho bạc. Ngân hàng Trung ương sử dụng vốn phát
hành qua tín dụng bằng cách cung ứng nguồn vốn trực tiếp cho các ngân hàng
quốc doanh để thực hiện những loại cho vay ưu đãi. Đó là trở ngại rất lớn cho việc
hình thành lãi suất thị trường có sự chỉ đạo của lãi suất cơ bản. Thị trường chứng
khoán ở Việt Nam hình thành trong giai đoạn khủng hoảng tiền tệ xảy ra ở các
châu lục và những đòi hỏi phải có cải cách thị trường tài chính thế giới khiến
chúng ta phải cảnh giác và thận trọng. Do đó, chính sách lãi suất của Việt Nam
phải góp phần vào việc khắc phục những mặt còn hạn chế của thị trường tín dụng
Việt Nam, góp phần vào thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
Trang 30
Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở nước ta phải hướng tới hình thành
một thị trường tiền tệ, tạo ra sự công bằng và cạnh tranh lành mạnh giữa các
TCTD, xoá bỏ sự khác biệt về lãi suất giữa các khu vực, thúc đẩy vốn linh hoạt
giữa các lĩnh vực kinh tế, khu vực thành thị và nông thôn phù hợp với sự phát triển
không đều của thị trường tài chính nước ta hiện nay.
Lãi suất tín dụng phải đáp ứng yêu cầu xử lý linh hoạt, vừa đáp ứng yêu cầu
cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia kinh doanh tiền tệ trong việc huy động vốn để
tiến tới từng bước tự do hoá lãi suất nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của
NHNN đối với thị trường tiền tệ, tránh việc các TCTD tăng lãi suất cho vay quá
mức ảnh hưởng đến đầu tư trong nước, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô, với
tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, với điều kiện thực tế thị trường trong
và ngoài nước và hạn chế đến mức tối đa rủi ro và tác động xấu của biến động thị
trường tiền tệ thế giới.
Lãi suất tín dụng phải tạo điều kiện cho các T CTD và khách hàng gửi, vay
vốn có thể thoả thuận để lựa chọn lãi suất sao cho linh hoạt, phù hợp với đặc điểm
của từng vùng, mức độ rủi ro theo thời hạn cho vay và đối tượng cho vay, mở rộng
huy động và cho vay vốn trung và dài hạn với mục tiêu huy động nhiều nhất mọi
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để đáp ứng vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước.
Chính sách lãi suất vừa phải đáp ứng quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế,
vừa phải tạo điều kiện để giảm chi phí hoạt động tín dụng, đảm bảo có sự chênh
lệch lãi suất đủ để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của các TCTD, tức là
sau khi bù đắp các chi phí hoạt động, các TCTD phải thu được một lợi nhuận hợp
lý.
Lãi suất tín dụng ngân hàng vừa phải kích thích được sản xuất trong nước,
vừa phải khuyến khích phát triển kinh tế đối ngoại, tức là lãi suất trong nước cần
phải theo sát lãi suất thị trường quốc tế để phù hợp với mức độ hội nhập thị trường
tài chính khu vực và quốc tế., làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VND - tỷ giá - lãi
suất ngoại tệ linh hoạt hơn, phản ánh chính xác hơn quan hệ cung - cầu về vốn và
ngoại tệ, điều chỉnh quan hệ tín dụng quốc tế một cách có hiệu quả.
Trang 31
Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở nước ta phải đáp ứng yêu cầu từng
bước tự do hoá nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị
trường.Trong những năm qua, chúng ta đã thực hiện chính sách kiểm soát trực tiếp
lãi suất. Chính sách này có một số điểm thuận lợi như dễ thực hiện, phù hợp với
một nước có thị trường tài chính sơ khai và mức độ cạnh tranh kém, chưa có đầy
đủ các công cụ kiểm soát lãi suất gián tiếp và hạn chế trong năng lực quản lý điều
hành như nước ta. Nhưng bên cạnh đó, chính sách kiểm soát lãi suất cũng đưa đến
những vấn đề bất cập. Kiểm soát trực tiếp lãi suất có thể dẫn đến suy giảm chức
năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng, bởi vì nguồn tiền tiết kiệm sẽ
chảy vào thị trường tài chính phi tổ chức và không bị quản lý. Kiểm soát lãi suất
cũng dẫn đến việc áp đặt cơ cấu lãi suất phức tạp như tồn tại nhiều loại trần lãi suất
cho vay, gây ra sự kém hiệu quả của chính sách tiền tệ quốc gia. Kiểm soát lãi suất
không có lợi cho cạnh tranh ở điểm các TCTD kém hiệu quả có thể vẫn tồn tại
hoạt động mà không phải chịu sức ép của cạnh tranh, khiến cho quá trình giải
quyết khó khăn của những TCTD này tồn tại kéo dài. Những khó khăn gắn với
việc kiểm soát lãi suất là vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Cả hai loại
rủi ro này đều có xu hướng nâng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng. Vấn đề lựa
chọn đối nghịch phản ánh thực tế là kiểm soát lãi suất sẽ hấp dẫn các doanh nghiệp
bất chấp rủi ro và khả năng có thể thanh toán được các khoản nợ của mình hay
không, tìm đủ mọi cách vay được vốn từ ngân hàng, trong khi rủi ro đạo đức phát
sinh do người cho vay không có khả năng kiểm soát được việc sử dụng vốn của
người đi vay . Trong trường hợp này, vấn đề lựa chọn đối nghịch phát sinh vì tín
dụng được đưa đến cho những người vay có tính rủi ro cao nhất và tới những dự án
có tính rủi ro nhất. Khi vấn đề lựa chọn đối nghịch trở nên nghiêm trọng, các
doanh nghiệp lành mạnh và các doanh nghiệp tư nhân mới sẽ bị loại ra khỏi thị
trường tín dụng vì họ không sẵn sàng trả lãi suất cao như các doanh nghiệp đang
gặp khó khăn. Như vậy là việc kiểm soát trực tiếp lãi suất tỏ ra kém hiệu quả trong
việc điều hành chính sách tiền tệ, phân bổ nguồn vốn tín dụng, dẫn đến khả năng
cạnh tranh thấp trên thị trường tiền tệ, giảm chức năng trung gian tài chính của hệ
thống ngân hàng do sự thiếu linh hoạt, cứng nhắc. Mặc khác, trước xu tế hội nhập
kinh tế như hiện nay đòi hỏi chuáng ta phải từng bước gắn kết được lãi suất với thị
Trang 32
trường. Do vậy, để khắc phục những hạn chế của việc kiểm soát trực tiếp lãi suất,
chúng ta phải từng bước xây dựng những điều kiện cần thiết, từng bước tiến dần
đến tự do hoá lãi suất nhưng vẫn phải đảm bảo dược sự kiểm soát của NHNN đối
với thị trường tiền tệ nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới của
nước ta hiện nay.
2. Giải pháp.
- Điều quan trọng để có một chính sách lãi suất hợp lý, vừa kích thích được
đầu tư, vừa tạo điều kiện cho các TCTD hoạt động kinh doanh có lãi, tăng cường
cạnh tranh, giải quyết được những bất cập của chính sách lãi suất là phải nhận thức
được bản chất của lãi suất cơ bản, xác định được lãi suất hợp lý. Để xây dựng được
lãi suất hợp lý, chúng ta phải chú ý:
Việc điều chỉnh lãi suất cần căn cứ vào định hướng chính sách tiền tệ trong
từng thời kỳ.
Khi xây dựng lãi suất phải đặt trong tương quan với tỷ giá của VND so với
các đồng tiền mạnh trên thế giới và trong khu vực đặc biệt là đồng USD, đồng
EURO, đồng Yên, đồng Nhân dân tệ... Bởi lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ hữu
cơ với nhau, một khi có sự tăng giảm, chuyển đổi nội tệ sang ngoại tệ, ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động xuất, nhập khẩu của nền kinh tế.
Việc công bố lãi suất cơ bản phụ thuộc vào lợi nhuận bình quân của xã hội.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân này được hình thành trong quá trình cạnh tranh giữa
các nền kinh tế. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý luận kinh tế học Mác xít: lợi
nhuận của tư bản cho vay bao giờ cũng nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của tư bản
sản xuất và nó chính là một phần của gía trị thặng dư do lĩnh vực sản xuất tạo ra.
Lãi suất phải được đặt trong mối tương quan với lãi suất tín phiếu kho bạc,
trái phiếu kho bạc để làm sao có thể khai thác tối đa mọi nguồn lực trong xã hội.
Cần xem xét mối quan hệ giữa lãi suất và doanh lợi chứng khoán để xác
định chính sách lãi suất. Khi thị trường chứng khoán hoạt động, việc duy trì một
mức lãi suất hợp lý là một điều kiện cần thiết, bằng không những biến động trong
Trang 33
chính sách lãi suất của NHNN tất yếu sẽ dẫn đến những biến động trên thị trường
tài chính.lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và
mua bán chứng khoán trên thị trường tài chính. Nếu lãi suất ngân hàng trả cho
người tiết kiệm cao, người gửi sẽ thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất
cao và rủi ro thấp, hơn là mua chứng khoán với lãi suất thấp nhưng rủi ro cao.
Do xu hướng hội nhập vào nền kinh tế khu vực nên việc điều chỉnh lãi suất
phải căn cứ vào mức lãi suất trên thị trường quốc tế và khu vực.
Việc điều chỉnh lãi suất phải tuỳ thuộc vào tập quán và thói quen của người
dân cũng như các yếu tố tâm lý của dân chúng trong thời kỳ nhất định.
Hiện nay theo tinh thần của Hội nghị Trung ương khoá 8 (lần1), Đảng và
Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà
trọng tâm hướng về nông nghiệp và nông thôn, vì thế khi xác định các mức lãi suất
cho vay phải theo hướng ưu tiên cho lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn.
Đó cũng là một trong những điểm quan trọng nhằm ổn định và phát triển kinh tế
nông thôn, tiền đề của sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
- Phải xây dựng một môi trường để lãi suất cơ bản phát huy tác dụng.
Trước hết, phải có một hệ thống ngân hàng hoạt động năng động và chủ
động trong cạnh tranh. Trong môi trường cạnh tranh tốt, lãi suất của các TCTD sẽ
dao động gần sát với lãi suất chỉ đạo của NHNN. Hơn thế nữa, trong môi trường
cạnh tranh, hệ thống ngân hàng sẽ cung cấp cho nền kinh tế và dân cư các sản
phẩm và dịch vụ ngày càng tốt hơn. Do vậy, để nâng cao tính chủ động trong cạnh
tranh, các NHTM trong nước cần phải chủ động cải tiến chất lượng, quy trình tín
dụng và các nghiệp vụ ngân hàngquốc tế, cải tiến chất lượng phục vụ. Đồng thời
phải nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong hoạt động ngân hàng, cải tiến các
vấn đề nhân sự, chi phí quản lý...để giảm tối đa chi phí kinh doanh. Chú trọng
công tác tiếp thị trong hoạt động ngân hàng, hiểu rõ nhu cầu của khách hàng
truyền thống, tổ chức tốt công tác tư vấn về dự án đầu tư, thanh toán quốc tế... cho
khách hàng cũng như thường xuyên lắng nghe, tìm hiểu những đề nghị, phản ánh
của khách hàng. Tạo lập mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp và ngân hàng
trên cơ sở hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau. Mở rộng tín dụng đến nhiều đối tượng
Trang 34
khách hàng, đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, ở
những khu vực mà mức độ cạnh tranh còn thấp và đang cần vốn như khu vực sản
xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ... Mặt khác, các NHTM cần nâng
cao vai trò công tác cân đối tín dụng: Đa dạng hoá các loại hình tín dụng như cho
vay tiêu dùng cho cán bộ công nhân viên, cho vay mua cổ phần, cho vay phục vụ
chương trình nhà ở, tham gia các dự án kích cầu, cho vay hợp vốn, để tăng trưởng
tín dụng bằng cách tăng trưởng vốn. Tổ chức công tác điều hoà vốn trong nội bộ
hệ thống các chi nhánh ngân hàng đảm bảo nguồn vốn không bị ứ đọng, đồng thời
tranh thủ nguồn vốn chi phí rẻ trên thị trường liên ngân hàng để cho vay. Tăng
cường đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác như góp vốn, mua cổ phần của
các doanh nghiệp, tham gia thị trường tiền tệ do NHNN tổ chức bao gồm thị
trường tín phiếu kho bạc, thị trường các chứng từ có giá theo quy định của pháp
luật. Tham gia các hoạt động cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính - tiền tệ, bảo hiểm,
kinh doanh chứng khoán, bất động sản theo quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ
cho việc tăng trưởng tín dụng.
Hai là, phải xây dựng một thị trường tiền tệ và hoạt động thị trường mở phát
triển mới có môi trường cho lãi suất cơ bản phát huy tác dụng.
Ba là, phải có hệ thống thanh toán tốt, đặc biệt là thanh toán tổn tức thời
mới hỗ trợ về mặt kỹ thuật và quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành
thông suốt thị trường tiền tệ và lãi suất cơ bản.
- Thúc đẩy phát triển thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, lấy đó
làm căn cứ để xây dựng và thiết lập mặt bằng lãi suất chung, làm cơ sở cho các
mức lãi suất thị trường tự do sau này.
- Cải tiến và tăng cường tác động của NHNN bằng các công cụ của chính
sách tiền tệ hiện có, đặc biệt là điều chỉnh linh hoạt khả năng tạo tiền của các
NHTM bằng giới hạn sử dụng vốn và hạn mức tái cấp vốn trong tái chiết khấu khế
ước nợ và tín dụng thế chấp đối với giấy tờ có giá đảm bảo chất lượng.
- Để NHNN công bố lãi suất cơ bản và để nó có thể đi vào cuộc sống thuận
lợi thì phải giải quyết căn bản các tồn đọng cũ của hệ thống NHTM. Hiện nay
đang còn hàng nghìn tỷ đồng vốn cho vay của hệ thống NHTM đóng băng trong
Trang 35
núi nợ quá hanj và tài sản phát mại phải có biện pháp hữu hiệu để giải quyết dứt
điẻm. Nếu chưa lành mạnh hoá tình hình tài chính - tiền tệ cho hệ thống NHTM thì
còn khó khăn trong việc thực hiên bất kỳ một chính sách mới nào của ngân hàng.
Một trong những biện pháp nhằm giải quyết nợ quá hạn của hệ thống NHTM đó là
việc Chính phủ cần phải thúc đảy quá trình thành lập và đưa vào hoạt động có hiệu
quả các công ty mua bán nợ quá hạn.
- Hiện nay, các công cụ tài chính như thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác để thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu chưa được phổ
biến. Do vậy, phẩi sớm đưa thương phiếu, hối phiếu vào lưu thông để thực hiện lãi
suất chiết khấu và tái chiết khấu của NHTM và NHNN vì đó là công cụ tài chính
phổ biến của nền kinh tế thị trường.
- Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá làm cơ sở cho việc ra đời các hàng hoá
trao đổi trên thị trường chứng khoán, tạo môi trường cạnh tranh hoàn hảo giữa các
chủ thể liên quan đến chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
- Nguồn vốn vay nước ngoài để tái đầu tư của các NHTM cần phải đặt trong
sự kiểm duyệt chặt chẽ của NHNN để không tạo ra sự bị động trong điều hành
khối lượng tiền của NHNN.
- Tạo lập một môi trường pháp lý lành mạnh để khuyến khích sự cạnh tranh
giữa các NHTM và các TCTD sao cho phù hợp vơi chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước.
- Một vấn đề vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nước ta là phải từng
bước xây dựng những điều kiện cần thiết để tiến tới từng bước tự do hoá lãi suất
mà vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của NHNN đối với thị trường tiền tệ.
Tự do hoá lãi suất có rất nhiều ưu điểm. Do lãi suất được tự do hoá, biến
động theo cung - cầu về vốn, nên có thể phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm
cho hàng ngàn người vay cạnh tranh nhau, đáp ứng đúng thị hiếu của người vay và
có hiệu quả nhất; đồng thời đảm bảo thu hút tiền giữa hàng trệu người gửi cho
ngân hàng với chi phí hợp lý nhất và được người gửi chấp nhận. Lãi suất tự do hoá
có khả năng linh hoạt điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi, tạo động lực
Trang 36
cho sự tăng trưởng tài chính. Tự do hoá lãi suất cũng là một bộ phận cơ bản của tự
do hoá tài chính giúp cho các nước thực hiện được quá trình hôi nhập nền kinh tế
thế giới.
Bên cạnh những thuận lợi do tự do hoá mang lại cũng còn tồn tại rất nhiều
những trường hợp mà tự do hoá không thực hiện được tốt vai trò của mình. Để tự
do hoá và lãi suất làm tròn chức năng của mình, thị trường tài chính cần được củng
cố và phát triển. Nhưng trong nền kinh tế, thị trường tín dụng không phải lúc nào
cũng điều chỉnh đủ nhanh để cân bằng giữa cung - cầu khi điều kiện thay đổi và
tình trạng mất cân bằng vẫn là đặc trưng của bất kỳ một nền kinh tế đang phát triển
nào. Tự do hoá lãi suất sẽ kém hiệu quả nếu xã hội áp đặt vào hệ thống tài chính
quá nhiều các mục tiêu quốc gia ...
Do vậy, để phát huy được những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm
của tự do hoá lãi suất, một quốc gia khi thực hiện tự do hoá lãi suất cần những điều
kiện sau: Môi trường kinh tế vĩ mô đã ổn định và khá chắc chắn, hành lang pháp lý
đã tương đối ổn định và hoàn chỉnh, hệ thống ngân hàng ổn định và hoạt động hữu
hiệu, thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán) đã
hình thành và đã vận hành có hiệu quả, các nguồn lực trong nước đã được phân
phối và sử dụng có hiệu quả, các tổ chức kinh tế đều đảm bảo khả năng sử dụng
vốn triệt để và có hiệu quả.
Quan điểm của Đảng ta về việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN là quan điểm cơ bản xuyên xuốt trong cơ chế quản lý kinh tế - tài
chính của chúng ta. Đồng thời với chính sách mở cửa nền kinh tế, xu hướng hội
nhập và toàn cầu hoá trở nên cần thiết để chúng ta đẩy nhanh tốc độ phát triển nền
kinh tế - xã hội. Trong điều kiện và bối cảnh đó, vấn đề tự do hoá tài chính và tự
do hoá lãi suất nói riêng ở Việt Nam là một xu thế tất yếu hoàn toàn phù hợp với
chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, thực hiện tự do hoá lãi suất ở Việt
Nam phải được tiến hành một cách thận trọng, có cân nhắc, tránh nóng vội để có
thể loại bỏ được những tác động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế xã hội.
Trang 37
Với cơ chế điều hành lãi suất cơ bản như hiện nay, chúng ta đang từng bước
xây dựng những điều kiện cần thiết để từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất. Đặc
biệt là trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải khắc phục rất nhiều khó khăn để xây
dựng những điều kiện cần thiết cho tự do hoá lãi suất: Khu vực sản xuất (nhất là
khu vực Nhà nước) hoạt động kém hiệu quả, đang trong quá trình chấn chỉnh, sắp
xếp, cổ phần hoá; hệ thống ngân hàng vẫn còn yếu kém, vốn nhỏ, trình độ quản lý
thấp; các công cụ tài chính như thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác
để thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và tái chiết khấu chưa được phổ biến; nghiệp vụ
tái cấp vốn của NHNN chưa thực hiện đúng nội dung kinh tế của nó, chủ yếu còn
mang tính chất cho vay trực tiếp; trình độ của các cơ quan vĩ mô trong nền kinh tế
chưa thể đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới...
Khi các điều kiện đã hội đủ, chúng ta sẽ chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi
suất nhưng không phải cơ chế tự do hoá hoàn toàn. NHNN với tư cách là người
điều hành chính sách tiền tệ quốc gia sẽ sử dụng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất
tái cấp vốn để tham gia điều chỉnh gián tiếp các mức lãi suất trên thị trường nhằm
phát huy vai trò của lãi suất đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
3. Kiến nghị.
Để tạo điều kiện cho việc điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới
đòi hỏi cần có sự phối hợp hành động giữa các cơ quan có chức năng, có những
chính sách hỗ trợ đi kèm nhằm làm cho công cụ lãi suất thực sự kích thích tăng
trưởng kinh tế, kinh doanh ngân hàng ổn định và phát triển.
NHNN phải điều hành kinh doanh của các NHTM bằng những cơ chế,
chính sách để các NHYM đi đúng quỹ đạo của cơ chế thị trường là cạnh tranh,
giảm chi phí nghiệp vụ, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ có chất lượng ngày
càng cao. NHNN phải thực sự là ngân hàng của các ngân hàng và là người cho vay
cuối cùng đối với các NHTM. NHNN cần thực hiện một cách bình thường nghiệp
Trang 38
vụ tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo thông lệ
quốc tế. Đồng thời, NHNN cần đưa ra các chính sách dự trữ bắt buộc, hạn mức tín
dụng của nền kinh tế, chính sách tỷ giá và cơ chế tín dụng, thanh toán phù hợp với
chính sách lãi suất cơ bản trong tình hình mới. NHNN cần có chính sách và giải
pháp kiểm soát chặt chẽ, loại trừ kịp thời hoạt động mang tính đầu cơ trên thị
trường tín dụng nhằm loại trừ nguy cơ tăng lãi suất, đầu tư vào các dự án xấu như
kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á. Cần có một sự điều tra cơ bản
của NHTƯ về mức chi phí quản lý bình quân của các ngân hàng ở các vùng khác
nhau để lãi suất có thể bù đắp chi phí trung bình của các NHTM từ đó các NHTM
mới đủ sức cạnh tranh khi hội nhập nền kinh tế.
NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính tăng cường phát hành những tín
phiếu, trái phiếu kho bạc để đủ số lượng cho thị trường liên ngân hàng. Ở Pháp,
đó là các tín phiếu kho bạc chuyên dùng cho thị trường liên ngân hàng. Các ngân
hàng vay hay cho vay rất dễ dàng bằng cách bán (= vay) khi thiếu vốn, hay mua (=
cho vay) khi thừa vốn. NHTƯ cũng bán khi muốn thu hồi vốn từ lưu thông và mua
khi muốn tung tiền ra lưu thông. Cách làm này nhanh và nhẹ nhàng hơn cách tái
cấp vốn nặng nề hiện nay vì đòi hỏi phải có bộ hồ sơ cho vay có tài sản thế chấp
được công chứng và có sự thẩm định của NHNN ở địa phương. Còn dùng cửa sổ
tái chiết khấu như hiện nay thì chúng ta chưa có những điều luật về thương phiếu
còn quá sơ sài. Với cách làm như hiện nay, thị trường liên ngân hàng sẽ không thể
hoạt động thường xuyên được.
Đối với chính sách thuế của Nhà nước, cần phải có sự điều tiết giữa các
vùng, các khu vực và các ngành để quá trình kinh doanh đạt hiệu quả .
Chính phủ cần có những chính sách bảo vệ các khu vực sản xuất khi thực
hiện cơ chế chính sách lãi suất mới nhằm đảm bảo kinh doanh phát triển và ổn
định lâu dài.
Mặt khác, Nhà nước cần nâng cao hơn nữa năng lực quản lý kinh tế vĩ mô
của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và phải tạo những điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Trang 39
KẾT LUẬN.
Trang 40
Lãi suất là một loại giá cả đặc biệt, được sử dụng làm đòn bẩy cho các mục
tiêu khác nhau của nền kinh tế. Việc điều chỉnh và đưa ra chính sách lãi suất phù
hợp với từng thời kỳ khác nhau sẽ phát huy được tính hiệu quả của chính sách lãi
suất nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, khuyến khích mở rộng sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với Việt Nam đặc biệtlà trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang thực hiện đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm theo kịp được với
các nước phát triển trên thế giới, hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Do vậy, trong thời gian tới, chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng sẽ tiếp
tục được nghiên cứu, điều chỉnh và hoàn thiện hơn sao cho bắt kịp với những thay
đổi trong nền kinh tế, nhằm mục tiêu phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước./.
Trang 41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bài giảng của TS. Nguyễn Hữu Tài
Giáo trình Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng
Giáo trình Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Tạp chí Phát triển kinh tế số 8
Tạp chí Ngân hàng số 3 năm 2000
Tạp chí Ngân hàng số 6 năm 2000
Tạp chí Ngân hàng số 8 năm 2000
Tạp chí Ngân hàng số chuyên đề năm 1999
Trang 42
MỤC LỤC.
Trang
Phần mở đầu 1
Chương I. Cơ sở lý luận của chính sách lãi suất tín dụng
ngân hàng và kinh nghiệm của một số nước 4
trong việc điều hành chính sách lãi suất.
1. Khái niệm lãi suất 4
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất 6
3. Các nguyên tắc cơ bản hình thành lãi suất cơ bản 9
4. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng 10
5. Kinh nghiệm của một số nước trong việc điều hành 13
chính sách lãi suất tín dụng
Chương II. Đánh giá quá trình điều hành chính sách lãi suất 17
tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua
1. Giai đoạn lãi suất âm từ 1988 - 1992 17
2. Từ tháng 10/ 1992 chuyển từ lãi suất âm 18
sang lãi suất dương
3. Giai đoạn vừa quy định các mức lãi suất tiền gửi và 18
cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận
4. Chuyển từ lãi suất thoả thuận sang trần lãi suất 19
5. Một số nhận thức về lãi suất theo tinh thần luật
Trang 43
NHNN và sự điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất 22
ở Việt Nam
Chương III. Giải pháp nhằm củng cố và hoàn thiện chính sách 26
lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam
1. Định hướng 26
2. Giải pháp 29
3. Kiến nghị 34
Kết luận 37
Trang 44
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tailieutonghop_pdf56_8957.pdf