Luận văn Tìm hiểu về công cụ tỷ giá ở Việt Nam

Trong cơ chế thị trường, nền kinh tế Việt nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp, vì vậy mở rộng tiến tới hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực có vai trò hết sức quan trọng. Trong đó việc lựa chọn cơ chế tỷ giá phù hợp là vấn đề cần thiết và quan trọng trong chính sách tiền tệ. Thông qua tỷ giá của đồng Việt Nam được yết với các đồng tiền khác ta có thể biết nền kinh tế đang tăng trưởng hay đang suy thoái hoặc ta có thể biết được cán cân thương mại quốc tế đang thặng dư hay đang thâm hụt.

pdf45 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2433 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu về công cụ tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rẻ hơn trước, kéo mặt bằng giá cả xuống làm cho tình trạng lạm phát trong nước được cải thiện, tỷ lệ lạm 8 phát giảm dần. Như vậy TGHĐ là một công cụ quản lý vĩ mô hết sức lợi hại, Chính phủ các nước luôn quan tâm tìm cách điều chỉnh tỷ giá, can thiệp vào tỷ giá trên thị trường hối đoái với ý đồ sử dụng nó làm công cụ để quản lý, điều tiết những mất cân đối lớn trong hoat động kinh tế trong nước, cũng như những mất cân đối trong kinh tế đối ngoại. Đồng thời, TGHĐ còn được xem như là tìn hiệu của thực trạng mối quan hệ kinh tế đối ngoai, mà thông qua nó chính phủ có thể đưa ra các biện pháp hoặc sử dụng những công cụ của chính sách kinh tế một cách phù hợp, hữu hiệu để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng. TGHĐ chính là nhan tố hết sức quan trọng trong chính sách quản lý ngoại hối của mỗi nước. Không thể không thừa nhận vai trò trên đây của tỷ giá, vấn đề là ở chỗ phải có một chế độ tỷ giá phù hợp để đảm bảo thực hiện được vai trò của tỷ giá thì cho đến nay các nhà kinh tế –tiền tệ còn có những ý kiến khác nhau. Các nhà kinh tế theo trường pháI chính thống (orthodox) cho rằng nên áp dụng tỷ giá linh hoạt. Theo họ, tỷ giá thực chất là một loại giá cả, do cung - cầu về ngoại tệ trên thị trường quyết định, Nhà nước không nên can thiệp vào. lợi thế chủ yếu của chế độ tỷ giá linh hoạt là với chế độ tỷ giá này cán cân thanh toán quốc tế sẽ do cung - cầu thị trường xác lập thế cân bằng nhà nước không cần phải dùng tới dự trữ ngoại hối chínhthức để can thiệp, nhà nước không cần 9 đến những biện pháp quản lý hành chính khác nhằm tác động vào tỷ giá. Mặt hạn chế của chế độ tỷ giá linh hoạt là mọi hoạt động trong nền kinh tế thị trưòng kể cả tỷ giá không phải lúc nào cũng vận hành “vận hành “ một cách thuận lợi, mà luôn xảy ra những mâu thuẫn, cạnh tranh dẫn đến sự biến động. Khi có sự biến động dữ dội thì “bà tay “ ddieeuf tiết của chính phủ vào thị trường, nhất là lĩnh vựec TGHĐ là hết sức quan trọng và cần thiết. Ngược lại các nhà kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai lại tán đồng thực hiện chế độ tỷ giá cố định (hiệp ước bretton woods), với quan điểm cho rằng, muốn phục hồi và phát triển kinh tế trước hết phải pphục hồi thương mại quốc tế, muốn thương mại quốc tế phát triển phải có một chế độ tỷ giá cố định. Trong chế độ tỷ giá cố định Bretton woods, đồng đôla mỹ đựoc gắn với vàng, đổi được ra vàng và trở thành đồng tiền dự trữ và thanh toán quốc tế chủ yếu. Các đồng tiền khác phải xác định một tỷ giá cố định với đồng đôla Mỹ. Đồng thời, chính phủ các nước thông qua ngân hàng trung ương phải tham ra can thiệp vào thị trường tiền tệ nước mình để giữ cho tỷ đã xác định với đồng đôla mỹ được ổn định. Như vậy, với tỷ giá cố định mọi hoạt động thương mại quốc tế sẽ diễn ra một cách êm đẹp. Đến thập kỷ 70, nền kinh tế các nứoc Tây âu và Nhật Bản được phục hồi và phát triển mạnh, một phần có sự đóng góp của chế độ tỷ giá cố định. Nhưng đồng thời tỷ giá cố định này cũng đựơc bộc lộ nhiều nhược điểm của nó. Nhược điểm lớn nhất của chế độ tỷ giá cố định là đã đưa đồng tiền của một quốc gia 10 (đồng đôla Mỹ) lên làm đồng tiền dự trữ và thanh toán quốc tế. Ngay từ những năm 1960, nhà kinh tế mỹ Robert triffin đã vạch ra nghịch lý đó. Để cho dự trữ thế giới tăng theo sự tăng trưởng của thươngmại quốc tế, nước Mỹ, người cung ứng dự trữ quốc tế, buộc phải bội chi cán cân thanh toán của mình. Nước Mỹ có bội chi cán cân thanh toán quốc tế, thì các nước khác mới có thể tích luỹ được dự trữ đôla, đó là điều kiẹn cần thiết. Thế nhưng số đôla trong dự trữ của các nước càng tăng lên thì khả năng chuyển đổi đôla ra vàng cuả Mỹ càng giảm theo, vảtên thị trường đôla càng mất giá. Đó là chưa nói đến ý đồ lạm dụng của nước có đồng tiền làm phương tiện dự trữ quốc tế, họ có thể dùng đồng tiền của nước mình để chi tiêu, thao túng các sự việc nhằm mục đích chính trị, kinh tế, quân sự ở nước ngoài, như mỹ đã từng làm trong những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Mặt khác, trong khi cán cân thanh toán quốc tế của Mỹ thường xuyên bội chi, thì cán cân thanh toán quốc tế của các nước Nhật Bản, Cộng Hoà Liên Bang Đức…, thường xuyên bội thu, chế đọ tỷ giá cố định không thể tự điều chỉnh để lập lại thế cân bằng, chính phủ các nước kẻ cả Mỹ không thể tung vàng, tung ngoại tệ ra can thiệp để giữ ổn định mãi một tỷ giá mà thị trường không chấp nhận. Cuối cùng các nước buộc phải thả nổi đồng đôla Mỹ, cũng có nghĩa là chế độ tỷ giá cố định bretton woods sụp đổ. Một số nhà kinh tế khác lại cho rằng, chế độ tỷ giá cố định thích hợp với nền kinh tế khép kín, “hướng nội “. Còn chế độ tỷ giá linh hoạt thích hợp với 11 nền kinh tế “hướng ngoại “. Như vậy, cuộc tranh luận giữa hai trường pháI duy trì chế độ tỷ giá cố định hay chế độ tỷ giá linh hoạt vẫn còn đang tiếp diễn. Vì mỗi chế độ tỷ giá đều có những ưu thế riêng, đồng thời kèm theo những mặt hạn chế. Xu thế hiện nay là nhiều nước thực hiện theo chế độ tỷ giá linh hoạtcó quỷan lý. Đây là một chế độ hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá linh hoạt. Với chế độ này tỷ giá được xác định theo cơ chế thị trường cho phép nó được biến động trong biên độ nhất định. Nếu vượt biên độ nàychính phủ thông qua chính sách tiền tệ để điều tiết nhằm giữ cho tỷ giá biến động trong phạm vi quy định. Như vậy vấn đề cốt lõi cần quan tâm là chính sách tiền tệ, chính sách quản lý ngoại hối như thế nào. Nếu chính sách tiền tệ không đúng đắn thì mọi biện pháp can thiệp vào tỷ giá đều ít có hiệu quả, vấn đề bội chi ngân sách là khó tránh khỏi và có tầm quan trọng hơn. ngược lại, nếu chính sách tiền tệ trong nước đó đúng đắn và có hiệu quả, nền kinh tế tăng trưởng ổn định, phát triển hàI hoà giữa kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại, đồnh tiền quốc gia ổn định, lành mạnh…, thì sự can thiệp của chính phủ vào tỷ giá chỉ là việc rất hãn hữuvà có thể khong cần thiết. Bởi vậy, việc xác định một chính sách tiền tệ đung đắn, trong đó có chính sác ngoại hối hữu hiệu là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết đối với bất cứ loại hình kinh tế nào Chúng ta có thể rút những nhận định rằng, chế độ tỷ giá hỗn hợp kết hợp giữa tỷ giá linh hoạt theo cơ chế thị trường với sự quản lý điều tiết của Nhà nước 12 là phù hợp và đạt hiệu quả tối ưu hơn cả, nhất là đối với các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường. ĐIều quan trọng trong việc thực hiện chế độ tỷ giá hỗn hợp là quá trình xây dựng và xác định tỷ gía. Thông thường ngườita dựa vào năm yếu tố cơ bản sau đây để xác định tỷ giá hối đoái. Thứ nhất, sức mua của đồng tiền biểu thị qua chỉ số lạm phát Sức mua của đồng nội tệ và đồng ngoại được biểu thị qua chỉ số lạm phát là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới TGHĐ. Trên thế giới có hai cách xác định tỷ giá trên cơ sở cân bằng sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ, đó là : - Cân bằng sức mua tuyệt đối: Tỷ giá = Error! = Error! - Cân bằng tương đối: Tỷ giá;tại thời điểm = Tỷ giá;tại thời điểm;t-1 x Error! Thứ hai, cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức cung - cầu ngoạitệ của một nước, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến TGHĐ. Theo quan hệ của quy luật cung - cầu thì khi có bội thu cán cân thanh toán quốc tế sẽ làm cho tỷ giá giảm (nội tệ lên giá, ngoại tệ giảm giá) và ngược lại khi có bội chi cán cân thanh toán quốc tế sẽ làm cho tỷ giá tăng (ngoại tệ lên giá, nội tệ giảm giá). Thứ ba, lãi suất, lượng cung ứng tiền. 13 Trong cơ chế thị trường, lãi suất và tỷ giá là hai công cụ quan trọng nhất trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá luôn gắn bó với nhau và hỗ trợ nhau. Việc đề ra một chính sách lãi suất hợp lý cùng với việc điều hành lượng cung ứng tiền phù hợp vơí tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đó và chỉ số lạm phát sẽ góp phần ổn định sức mua của đồng tiền, là yếu tố ổn định tỷ giá. Thứ tư, các chính sách kinh tế vĩ mô. Khi nhà nước có những thay đổi về chính sách kinh tế _ xã hội, thì lập tức sẽ tác động đến các chỉ kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số thất nghiệp, bội chi ngân sách, . . . điều này cũng gián tiếp ảnh hưởng tơí tỷ giá. Thứ năm, yếu tố tâm lý. Khi tình hình kinh tế, chính trị có thay đổi, thì tất yếu sẽ tác động đến tâm lý con người làm cho tỷ giá có thể đột biến lên xuống trên thị trường. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh với cơ chế tỷ giáthả nổi, thì tỷ giá hình thành và biến động theocácyếu tố cơ bản trên đây, và theo quy luật cung - cầu, tất nhiên là luôn có sự tách biệt giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa được xây dựng và xác định trên cơ sở năm yếu tố cơ bản nêu trên. loại tỷ giá này được biết đến nhiều nhất và tỷ giá được niêm yết, công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Còn TGHĐ thực tế được xác định theo công thức sau: 14 Tỷ giá;hối đoái;thực tế = Tỷ giá;hối đoái;danh nghĩa x Error! Đây chính là tỷ giá mà các nhà kinh tế quan tâm. Nhìn chung TGHĐ thực tế có mục đích điều chỉnh, hay nói một cách khác là “sửa chữa “ tác động lạm phát và để phản ánh những biến đổi thực tế trong khả năng cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu của một quốc gia. Ví dụ: Nếu TGHĐ danh nghĩa ở mức :1USD = 10. 000 VND. Trong khi mức tăng giá cả trong nước tăng gấp đôi, mặc dù không có lạm phát trên thế giới, thì lúc đó TGHĐ thực tế của VND sẽ ở mức 1USD = 5000 VND. Tỷ giá thực tế VND đã tăng gấp đôi so với tỷ giá danh nghĩa. Rõ ràng, trong trường hợp này người xuất khẩu sẽ bị thiệt thòi, tức là số tiền thu được từ xuất khẩu sẽ mang lại ít nội tệ hơn, trong khi đó nhập khẩu lại có lợi. 2. Thị trường hối đoái Thị trường hối đoái là nhân tố hết sức quan trọng nếu không nói là không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Thị trường hối đoái là nơi diễn ra các giao dịch trao đổi, mua, bán, vay mượn ngoại tệ, là nơi thông qua sự cọ xát giữa cung và cầu ngoại tệ để thoả mãn các nhu cầu cuả các chủ kinh tế, đồng thời xác định các điều kiện giao dịch, tức là giả cả, thời hạn và giao vốn. Thị trường hối đoái hiểu theo nghĩa rộng là thị trường có tính chất quốc tế, hoạt động không có giờ giấc nhất định, liên tục suốt 24/24 giờ trong ngày trên phạm vi toàn cầu, xuất phát từ châu á sang châu âu, đóng cửa ở châu mỹ cũng 15 đồng thời là mởi cửa ở châu á. Với phạm vi toàn cầu và thời gian hoạt động như vậy, thị trường hối đoái là nơi phản ánh kịp thời mọi diễn biến của tỷ giá, của lãi suất các loại tiền tệ trên thế giới. Trong phạm vi một quốc gia, thị trường hối đoái được xem như một dạng thị trường liên ngân hàng. Nó là nơi giao dịch mua, bán, chuyển đổi các ngoại tệ được chấp nhận ra nội tệ, hoặc giữa các loại ngoại tệ dựoc hoán đổi cho nhau trên cơ sở các điều kiện được xác định (tức là giá cả và giao vốn). Dù là thị trường hối đoái quốc tế hay thị trường hối đoái quốc gia, những thành viên tham ra trực tiếp hay gián tiểptên thị trường đều là ngân hàng trung ương, Ngân hàng thương mại và người môi giới. Tuỳ theo luật định của mỗi nước, cơ cấu tổ chức và người tham gia vào thị trường hối đoái được qui định cụ thể. Ví dụ, ở cộng hoà Pháp các thành viên tham gia vào thị trường hối đoái bao gồm ngân hàng trung ương Pháp, các ngân hàng thương mại tương đối lớn(khoảng 30 ngân hàng) và các nhà môi giới. Họ đều lànhững thành viên tham gia trực tiếp vào kinh doanh hối đoái trên thị trường. Còn ở Vương quốc Anh, trên thị trường hối đoái người giao dịch trực tiếp mua, bán, trao đổi, vay mượn đồng bảng Anh(GBP) với các ngoại tệ khác chỉ là người môi giới hoặc công ty kinh doanh lớn(không phải nghề ngân hàng), còn các ngân hàng thương mại và ngân hàng trung ương tham gia gián tiếp, họ muốn trao đổi, mua, bán, ngoại tệ thì phải thông qua người môi giới. 16 Tuy nhiên dù tham gia trực tiếp haygián tiếp, chức năng cúa các ngân hàng thương mại ở đây vẫn là kinh doanh cho bản thân và cho khách hàng của họ. Ngân hàng trung ương tham gia trên thị trường hối đoái một mặt nhằm phục vụ khách hàng của mình(chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước và các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế), mặt khác nhằm phục vụ quỹ bình ổn hối đoái, theo dõi tỷ giá và trong trường hợp cần thiết sẽ can thiệp để hạn chế những biến động tỷ giá có thể xảy ra giữ ngoại tệ với nội tệ. Những người môi giới tham gia vào thị trường hối đoái thực hiện thuần tuý một chức năng kinh doanh phục vụ khách hàng khi có yêu cầu. Những người tham gia giao dịh trên thị trường hối đoái có thể thực hiện mua, bán, vay mượn lẫn nhau thông qua các ký hiệu giao dịch đã qui ước, hoặc có thể thông qua hình thức liên lạc viễn thông để thực hiện giao dịch. Song dù ở hình thức nào thì các giao dịch đều thực hiện theo nguyên tắc trao đổi tài sản Có trên tài sản được nghi bằng hai bằng hai đồng tiền giao dịch. Sở dĩ chính phủ các nước phải quản lý và điều tiết vĩ mô thị trường hối đoái, vì thông qua thị trường hối đoái quan hệ cung cầu về ngoại tệ, “giá cả” của giao dịch tức là tỷ giá hối đoái, lãi suất của các ngoại tệ theo quan hệ cung - cầu và các yếu tố của thị trường được thể hiện và xác định, trên cơ sở đó Chính phủ Ngân hàng Trung ương thực hiện việc điều tiết thị trường hối đoái bằng cách mua, bán ngoại tệ từ qỹu bình ổn hối đoái để tác động lên tỷ giá, nhằm mục đích đạt được một tỷ giá phù hợp ôứi nhu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân. 17 3. Vàng, bạc, đá quý Một nhân tố không thể không đề cập đến trong hoạt động kinh doanh của thị trường hối đoái và trong thị trường quản lý ngoại hối đó là lĩnh vực vàng, bạc, đá quý. Thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản (thế kỷ XVII - XVIII) vang, bạc, đá quý nói chung được coi như là biểu tượng của sự giàu có của một quốc gia. Vàng được coi là mọi của cải của xã hội, là phương tiện thanh toán, trao đổi, dự trữ quốc tế duy nhất ở thời kỳ này. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, các quan hệ kinh tế cũng như sự hiện đại hoá mọi lĩnh vực từ sản xuất, kinh doanh đến dịch vụ, đầu tư…đã tạo ra những công ụ trong thanh toán, trao đổi và dự trữ quốc tế rất đa dạng, khiến cho vàng không còn chiếm vị trí độc tôn như trước. Cho đến giai đoạn hiện nay ngươì ta hoàn toàn không dùng vàng để thanh toán trong thương mại quốc tế, tuy vậy, vàng vẫn chiếm một vị trí xứng đáng trong kho dự trữ của mỗi quốc gia, và được sử dụng như một chiếc “phao cứu hộ” đắc lực cho việc cân bằng Cán cân thanh toán quốc tế. Đồng thời, sự can thiệp của vàng vào thị trường sẽ tác động tích cực lên TGHĐ trong trường hợp cần thiết. Chính vì lẽ đó, vấnđề vàng, bạc, đá quý nói chung và vàng nói riêng được các quốc gia hết sức coi trọngvà chú ý, đươc đề cập đến như một đối tưọng trong chính sách quản lý ngoại hối. Ngày nay vàng là hàng háo phi tài chính duy nhất được mua bán tự do liên 18 tục 24/24 giờ trong ngày trên thế giới. Bởi vậy, thị trường vàng quốc tế và thị trường vàng khu vực luôngluôn tác động vào thị trường vàng của mỗi quốc gia. Biến động trong quan hệ cung - cầu vàng trên thị trường gây ra giá vàng lên, xuống sẽ tác động vào giá trị tiền tệ, lam TGHĐ biến động. Ngược lại, khi tỷ giá biến động ở một chừng mực nhất định sẽ tác động lên giá vàng. Như vậy nếu chính phủ thực hiện đượcviệc quản lý, điều tiết và khống chế thị trường vàng trong nước, thì trong một mức độ nhất định có thể tác động tích cực ổn định được tỷ giá theo mong muốn. Điều đó khẳng định thị trường vàng có tầm quan trọng, và việc quản lý vàng, bạc, đá quý là không thể thiếu được trong chính sách quản lý ngoại hối của mỗi quốc gia. 19 CHƯƠNG II DIỄN BIẾN TỶ GIÁ I. DỊCH CHUYỂN TỶ GIÁ MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN GIẢI THÍCH Thực tế tốc độ tăng tỷ giá VND/USD trong năm 2000 đến thời điểm hiện nay cũng không lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng trong năm 1999. Nhưng sự dịch chuyển tỷ giá trong 2 thời kỳ này được đánh giá bởi một số nhân tố cơ bản khác nhau. điều chỉnh tỷ giá VND/USD trong năm nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu VN;giảm bớt sự mất cân bằng của đồng việt nam so cới USD, dịch chuyển tỷ giá dần tới trạng thái cân bằng của nó. Sự dịch chuyể tỷ giá VND/USD trong năm 2000, ngoài những nhân tố trên, chụi sức ép của nhiều nhân tố khác như mức chênh lệch lớn tỷ giá kỳ hạn và giao ngay, chênh lệch lãi xuất USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và trong nước quá cao, thâm hụp gia tăng, lạm phát thấp, … Diễn biến dịch chuyển tỷ giá VND/USD có thể nhìn tổng thể qua biểu đồ 1. 13900 13950 14000 14050 14100 14150 14200 14250 14300 14350 1/0 8/0 0 8/0 8/0 0 15/ 08/ 00 22/ 08/ 00 29/ 08/ 00 5/0 9/0 0 12/ 09/ 00 19/ 09/ 00 26/ 09/ 00 3/1 0/0 0 10/ 10/ 00 17/ 10/ 00 24/ 10/ 00 20 Nếu trong năm 1999, đồng Việt Nam chỉ giảm giá 1%, thì đến tháng 9/2000, đã giảm 1, 33% so với cuối năm 1999. Tuy nhiên, tốc độ dịch chuyển tỷ giá VND/USD thời gian gần đây tăng cao. Tỷ giá tăng dồn dập đã đặt ra câu hỏi Tại sao chênh lệch tỷ giá NHNN công bố giữa 2 ngày giao dịch có chênh lệch lớn như vậy? Nếu duy trì tỷ giá ổn định, có điều chỉnh tăng dần như thời gian tù tháng 7/2000 trở về trước có hợp lý hay không trong tình hình cung cầu ngoại tệ căng thẳng? Những nhân tố nào có thể giải thích sự dịch chuyển tỷ giá cao hơn mức bình thường trong tháng 9? 1. Chênh lệch tỷ giá có kỳ hạn và kỳ vọng mong đợi sự thay đổi tỷ giá 21 Trên cơ sở lý thuyết, kỳ vọng mong đợi tỷ giá giao ngay trong tương lai sẽ tương đương với tỷ giá giao dịch có kỳ hạn. nếu trong năm 1999, số lượng giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn chỉ là con sô tượng trưng, thì giao dịch này đã bùng nổ trong năm 2000. Sự mở rộg hình thức giao dịch có kỳ hạn chỉ là một phần nào giải thích các ngân hàng và doanh nghiệp sử dụng cong cụ này để tự phòng ngừa rủi ro tỷ giá. ĐIều rõ hơn có thể nhìn thấy là các ngân hàng đã sử dụng công cụ này để mua được ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng hay tăng khả năng đầu cơ. Bởi sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng để mua được ngoại tệ, nên chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và có kỳ hạn tăng cao. Sự chênh lệch thái quá này thể hiện tính bất ổn của ngoại tệ hay quan hệ cung cầu; do đó, kỳ vọng tỷ giáVND/USD có thể tăng lên. Khoảng cách giữa tỷ giá giao dịch ngay và có kỳ hạn mở rộng ra được bộc nộ thông qua dấu hiệu dư cầu ngoại tệ kéo dài. Nghĩa là, cầu ngoại tệ lớn hơn số lượng cung ngoại tệ sẵn sàng muốn bán trên thị trường ngoại tệ. Sự chênh lẹch lãi xuất của đồng USD giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tếcũng tạo cho một số ngân hàng nhanh chóng chớp thời cơ kiếm lợi nhuận ngắn hạnthông qua việc mua ngoại tệ kết hợp với gửi / cho vay trên thị trường quốc tế. Kỳ vọng tỷ giá tăng lên khiến cho họ sẵn sàng cạnh tranh để đầu cơ, trong khi vẫn được hưởng chênh lệch lãi xuất. Hơn nữa, kiểm soát ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu dầu thô chặt chẽ mà nhu cầu nhập khẩu xăng dầu, máy móc thiết bị tăng đột biến trong năm 2000, do đó những doanh nghiệp muốn có ngoại tệ nhập khẩu hàng tiêu dùng hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thứ tự ưu tiên 22 mua ngoại tệ Tại ngân hàng thấp phải chấp nhận mua kỳ hạn. Vậy là, để có nguồn ngoại tệ các ngân hàng phải cạnh tranh thông qua hình thức giao dịch có kỳ hạn. Cạnh tranh qua công cụ tỷ giá giao ngay theo quy định của NHNN sẽ không hấp dẫn bởi người bán muốn bán với giá cao hơn theo tín hiệu cung cầu. giả sử tỷ giá giao ngay vào ngày 31/5/2000 là 14071 VND/USD, các ngân hàng mua kỳ hạn một tháng với tỷ giá 1410 - 14120 VND/USD - Như vậy chênh lệch tỷ giá giữa 2 kỳ hạn trên khoảng 20 – 30 đồng/USD. Nếu thị trường ngoại tệ hoạt động hoàn hảo, kiểm soát ngoạitệ không có thì tỷ giá giao ngay đến 30/6/2000 có thể lên tới 14120 VND/USD. Tuy nhiên, tỷ gía giao ngay thực tế ngày 30/6/2000 chỉ là 14087 VND/USD, thấp hơn tỷ giá mong đợi 45 đồng/USD. Nhưng trong tháng 9/200, tỷ giá tăng nhanh hơn đã phần nào lý giả được sứcép của tỷ giá giao dịch có kỳ hạn lên tỷ giá giao dịch ngay theo quy định của NHNN. Việc điều chỉnh tỷ giá với tần suất nhỏ trong tình trạng cung cầu ngoại tệ căng thẳng càng làm cho chênh lệch tỷ giá giao ngay và có kỳ hạn khó thu hẹp. Chính vì vậy, giảm giá đồng việt nam nhanh hơn trong thời gian gần đây cóthể được giả thích trên cơ sở quan hệ giữa kỳ vọng tỷ giá mong đợi với tỷ giá giao dịch có kỳ hạn. Tuy nhiên để ngăn chặn các NHTM mở rộng khoảngcách giữa tỷ giá giao ngay và có kỳ hạn và có lợi dụng nó là công cụ cạnh tranh đắc lực trong kinh doanh ngoai tệ, NHNN đã điều chỉnh giảm mức tăng tỷ giá kỳ hạn so với giao ngay. Chẳng hạn theo quyết định số 65/1999/QĐ_ NHNN7, NHTM được phép 23 tăng tối đa 0, 58%của tỷ giá giao ngay kịch trần để xác định tỷ giá kỳ hạn 1 tháng, nhưng nay theo quyết định 289/2000/QĐ _ NHNN7, ngày 30/8/2000, các ngân hàng chỉ được phép tăngtối đa 0, 2%. Như vậy, các ngân hàng không lợi dụng được chênh lệch lớn giữa tỷ giá giao ngay và có kỳ hạn cho cuộc cạnh tranh mua bán ngoại tệ. Nhưng nếu chỉ thực hiện giải pháp này đơn lẻ thì sẽ không hữu hiệu bởi tình trạng căng thẳng cung - cầu ngoại tệ. Giải pháp đi kèm theo quyết định này là NHNN điều chỉnh tỷ giá giao ngay tăng nhanh cao hơn từ đầu tháng 9/2000 so với các tháng trước. Như vậy, đây có phải là ngụ ý giải thích sự điều chỉnh mạnh của tỷ giá VND/USD trong thời gian gần đây? 2. Bệnh lan truyền của việc phá giá các nước đang phát triển đều có những mặt hàng xuất khẩu nằm trong danh mục hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nên mức độ cạnh tranh rất cao. Theo quy luật sức mua ngang giá, đồng tiền của quốc gia nào tương đối rẻ sẽ có lợi thế cạnh tranh cao hơn. Chẳng hạn, Việt Nam và Thái Lan cùng xuất khẩu gạo 25% tấn thì lợi thế cạnh tranh nghiêng về Thái Lan. Bởi vì, đông Baht của thái lan giảm giá 12, 7% trong 9 tháng năm 2000 hay đồng Rupi của Pakistan cũng giảm 8, 4% …. Trong khi đó, đồng việt nam chỉ giảm 1, 33% Như vậy, nới lỏng giá trị đồng việt nam là điều kiện cần để tăng cường khả năng cạnh tranh. 3. Điều chỉnh tỷ giá và khuyến khích xuất khẩu Mặc dù kim ngạch xuất khẩu dầu thô tăng coa nhưng thâm hụt thương mại 24 trong 9 tháng qua mở rộng so với năm1999. Thâm hụt thương mại nới rộng có thể nhìn thấy rõ qua kim ngạch nhập khẩu của một số mặt hàng tăng cao so với năm 1999, trong khi đó, kim ngạch xuất khẩucủa một số mặt hàng chủ lực lại tăng chậm, thậm chí có giảm so với năm 1999. Tính đến hết tháng 9/2000 kim nghạch xuấtkhẩu ước đạt 10. 489 triệu USD tăng 28% so cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 11. 310 triệu USD, tăng 33, 3%. Như vậy 9 tháng nhập siêu 513 triệu USD, trong khi đó, 9tháng năm 1999 nhập siêu là 74 triệu. Nhập siêu tăng cao bởi cả hai; xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực như gạo, cà phê giảm so với năm trước và nhập khẩu một số mặt hàng tăng cao. Do đó, nguồn ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu tăng cao hơn so với nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu, kếtquả thị trường ngoại tệ bị tác động mạnh. Thêm vào đó, Nhà nước đã có văn bản triển khai hạn chế nhập khẩu tiêu dùng. Mục đchs nhằm khuyến khích tiêu dùng hàng hoá sản xuất trong nước và tăng nguồn ngoại tệ cho nhâpj khẩu công nghệ, kỹ thuật chuyên gai tư vấn …. Như vậy, có nhiều ý kiến cho rằng giảm giá đồng nội tệ sẽ có tác dụng “kép” một mặt tăngcường hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới, mặt khác giảm bớt tâm lý của dân cư thích sử dụng hàng ngoại. 4. Tiếp cận của fisher về tỷ giá và lãi suất quốc tế Phương trình fisher quốc cho rằng, khi không có sự kiểm soát luồng vốn hoặc tài khoản vốn thì kỳ vọng mong đợi tỷ giá thay đổi có mối quan hệ chặt chẽ với sự khácbiệt lãi suất giữa hai quốc gia. Như vậy, các nhà đầu tư sẽ dịch 25 chuyển vốn tới nơi có mức lãi suất hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, dưới sự kiểm soát tài khoản vốn chặt chẽ, giá trị đồng Việt Nam có tính chuyển đổi thấp, các nhà đầu tư lại lệch về khoản kiếm lợi nhuận ác – bít từ sự chênh lệch lãi suất đồng USD trong nước và quôc tế. Trog khi quý 11/2000 lãi suất Libor USD trênthị trường quốctế mà các ngân hàng có thểkiếm được khoảng 7 -7, 1% / năm, chênh lệch với lãi suất trong nước khoảng 1, 5 - 1, 6%/năm. Hơn nữa, lãi suất vay VND trên thị trường liên ngân hàng ở mức 0, 5 - o, 555%/tháng. TạI thời điểm 31/5/2000một số ngân hàng sẵn sàng bỏ ra 14110 triệu đồng mua giao ngay 1 triệu USD của doanh nghiệp thông qua các hình thức đã đề cập. Như vậy, ngân hàng sẽ đồng thời gửu cho vay trên thị trường quốc tế thời hạn một tháng, đồng thời bán kỳ hạn 1 thàng cho các doanh nghiệp chấp nhận tỷ giá có kỳ hạn 14125 VND/USD. Qua giao dịch này, ngân hàng có thể kiếm được ít nhất 24 triệu đồng. Tuy nhiên, trong thực tế ngân hàng có thể kiếm được khá hơn. Để kiếm được lợi nhuận từ hành vi trên, ngoài hình thức sử dụng giao dịch ngoại tệ để có nguồn đầu tư trên thị trường quốc tế, các ngân còn huy động USD trên thị trường. Như vậy khoản sinh lời từ hoạt động đầu tư ra thị rường quốc tế sẽ bù đắp khoản lỗ từ hoạt động giao dịch ngoại tệ. Với mức lợi nhuạn hấp dẫn như vậy, để chớp thời cơ lợi nhuận trong ngắn hạn, nên cácngân hàng đã cạnh tranh mạnh hơn nhằm mua được ngoại tệ lớn nhất có thể được. Cuộc chạy đua này đã tạo sức ép lên thị trường ngoại tệ cũng là nhântố tiềm ẩn đẩy kỳ vọng tỷ tăng lên. Tỷ già tăng sẽ giảm bớt được lỗ trong hoạt động giao dịch ngoại tệ, ngân hàng vừa có lợi trong đầu tư quốc tế vừa đầu cơ mong tỷ giá 26 tăng. 27 5. Sự dịch chuyển tỷ giá có tính chu kỳ ? Cũng có ý kiến cho rằng, theo tính chất chu kỳ, tỷ giá được điều chỉnh tăng theo thời gian dịch chuyển về cuối nă. Lý do này giải thích cho sự dịch chuyển nhanh của tỷ giá vào cuối quý 11/2000 không có tính thuyết phục cao bnởi sức ép của các nhân tố khác lên sự giao động của tỷ giá lớn hơn nhiều như tình trạng căng thẳng ngoại tệ, kiểm soát nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu hàng tiêu dùng chặt chẽ hơn, thâmhụt thương mại ra tăng, kỳ vọng mong đợi tỷ giá tăng…. màđã đề cập ở trê. 6. Tác động của sự dịch chuyển tỷ giá Tuy nhiên, sự dịch chuyển tỷ giá nhanh hơn trong thời gian gần đây cũng có thể gây sức ép lớn đến thị trường ngoại tệ. Tính nhạy cảm của công chúng đối với sự giao động của tỷ giá rất lớn. đấu hiệu của tỷ giá tăng lên hay sự bất ổn của thị trường ngoại tệ ngầm tăng lên. Chẳng hạn, tính đến 26/9/2000 tỷ giá giao ngay tăngkhoảng 250 - 270 đồng/USD. Như vậy trong khung cảnh dư cầu ngoại tệ, tỷ giá VND/USD tăng nhanh cũng là mộtnhân tố làm cho những người có ngoại tệ muốn bán ghìm lại trong một thơì gian. Chẳng hạn, người bán ra ngoại tệ chậm lại một ngày ghiao dịch sẽ được lợi thêm12 triệu đồng cho số lượng ngoạitệ muốn bán 1triệu USD (chênh lệch tỷ giá giữa 2 ngày giao dịch 26 - 25/9/2000). Thay thế phần vốn đồng việt nam cần dùng với một số lượng vốn tương đương 1triệu USD doanh nghiệp vay các TCTD thìcần phải trả khoảng 2, 8 triệu đồng/ ngày cho khoản vay 14, 3 tỷ đồng. Như vậy, chi phí cơ hội củaviệc 28 bán ngoại tệ so vớivay vốn Việt Nam đồng và giữa USD lại thêm một thời gian là 9, 2 triệu đồng. II. BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ TRONG THỜI GIAN QUA Kể từ đầu tháng 5/2001 đến 25/6/2001, việc TGHĐ của USD so với VND tăng liên tục trong nhiều tuần trên cả thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường tự do đã tạo ra những phản ứng rất khác nhau. Có thể nhận thấy tỷ giá USD có những biểu hiện nóng lên “đột ngột “ kể từ cuối năm 2000, nhưng đã phần nào dịu xuống trong 3/2001 khi ảnh hưởng giảm lãi suất của đồng USD (do sự đảo CHIều trong chính sách tiền tệ của FED trước nguy cơ suy thoái của nền kinh tế Mỹ) thực sự tác động đến Việt Nam. Nhưng kể từ đầu 5/2001, tỷ giá tăng liên tục qua từng tuần và nhiều khi qua từng ngày trên cả hai thị trường chính thức và tự do. Trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá tăng khoảng 96 đ/USD trong tháng 5 và kể từ giữa tháng 6 tỷ giá tăng liên tục từ 8 - 14đ/USD mỗi ngày. Tỷ giá USD Tại thị trường tự do cũng có những biến động tương tự nhưng với mức giao động cao hơn và chênh lệch tỷ giá tại hai thị trường có xu hướng dãn rộng. Nếu chỉ xét trong quãng thời gian ngắn xảy ra biến động, không ít ngân hàng, các doanh nghiệp và cả bộ phận dân cư đã phát sinh những tâm lý lo ngại trước những biến động về tỷ giá và được coi là “bất bình thường này “ Diễn biến tỷ giá USD trong năm 2000 và nửa đầu năm 2001. 29 Trong năm 2000 1/2001 2/2001 3/2001 4/2001 5/2001 6/2001 Tỷ giá liên ngân hàng (VND/USD) 14.022 14.501 14.534 14.558 14.573 14.595 14.696 14.865 Tăng so với tháng trước (%) 33 24 15 22 101 169 Tỷ giá thị trường tự do (VND/!USD) 14.160 14.540 14.630 14.680 14.730 14.790 14.910 15.050 Tăng so với tháng trước (VND/!USD) 90 50 50 60 120 140 Để có một cái nhìn xuyên suốt về nguyên nhân của những biến động trên chúng ta hãy xem lại những nhân tố chủ chốt quyết định TGHD của VND so với USD trong quãng thời gian đủ dài để có một bức tranh toàn cảnh về ảnh hưởng của những nhân tố này. Có bốn nhân tố căn bản quyết định tỷ giá giữa hai đồng tiền là : Tương quan về tiềm năng tăng trưởng kinh tế; diễn biến về lạm phát; tình hình cán cân thanh toán và tương quan lãi suất. Trên lý thuyết thì tương quan về tiềm năng tăng trưởng và lạm phát là hai nhân tố quyết định tỷ giá trong dài hạn còn hai nhân tố cán cân thanh toán và lãi suất lại có ảnh hưởng rõ rệt trong ngắn hạn và trung hạn. Có thể tóm tắt ảnh hưởng của các yếu tố trên lên tỷ giá như sau:                          v m v m v m ir ir if if g gBPfe ;;; 30 Trong đó: - e : Tỷ giá của USD so với VND(eVND/USD, e tăng tương đương USD tăng). - BP: Thặng dư (thâm hụt)cán cân thanh toán của việt Nam - gm, gv: Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế lần lượt của Mỹ và Việt Nam - ifm, ifv: Mức lạm phát tại Mỹ và Việt Nam - irm, irv: Lãi suất của USD và VND +: Tác động thuận chiều với e, -: tácđộng ngược chiều với e, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi. Khi xem xét biến động của tỷ giá USD Tại vệt nam trong gần hai năm qua, chúng ta không thể giải thích được nếu dựa vào phân tích tương quan về tăng trưởng và lạm phát Tại hai nền kinh tế Mỹ và Việt Nam. Nếu xét về tương quan tăng trưởng, cản trở chính là sự chênh lệch quá lớn về qui mô và trình độ giữa hai nền kinh tế. Đơn cử, GDP của Mỹ gấp hơn 100 lần GDP của Việt Nam và trình độ phát triển và ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh Tại Mỹ luôn được xem là đứng đầu thế giới. Nhân tố lạm phát cũng không giải thích được USD vẫn tăng giá so với VND nhẹ qua từng năm trong ngay cả giai đoạn dài hơn từ n1998-2000: Năm 1998, USD tăng 5, 1%; năm 1999 tăng 1, 1%; năm 2000 tăng 2, 3%. Nếu áp dụng lý thuyết một cách máy móc thì đây có thể coi là “nghịch lý “ vì lạm phát Tại Mỹ luôn cao do kinh tế tăng quá nóng trong khi kinh 31 tế Việt Nam lại trảI qua giai đoạ được xem là thiểu phát trầm trọng “trong năm 99và 00 lạm phát Tại Mỹ duy trì ở mức 3, 5%, khá cao so với mức của nền kinh tế phát triển, còn Tại Việt Nam chỉ số giá tiêu dùng tăng 0, 1% năm 1999 và giảm 0, 6% năm 2000”. Hơn nữa, ngay cả khi kinh tế Mỹ bộc lộ nguy cơ suy thoái kể từ cuối năm 2000, trong khi tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn được phục hồi và duy trì “năm 2000 đạt 6, 75 %và nửa đầu năm 2001 ước đạt 7, 1%” thì đồng USD lại tăng giá mạnh hơn (chỉ trong nửa đầu năm2001, USD tăng 3, 7%). Vì vậy, chỉ có thể phân tích biến động tỷ giá USD Tại Việt Nam trong thời gian qua thông qua hai nhân tố còn lại là cán cân thanh toán và lãi suất. Trong hai nhân tố này thì tình hình cán cân thanh toán có ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên hơn đối với TGHĐ của USD Tại Việt Nam. ĐIều này có thể xem là dễ hiểu vì sự hội nhập còn hạn chế vệ hoạt động của thị trường tiền tệ của Việt Nam với quốc tế. Tuy vậy, trong thời gian qua nhân tố tương quan lãi suất đến TGHĐ của USD Tại VIệt Nam lại có những biểu hiện gia tăng rõ rệt về mức độ ảnh hưởng. Từ năm 1999, thực hiện chủ trươngkích cầu khuyến khích đầu tư chúng ta đã liên tục hạ lãi suất VND, trong khi đó lãi suất USD trên thị trương thế giới lại liên tục tăng dẫn đến lãi suất USD trên thị trường Việt Nam buộc phải tăng theo và đã có lúc lãi suất hai đồng tiền VND và USD cân bằng nhau. Hậu quả là đã có sự chuyển dịch từ VND sang USD, thể hiện ở những hiện tượng sau; các doanh nghiệp không muốn vay USD mà chuyển sang vay VND; dân cư và kể cả doang nghiệp không muốn chuyển đổi USD sang VND, 32 ngược lại muốn gửi USD trên tài khoản. Điều đó đã làm cho nhu cầu về USD tăng và cung USD giảm đáng kể. Thêm vào đó, do chênh lệch lãi suất tiền gửu của USD Tại Việt Nam với thị trường quốc tế dãn rộng trong vòng 1 năm kể từ cuối năm 1999, việc các NHTM trong nước tăng lãi suất huy động tiền gửu USD để đẩy mạnh đầu tư tại thị trường tiền tệ quốc tế lại càng làm tăng cầu tiền gửu bằng USD, hạn chế chuyển đổi các nguồn thu vãng lai bằng ngoại tệ ra VND, qua đó có tác động đáng kể làm tăng giá USD. ảnh hưởng này rất đáng kể nếu biết rằng tổng cả hai năm 1999 và 2000 nguồn thu vãng lai, trong đó có kiều hối và thu nhập của lao động xuất khẩu đạt hơn 3 tỷ USD. Phải nói thêm thị Việt Nam (VN) có một đặc điểm mang tính truyền thống là chuộng USD, thể hiện qua tình trạng khá phổ biến là ngoại tệ được thanh toán trong dân cư dưới hình thức tiền mặt, gử vào ngân hàng dưới hình thức tiết kiệm và ít được chuyển đổi ra VND ngay cả khi không có chênh lệch lớn về lãi xuất giữa hai đồng tiền. Thêm vào đó ảnh hưởng tâm lý bám rễ khá lâu này sẽ làm cho những biến động tỷ giá được khuyếch đại lên khi có những xáo trộn khác thường. Trong nửa đầu năm 2001, tình hình trưởng xuất khẩu cũnh chững lại đặt ra thánh thức lớn cho việc hoàn thành mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 25% và đạt kim ngạch 16, 7 tỷ USD. Hơn nữa nếu phân tích theo cơ cấu thì phần lớn những lĩnh vực có mức tăng cao lại không nhận cân đối ngoại tệ chính của ngân hàng. Các ngành dùng nhiều ngoại tệ vay của ngân hàng là nông nghiệp, hảI sản, may mặc, giầy da, có mức tăng nhẹ. ĐIều này lại càng làm cho tăng trưởng cung cầu ngoại tệ gia tăng, thể hiện qua những biến động dồn dập kể từ đầu năm 2001. 33 Mặc dù tỷ giá có những biến động vẻ như “bất thường” nhưng NHNN không áp dụng những biện pháp can thiệp thị trường với liều lượng mạnh hoặc sử dụng trở lại những biện pháp hành chính(như tăng tỷ lệ kết hối). ĐIều này lại khẳng định thêm việc quyết tâm theo đuổi chính sách điều hành TGHĐ linh hạot theo cung cầu thi trường của ngân hàng nhà nước. Dao động của tỷ giá USD xét trong trung hạn là hoàn toàn phù hợp với các nhân tố căn bản quyết định tỷ giá hối đoái USD Tại VN. Những thay đổi với biên độ lớn trong nửa đầu 2001 là kết quả hợp lý của sự điều chỉnh tỷ giá sang một tỷ giá cân bằng mới. Sự giảm giá của VND voéi mức độ như vâỵ cũng không thể xem là bất thường nếu nhìn ra các nước láng giềng trong khu vực. Trong năm 2000 trong khi VND giảm giá 2, 3% thì đồng tiền các nước trong khu vực Châu á liên tục mất giá mạnh so USD với mức giảm giá ù 8-25%, trong đó đồng Baht Thái Lan, đôla Singapore và rupi ấn Độ mất giá mạnh nhất. Trên thị trường quốc tế từ đầu năm đến nay đồng USD đẫ lên giá chừng 12% so với đông Euro 4, 4% so với đồng Baht trong khi mới chỉ tăng 3, 7% so với VND. Trước những diễn biến liên tucj này nếu không để tỷ ngiá điều chỉnh theo quan hệ cung cầu thị trường một cách phù hợp, sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu VN sẽ bị sụt giảm đáng kể. ĐIển hình là các doanh nghiệp ngành dệt may, da giày, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của VN đang gặp khó khăn lớn do đồng euro mất giá mạnh. Ngày 1/6 1 euro chỉ còn ăn 0, 84 USD, trong khi đó, nhiều doanh nghiệp ký hợp đồng xuất khẩu thanh toán bằng đồng euro ở thời điểm 1 euro ăn 0, 94 USD. Tỷ giá điều chỉnh như vừa qua sẽ tháo gỡ khó khăn của hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của VN sang 34 Châu Âu và Nhật Bản ( hai thị trường hàng đầu của hàng hoá xuất khẩu VN) khi phải cạnh tranh với hàng hoá của các nước châu á. Thông qua đó phần nào cũng có tác dụng kiềm chế nhập khẩu hàng tiêu dùng tràn lan góp phần cải thiện tình hình thâm hụt cán cân thương mại và sức ép tiếp tục tăng giá USD. III. LỰA CHỌN CƠ CHẾ TỶ GIÁ PHÙ HỢP “Thả nổi có quản lý” là cơ chế TGHĐ VND/USD phù hợp với bối cảnh hiện nay và thời gian tới Tại VN. Diễn biến kinh tế việt nam quý1/2001. Trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ, Nhật Bản và phần lớn các nước trong khu vực sụt giảm đáng kể thì nền kinh tế VN trong quý 1/2001 phát triển tương đối khả quan so với trong kỳ năm trứơc ; Tốc độ tăng trưởng GDP là 7, 2%(quý 1/2000 là 5, 6 %) chỉ giá tiêu dùng CPI bằng 0% so với cuối tháng 12/2000 vàgiảm ( _0, 4%) so với quý 1/2000. Sởdĩ tốc độ tăng trưởng GDP đạt mức tăng cao như vậy là nhờ vào tốc độ tăng trưởng cao của khu vực công nghiệp – xây dựng đạt 1, 4%, đặc biệt khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4, 5%. Kim ngạch xuất khẩu đạt 1, 32% USD tăng 15, 5% so với tháng 2. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng rất khá về lượng như; cà phê, gạo, rau quả, thuỷ sản, dầu thô, than đá nhưng giá xuất khẩu của hấu hết các mặt hàng đều giảm nên đã hạn chế mức tăng chung về gía tri9j kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu là 3, 64 tỷ USD – tăng 8, 4 % so với quý 1/2000. Nhập siêu giảm và chỉ bằng có kim ngạch xuất khẩu- tương đương với mức nhập siêu quý 1/2000. Đầu tư nước ngoài vẫn gia tăng đáng kể tổng giá 35 trị FDI cam kết vào VN đạt 273 tỷ USD tăng 78, 8% so với quý 1/2000, trong FDI của Nhật Bản, Hàn Quốc, ĐàI Loan chiếm tới 60%. VN đã thu hút đáng kể vốn đầu tư nước ngoài như vậy về cơ bả nhờ vào tăng trưởng ổn định của nền kinh tế, trong đó đặc biệt nhờ vào sự ổn định tương đối phi danh nghĩa của đồng VN. Và ngược lại, chính lượng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều cũng đã góp phần quan trọng thúc đẩy tốc độ tăng trưỏng của nền kinh tế VN. Diễn biến tỷ giá VND/USD quý 1/2001. tính chung đến cuối quý 1/2001 tỷ giá đồng VND so với USD chỉ tăng 0, 18%so với đầu năm 2001 trong bối cảnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vẫn chưa sôI nổi với doanh số giao dịch thực tế chưa đáng kể, chủ yếu do NHNNVN bán ngoại tệ cho các NHTM đáp ứng các nhu cầu thanh toán nhập khẩu xăng dầu và phân bón. Tý giao dịch VND/USD của các NHTM luôn biến động cùng chiều với tỷ giá bình quân liên ngân hàng và luôn sát với mức trần tối đa cho phép. Do cầu ngoại tệ trên thị trường luôn lớn hơn cung nên ở hầu hết các NHTMQD tỷ giá mua và bán ngaọi tệ (tiền mặt và chuyển khoản) không chênh lệch đáng kể trong khi các NHTMCP luôn quy hai mức tỷ giá mua và bán này ngang nhau để thu hút lượng ngoại tệ trôI nổi trên thị trường. Nhìn chung doanh số mua ngoại tệ từ khách hàng của các NHTM thường nhỏ hơn doanh số bán ngoại tệ cho khách hàng. Tỷ giá VND/USD trên các thị trường tự do có biểu hiện tăng nhanh vào cuối tháng 1 và trong tháng 2 (có lúc taưng gần 0, 9%) nhưng từ đầu tháng 3 đã có xu hướng giảm dần do nhu cầu ngoại tệ sau tết đã bớt căng thẳng, chênh lệch lãi suất tiền gửi VND và USD ngày càng tăng có lợi cho VND, lượng kiều hối gia tăng dự kiến trong quý1/2001 đạt 447triệu USD - tăng 4, 2% 36 so với quý 1/2000 và do cả tỷ giá bình quân liên ngân hàng lẫn tỷ giá giao dịch của các NHTM đều giảm xuống. So với cuối tháng 12/2000 đến cuối quý 1/2001, các loại tỷ giá VND/USD được giao dịchquanh các mức sau; tỷ giá bình quân liên ngân hàng là 14531VND/1USD tăng 0, 18%; tỷ giá giao dịch của ngân hàng địa phương trung ương là14546 VND/1USD – tăng 0, 19% tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do Hà Nội là 14600 VND/1USD – tăng 0, 21% và trên thị trường thành phố Hồ Chí Minh là 14575 VND/1USD – tăng 0, 27%. Tuy nhiên trong thời gian này tỷ giá thực của VNddax tăng từ 5%-6% so với rổ đồng tièn của các nước là đối tác thương mại như singapor, ĐàI Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, ôx-trây-li-a, thái Lan, Anh, Ma-Lai, In-đô-nê-xi-a, Nga, Hồng Kông chủ yếu do đồng tiền của các nước này đều giảm giá đáng kể so với đông USD. Như vậy khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu VN cũng phải chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi tácđoọng bất lợi do gia tăng tỷ giá thực của VND. Tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá VND/USD “thả nổi có quản lý” một cách linh hoạt. Để đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu VN cải thiện tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường và góp phần gia tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia - đứng từ góc độ quản lý ngoại hối- NHNNVN một mặt phải củng cố tiến tới hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với đúng nghiã là một “thị trường thức sự “ làm cơ sở xác định tỷ giá bình quân liên ngân hàng sát với quan hệ cung – cầu ngoại tệ trên thị trường ; mặt khác NHNN vẫn cần duy trì chế độ tỷ giá VND/USD “thả nổi có quản lý “ như hiện nay và có thể điều hành linh hoạt hơn thông qua biện pháp nới lỏng dần từng bước biên độ dao động xung quanh TGHĐ VND/USD mà không gây ra tác 37 động phá giá đột biến. Trong mọi trường hợp phải tuyệt đối tránh tình trạng phá giá đột biến vì những lợi ích do gia tăng xuất khâủ nhờ phá giá đem lại chỉ là tạm thời và không đáng kể so với các rủi ro khác nhất là rủi ro vòng xoáy phá giá cạnh tranh và rủi ro sụt giảm lòng tin của cácnhà đầu tư nước ngoài khi họ lo sợ rằng còn có thể phá giá hơn nữa và rút hết vốn đầu tư ra khỏi thị trường VN. Để tìm hiểu rõ về vấn đề này ta đi nghiên cứu “ Cơ chế vận hành tỷ giá thả nổi có điều tiết” 1. Xác định cung cầu trên thị trường ngoại hối Hình thàh thi trường ngoại hối trên cơ sở mở rộng phát triển từ hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã có ở thành phố hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Mở rộng các thành viên tham gia vào thị trường, bao gồm các NHTM, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các công ty tài chính và các tổ chức tín dụng khác. Trong đó NHNN tham gia với tư cách là một thành viên, nhưng có vai trò đặc biểttong việc điều tiết thị trường. Nếu thị trường ngoại hối càng được mở rộng sẽ phản ánh đầy đủ và chính xác hơn quan hệ cung cầu ngoại tệ. 2. Kết hợp chính sách quản lý ngoại hối với chính sách lãi suất a. Điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa sát với tỷ ía thực tế thông qua công thức: Et = Error! Trong đó: Et : Tỷ giá thực tế P*m ; Giá quốc tế hàng mậu dịch 38 E : Tỷ giá danh nghĩa Pm ; Giá nội địa hàng mậu dịch Việc điều chỉnh thực tế là xét đến yếu tố lạm phát của đồng bản tệ được dùng đẻ so sánh. Cơ chế này nhằm làm giảm bớt gánh nặng lạm phát cho các nhà sản suất xuát khẩu, tăng tính cạnh tranh với hàng ngoại, kích thích xuất khẩu. b. Điều chỉnh lãi suất bằng nội tệ và ngoại tệ, giữa lãi suất nội địa và lãi suất quốc tế. Sự chênh lệch quá lớn giữa lãi suất tiền gửi bằng nội tệ và tiền gửi bằng ngoại tệ sẽ tạo ra sự đầu cơ. Vay hoặcchuyển đổi ngoại tệ thành VND để gửi bằng VND hưởng chênh lệch lãi suất. Trong trường hợp tự do di chuyển vốn ra, vào trong nước, những nguồn vốn lớn từ nước ngoài sẽ đổ vào VN, cung ngoại tệ sẽ tăng lên cao làm tăng giá trị VND. Tỷ giá thực tế sẽ giảm và đưa đến nhập siêu ồ ạt. Mức gia tăng nhập khẩu đối với VN là điều kiện bảo đảm tăng cường cao. Nhưng mức gia tăng nhập khẩu phải kèm theo mức gia tăng xuất khẩu tương ứng tức là phải đảm bảo cân bằng cán cân ngoại thương. Do đó phải có cơ ché điều chỉnh linh hoạt giữa lãi suất tiền gửi bằng nội tệ và ngoại tệ, giữa lãi suất nội địa và lãi suất quốc tế phù hợp với mức độ lạm phát trong nước và diễn biến cuả thị trường quốc tế. 3. Cơ chế điều chỉnh lãi suất từ từ dần tiến tới một sự cân bằng hợp lý. Xuất phát từ đặc thù của nền kinh tế VN cũng như những tác động tâm lý của dân chúng, việc điều hành tỷ giá không được gây ra những cơn sốc. Do đó, cần phải áp dụng phương pháp điều chỉnh theo kiểu hình Sin với biên độ nhỏ theo chiều dương để tiến tới điểm cân bằng hợp lý tương đối. Khi đạt tới điểm cânbằng 39 tương đối biên độ điều chỉnh sẽ nhỏ hơn và sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào sự biến động của thị trường quốc tế. Với cách thức này sẽ hoà nhập từng bước thị trường hối đoái VN bvới thị trường hối đoái trong khu vực và trên phạm vi thế giới. 4. Điều chỉnh tỷ giá theo mức độ và cơ chếcung ứng tiền. Cơ chế cung ứng tiền nằm trong khuôn khổ hoạt động của chính sách tiền tệ. Việc tăng giảm mức cung tiền sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá, khi việc cung tiền vượt quá mức cân bằng làm giảm sức mua đồng bản tệ và ngược lại khi việc cungtiền thấp hơn mức cân bằng sẽ làm tăng sức mua của đồng bản tệ. Việc cung tiền ở đây không cần thiét phải phân biệt giữa tiền mặt và tiền ghi sổ. 40 CHƯƠNG III MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ I. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA NHNN. _ Lựa chọn chế dộ tỷ giá thả nổi có sự quản lý, điếu tiết của nhà nước là thích hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta hiện nay. Vì chế độ tỷ giá đó cho phép chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập và nó vừa theo quy luật cung cầu thị trường, vừa phát huy vai trò quản lý, điều tiết linh hoạt của nhà nước để đạt được mục tieu yêu cầu phát triển kinh tế. _ Đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng tự do hoá dần Việc tự do hoá dần cơ chế điều hành tỷ giá cần phải có những bước đi thích hợp. Tỷ giá chính thức và quy định biên độ giao dịch vẫn là công cụ điều tiết và kiểm soát tỷ giá rất hiệu quả và phù hợp với thực lực của NHNN. Để điều hành cơ chế tỷ nói trên cần phải tập chung tới các vấn đề có tính then chốt sau; + Củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng – một cơ sở hạ tầng rất quan trọng để NHNN can thiệp điều chỉnh tỷ giá. +Củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó để tạo điều kiện cho NHNN phối hợp điều hoà giữa 41 hai khu vực thị trường ngoại tệ và nội tệ một cachs thông suốt. + Nâng cao dự trữ ngoại tệ của nhà nước tương xứng với nhịp độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu và số lượng ngoai tệ đang có trên thị trường nước ta. Tập trung quản lý ngoại tệ vào một đầu mối là NHNN. Ngoại tệ của kho bạc nhà nước có được cũng phải bán cho NHNN và khi cần sử dụng thì mua lại Tại NHNN. + xác định một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá rổ ngoại tệ mạnh để làm căn cứ cho việc ấn định tỷ giá đồng VN chứ không nên chỉ neo giữ đồng vn vào đồng USD. + Có chính sách khuyến khicchs các công ty xuất nhập khẩu đa dạng hoá cơ câua tiền tệ trong giao dịch thương mại quốc tế để nâng cao sự cân đối giữa luồng cung và cầu ngoại tệ, qua đó góp phần đa dạng hoá tiền tệ của nền kinh tế một cách cân đối hơn. + Chuẩn xác hoá chỉ số kinh té vĩ mô như; lạm phát, lãi suất, thực trạng của cán can thanh toán, nợ nước ngoài, để giúp cho nhà nước lựa chọn phương án điều chỉnh tỷ giá có hiệu quả hơn. _ Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nghiêm ngặt. + Nhà nước cần xây dựng quy chế thông tin, báo cáo hệ thống hoá kịp thời số lượng luồng ngoại tệ ra vào trong nước, từ đó dự báo về quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ làm căn cứ diều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối. 42 + Quản lý chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài, đặc biệt là vay ngắn hạn. Kiểm soát chặt cchẽ việc bảo lãnh vay trả chậm của các NHTM ccho các doanh nghiệp vay từ nước ngoài. + Tổ chức tốt mạng lưới thu đổi ngoại tệ cho khách hàng. _ Phải tạo thêm nhiều phương tiện truyền tải giá trị làm phương tiện lưu thông, thanh toán để giảm bớt áp lực nhu cầu tiền mặt trong lưu thông. _ Cải cách hệ thống thanh toán, khuyến khích người dân mở tài khoản sec cá nhân và thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Từng bước tăng mệnh giá đông Việt Nam. _ Tiếp tục khép dần chênh lệch giữa lãi suất cho vay đồng ngoại tệ với lãi suất cho vay đồng bản tệ. _ Nhà nước cần xây dựng quy chế thông tin, báo cáo hệ thống hoá kịp thời số lượng luồng ngoại tệ ra vào trong nước, từ đó dự báo về quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ làm căn cứ diều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối. II. KIẾN NGHỊ Với sự hiểu biết và nguồn nhận thức có hạn, em xin đưa ra một vàI kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn cơmchế điều hành tỷ giá ở Việt Nam. a. NHNN phải là nơi cung cấp thông tin nhanh nhất hiệu quả nhất về tỷ giá, nguồn ngoại tệ …. . cũng như dự báo về tình hình diễn biến tỷ giá trong thời gian tới. 43 b. Thường xuyên thông báo tỷ giá trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm làm cho các tổ chức, các doanh nghiệp sản suất các mặt hàng xuất khẩu nắm được, đảm bảo cho quá trình giao dịch diễn ra công bằng và nhanh chóng. c. Kết hợp chính sách tỷ giá với chính sách vĩ mô khác. d. Cần phải thiết lập một biên độ dao động hợp lý để chế độ tỷ giá được mềm rẻo và linh hoạt hơn. e. Nhà nước đặc biệt ngăn cấm mọi hành vi đầu cơ gây lũng đoạn thị trường. f. NHTW cần phải can thiệp khi đồng nội tệ có nguy cơ bị phá giá nhằm bảo vệ hàng hoá trong nước hạn chế hàng hoá nhập khẩu. KẾT LUẬN Trong cơ chế thị trường, nền kinh tế Việt nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp, vì vậy mở rộng tiến tới hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực có vai trò hết sức quan trọng. Trong đó việc lựa chọn cơ chế tỷ giá phù hợp là vấn đề cần thiết và quan trọng trong chính sách tiền tệ. Thông qua tỷ giá của đồng Việt Nam được yết với các đồng tiền khác ta có thể biết nền kinh tế đang tăng trưởng hay đang suy thoái hoặc ta có thể biết được cán cân thương mại quốc tế đang thặng dư hay đang thâm hụt. Từ đó có thể đưa ra các biện pháp khắc phục bằng việc điều chỉnh tỷ giá. Cũng dựa vào công cụ tỷ giá Nhà Nước có thể thu hút 44 vốn đầu tư nước ngoài, hỗ trợ xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát……. Nhận định được tầm quan trọng của công cụ tỷ giá khi viết bài tiểu luận này em hy vọng với những biện pháp và kiến nghị trên em sẽ góp một phần nhỏ bé vào việc điều hành chính sách tỷ giá hiện nay. 45

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận Văn- Tìm hiểu về công cụ tỷ giá ở Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan