Luận văn dài 45trang, chia làm 3 chương.Được đánh giá là luận văn xuất sắc nhất khi bảo vệ trước hội đồng
PHẦN MỞ ĐẦU “Được voi đòi tiên” – Câu thành ngữ khá quen thuộc chỉ sự ham muốn những điều mà mỗi người chưa có được Xét ở khía cạnh nhu cầu giải trí, nghỉ ngơi, câu thành ngữ này dường như không là ngoại lệ.
Theo quy luật phát triển khách quan, khi đời sống xã hội được nâng cao, nhu cầu vật chất được đảm bảo, chúng ta lại đi tìm những điều mới lạ, chưa trải qua, để thỏa mãn nhu cầu giải trí, nghỉ dưỡng, Xuất phát từ nhu cầu ấy, ngành du lịch đã ra đời. Là một ngành dịch vụ, lại là “đứa con đẻ” của nhu cầu xã hội, được sự giàu có, đầy đủ về vật chất, đời sống “phôi thai” và tạo lập một hướng đi bền vững, ngành du lịch trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã, đang và sẽ phát triển mạnh mẽ với một tốc độ “thần kì”, chiếm giữ vị trí hàng đầu về sự phát triển trong các ngành kinh tế.
Ở Việt Nam – đất nước cong cong hình chữ S yêu kiều – ngành du lịch tuy chỉ mới ra đời và phát triển trong vòng quay của 50 năm thời gian, nhưng “đứa bé” du lịch ấy đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp lớn vào sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và cũng có những điều khiến chúng ta phải bàn, phải lưu tâm. Vậy với một “tuổi đời” còn khá non trẻ, du lịch Việt Nam đã “hoạt động” như thế nào? Những “cơ sở ngành” nào đã góp phần làm nên thành tựu? Đóng góp, tác động của du lịch Việt Nam ra sao? Và còn những vấn đề gì đáng để chúng ta đưa lên “bàn tròn” hội nghị? Để trả lời cho những câu hỏi trên, kính mời thầy và các bạn cùng đến với bài tiểu luận của nhóm “1Ko2” với đề tài: “Tìm hiểu về hoạt động du lịch của Việt Nam”.
Với lượng kiến thức còn khá hạn hẹp và một sự nhìn nhận còn giản đơn, không chuyên ngành, nhưng nhóm “1Ko2” hi vọng bài tiểu luận này sẽ mang đến cho quý thầy và các bạn một cái nhìn tổng quan, một sự hiểu biết chung nhất về hoạt động của du lịch Việt Nam. Vì đây là thử thách đầu môn, cũng là một trong số những bài tiểu luận đầu tay, nên dù đã rất cố gắng nhưng vẫn còn đó những điều làm nên cái không hoàn thiện. Nhóm “1Ko2” rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chia sẻ chân thành từ quý thầy và các bạn để những bài tiểu luận tới dần đạt độ sâu về nội dung, chuyên biệt về hình thức và ngày càng hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, nhóm “1Ko2” kính chúc thầy và các bạn có một thời gian “thưởng thức” bài tiểu luận thú vị và bổ ích.
PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DU LỊCH 1.1 Du lịch là gì ?
Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourist Organization) thì: Du lịch là đi đến một nơi khác xa nơi thường trú, để giải trí, nghỉ dưỡng . trong thời gian rỗi.
Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là làm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.
1.2 Vai trò của du lịch
Vai trò quan trọng của du lịch là giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, giúp con người nhanh chóng hồi phục sức khỏe và chữa bệnh. Du lịch giúp nâng cao trình độ hiểu biết, khả năng học hỏi của mỗi người.
Khi đi du lịch, các nhu cầu thường ngày: ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp, học tập, chữa bệnh, làm đẹp, đều gia tăng và có sự biến đổi cấu trúc chung của các nhu cầu. Đó là cơ hội làm giàu cho một lãnh thổ và một quốc gia. Ví dụ, bóng đá thế giới ở Mỹ (1994) tạo ra các dòng người du lịch tới Mỹ, đem về cho quốc gia này tới 4 tỉ USD lợi nhuận. Du lịch không những làm thay đổi cấu trúc chung của các nhu cầu, nó còn làm thay đổi cấu trúc thời gian của các nhu cầu. Nó tạo ra các mùa, vụ, sự tăng giảm khác nhau của nhu cầu theo thời gian trong năm. Nắm bắt được cấu trúc thời gian mà nhu cầu du lịch tạo ra cũng sẽ là cơ hội cho các nhà kinh doanh du lịch làm giàu.
Sự mua hàng hóa trực tiếp của du khách đã tạo ra khả năng xuất hàng tại chỗ của du lịch. Điều này kích thích sự phát triển của nhiều ngành sản xuất trong nước, nhất là đối với hàng hóa thủ công mỹ nghệ: đan lát, thêu, mộc, gốm sứ, tranh, ảnh, khảm, xà cừ,
Du lịch giúp tạo ra các lãnh thổ nghỉ ngơi, các vườn quốc gia, công viên du lịch, đẩy mạnh việc bảo vệ môi sinh, môi trường; là cơ sở giúp người ta bảo tồn các nền văn hóa, tôn tạo lại các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, phục hồi các khu phố cổ, phục chế các di phẩm văn hóa, đồng thời giúp giải quyết việc làm cho đa số lao động phụ ở các thành phố, thị trấn.
Du lịch là “con gà đẻ trứng vàng”, nó là chất xúc tác cho sự phát triển và đa dạng hóa các ngành nghề kinh tế.
1.3 Các loại hình du lịch chủ yếu
- Du lịch làm ăn
- Du lịch giải trí, năng động và đặc biệt
- Du lịch nội quốc, quá biên
- Du lịch tham quan trong thành phố
- Du lịch sinh thái
- Du lịch mạo hiểm, khám phá, trải nghiệm
- Du lịch hội thảo, triển lãm MICE
- Du lịch giảm stress, du lịch balo, tự túc khám phá.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn Thái. Địa lí kinh tế Việt Nam. NXB Thống Kê. 2003.
2. Đinh Trung Hiên. Một số vấn đề về du lịch Việt Nam. NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
3. Trần Đức Thanh. Nhập môn Khoa học du lịch. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 6/2005.
4. Tổng cục du lịch Việt Nam. Non nước Việt Nam. NXB Hà Nội. 9/2007
5. Nguyễn Đình Quang, Trần Thị Thúy Lan. Giáo trình Tổng quan du lịch. NXB Hà Nội. 4/2005
6. Ths. Nguyễn Thị Hoàng Oanh. Giáo trình Thống kê du lịch. NXB Hà Nội. 2005.
7. Website của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: vietnamtourism.gov.vn
8. Website của Bộ Công thương: moit.gov.vn
9. Website Môi trường du lịch: www.moitruongdulich.vn. Thuộc Tổng cục du lịch.
10. Báo điện tử Vietnamnet: vietnamnet.vn
11. Bách khoa toàn thư trực tuyến: vn.wikipedia.org
12. Diễn đàn Doanh nghiệp – Doanh nhân Việt Nam: biznews.vn
13. Báo Du lịch Việt Nam Online: dulichnet.vn
14. Thời báo kinh tế Việt Nam Online: vneconomy.vn
15. Sở Thương mại – Du lịch tỉnh Đồng Nai: trade.dongnai.gov.vn
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3017 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Tìm hiểu về hoạt động du lịch của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
“Được voi đòi tiên” – Câu thành ngữ khá quen thuộc chỉ sự ham muốn những điều mà mỗi người chưa có được… Xét ở khía cạnh nhu cầu giải trí, nghỉ ngơi,… câu thành ngữ này dường như không là ngoại lệ.
Theo quy luật phát triển khách quan, khi đời sống xã hội được nâng cao, nhu cầu vật chất được đảm bảo, chúng ta lại đi tìm những điều mới lạ, chưa trải qua,… để thỏa mãn nhu cầu giải trí, nghỉ dưỡng,… Xuất phát từ nhu cầu ấy, ngành du lịch đã ra đời. Là một ngành dịch vụ, lại là “đứa con đẻ” của nhu cầu xã hội, được sự giàu có, đầy đủ về vật chất, đời sống “phôi thai” và tạo lập một hướng đi bền vững, ngành du lịch trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã, đang và sẽ phát triển mạnh mẽ với một tốc độ “thần kì”, chiếm giữ vị trí hàng đầu về sự phát triển trong các ngành kinh tế.
Ở Việt Nam – đất nước cong cong hình chữ S yêu kiều – ngành du lịch tuy chỉ mới ra đời và phát triển trong vòng quay của 50 năm thời gian, nhưng “đứa bé” du lịch ấy đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp lớn vào sự phát triển của nền kinh tế - xã hội … và cũng có những điều khiến chúng ta phải bàn, phải lưu tâm. Vậy với một “tuổi đời” còn khá non trẻ, du lịch Việt Nam đã “hoạt động” như thế nào? Những “cơ sở ngành” nào đã góp phần làm nên thành tựu? Đóng góp, tác động của du lịch Việt Nam ra sao? Và còn những vấn đề gì đáng để chúng ta đưa lên “bàn tròn” hội nghị? Để trả lời cho những câu hỏi trên, kính mời thầy và các bạn cùng đến với bài tiểu luận của nhóm “1Ko2” với đề tài: “Tìm hiểu về hoạt động du lịch của Việt Nam”.
Với lượng kiến thức còn khá hạn hẹp và một sự nhìn nhận còn giản đơn, không chuyên ngành,… nhưng nhóm “1Ko2” hi vọng bài tiểu luận này sẽ mang đến cho quý thầy và các bạn một cái nhìn tổng quan, một sự hiểu biết chung nhất về hoạt động của du lịch Việt Nam. Vì đây là thử thách đầu môn, cũng là một trong số những bài tiểu luận đầu tay, nên dù đã rất cố gắng nhưng vẫn còn đó những điều làm nên cái không hoàn thiện. Nhóm “1Ko2” rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chia sẻ chân thành từ quý thầy và các bạn để những bài tiểu luận tới dần đạt độ sâu về nội dung, chuyên biệt về hình thức và ngày càng hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, nhóm “1Ko2” kính chúc thầy và các bạn có một thời gian “thưởng thức” bài tiểu luận thú vị và bổ ích.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DU LỊCH
Du lịch là gì ?
Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourist Organization) thì: Du lịch là đi đến một nơi khác xa nơi thường trú, để giải trí, nghỉ dưỡng... trong thời gian rỗi.
Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là làm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.
Vai trò của du lịch
Vai trò quan trọng của du lịch là giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, giúp con người nhanh chóng hồi phục sức khỏe và chữa bệnh. Du lịch giúp nâng cao trình độ hiểu biết, khả năng học hỏi của mỗi người.
Khi đi du lịch, các nhu cầu thường ngày: ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp, học tập, chữa bệnh, làm đẹp,… đều gia tăng và có sự biến đổi cấu trúc chung của các nhu cầu. Đó là cơ hội làm giàu cho một lãnh thổ và một quốc gia. Ví dụ, bóng đá thế giới ở Mỹ (1994) tạo ra các dòng người du lịch tới Mỹ, đem về cho quốc gia này tới 4 tỉ USD lợi nhuận. Du lịch không những làm thay đổi cấu trúc chung của các nhu cầu, nó còn làm thay đổi cấu trúc thời gian của các nhu cầu. Nó tạo ra các mùa, vụ, sự tăng giảm khác nhau của nhu cầu theo thời gian trong năm. Nắm bắt được cấu trúc thời gian mà nhu cầu du lịch tạo ra cũng sẽ là cơ hội cho các nhà kinh doanh du lịch làm giàu.
Sự mua hàng hóa trực tiếp của du khách đã tạo ra khả năng xuất hàng tại chỗ của du lịch. Điều này kích thích sự phát triển của nhiều ngành sản xuất trong nước, nhất là đối với hàng hóa thủ công mỹ nghệ: đan lát, thêu, mộc, gốm sứ, tranh, ảnh, khảm, xà cừ,…
Du lịch giúp tạo ra các lãnh thổ nghỉ ngơi, các vườn quốc gia, công viên du lịch,… đẩy mạnh việc bảo vệ môi sinh, môi trường; là cơ sở giúp người ta bảo tồn các nền văn hóa, tôn tạo lại các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, phục hồi các khu phố cổ, phục chế các di phẩm văn hóa,… đồng thời giúp giải quyết việc làm cho đa số lao động phụ ở các thành phố, thị trấn.
Du lịch là “con gà đẻ trứng vàng”, nó là chất xúc tác cho sự phát triển và đa dạng hóa các ngành nghề kinh tế.
Các loại hình du lịch chủ yếu
Du lịch làm ăn
Du lịch giải trí, năng động và đặc biệt
Du lịch nội quốc, quá biên
Du lịch tham quan trong thành phố
Du lịch sinh thái
Du lịch mạo hiểm, khám phá, trải nghiệm
Du lịch hội thảo, triển lãm MICE
Du lịch giảm stress, du lịch balo, tự túc khám phá.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM
Lịch sử phát triển ngành
Từ 1960 đến 1975, Hội đồng Chính phủ ban hành nghị định số 20/CP ngày 9/7/1960 thành lập công ty du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương; năm 1969, chức năng này chuyển về Phủ thủ tướng; sau đó chuyển sang Bộ Công an. Ngành du lịch đã từng bước mở rộng nhiều cơ sở du lịch ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An,… Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, hoạt động du lịch dần trải rộng ra các miền trên toàn quốc. Ngành du lịch chuyển dần sang cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Từ 1975 đến 1990, ngành du lịch đã làm tốt nhiệm vụ tiếp quản, bảo toàn và phát triển các cơ sở du lịch ở các tỉnh, thành phố vừa giải phóng; lần lượt mở rộng, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới từ Huế, Đà Nẵng, Bình Định, đến Nha Trang, Lâm Đồng, TP.HCM, Vũng Tàu, Cần Thơ,… từng bước thành lập các doanh nghiệp du lịch nhà nước trực thuộc Tổng cục du lịch và UBND tỉnh, thành phố và đặc khu. Tháng 6/1978, Tổng cục du lịch Việt Nam được thành lập trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Trong giai đoạn này, du lịch đã góp phần tích cực tuyên truyền, giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới và tổ chức cho nhân dân đi du lịch giao lưu 2 miền Nam – Bắc, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc.
Giai đoạn 1990 đến 2005, ngành du lịch vươn lên đổi mới quản lí và phát triển, đạt được những thành quả quan trọng, ngày càng tăng quy mô và chất lượng. Chỉ thị 46/CP – TƯ của Ban Bí thư trung ương Đảng khóa VII tháng 10/1994 khẳng định “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước”. Cơ chế chính sách phát triển du lịch từng bước được hình thành, nâng cao hiệu lực quản lí. Sau 2 năm sáp nhập vào Bộ Văn hóa – Thông tin rồi vào Bộ Thương mại, tháng 11/1992, Tổng cục du lịch đã nhanh chóng củng cố, ổn định tổ chức bộ máy để thực hiện tốt chức năng quản lí nhà nước về du lịch từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố. Ngày 27/6/2005, Luật du lịch được Quốc hội thông qua.
Từ 2006 đến nay, ngành du lịch Việt Nam dần dần hoàn thiện, sẵn sàng bước vào sân chơi quốc tế.
Tiềm năng và thách thức
Tiềm năng
Việt Nam không phải là một quốc gia nằm sâu trong nội lục mà nước ta tựa lưng vào một khối lục địa lớn nhất thế giới, ngoảnh ra một đại dương rộng lớn nhất hoàn cầu, khách du lịch từ nước ngoài có thể tới Việt Nam từ nhiều phía với nhiều phương tiện khác nhau.
Lịch sử kiến tạo địa chất qua nhiều niên đại đã chạm khắc nên bộ mặt lãnh thổ nước ta nhiều đường nét hình khối độc đáo và không đơn điệu: núi trẻ và núi già, núi đất và núi đá, cao nguyên cổ, đồng bằng phù sa mới, các vết đứt gãy và hang động, thềm lục địa và hải đảo. Đặc biệt địa hình Việt Nam với 3/4 là đồi núi và địa hình bờ nước là những tài nguyên có giá trị. Địa hình đá vôi phân bố rộng khắp từ vĩ tuyến 160 trở lên với nhiều hệ thống hang động như: Phong Nha, Hương Tích, Bích Động,... Đặc biệt hơn cả là địa hình núi và hang động ngập nước nhiệt đới điển hình ở Vịnh Hạ Long mà giá trị của nó đã góp phần làm cho địa danh này được ghi tên vào danh sách các di sản thiên nhiên thế giới.
Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có khí hậu ổn định, chênh lệch nhiệt độ trong ngày và giữa các mùa không cao, dồi dào tiềm năng về du lịch chữa bệnh nên được du khách rất ưa thích. Đặc biệt những du khách đến từ xứ lạnh hay đến Việt Nam để tránh rét, những du khách đến từ xứ nóng tìm đến các “phòng lạnh thiên nhiên” như: Đà Lạt, Sa Pa, Tam Đảo,…
Việt Nam là quốc gia đứng thứ 27 trong số 106 quốc gia có biển trên thế giới với 125 bãi tắm biển, trong đó hầu hết là các bãi tắm đẹp và thuận lợi cho khai thác du lịch. Ngoài ra, theo các nhà địa chất thủy văn Việt Nam, ở nước ta có trên 400 điểm nước khoáng có giá trị du lịch như Kim Bôi (Hòa Bình), Quang Hanh (Quảng Ninh), suối nước nóng Bình Châu (Bà Rịa – Vũng Tàu), Tháp Bà (Nha Trang),...
Việt Nam có hơn 40000 di sản văn hóa vật thể và bất động sản (đình chùa, miếu đền, thành quách, lăng mộ,…). Tính đến tháng 4/2004, VN có 2741 di tích, thắng cảnh được xếp hạng quốc gia (trong đó có 1322 di tích lịch sử, 1263 di tích kiến trúc nghệ thuật, 54 di tích khảo cổ và 102 di tích thắng cảnh). Đặc biệt, Việt Nam có 6 di sản được UNESCO công nhận di sản thế giới, đó là: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh, 2 lần công nhận), vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình), cố đô Huế, phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam). Tính đến năm 2007, Việt Nam được UNESCO công nhận 6 “khu dự trữ sinh quyển thế giới” đó là: Cát Bà (Hải Phòng), khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng trên địa bàn 2 huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Giao Thủy (Nam Định), Cần Giờ (TPHCM), vườn quốc gia Cát Tiên thuộc địa bàn tỉnh Đồng Nai, biển Kiên Giang và khu vực Tây Nghệ An. Việt Nam là 1 trong hơn 20 quốc gia có vịnh “đẹp nhất thế giới”, đó là: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và vịnh Nha Trang (Khánh Hòa).
Ngoài các tiềm năng có sẵn, du lịch Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để thu hút khách quốc tế: Việt Nam được xem là một trong những nước có điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội được đảm bảo. Hơn nữa, đồng USD cũng như các ngoại tệ khác đang tăng giá so với tiền đồng Việt Nam.
Chính phủ dành nhiều ngân sách và ưu tiên cho việc phát triển du lịch. Tính riêng năm 2007, nhà nước đã hỗ trợ đầu tư 750 tỷ đồng cho 59 tỉnh, thành phố phát triển hạ tầng du lịch.
Nhìn chung, du lịch Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Những năm gần đây, ngành du lịch đã và đang thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước, góp phần quan trọng trong cơ cấu thu nhập quốc dân. Mặt khác, bên cạnh những nỗ lực trong việc xây dựng thêm nhiều sản phẩm du lịch hấp dẫn, ngành du lịch đang cố gắng nhằm tạo ra thuận lợi để ngày càng nhiều du khách có dịp khám phá các điểm đến của non nước Việt Nam.
Thách thức
Do nằm ở vị trí địa lý đặc biệt nên nước ta thường xuyên xảy ra thiên tai, dịch bệnh làm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển chung của toàn ngành.
Du lịch Việt Nam vẫn còn một khoảng cách khá xa với các nước du lịch phát triển trong khu vực, bộc lộ rõ nét các hạn chế về chất lượng phục vụ, sản phẩm du lịch nghèo nàn, đơn điệu nhưng giá cả du lịch lại cao; cơ sở hạ tầng không theo kịp tốc độ phát triển. Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI, trong năm 2007 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt trên 4 triệu lượt. Chỉ tính riêng 5 tháng đầu năm 2008, lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 2.078.954 lượt. Tuy nhiên, số lượng khách sạn, nhà nghỉ tại Việt Nam không đủ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, thậm chí là quá kém so với thế giới và khu vực.
Thiếu nguồn nhân lực hoạt động trong ngành du lịch một cách trầm trọng, ấy là chưa kể đến trình độ, kĩ năng chuyên môn của nguồn nhân lực này. Đặc biệt là đội ngũ hướng dẫn viên vừa thiếu vừa yếu trong kĩ năng giao tiếp, ngoại ngữ, hiểu biết kiến thức về văn hóa – xã hội, tâm lí khách hàng. Trong đó trình độ ngoại ngữ là yếu nhất, năm 2006, 32% lao động dịch vụ trực tiếp biết tiếng Anh ở mức độ khác nhau, tiếng Pháp 3,2%; Trung Quốc 3,6%; hướng dẫn viên ở 2 thị trường khá lớn là Nhật Bản và Hàn Quốc chưa tương xứng. Ngành du lịch Việt Nam mới bắt đầu hội nhập, vừa hợp tác vừa tìm hiểu cơ chế và luật chơi quốc tế nên khả năng chủ động đưa ra các dự án hợp tác còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, các doanh nghiệp du lịch Việt Nam, nhất là các đơn vị lữ hành dễ rơi vào tình trạng phụ thuộc và trở thành “người làm thuê” cho các doanh nghiệp nước ngoài. Đa phần các doanh nghiệp du lịch nước ta thuộc loại vừa và nhỏ, nên khi hòa mình vào sân chơi mới cùng thế giới, các doanh nghiệp phải gánh trên vai áp lực nặng nề.
Luật du lịch Việt Nam vừa mới được ban hành và có hiệu lực, do vậy Luật chưa thể “đáp ứng” được so với tình hình thực tế luôn thay đổi. Thủ tục hành chính và hệ thống hạ tầng yếu kém vẫn là rào cản với các nhà đầu tư bất động sản du lịch. Ông Macr Townsend, giám đốc điều hành CBRE Việt Nam nhận định: “Xét về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, Việt Nam hiện nay vẫn chưa bằng BaLi cách đây 28 năm”. Một nhà đầu tư khác cho biết: “Chúng tôi mất khoảng 3 – 6 tháng để chờ duyệt hồ sơ đăng kí đầu tư, rồi 3 năm để mua được đất, sau đó thì thêm vài năm nữa để chờ đợi quá trình giải tỏa mặt bằng, đền bù,… để có được đất “sạch”. Quá trình này quá mệt mỏi!”. Cộng với việc lãi suất ngân hàng Việt Nam cao nhất nhì thế giới cũng là một bất lợi cho các nhà đầu tư.
Những đợt quảng bá, xúc tiến du lịch Việt Nam tại các thị trường ngoài nước ít có hiệu quả do thiếu trọng tâm và quá trình khảo sát, nghiên cứu thị trường trước đó chưa liên tục, ít đổi mới, sáng tạo về hình thức, do vậy dễ chìm khuất, không gây ấn tượng; sản phẩm du lịch của Việt Nam còn nghèo nàn, “thô” thì có mà “tinh” thì không. Ngành du lịch chưa khai thác hết tiềm năng của điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa. Nguy cơ hủy hoại môi trường và cảnh quan du lịch cao nếu không có sự quan tâm đúng mức và những biện pháp quản lí có hiệu quả từ phía nhà nước.
Đầu tư du lịch một cách tràn lan, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ làm theo ý mình mà không xin ý kiến chuyên gia, khiến khách du lịch thất vọng. Các doanh nghiệp làm du lịch chỉ quan tâm đến lợi ích mà họ có được, thiếu ý thức, hiểu biết, kém năng động, chỉ có xu hướng moi tiền khách mà không thích cung cấp hay phục vụ.
Du lịch Việt Nam bên cạnh những cái thiếu đã nêu, gặp phải một cái thiếu cơ bản của nền kinh tế là: Vốn – thiếu vốn, các doanh nghiệp du lịch Việt Nam không đủ năng lực tài chính, dẫn đến khả năng khai thác thị trường trong nước, khu vực và thế giới còn yếu.
Việt Nam phát triển du lịch như thế nào?
45 năm đầu phát triển (1960 – 2005)
Được Đảng và nhà nước xác định là “Một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” với mục tiêu: “Phát triển mạnh du lịch, từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực”, du lịch Việt Nam trong 45 năm đầu phát triển tuy còn non trẻ nhưng hoạt động khá sôi nổi.
Nhìn chung, giai đoạn từ tháng 10/1992 trở về trước, hệ thống tổ chức bộ máy ngành Du lịch chưa thực sự định hình, trong 32 năm (1960 - 1992) đã có 6 lần chuyển đổi. Vì vậy sự chỉ đạo trực tiếp của bộ máy quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương xuống các tỉnh, thành phố và doanh nghiệp mất tính liên tục và kế thừa dẫn đến tình trạng lỏng lẻo, hiệu quả kinh doanh không cao và ngành du lịch tụt hậu so với du lịch các nước có điều kiện tương đồng. Trước thực tế đó, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, ngày 17/10/1992, Chính phủ đã có Nghị đinh số 05/CP thành lập lại Tổng cục Du lịch; tiếp đó có Nghị định số 20-CP, ngày 27/12/1992 và Nghị định số 53-CP, ngày 07/8/1995, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Nhờ ổn định và từng bước được kiện toàn về tổ chức, du lịch nước ta mới khởi sắc và phát triển.
Bênh cạnh đó, chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 – 2010 và Chương trình hành động quốc gia về Du lịch giai đoạn 2006-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật Du lịch để điều chỉnh các quan hệ Du lịch ở tầm cao hơn; khẳng định một lần nữa vị thế của ngành Du lịch ngay từ trong đường lối, chính sách và thể chế.
Lực lượng kinh doanh du lịch phát triển mạnh, thích nghi dần với cơ chế mới, từng bước làm ăn có hiệu quả: Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của cả 6 thành phần kinh tế (nhà nuớc; tập thể; cá thể, tiểu chủ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước; 100% vốn nước ngoài). Tính đến năm 2005, cả nước đã có khoảng 6.000 cơ sở kinh doanh lưu trú; 399 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, trong đó có 203 doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, 124 doanh nghiệp nhà nước, 63 doanh nghiệp cổ phần, 8 liên doanh và 2 doanh nghiệp tư nhân.
Trong 5 năm (2001 – 2005), Chính phủ đã cấp 2.146 tỷ đồng hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch ở các khu du lịch trọng điểm. Cùng với đầu tư của Nhà nước và các thành phần kinh tế trong nước, ngành Du lịch đã thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến năm 2005 cả nước có 190 dự án với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 4,64 tỷ USD, ở 29 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Bảng 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời kỳ 1995 – 2004
Năm
1995
2000
2001
2002
2003
2004
Thời kỳ1995- 2004
Số dự án
24
02
04
25
13
15
83
Vốn (Triệu USD)
1.381,2(3)
22,8
10,3
174,2
239
111,17
1.938,67
(3) Tính đến năm 1995
Nguồn: Tổng cục Du lịch
Công tác xúc tiến quảng bá được chú trọng hơn: Đã thành lập Cục Xúc tiến Du lịch; tính chuyên nghiệp được nâng dần; chất lượng tổ chức các sự kiện tốt hơn. Tổng cục Du lịch đã chủ động phối hợp với Hàng không Việt Nam, các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Văn hóa – Thông tin, các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh truyền hình, tổ chức nhiều sự kiện xúc tiến du lịch ở nước ngoài. Với nỗ lực mở rộng hợp tác quốc tế, Du lịch Việt Nam đã ký và thực hiện tốt 26 hiệp định hợp tác du lịch song phương với các nước là thị trường du lịch trọng điểm và trung tâm giao lưu quốc tế, tăng cường hợp tác du lịch với các nước khác; ký Hiệp định hợp tác du lịch đa phương 10 nước ASEAN; tham gia chủ động hơn trong hợp tác du lịch Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng, hợp tác hành lang Đông – Tây, hợp tác sông Mêkông – sông Hằng, hợp tác ASEAN, APEC, hợp tác trong Hiệp hội du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (PATA), trong Tổ chức Du lịch thế giới (WTO)…; có quan hệ bạn hàng với 1.000 hãng của 60 nước và vùng lãnh thổ.
45 năm phát triển, du lịch đã đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng cao, lượng khách du lịch hàng năm tăng, nhiều năm vượt chỉ tiêu đề ra. Từ năm 1990 đến 2005, lượng khách du lịch luôn duy trì được mức tăng trưởng cao 2 con số (trung bình năm trên 20%)
Bảng 2 Số lượng khách du lịch hàng năm
Chỉ tiêu
1990
1995
2000
2001
2002
2003(4)
2004
Khách quốc tế (triệu lượt)
0,25
1,35
2,14
2,33
2,62
2,43
2,93
Khách nội địa (triệu lượt)
1,0
6,9
11,2
11,7
13,0
13,5
14,5
(4) Năm 2003, do ảnh hưởng của dịch SARS nên các chỉ tiêu du lịch giảm so với năm 2002. Năm 2004 chỉ tiêu tăng trưởng du lịch đã phục hồi và vượt mức trước SARS
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Từ đó, Du lịch mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội, năm 1990 thu nhập xã hội từ du lịch mới đạt 1.350 tỷ đồng thì đến năm 2004, con số đó đã là 26.000 tỷ đồng, gấp 20 lần. Riêng năm 2005, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, song hoạt động du lịch vẫn diễn ra sôi động: ngành Du lịch đón được khoảng 3,43 triệu lượt khách quốc tế, vượt chỉ tiêu kế hoạch 7% và tăng 17% so với năm 2004; Khách du lịch nội địa đạt trên 16 triệu lượt người, vượt chỉ tiêu 7% và tăng 11% so với kế hoạch năm 2004.
Tóm lại, trong giai đoạn này, được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp của các cấp, các ngành, cùng với sự hưởng ứng của nhân dân và hỗ trợ quốc tế, du lịch Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, từng bước hội đủ điều kiện của một ngành kinh tế mũi nhọn.
Từ 2006 đến nay
Sau khi Luật du lịch được thông qua và Việt Nam gia nhập WTO thì du lịch Việt Nam đã vươn lên, tham gia chủ động dần trong hội nhập du lịch quốc tế, tiếp tục thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch nhiều mặt với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới. Du lịch nước ta là thành viên của Tổ chức du lịch thế giới, Hiệp hội du lịch Châu Á – Thái Bình Dương, Hiệp hội du lịch Đông Nam Á và phát huy được vai trò, quyền lợi hội viên. Nhờ thế đã tranh thủ được vốn, kinh nghiệm, công nghệ, nguồn khách để phát triển, đồng thời tham gia đầu tư ra nước ngoài, chủ yếu là kinh doanh ăn uống ở các nước láng giềng, Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ. Việc Tổng cục du lịch được nâng lên cấp Bộ, mở ra cho du lịch Việt Nam một tương lai mới.
Năm 2006 là năm đầu thực hiện Kế hoạch 5 năm giai đoạn 2006 – 2010, du lịch Việt Nam có nhiều sự kiện quan trọng như: Năm du lịch quốc gia 2006 với chủ đề “Quảng Nam: một điểm đến, hai di sản thế giới”, tổ chức thành công Hội nghị bộ trưởng du lịch trong khuôn khổ APEC, Festival Huế, … Mức tăng trưởng tăng 20%, ước khoảng 36 nghìn tỷ đồng, lượng khách quốc tế ước đạt 3,6 triệu lượt, tăng 3% so với năm 2005. Các thị trường chính đưa khách đến Việt Nam: Hàn Quốc tăng 29,4%; Nhật Bản tăng 14,3%; Mỹ tăng 16,8%; Canada tăng 15%; Đức tăng 10,6%.
Năm 2007 được coi là năm thành công của du lịch Việt Nam: lượng khách du lịch đến với Việt Nam mục đích đơn thuần là du lịch tăng 26%, khách thương mại 16%, khách thăm người thân tăng 9%, khách đến với mục đích khác giảm 10%. Tổng cộng khách du lịch quốc tế đạt 4,2 triệu lượt (tăng 18% so với năm 2006) cụ thể, lượng khách Tây Âu: Pháp tăng 42%, Đức tăng 32%, Anh xấp xỉ 28%; thị trường Đông Bắc Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan với tổng lượng khách 1,2 triệu lượt chiếm 30% tổng lượng khách du lịch quốc tế. Khách nội địa tăng 9,7% so với năm 2006 (19,2 triệu lượt). Trong năm, nhiều hoạt động du lịch đã được diễn ra: Năm Du lịch quốc gia Thái Nguyên với chủ đề “Về thủ đô gió ngàn – chiến khu Việt Bắc”, tổ chức thành công hội nghị bộ trưởng 3 nước Việt Nam – Lào – Campuchia bên lề hội chợ du lịch quốc tế tại TPHCM, lần đầu tiên du lịch Việt Nam được quảng bá chính thức trên kênh truyền hình CNN, Vịnh Hạ Long được nhiều người bình chọn vào nhóm “kì quan thiên nhiên thế giới”, Festival Hoa Đà Lạt được tổ chức thành công. Thu nhập xã hội về du lịch ước đạt 56 nghìn tỷ đồng (tăng 9,8%), đưa mức tăng trưởng du lịch lên từ 16% lên 18% đổi với khách quốc tế, 11% với khách trong nước
Năm 2008, Ngành du lịch tiếp tục phát triển, nhưng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên lượng khách quốc tế có phần chững lại. Khách du lịch đến Việt Nam vì công việc tăng mạnh (trên 34% so với cùng kì năm 2007), lượng khách đến với mục đích du lịch tăng nhẹ (2,71% so với cùng kì năm 2007). Du khách tại các thị trường gần như Philippine, Trung Quốc vẫn chọn Việt Nam làm điểm điến. Tuy nhiên một số thị trường xa lại có xu hướng giảm xuống, trong đó: Hàn Quốc tăng 0,49%; Tây Ban Nha giảm 9,4%; Italia giảm 8,8%; Pháp giảm 2,5%; Hà Lan giảm 26% (so với cùng kì năm 2007). Trong 9 tháng đầu năm 2008, lượng khách quốc tế ước đạt 3,3 triệu lượt, tăng 5,8% so với cùng kì năm 2007. Năm 2008, ngành du lịch Việt Nam tổ chức nhiều sự kiện đặc sắc, hấp dẫn: năm Du lịch quốc gia “Miệt vườn sông nước Cửu Long”, chương trình “Du lịch về cội nguồn 2008” tổ chức tại Phú Thọ - Yên Bái - Lào Cai, Festival Huế với chủ đề “Di sản văn hóa với hội nhập và phát triển”, lần đầu tiên cuộc thi hoa hậu hoàn vũ thế giới được tổ chức tại Nha Trang – Khánh Hòa và cuộc thi hoa hậu du lịch Việt Nam được tổ chức tại TPHCM,…
Các loại hình du lịch chủ yếu ở Việt Nam
Du lịch sinh thái: Vịnh Hạ Long, động Phong Nha, các vườn quốc gia,…
Du lịch khảo sát, mạo hiểm, thể thao: đỉnh Phan Xi Păng, dãy Lang Biang (Đà Lạt), thác Bản Dốc (Cao Bằng), biển Nha Trang,…
Du lịch truyền thống dân tộc, lịch sử văn hóa, nghệ thuật: phố cổ Hội An, cung đình Huế, các làng nghề truyền thống,…
Du lịch nghỉ ngơi, chữa bệnh, vui chơi, giải trí: Đà Lạt, Vũng Tàu,…
Du lịch kinh doanh
Du lịch tổng hợp nhiều mục đích tùy theo nhóm khách.
Tác động của du lịch
Đối với kinh tế
Chưa có con số thống kê chính thức nhưng chắc chắn ngành công nghiệp không khói này đã đem lại hàng triệu việc làm cho người lao động. Với đà tăng trưởng xấp xỉ 20% trong những năm gần đây, doanh thu của toàn ngành ước tính đạt khoảng 30 ngàn tỷ đồng/năm. Một dẫn chứng cụ thể là lượng ngoại tệ thu được từ chi tiêu của khách quốc tế năm 2005 đạt 2,3 tỷ USD, năm 2006 đạt 2,85 tỷ USD, năm 2007 đạt 3,33 tỷ USD. Qua đó du lịch Việt Nam đã đóng góp 3,7% vào tổng sản phẩm xã hội. Du lịch phát triển kéo theo sự phát triển của rất nhiều ngành, nghề: hàng không, giao thông đường bộ, khách sạn, thủ công mỹ nghệ,…
Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác dụng biến đổi cán cân thu chi của khu vực và đất nước. Khi khu vực nào đó trở thành một điểm du lịch, du khách từ mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hóa tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số lượng lớn vật tư, hàng hóa có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức đẹp và hấp dẫn yêu cầu các doanh nghiệp phải đầu tư trang thiết bị hiện đại, sử dụng công nhân có tay nghề cao. Du lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng mà không phải qua nhiều khâu nên tiết kiệm được lao động, đồng thời kích thích sản xuất và tiêu dùng.
Tuy nhiên du lịch cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực, rõ ràng nhất là tình trạng lạm phát cục bộ hay giá cả hàng hóa tăng cao, nhiều khi vượt quá khả năng chi tiêu của người dân địa phương, nhất là của những người mà thu nhập của họ không liên quan đến du lịch.
Đối với môi trường
Sự phát triển nhanh chóng của du lịch thời gian qua đã góp phần tích cực vào sự ổn định và bền vững của môi trường. Du lịch phát triển làm tăng hiệu quả sử dụng quỹ đất nhờ sử dụng đất còn trống hoặc đất sử dụng không hiệu quả; giảm sức ép do khai thác tài nguyên quá mức từ các hoạt động dân sinh, kinh tế; đảm bảo chất lượng nước trong và ngoài khu vực phát triển du lịch nếu như các giải pháp kĩ thuật trong cấp thoát nước được áp dụng; bảo tồn và tăng thêm mức độ đa dạng sinh học tại các điểm du lịch. Ngoài ra du lịch còn góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục môi trường – một vấn đề mà thế giới đang hết sức quan tâm.
Bên cạnh những tác động tích cực, hoạt động du lịch đã có những tác động tiêu cực nhất định: tại nhiều khu vực do tốc độ phát triển du lịch quá nhanh vượt ngoài khả năng và nhận thức nên đã tạo sức ép lớn đến khả năng đáp ứng của môi trường và thiên nhiên, gây ô nhiễm cục bộ và nguy cơ suy thoái lâu dài, góp phần làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường đất, nước; phát triển du lịch còn làm tăng thêm sức ép lên quỹ đất tại các vùng vốn đã rất hạn chế; các hệ sinh thái và môi trường rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương,…
Đối với văn hóa
Du lịch phát triển là điều kiện tốt để bảo tồn, nâng cao giá trị và khôi phục các di sản kiến trúc, nghệ thuật, vật thể và phi vật thể, văn hóa thủ công mỹ nghệ, trang phục, phong tục truyền thống,…
Hoạt động du lịch cũng gây những tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa ở một số khu vực. Cụ thể: các giá trị văn hóa truyền thống của nhiều cộng đồng dân cư trên các vùng núi cao thường khá đặc sắc nhưng rất dễ bị biến đổi do tiếp xúc với các nền văn hóa xa lạ, do xu hướng thị trường hóa các hoạt động văn hóa, do mâu thuẫn nảy sinh khi phát triển du lịch hoặc do tương phản về lối sống; để thỏa mãn nhu cầu của du khách, vì lợi ích kinh tế to lớn trước mắt nên các hoạt động văn hóa truyền thống bị lôi ra trình diễn một cách thiếu tự nhiên, không chuyên nghiệp hoặc làm trò cười cho du khách, cộng với việc các mặt hàng truyền thống được sản xuất cẩu thả làm méo mó giá trị chân thực, làm sai lệch hình ảnh của một nền văn hóa bản địa; các di sản văn hóa, lịch sử, khảo cổ thường được xây dựng bằng các vật liệu dễ bị hủy hoại, lại phải chịu thêm tác động của khách du lịch tới thăm; các hoạt động du lịch chuyên đề như khảo cổ học có thể nảy sinh mâu thuẫn với các hoạt động tín ngưỡng ở địa phương.
Đối với xã hội
Đối với xã hội, du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khỏe và tăng cường sức sống cho người dân. Trong một chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Khi đi du lịch, mọi người có điều kiện tiếp xúc, gần gũi nhau hơn, tăng thêm tình đoàn kết và vốn sống. Những chuyến tham quan tại các di tích lịch sử, các công trình văn hóa có tác dụng giáo dục tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc. Du lịch còn đóng góp rất lớn cho các họat động xã hội.
Bản chất của hoạt động du lịch là giao lưu, tiếp xúc giữa các cá thể, cộng đồng có thế giới quan không phải luôn luôn đồng nhất. Quá trình giao tiếp này cũng là môi trường để các ảnh hưởng tiêu cực thâm nhập vào xã hội một cách nhanh chóng như: nạn nghiện hút, mại dâm, trộm cướp,… Do có cách nhìn nhận về đạo đức khác nhau, một số du khách không thấy những hành động, cử chỉ, cách ăn mặc,… của mình là không phù hợp với phong tục truyền thống của cư dân nơi đến du lịch, điều này sẽ tác động xấu đến nhận thức của giới trẻ.
Đối với an ninh, chính trị
Trước hết phải khẳng định du lịch là chiếc cầu nối hòa bình giữa các dân tộc trên thế giới. Hoạt động du lịch giúp cho các dân tốc xích lại gần nhau hơn, hiểu hơn về giá trị văn hóa của đất nước bạn.
Tất nhiên không phải không có những ảnh hưởng tiêu cực của du lịch về mặt an ninh trật tự và an toàn xã hội. Du lịch là con đường mà các thế lực phản động thường hay sử dụng để tuyên truyền, kích động. Đội lốt du khách, có những kẻ đã thâm nhập sâu vào nước đến để móc nối, xây dựng cơ sở.
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN
Những điều chưa đạt được
Quá trình quy hoạch phát triển du lịch chưa được giám sát và điều chỉnh, đặc biệt là quy hoạch quản lí tài nguyên. Hiện nay đang có tình trạng mạnh ai nấy làm, chỗ nào cũng thấy cần làm du lịch, do lợi ích nhiều mặt và to lớn của du lịch nên các địa phương đều tung ra làm du lịch. Quy hoạch du lịch bị chồng lấn, giằng xé bởi những quy hoạch khác: quy hoạch khai thác cá, quy hoạch cảng, quy hoạch tài nguyên,… Rõ ràng, nếu quy hoạch du lịch không triển khai thì chẳng ảnh hưởng gì đến các quy hoạch khác nhưng nếu những quy hoạch ấy không làm ngay thì sẽ ảnh hưởng đến doanh thu du lịch và ảnh hưởng cả môi trường tự nhiên và xã hội.
Hiện nay, chúng ta có đội ngũ 800.000 lao động trực tiếp và gián tiếp trong ngành. Mục tiêu khiêm tốn mà ngành thông qua là 1,4 triệu lao động vào năm 2010. Nhưng 50% nguồn nhân lực hiện tại lại chưa được đào tạo, chưa có kĩ năng nghiệp vụ.
Chất lượng sản phẩm du lịch đến nay vẫn rất “đơn giản”, thiếu sự đầu tư trong việc tạo ra các sản phẩm đặc thù để tạo dấu ấn cho du khách. Du lịch Việt Nam có tiềm năng rất lớn, các sản phẩm du lịch đa phần còn hoang sơ, chưa bị biến dạng, chưa bị ô nhiễm như những nước có nền du lịch phát triển ồ ạt. Thế nhưng, những nguy cơ ấy đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam.
Vấn đề quảng bá xúc tiến cho du lịch trong những năm gần đây đã được chú trọng, nhưng hiệu quả không cao. Ngay đến bây giờ, Việt Nam vẫn chưa có một văn phòng đại diện quốc gia nào về du lịch ở nước ngoài. Hoạt động quảng bá mới chỉ dừng lại ở mức tham gia các liên hoan, hội chợ và tổ chức các chương trình xúc tiến riêng lẻ chứ chưa có những chiến dịch dài hơi, đầu tư và chuẩn bị kĩ lưỡng về nội dung với sự tham gia tổng lực của nhiều ngành như một số nước trong khu vực đã và đang thực hiện. Chính vì vậy, có những liên hoan, lễ hội diễn ra khá lãng phí do không mang lại hiệu quả quảng bá như mong muốn.
Hiện Việt Nam vẫn chưa có một công trình du lịch nào đáng tầm cỡ để thu hút khách, cộng với sự đầu tư không chú trọng đến tính lâu dài nên lượng khách du lịch quốc tế quay lại Việt Nam lần 2 chỉ đạt 30%. Bãi biển đầy rác, nhà vệ sinh kém chất lượng, những kẻ móc túi, ăn xin, người bán hàng rong có những hành động thiếu văn hóa như chèo kéo, chửi bới,… Chính những điều này đã tạo ra hiện tượng “một đi không trở lại” của khách du lịch.
Thực tế đang có hiện tượng người nước ngoài đưa khách nước họ đi du lịch Việt Nam mà không thông qua đơn vị làm du lịch nước ta, thậm chí họ còn tự hướng dẫn cho khách. Hiện tượng này xảy ra một phần do công tác quản lí còn lỏng lẻo, bên cạnh thủ tục hành chính rườm rà.
Các công ty du lịch vẫn tồn tại kiểu kinh doanh thiếu lành mạnh, chưa có sự đồng nhất giá cả gây tâm lí nghi ngờ, hoang mang cho khách. Bên cạnh đó, thái độ phục vụ của nhân viên chưa tốt, các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà thiếu để tâm đúng mức đến chất lượng.
Người dân thiếu ý thức trong việc bảo vệ môi trường.
Ngân sách của chính phủ Việt Nam dành cho chiến dịch quảng bá du lịch thực ra rất nhỏ so với số tiền mà chính phủ các nước như Thái Lan, Ấn Độ dành cho hoạt động quảng bá du lịch đất nước họ.
Việt Nam có bảo vệ sự “bền vững” của các cảnh đẹp thiên nhiên hay các công trình kiến trúc, nhưng sự bảo vệ này còn nhiều bất cập và chưa toàn diện. Chẳng hạn như đỉnh Phanxipang, nóc nhà Đông Dương, đang bị xuống cấp do du lịch không kiểm soát nổi tại đây. Hay như Hà Nội, chính quyền thành phố đang cố gắng dừng xây dựng mới và sửa sang làm phá vỡ các nét đẹp kiến trúc xưa của các khu phố cổ.
Du lịch Việt Nam đang bùng nổ, nhưng cơ sở hạ tầng của Việt Nam thực sự là một bài toán khó, có thể giết chết các dự án du lịch. Trong bảng xếp hạng về du lịch và giao thông của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 96 trong tổng số 130 nước. Nhưng nếu quản lí đúng, việc đổ xô đến của du khách sẽ dẫn đến phải có ngân sách để cải thiện đường sá, hệ thống xe lửa và sân bay, điều này sẽ mang lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế đất nước.
Theo Thông tấn xã Việt Nam, tất cả 63 tỉnh, thành phố trên cả nước hiện nay đều chọn du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn và đầu tư vào đó món tiền không nhỏ. Nhưng việc tổ chức nhiều sự kiện du lịch hàng năm mang lại lợi nhuận không là bao, trong khi môi trường và các giá trị văn hóa chưa được giữ gìn, phát huy đúng mức, thậm chí còn bị xâm hại.
Du lịch Việt Nam vốn chưa đảm bảo tốt cho việc giải trí của khách mà chỉ lo đến chỗ ăn, chỗ ngủ. Ví dụ như khách phải làm gì để giết thời gian cho đến 12 giờ đêm, thay vào đó là tổ chức lửa trại hoặc cách vui chơi tập thể vào các buổi tối.
Giải pháp
Về phía nhà nước
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành du lịch, tổ chức tốt việc thực hiện pháp lệnh du lịch, tạo môi trường pháp lí cho việc quản lí hoạt động du lịch, thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư, phát triển du lịch phù hợp với tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế của các nước.
Đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng tại các địa bàn trọng điểm du lịch, các khu du lịch quốc gia, các điểm du lịch có tiềm năng phát triển du lịch ở miền núi, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở khai thác các tiềm năng và thế mạnh mà từng vùng, từng lĩnh vực, từng địa phương, kết hợp có hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực của nhà nước, các nguồn lực từ các thành phần kinh tế vào đầu tư phát triển du lịch theo chủ trương xã hội hóa.
Sắp xếp lại các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch, thực hiện chủ trương cổ phần hóa, cho thuê, bán, khoán,… doanh nghiệp nhà nước. Cải cách hành chính, phân cấp và đơn giản hóa các thủ tục liên quan đến khách du lịch và doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Kết hợp linh hoạt các hình thức tuyên truyền như: hội chợ, triển lãm,… và các phương tiện thông tin đại chúng khác để xúc tiến du lịch phù hợp với định hướng bên ngoài và hỗ trợ quốc tế để phục vụ công tác xúc tiến quảng bá du lịch đạt hiệu quả.
Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực du lịch. Nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành du lịch với cơ cấu nhân lực phù hợp. Thực hiện phương châm nhà nước, doanh nghiệp cùng tham gia đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch. Liên kết các trường đại học, cao đẳng dạy nghề để quy hoạch mạng lưới đào tạo, tạo điều kiện cho sinh viên thực tập, làm part-time. Thí điểm mô hình dạy nghề có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp với nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp. Coi trọng và tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Có chính sách đãi ngộ hợp lí để thu hút nhân tài, chuyên gia, nghệ nhân tham gia vào việc phát triển du lịch đất nước.
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển du lịch, chú trọng đúng mức việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin du lịch, xác lập hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành du lịch đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển du lịch. Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia, nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động kinh doanh du lịch. Tăng cường hợp tác với các tổ chức, cơ quan khoa học trong và ngoài nước để tranh thủ sự hỗ trợ kĩ thuật, kinh nghiệm, tiếp cận với những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học công nghệ du lịch quốc tế để áp dụng cho du lịch Việt Nam.
Tăng cường vai trò và hiệu lực quản lí nhà nước về quản lí môi trường, tài nguyên du lịch, đặc biệt ở những khu du lịch quốc gia, các điểm du lịch có sức hấp dẫn cao, các khu du lịch sinh thái, khuyến khích và tạo điều kiện để huy động sự tham gia vào đóng góp của các tổ chức và cá nhân vào việc bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch, đảm bảo phát triển du lịch bền vững. Lồng ghép đào tạo giáo dục về tài nguyên, môi trường du lịch trong chương trình giảng dạy của hệ thống đào tạo các cấp về du lịch. Nâng cao nhận thức về việc bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch cho khách du lịch và cộng đồng dân cư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Chủ động tham gia hợp tác song phương, đa phương, khai thác tốt quyền lợi hội viên, đồng thời vừa tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm quản lí,… vừa tiếp tục tạo lập và nâng cao hình ảnh và vị thế của du lịch Việt Nam ở khu vực và trên thế giới. Chuẩn bị các điều kiện để hội nhập du lịch ở mức cao, trước hết là chuẩn bị các điều kiện để khai thác những yếu tố về du lịch trong việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kì và cũng như khi Việt Nam gia nhập WTO. Hướng dẫn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện cam kết quốc tế trong du lịch nói riêng và trong hợp tác kinh tế quốc tế nói chung.
Tăng cường hiệu quả kinh doanh bằng tiếp thị điện tử dành cho các doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch. Đây là chương trình hỗ trợ phát triển kinh doanh toàn diện bao gồm: kinh nghiệm sử dụng tiếp thị điện tử, ưu đãi về phần cứng, phần mềm hỗ trợ công tác kinh doanh, đường truyền Internet tốc độ cao, quảng cáo trực tuyến với quy mô lớn.
Đổi mới về nhận thức và xúc tiến quảng bá. Nghiên cứu và mở rộng thị trường, xác định rõ thị trường trọng điểm để xây dựng các sản phẩm du lịch phù hợp, hình thành chiến lược tiếp thị thương hiệu du lịch quốc gia và chiến lược quảng bá. Cung cấp thông tin du lịch Việt Nam đến du khách mọi lúc, mọi nơi; thậm chí có thể thuê các công ty quảng bá chuyên nghiệp của nước ngoài thực hiện.
Ngành du lịch cùng các ngành văn hóa, hàng không, ngoại giao tăng cường sự hiện diện của du lịch Việt Nam tại các lễ hội, sự kiện du lịch có tính chuyên nghiệp cao và những thị trường khách lớn. Về lâu dài, phải tăng cường cơ chế phối hợp các địa phương, doanh nghiệp để hoàn thiện môi trường kinh doanh lành mạnh; thúc đẩy xây dựng những sản phẩm du lịch độc đáo, “chuyên biệt” dựa vào thế mạnh tiềm năng của đất nước, của từng vùng miền. Nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, liên kết du lịch Việt Nam với các nước trong khu vực; thiết lập các trung tâm mua sắm hiện đại cho du khách tại các trung tâm du lịch lớn. Thực hiện tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch và tăng cường kiểm tra, giám sát. Miễn thị thực cho khách du lịch ở các thị trường trọng điểm như Châu Âu, Nga, Úc,…
Về phía các doanh nghiệp du lịch
Trang bị cho đội ngũ nhân lực sự am hiểu các cam kết quốc tế, hệ thống luật lệ, sự hiểu biết văn hóa, giỏi ngoại ngữ và tin học để nắm thông tin, hiểu được yêu cầu của khách và đối tác làm ăn. Các cán bộ quản lí cần được bồi dưỡng thêm về luật trong nước và quốc tế, cập nhật thường xuyên thông tin để có thể điều hành tốt doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên rà soát kĩ toàn bộ việc đăng kí thương hiệu, bản quyền về thương hiệu và sản phẩm để tránh bị tổn thất trong kinh doanh. Xây dựng chiến lược kinh doanh theo mô hình tiên tiến của các nước có nền du lịch phát triển trên thế giới nhưng chú ý không để mất đi những nét riêng độc đáo trong bản sắc dân tộc, triệt để áp dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quảng cáo, quảng bá thương hiệu.
Việc hiểu rõ điểm mạnh cùng những hạn chế và các cơ hội, thách thức có ý nghĩa quan trọng, đề ra giải pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đầy du lịch phát triển nhanh, bền vững.
Xây dựng các văn phòng đại diện, trung tâm du lịch Việt Nam ở nước ngoài, trước mắt là tại những thị trường trọng điểm: Nhật Bản, Hoa Kì và Châu Âu.
Để giảm thiểu những ảnh hưởng của giá cả thị trường quốc tế như xăng dầu, khủng hoảng tài chính,… đến du lịch, các doanh nghiệp cần phải tăng cường phát triển du lịch tầm gần.
Các doanh nghiệp du lịch cần chú trọng công tác quảng bá, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài để khai thác thị trường. tham gia vốn một cách bình đẳng để từ đó có một vị thế và sự chủ động trong khai thác, kinh doanh 2 bên cùng có lợi.
Một số đề xuất của nhóm
Chúng ta nên xây dựng ngành du lịch nước ta trở thành “toàn dân hóa du lịch”. Nhà nước nên giám sát hoạt động kinh doanh du lịch của những người dân đặc biệt ở chỗ thái độ phục vụ, chúng ta cần có thái độ niềm nở, vui tươi, tạo ấn tượng tốt đẹp cho du khách.
Các khâu tổ chức của các tour du lịch còn riêng rẽ, chưa có tính liên kết chặt chẽ. Cần phải có sự hợp tác, liên kết giữa các khâu một cách nhịp nhàng, từ đó chi phí các tour mới được giảm giá thành.
Tuyên truyền, quảng bá về các làng nghề và sản phẩm làng nghề một cách đầy đủ, có hệ thống và khoa học. Phát huy các loại hình văn hóa truyền thống như: múa rối nước, tuồng, chèo, ca trù,…
Gắn kết chặt chẽ giữa lợi ích du lịch với lợi ích cộng đồng, tìm tiếng nói chung, ủng hộ từ phía nhân dân địa phương.
Điều bao trùm vẫn là con người, với ngành du lịch con người càng mang tính quyết định hơn vì bản thân con người cũng là một sản phẩm du lịch, họ là kênh đầu tiên để du khách tiếp cận và hiểu được giá trị của một nền văn hóa. Bởi vậy, thay vì là công cụ của du lịch, con người làm du lịch hãy trở thành một sản phẩm của du lịch theo nghĩa đẹp nhất của từ này.
Mục tiêu phát triển
Chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2006 – 2010 đã xác định rõ: thúc đẩy phát triển du lịch Việt Nam, phấn đấu từ năm 2010 Việt Nam trở thành một trong các quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Với mục tiêu cụ thể là: giai đoạn 2006 – 2010, tỷ lệ tăng trưởng khách du lịch quốc tế tăng từ 10 – 20%/năm, tỷ lệ tăng trưởng khách du lịch nội địa tăng từ 15 – 20%/năm, thu nhập du lịch năm 2010 đạt khoảng 4 – 5 tỷ USD; nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ du lịch; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; phát triển du lịch bền vững.
Nội dung của Chương trình:
Tuyên truyền quảng bá và xúc tiến du lịch; thúc đẩy hội nhập quốc tế; nâng cao nhận thức của toàn dân về phát triển du lịch; nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế;
Thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư phát triển du lịch;
Đa dạng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo có sức cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới; bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển du lịch bền vững;
Đổi mới, tăng cường thể chế, chính sách phát triển du lịch; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch; đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
PHẦN KẾT LUẬN
Như đã nói ở trên, ở các nước có ngành du lịch phát triển, nếu nền kinh tế của quốc gia đó là một đoàn tàu thì ngành du lịch chính là đầu tàu. Và đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của quốc gia. Nói như vậy, chúng ta mới có thể thấy rõ vai trò to lớn và sức bật kinh tế mạnh mẽ của ngành công nghiệp không khói này. Nếu so với thế giới thì du lịch Việt Nam chỉ ngang tầm là đàn em của các nước đàn anh như: Hoa Kì, Australia, Trung Quốc, Thái Lan,… Thế nhưng trong chừng ấy thời gian, du lịch Việt Nam phát triển không thua kém một quốc gia, lãnh thổ nào.
Với hơn 45 năm xây dựng và phát triển, du lịch Việt Nam đã thực sự khẳng định mình, xứng danh là một ngành kinh tế mũi nhọn. Hoạt động du lịch Việt Nam tuy có lúc gặp phải những khó khăn như: chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh,… nhưng với chính sách, định hướng phát triển đúng đắn của Đảng và nhà nước, ngành du lịch đã đối đầu và vượt qua những khó khăn đó, thổi một làn gió mới và mạnh vào cánh buồm đưa con tàu kinh tế Việt Nam đi xa. Thế nhưng, bên cạnh những thành tựu, đóng góp cho kinh tế - xã hội, hoạt động du lịch cũng đã có những tác động tiêu cực đến môi trường, văn hóa,… và trong ngành du lịch cũng còn tồn tại nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ. Đây chính là lúc các giải pháp được đặt ra cho các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp du lịch và ngay cả mỗi người dân chúng ta.
Giờ đây, khi con tàu mang tên Việt Nam đã vượt trùng dương hòa mình vào biển lớn WTO thì nền kinh tế Việt Nam nói chung và đặc biệt là ngành du lịch non trẻ nói riêng phải đối mặt với những thách thức mới, cũng như những cơ hội mới. Để du lịch Việt Nam trong tương lai không bị lệch lạc hay trở thành kém hiệu quả, ngành du lịch cần đề ra mục tiêu và chiến lược phát triển đúng đắn, xứng đáng là “đầu tàu kinh tế” như nhận định của nhiều chuyên gia trong ngành.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn Thái. Địa lí kinh tế Việt Nam. NXB Thống Kê. 2003.
Đinh Trung Hiên. Một số vấn đề về du lịch Việt Nam. NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
Trần Đức Thanh. Nhập môn Khoa học du lịch. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 6/2005.
Tổng cục du lịch Việt Nam. Non nước Việt Nam. NXB Hà Nội. 9/2007
Nguyễn Đình Quang, Trần Thị Thúy Lan. Giáo trình Tổng quan du lịch. NXB Hà Nội. 4/2005
Ths. Nguyễn Thị Hoàng Oanh. Giáo trình Thống kê du lịch. NXB Hà Nội. 2005.
Website của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: vietnamtourism.gov.vn
Website của Bộ Công thương: moit.gov.vn
Website Môi trường du lịch: www.moitruongdulich.vn. Thuộc Tổng cục du lịch.
Báo điện tử Vietnamnet: vietnamnet.vn
Bách khoa toàn thư trực tuyến: vn.wikipedia.org
Diễn đàn Doanh nghiệp – Doanh nhân Việt Nam: biznews.vn
Báo Du lịch Việt Nam Online: dulichnet.vn
Thời báo kinh tế Việt Nam Online: vneconomy.vn
Sở Thương mại – Du lịch tỉnh Đồng Nai: trade.dongnai.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tìm hiểu về hoạt động du lịch của Việt Nam.doc