Luận văn Tín dụng và các hình thức trong nền kinh tế thị trường

Đối với công ty cho thuê tài chính, có thể là cácthể nhân, doanh nghiệp tư nhân, hoặc các công ty. Tuy nhiên, các công ty cho thuê tài chính phải có sự chi phối về vốn của tổ chức tín dụng tham gia. Đây là yêu cầu có tính bắt buộc để tránh rủi ro cho thị trường tín dụng thuê mua ở Việt Nam mới phát triển bước đầu.

pdf44 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2734 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tín dụng và các hình thức trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn: "Tín dụng và các hình thức trong nền kinh tế thị trường" 2 LỜI NÓI ĐẦU Mỗi khi xã hội phát triển, đến một trình độ nhất định, tự trong bản thân nó cho ra đời những sản phẩm - những công cụ để phục vụ chính cho sự phát triển đó. Từ khi có sự phân công lao động xã hội, và sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã tạo ra rất nhiều sản phẩm, mà một trong những sản phẩm của nó chính là quan hệ tín dụng. Đến lượt nó, khi ra đời sẽ thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển lên trình độ cao hơn. Do đó, sự tồn tại của nó như một tất yếu khách quan. Ngày nay, chúng ta biết rằng, khi kinh tế thị trường là sự phát triển của nền kinh tế ở một trình độ cao. Trong đó, các chủ thể độc lập với nhau về tính chất sản xuất kinh doanh, về quyền sở hữu, về sự tuần hoàn và luân chuyển vốn. Như vậy trong nền kinh tế có những doanh nghiệp “thừa” vốn. Ví dụ như các doanh nghiệp có tiền bán hàng nhưng không phải trả lương, thuế và các khoản chi khác do đó tạm thời thừa tương đối. Trong khi đó có những doanh nghiệp thiếu vốn những người thừa vốn sử dụng vốn này để thu lợi nhuận còn doanh nghiệp thiếu vốn muốn sử dụng phải đi vay để duy trì hoạc tién hành sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Như vậy hai nhu cầu này đều giống nhau ở chỗ để thu lợi nhuận và mang 3 tính chất tạm thời. Nhưng chúng khác nhau về chiều vận động và quyền sở hữu. Do đó trong nền kinh tế tất yếu tồn tại quan hệ tiêu dùng và tín dụng. Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, việc tồn tại các loại hình tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Vấn đề là chúng ta phải nhận thức được tầm quan trọng của tín dụng trong nền kinh tế và từ đó xác định được loại hình tín dụng nào tồn tại ở nước ta. Qua đó, nhà nước có các chủ trương, chính sách để kích thích cho sự ra đời của nó. Chính vì sự cần thiết như vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay và được sự giúp đỡ tận tình của thầy cô giáo em quyết định chọn đề tài: Tín dụng và các hình thức trong nền kinh tế thị trường Để có thể giải quyết vấn đề trên, trong khuôn khổ bài viết này em trình bày những vấn đề sau: 4 Mục Lục Phần 1: Những vấn đề chung về tín dụng 1 I. Những quan niệm về tín dụng, 2 II. Sự ra đời và phát triển của tín dụng 3 III. Bản chất của tín dụng 4 IV. Đặc điểm của tín dụng 5 V. Chức năng của tín dụng 7 Vi. Vai trò của tín dụng 8 Phần 2: Phân loại tín dụng 10 I. Theo thời hạn tín dụng13 II. Theo đối tượng tín dụng 12 III. Theo mục đích sử dụng vốn 17 IV. Chủ thể trong quan hệ tín dụng 17 Phần 3: Các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường 23 I. Tín dụng thương mại 24 II. Tín dụng ngân hàng 25 5 III. Tín dụng nhà nước 27 IV. Tín dụng thuê mua 27 Phần 4: Thực trạng các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường 29 I. Tín dụng thương mại 36 II. Tín dụng ngân hàng 37 III. Tín dụng nhà nước 40 IV. Tín dụng thuê mua 43 NỘI DUNG 6 Tín dụng ra đời rất sớm với sự xuất hiện của môn kinh tế học và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Tín dụng xuất phát từ gốc từ Latin “credittum” tức là tin tưởng, tin nhiệm, tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự vay mượn. Trong thực tế tín dụng hoat động rất phong phú và đa dạng, nhưng ở bất cứ dạng nào, tín dụng cũng thể hiện ai mặt cơ bản sau: Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khac sử dụng trong một thời gian nhất định. Thứ hai: Đến thời hạn do hai bên thoả thuận người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu một giá trị lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn ngữ kinh tế là lãi suất. PHẦN 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG Người sở hữu (người cho vay) Người sử dụng (người đi vay) Cho vay Trả nợ 7 I. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ TÍN DỤNG Hiện nay thuật ngữ tín dụng được sử dụng rộng rãi và phổ biến. Tuy nhiên không có một định nghĩa nào thống nhất về tín dụng. Bởi vì mỗi người, mỗi ngành lại quan niệm về tín dụng một cách khác nhau, ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa hai bên, đây là quan hệ điều tiết chỉ giữa hai người, đó là người đ vay và người cho vay, sự vay mượn chủ yếu bằng tiền. Tín dụng là sự tin tưởng, tại sao nói tín dụng là sự tin tưởng? Bởi vì chúng ta có tin tưởng mới đi vay và cho vay (credit) để nhường quyền sử dụng vốn cho nhau. Tín dụng là việc vay mượn, sử dụng vốn của nhau, nhưng không chỉ dưới hình thức tiền mà còn dưới hình thức hàng hoá và thậm chí phi tài sản. Cho dù có nhiều quan niệm về tín dụng, nhưng tựu chung lại ta có thể đưa ra một khái niệm, có thể nói đó là một khái niệm tổng quát về tín dụng: Tín dụng là nghề vay mượn tạm thời sử dụng vốn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng. Để hiểu một cách thấu đáo về tín dụng chúng ta cần phải đi sâu vào quá trình ra đời và phát triển của tín dụng cũng như bản chất của nó. Có như vậy chúng ta mới có một cái nhìn sâu sắc hơn, hoàn hảo hơn về tín dụng. 8 II. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÍN DỤNG 1. Cơ sở ra đời của tín dụng Sự phân công lao động và sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở ra đời của tín dụng. Xét về mặt xã hội sự xuất hiện chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành sự phân hoá xã hội, của cải, tiền tệ có xu hướng tập trung vào một nhóm người, trong khi đó một số người có thu nhập thấp hay thu nhập không đáp ứng đủ cho nhu cầu tối thiểu cuả cuộc sống, đặc biệt khi những biến cố rủi ro bất thường gây ra. Trong điều kiện như vậy đòi hỏi sử ra đời của tín dụng, để giải quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội, thực hiện việc điều hoà nhu cầu tạm thời của cuộc sống, đầu tiên là tín dụng nặng lãi. 2. Quan hệ tín dụng nặng lãi Tín dụng nặng lãi là tín dụng ra đời đầu tiên vào thời kỳ cổ đại. 2.1. Chủ thể của quan hệ tín dụng nặng lãi Người đi vay: chủ yếu là nông dân và thợ thủ công, ngoài ra chủ nợ, địa chủ và quan lại cũng có một phần đi vay nặng lãi. Người cho vay: là những người hoạt động thương nghiệp tiền tệ, chủ nợ, địa chủ và một số quan lại. 9 2.2. Nguyên nhân xuất hiện tín dụng nặng lãi Trong điều kiện sản xuất thấp kém, phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên, lại thêm gánh nặng sưu thuế và các tệ nạn xã hội khác, những người sản xuất nhỏ khi phải đối phó với những rủi ro xảy ra trong cuộc sốngcó thể dẫn đến phải đi vay để giải quyết những khó khăn trong đời sống, như mua lương thực, thuốc men, đóng tô, thuế. . . còn các tầng lớp khác đi vay để giải quyết những thiếu hụt tạm thời với các nhu cầu cao. 2.3. Đặc điểm của tín dụng nặng lãi Tín dụng nặng lãi có lãi suất rất cao. Nguyên nhân là do cầu tín dụng lớn hơn so với cung và nhu cầu đi vay thường là cấp bách không thể trì hoãn được. Hình thức vận động của vốn trong quan hệ tín dụng nặng lãi biểu hiện rất đa dạng đó là: Cho vay bằng hiện vật và thu nợ bằng hiện vật; Cho vay bằng tiền, thu nợ bằng hiện vật; Cho vay bằng tiền, hiện vật và thu nợ bằng công lao động; Cho vay bằng tiền và thu nợ bằng tiền; Do những đặc điểm trên của tín dụng nặng lãi mà tín dụng nặng lãi có hai tính chất sau: những người cho vay nặng lãi muốn duy trì nền sản xuất nhỏ để sự tồn tại của hình thức tín dụng nặng lãi. 10 Cho vay nặng lãi thúc đẩy quá trình phân hoá giai cấp và tập trung vốn tạo tiền đề cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới. 2.4. Tín dụng nặng lãi trong điều kiện ngày nay Trong điều kiện ngày nay tín dụng nặng lãi còn tồn tại khá phổ biến ở các nước kém phát triển. Nguyên nhân của sự tồn tại này là do: Do ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Trong nông nghiệp ruộng đất phần lớn tạp trung trong tay các địa chủ và áp dụng phương pháp phát canh thu tô, khoản địa tô phải trả thường là rất cao. Mức thu nhập của người lao động thấp. Vì vậy, khi xuất hiện các rủi ro bất thường trong đời sống đòi hỏi phải có vốn vay bổ sung. Hệ thống tín dụng chưa phát triển. Do tín dụng nặng lãi vẫn tồn tại cho nên để hạn chế cho vay nặng lãi, các nước thường áp dụng biện pháp sau: Cải cách dân chủ trong nông nghiệp mà phương thức cơ bản là chia ruộng đất cho nông dân. Phát triển hệ thống tín dụng, tổ chức và mở rộng hệ thống ngân hàng. 3. Sự phát triển của hệ thống tín dụng trong nền kinh tế Sản xuất hàng hoá là nguyên nhân ra đời của tín dụng, vì vậy ở bất cứ xã hội nào có sản xuất thì tất yếu có sự hoạt động của tín dụng. 11 3.1. Nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của tín dụng Trong kinh tế thị trưòng các xí nghiệp hoạt động độc lập và giữa chúng có mối quan hệ thông qua trao đổi - mua và bán để hình thành hệ thống kinh tế thống nhất. Để thực hiện mối quan hệ trên các tổ chức kinh doanh phải có vốn tiền tệ và phải sử dụng thước đo tiền tệ để tổ chức và quản lý kinh doanh. Xuất phát từ tính chất hoạt động đó mà vốn của doanh nghiệp liên tục trải qua các giai đoạn và biêủ hiện dưới các hình thái khác nhau. Qúa trình tuần hoàn vốn thể hiện như sau: T - H - SX - H’ - T’. Giai đoạn 1: Vốn tiền tệ ứng ra để mua tư liệu sản xuất. Trong giai đoạn này vốn từ hình thái tiền tệ chuyển thành hình thái hàng hoá. Giai đoạn 2: Tiến hành tổ chức sản xuất, tức là quá trình kết hợp giữa lao động sống và lao động vật để tạo ra sản phẩm mới. ở giai đoạn này vốn từ hình thái hàng hoá chuyển thành hình thái chi phí sản xuất và cuối cùng sau khi sản phẩm mới đã được tạo ra, vốn lại trở về hình thá hàng hoá. Giai đoạn 3: Sản phẩn được đưa ra tiêu thụ, vốn lại trở về hình thái ban đầu của nó tức là vốn bằng tiền. Riêng đối với các xí nghiệp trong lĩnh vực lưu thông, tuần hoàn vốn chỉ chải qua hai giai đoạn: mua sản phẩm và bán sản phẩm, do đó vốn cũng chỉ biểu hiện dưới hai hình thái là hàng hoá và tiền tệ. 12 Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn như trên mà mỗi khi không có sự ăn khớp về thời gian và khối lượng về mua vật tư hàng hoá phục vụ sản xuất với việc tiêu thụ hàng hoá thì tất yếu xảy ra hiện tượng: - Hoặc có vốn hàng hoá chưa tiêu thụ hoặc đã tiêu thụ và thu được tiền nhưng chưa cần thiết phải mua vật tư nguyên liệu dự trữ cho sản xuất. - Hoặc có nhu cầu mua vật tư gàng hàng hoá phục vụ quá trình sản xuất nhưng không có tiền. Hiện tượng thừa vốn này thể hiện khá rõ nét đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ. Còn đối với các loại hình xí nghiệp khác thì hiện tượng thừa vốn cũng thường xuyên xảy ra; Bởi vì, mặc dù việc sản xuất được tiến hành liên tục nhưng việc mua bán vật tư nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm được tiến hành theo định kỳ. Vì vậy, tất yếu sẽ xuất hiện sự không ăn khớp giữa hai quá trình mua bán. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp không thời vụ việc thừa thiếu vốn tiền tệ với thời gian ngắn hơn và quy mô nhỏ hơn so với xí nghiệp thời vụ, chỉ trừ những doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài. Ở mỗi doanh nghiệp thì có lúc thiếu vốn, lúc thừa vốn, nhưng đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì tại mỗi thời điểm nhất định sẽ có hiện tượng: Một nhóm doanh nghiệp có vốn tạm thời chưa sử dụng. Một nhóm những xí nghiệp khác lại có nhu cầu bổ sung tạm thời. Sở dĩ có hiện tượng này là vì, chu kỳ sản xuất kinh doanh và tính chất thời vụ ở mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành kinh tế không giống nhau, trong lúc đó tái sản xuất là một quá trình liên tục trên cơ sở phân công và hợp tác trên toàn bộ nền kinh tế. 13 Vì vậy khi mà xí nghiệp này thừa vốn thì tất yếu sẽ có xí nghiệp khác thiếu vốn. Ví dụ, nông trường sản xuất mía sau khi thu hoạch sẽ có vốn tạm thời nhàn rỗi, ngược lại đối với xí nghiệp chế biến đường lại có nhu cầu rất lớn về dự trữ nguyên liệu cho sản xuất. Đây là hiện tượng khách quan tồn tại ngay trong quá trình tái sản xuất xã hội, đồng thời nó là mâu thuẫn của quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn. Chính điều này đòi hỏi phải có tín dụng làm cầu nối giữa nơi thườ và nơi thiếu. Nếu xét về đặc điểm vốn trong quá trình tái sản xuất giản đơn thì hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời trong toàn bộ nền kinh tế được bù trừ lẫn nhau. Tuy nhiên tái sản xuất là quá trình thường xuyên mở rộng và phát triển, vì vậy đòi hỏi phải có vốn đầu tư bằng vốn tiết kiệm. Trong cơ chế thị trường tồn tại và phát triển luôn gắn bó với nhau, vì vậy nhu cầu vốn cho sản xuất không chỉ để duy trì mức sản xuất như cũ mà còn có nhu cầu đầu tư phát triển. Nhu cầu vốn trong trường hợp này được dùng để đầu tư vào tài sản cố định, tăng dự trữ vật tư hàng hoá cho tái sản xuất mở rộng. Đối với các xí nghiệp, đơn vị kinh tế, lợi nhuận tích luỹ để đầu tư có giới hạn. Vì vậy muốn thực hiện được nhu cầu mở rộng sản xuất cần thiết phải nhờ đến nguồn vốn trong xã hội. Mỗi khoản tiết kiệm có một mục đích nhất định như nhà kinh doanh tiết kiệm để mở rộng sản xuất, cá nhân mở rộng để mua sắm. . mục đích của tiết kiệm có thể 14 được thực hiện ngay hoặc được thực hiện trong tương lai. Chính vì vậy trong điều kiện chưa thực hiện được nhũng mục đích đã định những người chủ của vốn Tiết kiệm có thể sử dụng vốn này để cho vay hoặc trực tiếp như mua trái phiếu hoặc gián tiếp như gửi vào tổ chức tín dụng. Như vậy sự xuất hiện của tín dung xuất phát từ nhu cầu tiết kiệm, nhu cầu đầu tư và phát triển. Mà tín dụng là nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Tóm lại trong nền kinh tế hiện đại, đặc điểm tuần hoàn vốn và yêu cầu của quá trình tiết kiệm và đầu tư đòi hỏi phải có tín dụng. 3.2. Tín dụng ngày càng mở rộng và phát triển một cách đa dạng. Trong nền kinh tế thị trường tín dụng ngày càng mở rộng, chủ thể tham gia các quan hệ tín dụng bao gồm cá nhân, các doanh nghiệp và nhà nước trung ương, cũng như các địa phương. Quan hệ tín dụng được mở rộng về đối tượng và quy mô thể hiện ở các mặt sau: - Các tổ chức ngân hàng và các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng khác phát triển mạnh và có mặt khắp mọi nơi. - Phần lớn các doanh nghiệp đều có sử dụng vốn tín dụng (vay ngân hàng, mua chịu hàng hoá, phái hành trái phiếu) và khối lượng ngày càng lớn. - Thu nhập ngày càng tăng đối với cá nhân và vì vậy ngày càng có nhiều người tham gia vào các quan hệ tín dụng 15 III. BẢN CHẤT TÍN DỤNG. Tín dụng tồn tạ trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. ở bất cứ phương thức sản xuất nào tín dụng cũng biểu hiện ra bên ngoài là sự vay mượn tạm thời một vật hoặc một số vốn tiền tệ, nhờ vậy mà người ta có thể sử dụng được giá trị của hàng hoá hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua trao đổi. Để vạch rõ bản chất của tín dụng cần thiết phải nghiên cứu liên hệ kinh tế của tín dụng trong quá trình hoạt động của tín dụng và mối liên hệ của nó với quá trình tái sản xuất. Về sự vận động của tín dụng: tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua vận động giá trị vốn, tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ. Hoặc quá trình vận động của nó thông qua các quá trình sau: Thứ nhất: phân phối vốn tín dụng dưới hình thức cho vay. Thứ hai: sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Thứ ba: sự hoàn trả của tín dụng. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sự hoàn trả của tín dụng là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là dấu ấn phân biệt tín dụng với các phạm trù kinh tế khác. IV. ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG. - Có sự vận động độc lập tương đối giữa quyền sở hữu và quyền sủ dụng. 16 - Giá cả trong quan hệ mua bán ngang bằng với giá trị nhưng trong quan hệ tín dụng thì không. Gía cả ở đây là biểu hiện của giá trị sử dụng một số vốn trong một thời gian. Mác viết “ đem tiền cho vay với tư cách là một vật có đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó mà vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm trong quá trình vận động”. V. CHỨC NĂNG CỦA TÍN DỤNG. 1. Tích tụ tập trung vốn. Để cho vay và đáp ứng nhu cầu sử dụng khác tín dụng biến tài sản phi tài chính thành tài sản tài chính. 1.1. Cung của quỹ cho vay. Tiết kiệm của dân cư; Tiết kiệm của nhà doanh nghiệp; Mức thặng dư của ngân sách nhà nước; Mức tăng của khối lượng tiền cung ứng. 1.2. Cầu của quỹ cho vay. Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp; Nhu cầu tín dụng tiêu dùng của cá nhân; Thâm hụt ngân sách của chính phủ. 17 2. Kiểm soát và giám đốc bằng tiền. Thông qua các thước đo chỉ tiêu được xây dựng trên cơ sở tiền tệ mà tín dụng có thể góp phần vào hai mục đích sau: Đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doang nghiệp diễn ra theo đúng pháp luật và có hiệu quả kinh tế cao. Bởi vì doanh nghiệp muốn vay ngân hàng thì phải có tài khoản hoặc mục đích sử dụng vốn hay phương án sản suất kinh doanh. Về mặt pháp luật, mỗi khi có tiền gửi vào tài khoản phải thuyết trình nguồn thu. VI. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG. 1. Hoạt động tín dụng đảm bảo nhu cầu về vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và nhu vầu tiêu dùng cho các cá nhân trong nền kinh tế. Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các xí nghiệp. Việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện cung cấp vốn cho đầu tư phát triển. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và cố định của các xí ghiệp. Vì vậy tín dụng đã góp phần động 18 viên vật tư đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mất cân đối, lạm phát và thất nghiệp vẫn còn ở mức độ cao. Vì vậy thông qua việc đầu tư tín dúngẽ góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác thông qua hoạt động tín dụng mà sử dụng nguồn lao động và nguồn nguyên liệu một cách hợp lý, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. 2. Thông qua hoạt động tín dụng, các tổ chức tín dụng tăng cường giám sát đối với khách hàng vay vốn, từ đó nâng cao hiệu quả chung trong toàn bộ nền kinh tế. 3. Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng, mà vốn này nằm phân tán ở khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước và của cá nhân. Trên cơ sở đó cho các đơn vị kinh tế vay. Tuy nhiên quá trình đầu tư tín dụng không phải rải đều cho mọi chủ thể có nhu cầu, mà việc đầu tư được tiến hành một cách tập trung, chủ yếu là cho các xí nghiệp lớn, những xí nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Đầu tư tập trung là quá trình tất yếu, vừa đảm bảo tránh rủi ro tín dụng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế. 4. Tín dụng là công cụ tà trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn. 19 Trong điều kiện nước ta nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội, đang trong quá trình công nghiệp hoá và là ngành chịu tác động nhiều nhất của quá trình tự nhiên. Vì vây, trong giai đoạn trước mắt nhà nước cần tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó nhà nước cần tập trung tín đụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành kinh tế khác. 5. Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các xí nghiệp. Đặc trưng cơ bản của tín dụng là hoạt động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Vì vậy, hoạt động của tín dụng đã góp phần kích thích sử dụng vốn vay có hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng thì các xí nghiệp phải tôn trọng hoạt động tín dụng, tức là phải đảm bảo hoàn trả nợ vay đúng thời hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Bằng các tác động như vậy, đòi hỏi xí nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều kiện để nâng cao doanh lợi xí nghiệp. 20 PHẦN 2 CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG Trong nền kinh tế thị trường tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú. Trong quản lý tín dụng các nhà kinh tế thường dựa vào các tiêu thức sau đây để phân loại I. THỜI HẠN TÍN DỤNG 1. Tín dụng ngắn hạn. Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân. 2. Tín dụng trung hạn. Là loại tín dụng từ 1 - 5 năm, loại tín dụng này được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh. 3. Tín dụng dài hạn. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, tín dụng dài hạn được dùng để đầu tư cho xây dựng cơ bản. 21 II. Đ ỐI TƯỢNG TÍN DỤNG. 1. Tín dụng vốn lưu động Là loại tín dụng được cấp phát để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế. 2. Tín dụng vốn cố định. Là loại tín dụng được cấp phát để hình thành tài sản cố định. III. MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG VỐN. 1. Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá. Là loại cấp phát tín dụng cho các nhà doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá. 2. Tín dụng tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng là hình thức cấp phát tín dụng cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. IV. CĂN CỨ VÀO CHỦ THỂ TRONG QUAN HỆ SỬ DỤNG VỐN. 1. Tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp, được biểu diễn mua bán chịu hàng hoá. 22 2. Tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và các cá nhân. 3. Tín dụng nhà nước. Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa một bên là nhà nước với một bên là phần còn lại của nền kinh tế và nhà nước là người đi vay. 4. Tín dụng thuê mua. Là quan hệ tín dụng giữa các công ty tài chính với người sản xuất kinh doanh được thể hiện dưới hình thức cho thuê tài sản cố định. 23 PHẦN 3 CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG XÉT THEO CHỦ THỂ TRONG QUAN HỆ TÍN DỤNG I. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI. 1. Khái niệm. Tín dụng thương mại là hình thức sử dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế được thể hiện dưới hình thức các doanh nghiệp mua chịu hàng hoá và dịch vụ lẫn nhau. 2. Nguyên nhân của sự xuất hiện tín dụng thương mại. Là do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ, đặc điểm thời vụ trong sản xuất, mua hoặc bán sản phẩm, vì vậy xảy ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng hoá muốn bán, trong lúc đó một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền. Trog trường hựp này nhà doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hiện được sản phẩm họ có thể bán chịu hàng hoá cho gười mua. Mua bán chịu là hình thức tín dụng vì: Người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định. 24 Đến thời hạn đã được thoả thuận người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất. 3. Vai trò của tín dụng thương mại. Trong thời kỳ quản lý nền kinh tế theo kế hoạch tập trung hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều cấm tín dụng thương mại hoạt động. Đến những năm 1980 gắn liền với quá trình cải tổ và đổi mới quản lý kinh tế nhà nước đã bắt đầu cho phép tín dụng thương mại hoạt động. Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mạ một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của các nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu, đòng thời giúp các xí nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình. Mặt khác, sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giup cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Một vai trò quan trọng khác của tín dụng thương mại, đó là nó quyết định tính không ăn khớp của quá trình sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Vì trong nền kinh tế người sản xuất có hàng hoá nhưng chưa chắc người kinh doanh đã có tiền và người kinh doanh có tiền chưa chắc người sản xuất có hàng hoá. Tín dụng thương mại đã làm tăng nhanh tóc độ lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Tín dụng thương mại còn góp phần tiết kiệm tiền mặt, tiết kiệm lưu thông tiền tệ, đảm bảo mối quan hệ kinh tế trong một nền kinh tế. 25 4. Đặc điểm của tín dụng thương mại. Vốn tín dụng tồn tại dưới hình thức hiện vật (do đó có độ an toàn khá cao); Toàn bộ vốn tín dụng chưa phải là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi đã rút ra khỏi quá trình sản xuất mà nó vẫn ở trong quá trình sản xuất kinh doanh (vốn sản xuất kinh doanh); Quá trình vận đổng của vốn tín dụng thương mại phụ thuộc vàc quy mô của quá trình sản xuất kinh doanh. 5. Công cụ của tín dụng thương mại. Cơ sở pháp ly xác định quan hệ nợ nợ là giấy báo nợ. Đây là một loai đặc biệt của khế ước dân sự xác định trao quyền cho người bán và nghĩa vụ thanh toán nợ của người mua khi món nợ đến hạn. Giấy nợ trong tín dụng thương mại gọi là thương phiếu. Thưong phiếu có hai loại đó là kỳ phiếu và hối phiếu. 5.1. Kỳ phiếu thương mại là do người mua chịu phát hành ra để cam kết trả một món nợ tiền nhất định khi đến hạn cho người bán. 5.2. Hối phiếu là do người bán chịu phát hành ra để ra lệnh cho người m ua chịu trả số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn. Bỏ qua sự khác biệt về người phát hành ra nó, hối phiếu và kỳ phiếu đều giống nhau là thực hiện nghĩa vụ tài chính mà người mua chịu phải chiụ trách 26 nhiệm trước người bán chịu vào thời điểm nhất định với những điều kiện nhất định. 5.3. Đặc điểm của thương phiếu. - Tính trừu tượng: trên thương phiếu không ghi rõ nguồn gốc và mục đích khoản nợ mà chỉ ghi nghĩa vụ tài chính. - Tính bắt buộc: luật pháp sẽ can thiệp vào hành vi mua bán chịu đến thời hạn thanh toán người mua chịu phải chịu trách nhiệm trả tiền một cách vô điều kiện đối với người bán chịu. - Đựơc lưu thông như tiền: nó được dùng làm phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán trong trời hạn hiệu lực của nó. 6. Ưu, nhược điểm của tín dụng thương mại. 6.1. Ưu điểm. - Giúp cho các doanh nghiệp (mua và bán) đảm bảo duy trì được tính liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh. - Quyết định tính không ăn khớp của sản xuất hàng hoá, làm đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá; - Góp phần làm giảm chi phí lưu thông trong nền kinh tế và tham gia điều tiết vốn giữa các doanh nghiệp một cách trực tiếp; 27 - Tiết kiệm được khối lượng lưư thông tiền mặt. Tín dụng thương mại tồn tại cùng với nền kinh tế thị trường, trở thành một đặc trưng của nền kinh tế thị trường. 6.2. Nhược điểm. Mặc dù tín dụng thương mại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhưng nó không thể thay thế các hình thức tín dụng khác, vì nó có nhữg mặt hạn chế sau: - Hạn chế về quy mô tín dụng và chiều vận động của hàng hoá. Tín dụng thương mại do các nhà doanh nghiệp cung cấp và họ chỉ cung cấp giới hạn khả năng của mình. Nếu người đi vay có nhu cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng được. Quy mô lớn nhất của tín dụng thương mại = tổng giá trị hàng hoá của người bán chịu Chiều vận động của tín dụng thương mại phụ thuộc vào chiều vận động của hàng hoá. Nó chỉ vận động theo một chiều nhất định. Do đó ảnh hưởng đến nền kinh tế, dẫn đến khhủng hoảng kinh tế mang tính lan tryền, cộng hưởng nếu một khâu nào đó hay một bộ phận nào đó bị phá sản. - Hạn chế về thời hạn cho vay: Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của một doanh nghiệp có thể phù hợp với nhau, vì vậy khi thời hạn mà người cho vay muốn cung cấp và người đi vay có nhu cầu không phù hợp hau thì tín dụng không 28 thể xảy ra. Tuy nhiên, nhờ phương pháp cấp tín dụng của ngân hàng dưới hình thức chiết khấu đã giải quyết được một phần hạn chế. - Hạn chế phương hướng: Tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, vì vậy nhà doanh nghiệp chỉ cung cấp được tín dụng cho một số xí nghiệp nhất định_ những xí nghiệp cần hàng hoá đó để sử dụng cho sản xuất kinh doanh hoặc dự trữ để bán. - Tạo ra mầm mống của khủng hoảng sản xuất thừa Vì nếu mua trao tay tức là chỉ mua những thứ cần thiết trong ngắn hạn vì số tiền là có giới hạn. Nhưng nếu có tín dụng thương mại tức là có tích luỹ tạo ra cầu giả tạo làm cho người sản xuất sẽ sản xuất ra nhiều hơn và do đó sẽ tạo ra sự dư thừa hàng hoá. - Loại bỏ khả năng kiểm soát của hệ thống ngân hàng với hoạt động kinh tế quốc dân làm tạo ra mầm mống cho những nguồn thu nhập bất hợp pháp. II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG. 1. Khái niệm. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng với các nhà doanh nghiệp, các cá nhân, ngân hàng vừa là người cho vay đồng thời cũng là người đi vay. 29 Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tièn gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu đó huy động vốn trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay ngân hàng cung cấp tina dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân. 2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng. - Vốn tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ, vốn tín dụng đã được giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh, là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi. - Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng tương đối độc lập so với quá trìh sản xuất kinh doanh; - Hoạt động sản xuất kinh doanh mở rộng, phát triển sẽ làm cho nhu cầu về vốn tăng dẫn đến hu cầu về vốn tín dụng cao và điều này tất yếu dẫn đến hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển theo; - Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Hoạt động của tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở để cung cấp tín dụng ngân hàng, điều này thể hiện thông qua việc cấp vốn tín dụng ngân hàng ttrên cơ sở thương phiếu của ngân hàng thươg mại. Trái lại hoạt động của tín dụng ngân hàng đã góp phần khắc phục các mặt hạn chế của tín dụng thương mại, đồng thời tạo điều kiện cho tín dụng thương mại phát triển. 30 3. Ưu nhược điểm của tín dụng ngân hàng. 3.1. Ưu điểm. - Có thể đáp ứng nhu cầu cả về khối lượng, thời hạn; - Không bị giới hạn bởi quy mô và chiều vận động; - Vai trò kiểm soát của các tổ chức tín dụng, ngân hàng phát huy được vai trò kiểm soát của hệ thống ngân hàng. Vì vậy, tín dụng ngân hàng trở thành một hình thức chủ đạo trong nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa trước đây; - Tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng rất lớn; - Mở rộng phạm vi hoạt đống sang các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. 3.2. Nhược điểm. - Rủi ro tín dụng: Những kết cục không mong muốn đối với ngân hàng có thể xảy ra bất cứ lúc nào, dẫn đến phá sản, sụp đổ của toàn bộ hệ thống ngân hàng, vì quy mô của tín dụng ngân hàng là rất lớn (lợi ích giảm theo quy mô và do đối tượng là tiền nên có thể sử dụng sai mục đích, sai hướng) . III. TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC. 1. Khái niệm. Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa một bên là nhà nước và một bên là các thành phần khác của nền kinh tế và nhà nước là người đi vay. 31 Chủ thể trong quan hệ tín dụng nhà nước (TDNN) bao gồm người đi vay là nhà nước trung ương, nhà nước địa phương. Người cho vaylà dân chúng, các tổ chức kinh tế và ngân hàng nước ngoài. Trong nền kinh tế nhà nước là một chủ thể có ngân sách riêng và kho bạc nhà nước là người đại diện thực hiện các khoản thu và chi ngân sách. Thu và chi ngân sách có thể diễn ra trong ba trường hợp sau: - Thăng bằng ngân sách, là trường hợp các khoản thu ngân sách đúng bằng các khoản chi ngân sách. Trong các khoản thu và chi này không tính các khoản vay nợ và trả nợ. - Thặng dư ngân sách: là trường hợp mà thu lớn hơn các khoản chi ròng. Phần thặng dư có thể có thể sử dụng để trả các khoản nợ đã vay trong các tài khoản trước hoặc gửi vào ngân hàng để dùng cho các mục đích sau này. - Thiếu hụt ngân sách: là các khoản thu nhỏ hơn các khoản chi ròng. Để bù đắp các khoản chi này kho bạc nhà nước phải đi vay phần thiếu hụt đó. Như vậy, mục đích đi vay của tín dụng nhà nước là bù đắp khoản bội chi ngân sách. 2. Phân loại. Tín dụng nhà nước phân ra hai loại: - Tín dụng ngắn hạn:là khoản vay ngắn hạn của kho bạc nhà nươc để bù đắp các khoản bội chi tạm thời. Ví dụ, đầu năm ngân sách cần khoản chi ngay, nhưng 32 tạm thời chưa có các khoản thu, cần phải đi vay để bù đắp, thời hạn vay thường dưới một năm. Tín dụng ngắn hạn của nhà nước được thực hiện bằng cách phát hành kỳ phiếu kho bạc. - Tín dụng dài hạn: Là các khoản vaydai hạn của kho bạc nhà nước. Thời hạn thường từ năm năm trở lên, viêc đi vay dài hạn được thực hiện bằng việc phát hành công trái 3. Ưu Thế Của Tín Dụng Nhà Nước - Đâylà hình thưc tín dụngcó ưu thế tuyệt đối, là con đường tốt nhất không dẫn đến lạm phát và các vấn đề kinh tế xã hội - Góp phần ổn định kinh tế xã hộivà nâng cao phúc lợi xã hội - Đây là hình thưc tín dụng mà nhà nước không bao giờ phải trả nợ, việc thanh toán bằng cách phát hành ra đợt mới để trả nợ cũ - Việc mua công trái đem lại cho người nông dân những khoản thu nhập và cóp thể giầu lên mộtcách nhanh chóng, hơn nữa mua công trái tương tự như gửi tiết kiệm nhưng có thể giầu lên một cách nhanh chóng mà không phải chịu rủi ro 4. Nguyên nhân mà người nông dân Việt nam không thích mua công trái - Việc mua bán trái phiếu chính phủ là quan hệ kinh tế vì vậy mang lại lợi ích kinh tế. Nhưng ở Việt nam lại mang tính chính trị hơn kinh tế nên việc mua công trái như việc hiến tiền cho nhà nước do tốc độ lạm phát lớn. 33 - Chi tiêu của ngân sách nhà nước Viêt nam lãng phí, chưa hợp lí - Mua công trái và gửi tiết kiệm không có sự khác biệt, nhưng người nông dân lại có thói quen gủi tiết kiệm hơn. IV. TÍN DỤNG THUÊ MUA 1. Khái niệm Tín dụng là quan hệ tín dụng giữa các công ty tài chính với người sản xuất kinh doanh được thể hiện dưới hình thức cho thuê tài sản cố định Sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi những khoản đầu tư và phải có năng suất lao động cao, vì vậy phải đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp có vốn tích luỹtự có là không đầy đủ để đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ. Do đó phải đi thuê tài sản cố định. Nó giúp cho các nhà sản xuất doanh nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ. 2. Đặc điểm Ở Việt Nam tín dụng thuê mua được thể hiện dưới hình thức: công ty cho thuê tài chính, thực chất là công ty tài chính thực hiện việc cho thuê đối với tài sản cô định. Tín dụng thuê mua có hai hình thức. Người cho thuê đã có tài sản cố định cho thuê, Cho thuê theo kiểu vận hành vốn: mọi chi phí về sửa chữa, bảo dưỡng, tài vận hành sản cố định sẽ do người cho thuê chịu. 34 Cho thuê theo kiểu thuê tài chính: người đi thuê tìm kiếm trên thị trường những tài sản cần thuê, sau đó yêu cầu người cho thuê mua tài sản đó. 3. Tác dụng và hạn chế của tín dụng thuê mua. 3.1. Đối với nền kinh tế. - Đây là hình thức huy động vốn cho đầu tư phát triển, đặc biệt là từ nước ngoài đặc biệt là những ngành có công cụ sử dụng rất đắt. - Tiếp thu được thường xuyên tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới. - Giá trị các tài sản thuê không tính vào hạn mức nợ quốc gia, do đó không ảnh hưởng đến việc sử dụng các hạn mức nợ từ các chính phủ, các tổ chức quốc tế. 3.2. Đối với người cho thuê. - Là hình thức đầu tư để thu lợi nhuận, đầu tư có độ an toàn cao. Vì người thuê tài sản có mục đích rõ ràng, có địa chỉ sử dụng rõ ràng và cụ thể. Người cho thuê bao giờ cũng nắm cơ sở pháp lý để chứng minh sở hữu nguồn gốc cho thuê. - Làm đa dạng và phong phú thêm những hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, đặc biệt là hệ thống các ngân hàng thương mại. 3.3. Đối với người đi thuê. Có tác dụng lớn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trường hợp tổ chức kinh tế thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh mà khả năng và điều kiện tiếp cận đến 35 nguồn vốn ngân hàng không thể đảm bảo được. Và khi vay vốn ngân hàng gặp phải khó khăn là phải có tài sản thế chấp, hoặc bị khống chế bởi giới hạn vốn cho vay. Có tác dụng đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ và nhu cầu sử dụng tài sản không nhiều. Các doanh nghiệp có thể luôn luôn đổi mới và tiếp cận được với tiến bộ khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên hạn chế của tín dụng thuê mua đó là chi phí cho thuê tài sản cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng. PHẦN 4 THỰC TRẠNG CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG I. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI. Từ rất lâu, tín dụng thương mại (TDTM) đã tồn tại ở Việt Nam, mặc dù nó không được pháp luật thừa nhận. TDTM tồn tại đúng hình trong các cửa hàng mua bán chịu. Các giấy nợ do bên bán hoặc bên mua phát hành chỉ là do hai bên thoả thuận, không có một điều luật nào đảm bảo về tính chịu trách nhiệm của mõi bên. Chính điều này đã không phát huy hết được vai trò, tác dụng của TDTM. Trong xã 36 hội xuất hiện một hiện tượng thay cho việc ăn cáp tài sản, chỉ cần ăn cắp sổ nợ mà không có quy phạm pháp luật nào quy định. Tuy nhiên, vì TDTM tồn tại một cách khách quan nên cần thiết phải thừa nhận nó tồn tại ở Việt Nam. II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG (TDNH) . Tín dụng ngân hàng là một lĩnh vực khá rộng, bao quát một không gian nhiều chiều (ngang, dọc; trên, dưới; trong, ngoài) của chính sách tiền tệ quốc gia. Hệ quả của hoạt động hệ tín dụng có quan hệ biện chứng với tiến trình vận hành chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, và hội nhập thế giới. Xét về tầm quản lý vĩ mô, tín dụng là một phạm trù gắn chặt với xu hướng tạo tiền, sự tạo tiền này sẽ được xoá đi khi hoàn trả tín dụng đến hạn. Tất nhiên, trong một nền kinh tế phát triên mạnh thì thường xảy ra tình trạng còn đọng lại một lượng tiền nhất định trong lưu thông nên không kiểm soát được sẽ sinh ra lạm phát làm ảnh hưởng đến mặt bằng giá cả, gây phức tạp cho môi trường cạnh tranh. Nói hẹp về lĩnh vực tín dụng, hoạt động của tổ chức tín dụng là kinh doanh theo nguyên tắc “đi vay để cho vay” tức là xoay quanh vấn đề giữ vững thế cân bằng giữa “ đầu vào ” và “ đầu ra”. Một sự chệch khớp nào đó, từ chủ thể này hay chủ thể khác, bất kể xuất phát từ nguyên nhân nào đều tác động dây truyền đến hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Các NHTM khi cung ứng tín dụng cho khách hàng đều có thể gặp rủi ro từ hiện tượng người vay mất khả năng thanh toán hoặc ít nhất là do khoản tín dụng đó không được hoàn trả đúng thời hạn như đã cam kết. 37 Xuất phát ỳ nhận thức đó, NHTM trước khi quyết định cho vay cần quan tâm đến năng lực và tiến trình hoạt động kinh doanh của khách hàng trên các mặt: Tài chính (phương pháp sử dụng các nguồn vốn tự có, đảm bảo cân đối các tài sản Nợ - Có và khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trên mọi tình huống); Thị trường (nguồn cung ứng nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ, cung – cầu sản phẩm hàng hoá) và cả mặt quản lý kinh doanh. Ở Việt Nam, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, tín dụng vẫn rủi ro nhưng lại được bao che bởi chính sách bao cấp. Đến thời kỳ đổi mớ sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa lĩnh vực tín dụng ngày càng bộ lộ nhiều điều không đơn giản. Trong xã hội, có rất nhiều doanh nghiệp thiếu vốn, cần vốn trong khi đó, các ngân hàng thừa vốn, nhưng vì không tìm được dự án đủ điều kiện cho vay, sợ gặp rủi ro nên đã không dám bỏ vốn cho vay. Nếu cứ “mạnh dạn” cho vay, mà không chắc được đảm bảo thu hồi về dúng hạn, hoặc doanh nghiệp đem sử dụngvào mục đích khác, hoặc doanh nghiệp say sưa dồn vốn vay vào kinh doanh một loại sản phẩm mà cung vượt quá cầu, cũng có thể là các cán bộ tín dụng dễ bị cuốn hút bởi đồng tiền đã móc ngoặc với khách hàng, khi đó thì rõ ràng tín dụng đã gặp rủi ro. Như vậy rủi ro TDNH là điều không thể không xảy ra. Và một trong những nhiệm vụ quan trọng của mỗi NHTM là tối thiểu hoá rủi ro tín dụng. Để đạt được 38 mục tiêu này, các NHTM sử dụng nhiều phương pháp, quy trình đánh giá rủi ro khác nhau, bao gồm cả hình thức chính thức, và cả không chính thức. Một trong những đòi hỏi của các NHTM là đòi hỏi khách hàng phải có tài sản thế chấp khi đi vay. Người vay cần phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản trước khi vay. Tuy nhiên giải pháp này không bảo đảm sự thành công cho chính sách tín dụng của các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Nguyên nhân: - Tính phức tạp trong việc dự báo biến động giá cả tài sản thế chấp; - Không thể dự báo chính xác chu kỳ tín dụng; - Tính không ổn định của diễn biến lạm phát; Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, vấn đề đảm bảo an toàn cho các nghiệp vụ tín dụng luôn luôn là một trong những vấn đề nổi cộm. Dễ dàng thấy rằng tín dụng trước đây và hiện nay có một điểm chung cơ bản là đều cần có sự bảo đảm. Tuy nhiên, đảm bảo tín dụng trong cơ chế thị trường khác biệt đáng kể so với đảm bảo tín dụng trong cơ chế trước đây. - Trong chế độ kế hoạch hoá tập trung Quan hệ tín dụng mang tính chất hành chính, không có luật để điều chỉnh. Uy tín trong các quan hệ tín dụng chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi phương thức điều hành mệnh lệnh. 39 Có đề cập đến bảo đảm tín dụng nhưng là bảo đảm có sau hành vi tín dụng, là kết quả của hoạt động tín dụng. Đảm bảo không phải là điều kiện tín dụng (mà chỉ là nguyên tắc tín dụng) nên kinh doanh tín dụng bị đẩy vào trạng thái bị động. Đảm bảo đưa ra nhưng không có mục đích và đối tượng rõ ràng. Giá trị bảo đảm phải tương đương (lí tưởng bằng) với lượng tín dụng. Độ tin cậy của các bảo đảm cũng rất thấp, chỉ có vật tư hàng hoá là bảo đảm tín dụng. - Trong cơ chế thị trường. Đảm bảo là tiền đề, là điều kiện bắt buộc của một quan hệ tín dụng, là “ cái chốt an toàn” của lòng tin. Kinh doanh tín dụng có bảo đảm ở trong trạng thái chủ động, đảm tín dụng có đối tượng, mục đích rõ ràng. Giá trị các bảo đảm tín dụng nhìn chung phải lớn hơn lượng tín dụng. Sự “ chắc chắn” an toàn đối với đảm bảo tín dụng được cao hơn. Hình thức đảm bảo đa dạng và phong phú. Tính tất yếu của sự đổi mới trong hoạt động ngân hàng là khách quan sự so sánh ở trên có thể giúp chúng ta có thêm định hướng rõ ràng trong các quan hệ kinh doanh tiền tệ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Khách hàng là “thượng đế”, nhưng đồng thời cũng phải bình đẳng với ngân hàng. Sự tin cậy trong quan hệ tiền tệ, uy tín trong giao dịch của khách hàng và ngân hàng được thử thách theo thời gian. Do đó, ngân hàng phải luôn luôn 40 xác định được hành động tích cực của mình trong các trường hợp để đạt được sự ổn định, độ tin cậy và tính hiệu quả cao trong quan hệ đối với khách hàng. Đảm bảo tín dụng luôn luôn là một công cụ quan trọng và năng động trong tay ngan hàng để đạt được mục đích đó. III. TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ 12, các chính phủ đã nhận thấy nhu cầu cần thiết phải tài trợ cho hoạt động chính quyền của mình thông qua việc phát hành những công cụ nợ chủ yếu của nhà nước, ngoài ra còn có tín phiếu kho bạc. Năm 1999, chính phủ Việt Nam phát hành công trái quốc gia huy động được hơn 4000 tỉ đồng. Tuy vậy coi đây là thất một bại do chi phí cho việc mua công trái quá lớn. Còn gần đây thất bại là do đợt phát hành lại huy động vốn trong các doanh nghiệp. Nhà nước, lực lượng vũ trang, đây chính là hình thức dùng tiền nhà nước lại cho nhà nước vay. Hơn nữa muốn cho tín dụng nhà nước hoạt động có hiệu quả thì cần phải có thị trường chứng khoán, mà ở Việt Nam chưa có thị trường chứng khoán hoạt động theo đúng nghĩa của nó. Do đó không tạo ra được sự biến động của thị giá, vì vậy không kích thích được các nhà đầu tư. Tại Việt Nam, mua công trái là sự bắt buộc đối với người dân, họ có thói quen gửi tiết kiệm hơn là mua công trái, mặc dù mua công trái và gửi tiết kiệm là như nhau. Hơn nữa việc phát hành công trái ở Việt Nam thường gắn với một mục đích màu sắc chính trị (mua công trái là yêu nước) mà công chúng không phải ai cũng thích chính trị, những việc làm về chính trị. Và một điểm nữa khiến cho tín dụng 41 nhà nước không được dân chúng chấp nhận nhiều đó là họ còn thấy được những chi tiêu của nhà nước là chưa hiệu quả và chứa đựng những hiện tượng tiêu cực. Do đó muốn phát triển tín dụng nhà nước là còn nhiều khó khăn, đòi hỏi chính phủ phải đề ra những chủ trương, chính sách hợp lý về kinh tế cũng như về mặt chính trị xã hội. IV. TÍN DỤNG THUÊ MUA. Tín dụng thuê mua là một nghiệp vụ tài trợ vốn đầu tư vào tài sản. ở Việt Nam nhằm tạo ra kênh tín dụng mới để hỗ trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị công nghệ trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước, chính phủ đã có nghị định 64/cp ngày 09/10/1995 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam. Các công ty này đã hoạt động và tiến hành nhiều giao dịch thuê mua. Tuy vậy nhìn tổng thể có thể thấy, mặc dù nhu cầu thuê máy móc thiết bị của các doanh nghiệp là rất lớn song ngành nghề thuê mua chưa đủ cơ hội để phát triển. Nguyên nhân: Thứ nhất, tín dụng thuê mua là lĩnh vực hoàn toàn mới du nhập vào Việt Nam; Thứ hai, các định chế chủ thể của thị trường tín dụng thuê mua (công ty cho thuê tài chính) để hình thành và phát triển phải có vốn lớn trong khi nhìn chung 42 định chế tài chính và các doanh nghiệp Việt Nam với thực trạng tài sản có rất nhỏ. Điều đó đã làm xuất hiện mô hình công ty thuê ttài chính với nước ngoài. Song để tạo ra loại công ty này, không thể một sớm, một chiều có thể làm được. Thứ ba, do trong giai đoạn thử nghiệm, chúng ta chưa thể tạo lập một cơ chế thật sự khả thi để tín dụng thuê mua phát triển. Do những nguyên nhân trên mà cần có những giải pháp để phát triển tín dụng thuê mua. 1. Về phía đi thuê. Để mở rộng thị phần và phân tán rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng thuê mua cần đa dạng hoá đối tượng đi thuê. 2. Đối với công ty cho thuê tài chính, có thể là các thể nhân, doanh nghiệp tư nhân, hoặc các công ty. Tuy nhiên, các công ty cho thuê tài chính phải có sự chi phối về vốn của tổ chức tín dụng tham gia. Đây là yêu cầu có tính bắt buộc để tránh rủi ro cho thị trường tín dụng thuê mua ở Việt Nam mới phát triển bước đầu. 3. Trong điều kiện nước ta, nhũng năm trước mắt, các công ty cho thuê tài chính chủ yếu dựa vào nhập khẩu để tạo nguồn tài sản cho thuê. 4. Do đồng tiền Việt Nam chưa thể chuyển đổi, tỷ giá với ngoại tệ thường biến động, bởi vậy việc áp dụng đồng tiền trong thanh toán hợp đồng tín dụng thuê mua là cần xem xét sao cho phù hợp. 43 44 KẾT LUẬN Qua việc phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy quan hệ tín dụng rất đa dạng và phong phu. Tuy nhiên, tình hình phát triển của mỗi loại tín dụngtrong nền kinh tế là khác nhau. Bởi vậy cần có nhiều giải pháp để nâng cao, mở rộng các loại hình tín dụng đó. Chúng ta đều biết tín dụng là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Do đó, tín dụng ra đời là một tất yếu, nhưng không phải vì thế mà chúng ta tất yếu để no phát triển một cách tự nhiên. Chúng ta cần đưa nó vào những quy luật để phục vụ cho nhu cầu của chính chúng ta. Và chúng ta ngày càng phải hoàn thiện và phát triển các quan hệ tín dụng đó.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Tín dụng và các hình thức trong nền kinh tế thị trường.pdf
Luận văn liên quan