Luận văn Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay

Ngày nay, khi mà xu hướng toàn cầu hóa đang có mặt trên khắp các quốc gia và đất nước ta đang có những biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội thì tín ngưỡng thờ Mẫu cũng đang có những thay đổi cả về mặt lý luận lẫn nhận thức. Tuy nhiên, những thay đổi đó có kèm theo cả xu hướng tiến gần tới những hiện tượng mê tín dị đoan, xu hướng thương mại hóa tín ngưỡng. Song xu hướng chính vẫn là đưa hình thức sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành hoạt động mang tính văn hóa và xã hội, trở thành nét đẹp truyền thống dân gian trong sinh hoạt cộng đồng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.

pdf90 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 9510 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à khi nào Tam phủ trở thành Tứ phủ. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra thời gian xuất hiện của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ. Những năm gần đây, tín ngưỡng thờ Mẫu tạo ra những lễ hội của nhiều địa phương, biểu hiện của xu hướng trở lại với nền văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, nét riêng trong sinh hoạt của tín ngưỡng thờ Mẫu đó là nghi lễ “hầu đồng”(hầu bóng) ở các đền, phủ, điện… Trước kia các hoạt động này được coi là mê tín dị đoan, nhưng nay hầu đồng(hầu bóng) diễn ra công khai cả ban ngày lẫn ban đêm ở nhiều nơi. Hiện nay, còn nhiều ý kiến khác nhau về cách nhìn nhận, đánh giá về hiện tượng hầu đồng(hầu bóng). Vậy vấn đề hầu đồng nên đánh giá và ứng xử như thế nào? Chúng ta đã biết, ở các trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh như Phủ Dầy, Đền Sòng các lễ hội được tổ chức hàng năm thường vào một thời gian cố định. Trong lễ hội bao giờ cũng gồm hai phần đó là phần lễ và phần hội. Tuy nhiên, có một trung tâm thờ Mẫu Tứ phủ là Phủ Tây Hồ (Hà Nội) đã từ lâu hàng năm không có lên đồng và lễ hội như ở Đền Sòng hay Phủ Dầy. Đây cũng là một vấn đề cần được xem xét? Xã hội ngày càng phát triển, quan hệ giao lưu được mở rộng, Kinh tế thị trường ngày càng lan rộng vào hệ thống tín ngưỡng và tôn giáo. Tín ngưỡng thờ Mẫu trên thực tế với những biến dạng xa dần hiện tượng gốc của thờ Mẫu. Nội dung thờ cúng trong tín ngưỡng thờ Mẫu rất phong phú, liên quan đến các đối tượng cử lễ và phần “Hội” trong những lễ hội thờ Mẫu có phần mờ nhạt hơn phần “Lễ” và đây cũng là cơ sở để những phần tử mê tín dị đoan có cơ hội phát triển. Một nhà nghiên cứu đã viết về tín ngưỡng thờ Mẫu như sau:“ đạo thờ Mẫu mang trên mình nó không ít những bụi bậm, vấy bẩn, nhảm nhí,… làm che lấp đi một biểu tượng đẹp của con người Việt Nam cổ truyền. ” [42, tr.23]. Nhiệm vụ của chúng ta là làm thế nào để trả lại những giá trị văn hóa và giá trị tâm linh đích thực của tín ngưỡng thờ Mẫu và loại bỏ những yếu tố tiêu cực nảy sinh từ tín ngưỡng thờ Mẫu. Chương 3 Những giải pháp và kiến nghị cơ bản đối với Tín ngưỡng thờ Mẫu ở một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ hiện nay 3.1. Xu hướng biến đổi của Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ đã có từ rất lâu, nó đã ăn sâu bám rễ vào đời sống tinh thần của người dân từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trước kia, tín ngưỡng thờ Mẫu có một thời gian bị coi là hiện tượng mê tín dị đoan, bị coi nhẹ. Nhưng hiện nay, loại hình tín ngưỡng này lại đang có xu hướng phục hồi và phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Các cơ sở thờ tự Mẫu đều được sửa sang bề thế, khang trang trên nguyên tắc bảo tồn các kiến trúc cổ có từ trước. Các lễ hội dân gian truyền thống của tín ngưỡng thờ Mẫu được phục hồi và tổ chức định kỳ, thu hút nhiều khách thập phương. Bên cạnh đó, các hủ tục cũ cũng bùng ra cùng với một số hủ tục mới và nó có mặt ở khắp mọi nơi. Kể từ khi có nghị quyết 24 “Về tăng cường công tác Tôn giáo trong tình hình mới” năm 1990 thì tín ngưỡng thờ Mẫu đang có những sự thay đổi trên cả phương diện nhận thức, cũng như hoạt động thực tiễn. Chúng ta đã biết, tín ngưỡng thờ Mẫu đang dần phục hồi và phát triển cùng công cuộc đổi mới toàn diện của đảng. Nhưng sự phục hồi và phát triển đó đang nổi lên có xu hướng tập hợp các nữ thần có nguồn gốc từ các tôn giáo khác nhau. đó là kiểu đan ghép, tuân thủ xu thế hòa nhi bất đồng và “ảnh hưởng của kinh tế thị trường, tục thờ thần Tài …làm nảy sinh ra hiện tượng biến các nữ thần, thánh vốn liêm khiết thành kẻ cho vay nặng lãi, vay một trả mười, dùng cả đô la âm phủ, như hiện tượng bà Chúa Kho (Bắc Ninh)” [50, tr.321]. Tín ngưỡng thờ Mẫu đang có xu hướng Mẫu át Phật ở một số nơi, đa số các ngôi chùa ở đồng bằng Bắc bộ đều có điện thờ Mẫu. Trong đó, điện thần cũng có cách thức phối tự các ngôi đền, Phủ …và hiện tượng phổ biến nhất hiện nay là “ tiền Phật, hậu Mẫu ”, Quan Âm trong Phật giáo ấn độ là nam thần, sang đến Việt Nam bị “mẫu hóa” thành “Phật bà Quan Âm” và các “Mẫu ”ngự trong khuôn viên chùa Việt Nam nói chung và ở đồng bằng Bắc bộ nói riêng dường như là một kết cấu thống nhất. Nếu vì một lý do nào đó mà chùa nào chưa có nhà hay gian thờ Mẫu riêng ngay cạnh lối đi trong chùa thì các đệ tử của tín ngưỡng Mẫu và dân chúng quanh vùng đều có ý thức phải cố gắng xây dựng càng nhanh càng tốt. Thông thường thì nơi thờ Mẫu được thi công cùng lúc với khi xây dựng chùa. Ngoài ra, với cái lợi trước mắt một nơi đã bỏ vốn xây dựng, tu sửa cơ sở thờ tự để thu hút “hầu bao” tiền cúng công đức của khách thập phương. Mặt khác, các “con nhang”, “đệ tử” của Mẫu hầu hết là người làm ăn buôn bán. Vì vậy, họ không ngần ngại trong việc đóng góp vào việc xây dựng và sửa chữa nơi thờ tự các Thánh Mẫu. Ngày nay, khi xã hội đang có những biến đổi sâu sắc về kinh tế-chính trị, xã hội - văn hóa thì hình thức hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta vẫn duy trì, phát triển và có những biểu hiện khá phức tạp. Tín ngưỡng thờ Mẫu đang có xu hướng tiến gần tới mê tín dị đoan. Tuy nhiên, xu hướng chính và chủ đạo của tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng là một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng trong cộng đồng và được biểu hiện như một hoạt động mang tính xã hội, giáo dục. Xu hướng lịch sử hóa, huyền thoại hóa các nhân vật lịch sử trong các hiện tượng tín ngưỡng là xu hướng chủ đạo, là quy luật của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng nằm trong xu hướng đó, nếu không gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước thì không thể tồn tại lâu dài trong nhân gian được. Có một hiện tượng nổi bật của tín ngưỡng Việt Nam sau thời kỳ đổi mới, đó là Bà Chúa Kho(Bắc Ninh). Trong quan niệm dân gian hiện nay thì Bà Chúa Kho: “ chưa được tôn Thánh, nhưng lòng ngưỡng mộ của dân chúng đối với bà thật là kỳ diệu…đền Bà Chúa Kho đã trở thành trung tâm thờ cúng tầm cỡ quốc gia” [29, tr.86-87]. Bà Chúa Kho không phải là một nhân vật được nghi chép trong chính sử, mà chỉ được lưu truyền trong dân gian, Bà được gắn với thể chế nhà nước phong kiến Việt Nam. Theo GS.TS Ngô đức Thịnh thì những tư liệu và truyền thuyết thu thập được về Bà Chúa Kho cũng ít nhiều liên quan tới tục thờ Mẹ lúa nguyên thủy, và ông đã đưa ra một giả thuyết cho rằng: “nguồn cội ban đầu của Bà Chúa Kho là nữ thần mẹ lúa” [ 45, tr.151]. Từ những năm 1990 trở lại đây, như mọi người đều biết xu hướng thờ cúng Bà Chúa Kho(Bắc Ninh) nổi lên như một điển hình của tín ngưỡng dân gian Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Di tích đền Bà Chúa Kho vốn nhỏ bé và có phần tĩnh lặng xưa kia, nay đã thay da đổi thịt nhộn nhịp hẳn lên….Và những người đến cầu khấn không còn là những nông dân như trước kia, mà nay chủ yếu là thương nhân, thị dân, viên chức nhà nước. Tác giả viết: “một tín ngưỡng ban đầu mang tính hướng nội của cộng đồng làng xã nay trở thành một tín ngưỡng mang tính hướng ngoại, tức chủ yếu phục vụ cho những người bên ngoài cộng đồng” [45, tr.152]. Ngày nay, nhiều nơi trên đất nước ta, nhân dân đã lập đền để thờ các vị nữ anh hùng dân tộc trong lịch sử như Bà Triệu, Bùi Thị Xuân, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Định... Bên cạnh đó, trong tâm thức của người dân, các Mẫu luôn luôn ở gần con người, thậm chí ở ngay xóm làng, với mục đích là đáp ứng những nhu cầu tinh thần cho xóm làng. Ví dụ, ở Yên Thế, nơi thờ vợ ba của Hoàng Hoa Thám, một nữ anh hùng dân tộc của đầu thế kỷ XX, đã trở thành Mẫu và làm tăng thêm danh mục thờ Mẫu ở nước ta. Cùng với xu hướng thiên về mê tín dị đoan là xu hướng thiên về hình thức, phô trương gây lãng phí của cải và thời gian trong nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu. Ví dụ. Khi đến các Phủ, Đền …để lễ các Thánh Mẫu có người mua rất nhiều thứ vàng mã đắt tiền, với những mâm cỗ chay, mặn cao ngất. Thậm chí có người còn bỏ nhiều tiền để lập một hay nhiều giá đồng với nhiều mục đích khác nhau. Ngoài những xu hướng trên, tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ còn tồn tại một xu hướng nữa đó là xu hướng “ thiết chế hóa” trong hệ thống lễ hội của loại hình tín ngưỡng này. Chúng ta biết rằng trong một lễ hội, nhất là một lễ hội thờ Mẫu truyền thống từ rất xưa của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ thì bản thân những nhân tố “bên trong” còn bị ảnh hưởng bởi nhân tố “bên ngoài”, đó là những ảnh hưởng của các thể chế nhà nước thuộc các chế độ chính trị đương thời đang tồn tại. Các tác động, ảnh hưởng ấy một mặt là yếu tố văn hóa truyền thống có được từ hàng ngàn năm, mặt khác nó lại mang yếu tố “ngoại sinh” vì nó được chi phối nhiều của quá trình “thiết chế hóa” của hệ thống lễ hội nói chung, với mục đích làm cho các lễ hội của loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu này không chỉ dừng lại là những sinh hoạt văn hóa dân gian thông thường mà dần từng bước sẽ trở thành những thiết chế văn hóa với những chức năng xã hội ngày càng được xác định rõ ràng bằng một cơ chế tổ chức, cơ sở vật chất, cơ sở thờ tự và sinh hoạt đặc thù của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay. 3.2. Những giải Giải pháp chủ yếu 3.2.1. Một số vấn đề cần làm rõ trong hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay ở đồng bằng Bắc bộ Trước khi đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy những giá trị tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu. Chúng ta nên nhận thức đúng đắn, toàn diện và khách quan về sự tồn tại lâu dài của tín ngưỡng nói chung, tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng trong xã hội hiện nay cùng với nhân loại giống như các thành tố khác của thượng tầng kiến trúc và những thành tựu văn hóa khác. Tín ngưỡng thờ Mẫu còn là một vấn đề văn hóa - xã hội có cơ sở vật chất (đền, chùa, phủ…)và cơ sở xã hội (trong tâm thức bao đời của người dân từ trước đến nay “Mẫu ”đã ngự trị trong họ) để tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng thờ Mẫu còn được nuôi dưỡng và lan tỏa trong xã hội nhất là những năm gần đây từ khi Đảng và nhà nước ta có cách nhìn nhận mới với bình diện rộng hơn thì tâm thức về tín ngưỡng lại càng có cơ sở để thâm nhập, tồn tại lâu dài trong cá nhân và xã hội. Thực tiễn xã hội còn có nhiều hiện tượng mà con người chưa giải thích, khám ra được hết và thế giới là vô hạn mà khả năng con người có giới hạn. Mặt khác, con người luôn phải tìm cách đấu tranh với những hiểm họa do thiên nhiên mang lại như: động đất, sóng thần, bão lũ.... Cho nên con người phải tìm đến những lực lượng thần thánh ngoài bản thân mình. Đây chính là mảnh đất để tín ngưỡng nảy nở, sinh sôi, trong đó có cả mê tín dị đoan. Theo G.S Đặng Nghiêm Vạn thì: Sự may rủi trong cuộc sống ở một thời đại cạnh tranh, mạnh được yếu thua….tất cả những điều trên hướng con người muốn tìm lại phút thảnh thơi trong cuộc sống gần thiên nhiên thủa xưa …Trở về với lịch sử để tìm một lối thoát cho tương lai. Đó là nhu cầu của con người thời hiện đại [38, tr.62]. Đúng như GS Đặng Nghiêm Vạn đã nhận xét ở trên, những năm gần đây một số lễ hội và cơ sở thờ tự đã được nhân dân và Nhà nước quan tâm, hướng dẫn đã phục hồi trở lại như lễ hội Đền Hùng, Lễ hội Phủ Dầy…Đây là việc làm cần thiết và nên tổ chức bởi vì nó làm thức dậy lòng yêu quê hương đất nước, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc… Chúng ta nên duy trì và phát triển: “ Những hoạt động tín ngưỡng và lễ hội ứng đáp những yêu cầu trên: Giữ gìn bản sắc dân tộc và tạo nên những phút bình thản để tưởng nhớ lại quá khứ và tổ tiên” [38, tr.63]. Khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch càng có cơ hội xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội và những người cộng sản. Chúng cho rằng, họ là những người vi phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của con người và những người Mác xít không bao giờ chấp nhận bất cứ một thứ tín ngưỡng hay tôn giáo nào. Điều này thật vô lý, ví dụ ở Việt Nam: Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân ngay từ những ngày đầu thành lập và đến tận ngày nay, nó được thể hiện bằng Hiến pháp, các văn bản luật và dưới luật. Đảng ta luôn coi tín ngưỡng, tôn giáo còn tồn tại lâu dài và là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Tại nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng có nêu: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[11, tr.48]. Ngay ở đất nước chủ nghĩa xã hội Cu Ba anh em, cũng có quan điểm giống chúng ta, đó là tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân. Theo Chủ tịch Fidel thì: “người ta có thể là một người Mác xít mà không phải từ bỏ niềm tin Kitô giáo của mình và có thể kết hợp với người cộng sản Mác xít để biến đổi thế giới… ” [48, tr.289]. Chủ tịch Fidel còn cho rằng: Xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa còn tìm cách phát triển đời sống tinh thần của con người. Ông nhấn mạnh: “Chúng tôi tìm cách phát triển rộng rãi hơn các mặt vật chất và tinh thần của con người…Hơn nữa, anh có thể kể thêm cả sự phát triển tinh thần theo nghĩa tôn giáo nữa. Chúng tôi đã đặt thành một nguyên tắc là cá nhân phải có tự do và khả năng này” [48, tr.291]. Như vậy, tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng là một sinh hoạt tư tưởng của quần chúng nhân dân, nó như là biểu hiện cụ thể trong một bộ phận tự do tinh thần của con người. Tiếp theo, chúng ta nên làm rõ khái niệm hầu bóng(hầu đồng), để đưa ra những giải pháp và kiến nghị sát với thực tế của tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay ở đồng bằng Bắc bộ. Khái niệm hầu đồng (hầu bóng) được tác giả luận văn hiểu là: “đồng ” là gốc chữ Hán chỉ người con trai nhỏ(ít tuổi) với tư chất trong trắng, ngây thơ để thần linh có thể nhập vào. Tuy nhiên, có một cách giải thích khác về Hầu bóng đó là: “Bóng đây là bóng Thánh. Người ngồi đồng chỉ là cái Ghế của Thánh. Thánh là Cốt. Ghế là Đồng. Nhưng Ghế hoàn toàn không phải là một thứ vật chất không tư duy, không tình cảm” [28, tr.502]. Và ở cách giải thích này thì tác giả Đặng Văn Lung cho rằng: Đồng vốn có nghĩa gốc là Đều Cùng. Thánh và Ghế hòa hợp thì gọi là giá đồng. Xuất phát từ việc thông qua một giá đồng làm trung gian - cầu nối để con người có thể tiếp xúc với thế giới thần linh, nơi mà con người hy vọng và nghĩ rằng có thể giải quyết những ước vọng và những bế tắc của họ. Hoặc: “Hầu bóng - từ “bóng” chỉ vị thần linh nào đó chiếu nhập cái bóng (hồn) của mình vào ông đồng hay bà đồng và những ông bà đồng này chỉ là những người hầu hạ cái bóng thần linh ấy ” [43, tr.48]. Như vậy, ta có thể hiểu Hầu đồng hay hầu bóng: “ Là hiện tượng nhập hồn nhiều lần của một vị thần linh. Trong đó mỗi vị thần linh nhập hồn (ốp đồng, giáng đồng), rồi làm việc quan (thời gian thực hiện các nghi lễ, nhảy múa, ban lộc, phán truyền) và xuất hồn (thăng đồng), được gọi là một giá đồng ” [41,tr.27-28]. Hầu bóng như sinh hoạt văn hóa tâm linh cần tôn trọng, còn đồng bóng biểu hiện tính chất cuồng tín, nhảm nhí … của một số người làm nghề đồng bóng khi lợi dụng tâm lý những người nhẹ dạ, cả tin, những người hay gặp trắc trở trong cuộc sống…để họ phải sắm lễ giải hạn, làm con nuôi của thánh, lập bùa giải vận hạn…Những việc này mất khá nhiều tiền của và công sức vì thế nên bài trừ. Để an toàn cho mỗi người, chấm dứt hiện tượng mê tín dị đoan và để đảm bảo an toàn cho xã hội, chúng ta không thể tìm mọi cách ngăn chặn mọi con đường tìm đến với tín ngưỡng. Bởi vì, tín ngưỡng là nhu cầu tâm linh cần thiết của con người trong xã hội loài người. Hiện nay, vẫn còn có các quan điểm khác nhau về vần đề “hầu bóng” trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. Có quan điểm cho rằng đây là hiện tượng mê tín dị đoan, nhưng có ý kiến khác lại coi đây chỉ là hiện tượng bình thường của một tín ngưỡng dân gian không bị coi là mê tín dị đoan. Thực ra, vấn đề nhiều cấp lãnh đạo và nhiều người băn khoăn hiện nay không phải là việc mở hội mà chính phần “lễ” của loại hình tín ngưỡng này liên quan đến nghi thức hầu đồng. Để góp phần vào việc loại trừ hiện tượng mê tín dị đoan trong tín ngưỡng thờ Mẫu, theo tác giả luận văn nên chăng phải có qui định rõ về hoạt động trong nghi lễ hầu đồng. Có thể chia ra thành: Loại 1: Hầu đồng thể hiện tính chất saman, phù thủy phương hại đến: Một là, môi trường sinh thái như đốt và đổ vàng mã nhang đèn làm ô nhiễm môi trường. Hai là, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Đó là hình thức chữa bệnh bằng các loại bùa chú, nước thải… Ba là, ảnh hưởng đến kinh tế, sản xuất và tâm lý của cộng đồng. Nhiều khi có người phải bỏ một số tiền quá lớn ngoài khả năng của mình để theo một giá đồng, hoặc lợi dụng thế lực của thần thánh qua mối giao hòa bí ẩn giữa những “ông đồng”, “bà đồng” với những vị thần thánh do họ dựng nên. Mục đích là tạo ra những dự báo, những vấn đề có ảnh hưởng đến nhiều mặt của cuộc sống người khác. Bốn là, ổn định xã hội. Giải thích và phán xét những hiện tượng, nguyên nhân sự việc trong mối quan hệ cộng đồng thiếu chứng lý khoa học, nhiều khi còn phản khoa học. Bởi vì, chỉ dựa vào ngôn ngữ và danh nghĩa thần thánh. Loại 2: Hầu đồng thể hiện tính chất saman, phù thủy không phương hại đến: Môi trường sinh thái, sức khỏe cộng đồng, kinh tế, sản xuất, tinh thần và sự hoang mang trong cộng đồng dân cư. Sau khi chia thành hai loại như trên, nếu ai đó vi phạm hoặc có biểu hiện và mang tính chất phương hại như loại 1 thì không cho thực hiện lễ thức hầu đồng. Sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu gắn liền với loại hình nghệ thuật diễn xướng, đó là âm nhạc, hát văn và lên đồng (Hầu đồng). Đây chính là điều dễ làm lan truyền cảm xúc trong quần chúng, là nét văn hóa đậm mầu sắc dân tộc. Tuy nhiên, nó cũng là điểm yếu dễ bị kích động và lợi dụng theo những mục đích khác nhau của nhóm người này, hay nhóm người khác của xã hội và mê tín dị đoan xuất hiện. Để bảo tồn và phát triển các loại hình nghệ thuật trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ, tác giả luận văn xin đưa ra một vài suy nghĩ đối với những cơ sở thờ tự cho phép có sinh hoạt hầu đồng nhưng phải tuân thủ những điều kiện sau: - Điều kiện thứ nhất: Lời lẽ khi hát chầu văn phải được thông qua, tránh những lời mơ mồ về chính trị. Các ông đồng, bà đồng được phép “mời” các thánh về giúp mọi người gặp may mắn, bình an, mưa thuận gió hòa… - Điều kiện thứ hai: Múa thiêng ở mức vừa phải, không làm những trò “ảo thuật” với mục đích lừa bịp những người xung quanh, không có những hành vi vi phạm thuần phong mỹ tục và đặc biệt những người ngồi xung quanh giá đồng không được tham dự. - Điều kiện thứ ba: Múa thiêng chỉ được múa trong phạm vi nhỏ hẹp, không được múa ra khỏi khu vực ban thờ. - Điều kiện thứ tư: Những ông đồng, bà đồng không được phép nhận hoặc ép nộp tiền hay có những lời lẽ làm ảnh hưởng đến vấn đề mê tín dị đoan. 3.2.2. Các giải pháp chung cơ bản * Giải pháp thứ nhất: Có những hình thức tuyên truyền, giáo dục đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng. Đồng thời, chúng ta tìm cách để người dân hiểu và nhận thức được ranh giới giữa sinh hoạt tín ngưỡng với các hoạt động mê tín dị đoan. Mục đích của biện pháp này là giáo dục pháp luật cho mọi người dân để họ hiểu được rằng: Thứ nhất, mọi người dân đều có quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Thứ hai, kiên quyết xử lý nghiêm những kẻ lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá vỡ sự ổn định chính trị - xã hội, gây rối trật tự công cộng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc… Tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần thiết yếu của một bộ phận dân cư, nó đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc Việt Nam trong quá trình xây dựng đất nước Việt Nam dân chủ, văn minh, hiện đại, giầu mạnh và tươi đẹp. Tự do tín ngưỡng đã được xác định ngay từ những năm đầu lập quốc và được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946, cũng như sau này nội hàm về tự do tín ngưỡng đã được mở rộng, tiếp tục được ghi nhận và phát triển trong các bản Hiến pháp. Những năm gần đây, một số văn bản pháp luật tiếp tục cụ thể hóa tư tưởng của Hiến pháp nước ta về tín ngưỡng và tôn giáo như: Nghị quyết số 25 -NQ/TW ngày 12-3-2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của ủy ban thường vụ Quốc hội (2004) … Ngoài ra chúng ta phải có kế hoạch, biện pháp tuyên truyền những văn bản luật, dưới luật…xuống tận người dân để họ hiểu được chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Về mặt đường lối, chúng ta đã có chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng được ban bố công khai và ngày càng cụ thể hóa. Chính sách tôn giáo, tín ngưỡng đó đều xuất phát từ nhận thức khoa học, cơ sở lý luận khách quan và căn cứ vào từng nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn …nên sát và đúng đắn. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là việc thấm nhuần nội dung và ý nghĩa của chính sách đó lại không được lưu tâm đầy đủ đúng mức. Thực tế tín ngưỡng ở vùng đồng bằng Bắc bộ là đa dạng và phong phú, bên cạnh đời sống vật chất của người dân ngày càng được cải thiện. Vì thế, người dân ngày càng quan tâm đến đời sống tinh thần trong đó có đời sống tâm linh và đời sống tâm linh của người dân được thể hiện dưới nhiều hình thức, cách thức khác nhau. Không ít người cho rằng, nếu có trình độ kinh tế và văn hóa cao sẽ không còn vấn đề tín ngưỡng. Điều này dễ dẫn đến sự vi phạm sự tự do tín ngưỡng của người khác hoặc không ngăn chặn ảnh hưởng của mê tín dị đoan. Một vấn đề cần quan tâm nữa là, chúng ta phải làm cho cán bộ và nhân dân hiểu và nhận thức đúng, đầy đủ thế nào là tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng; tầm quan trọng của việc bài trừ mê tín dị đoan là việc làm cần thiết như thế nào. Cần kiên trì giáo dục, hạn chế những yếu tố thiếu lành mạnh, mê tín dị đoan trong nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu như: “Thầy đồng tỉnh như sáo, thuốc lá phì phèo, hay lấy tiền một giá hàng triệu đồng. Nhưng nếu hậu quả gây ra điều có hại cho đối tượng thì pháp luật phải can thiệp” [38, tr.65]. Ngoài việc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, chúng ta cũng cần làm cho mọi người thấy rõ những nguy hại của việc lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng để hoạt động chia rẽ dân tộc, tổn hại đến tính mạng …Đảng và Nhà nước ta còn qui định và hướng dẫn các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng theo đúng qui định của pháp luật. Chúng ta phải tuyên truyền, giáo dục người dân để họ hiểu rằng: Nhà nước Việt Nam sẽ kiên quyết xử lý nghiêm những kẻ lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá vỡ sự ổn định chính trị - xã hội, gây rối trật tự công cộng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc… Trong văn kiện đại hội IV của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1976 có ghi: “…chống những hoạt động lợi dụng tôn giáo để làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ”[9, tr.161]. Đến Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX (2003) cũng nghi: “Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” [11, tr.49]. Ngày nay, trong lĩnh vực tín ngưỡng, nhất là tín ngưỡng thờ Mẫu, các hiện tượng mê tín dị đoan đang có xu hướng phát triển và lan tràn, đan xen vào các hoạt động tín ngưỡng và các lễ hội dân gian. Vì vậy, cần phải đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan. Vấn đề bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan đã được đề cập rất nhiều trong các nghị quyết, thông tư (nhất là ngành văn hóa). Gần đây, tại nghị quyết số 25 - NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng cũng nêu: “Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan…”[11, tr.49]. * Giải pháp thứ hai: Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Mục đích của biện pháp này là nâng cao trình độ nhận thức về văn hóa, khoa học, kỹ thuật…từ đó phân biệt được cái đúng, cái sai, cái hay, cái dở…để rồi tự giác loại những hiện tượng tiêu cực và phát huy những yếu tố tích cực trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay. Con người luôn theo đuổi những hoạt động có mục đích nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình. Con người luôn không tự hài lòng và thỏa mãn với những gì mình đang có và trong cuộc sống họ luôn vươn tới những gì tốt đẹp. Khi những mong muốn, những nhu cầu của con người không được thỏa mãn trong đời sống vật chất và cả trong đời sống tinh thần thì họ nảy sinh nhu cầu cứu giúp, sự phù hộ độ trì của các bậc thần thánh. Tuy nhiên, nếu thực hiện việc lễ bái ở mức thái quá sẽ dẫn tới những hành vi tiêu cực. Để hạn chế những tiêu cực trong tín ngưỡng thờ Mẫu, chúng ta phải từng bước nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, phải bảo bảo các nhu cầu ăn, mặc, ở, việc làm…cho nhân dân. Đồng thời phải khai thác triệt để những thế mạnh ở đồng bằng Bắc bộ như: Các làng nghề truyền thống, đất đai đồng ruộng phì nhiêu, có đội ngũ lao động đông đảo vừa có kinh nghiệm vừa có tri thức, phát huy hết công suất ở các khu công nghiệp thuộc đồng bằng Bắc bộ…Từ đó người dân có điều kiện nâng cao văn hóa, hiểu biết khoa học, thoát khỏi những hủ tục lạc hậu, những tư tưởng mê tín dị đoan. Không chỉ dừng lại ở việc nâng cao đời sống vật chất, còn phải đồng thời nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Chăm lo, xây dựng đời sống tinh thần cho nhân dân, dựa trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại, hòa đồng nhưng không hòa tan… Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân nhưng có sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo quyền tự do, dân chủ của nhân dân…Khôi phục những lễ hội truyền thống nhằm phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ như: Tính hướng thiện của con người. Khi con nhang, đệ tử đi vào đền phủ, chùa đều thành tâm và sự thành tâm này chính là tấm lòng chân thành của con người kính mộ các vị thánh thần. Trong khi hát chầu văn sự hướng thiện hay tính giáo dục con người phải sống có nghĩa, trọng nghĩa hơn tiền bạc, có lòng vị tha, ở hiền gặp lành… Ngoài ra, cần phải nâng cao trình độ nhận thức của quần chúng nhân dân về mọi mặt như: Nâng cao trình độ văn hóa, sự hiểu biết về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao nhận thức đúng đắn về tín ngưỡng, tôn giáo và đường lối, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về quyền tự do tín ngưỡng của mọi người dân. Đồng thời giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, lòng yêu nước, bản sắc văn hóa …của dân tộc ta. * Giải pháp thứ ba: Xây dựng môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh. Cụ thể là xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh tại các công trình tín ngưỡng thờ Mẫu. Mục đích của biện pháp thứ ba này là tạo ra một môi trường của tín ngưỡng thờ Mẫu lành mạnh trong lễ hội và những nghi thức thờ cúng trong tín ngưỡng từ đó, giảm mạnh những yếu tố tiêu cực, mê tín dị đoan trong xã hội. Xây dựng môi trường văn hóa- xã hội lành mạnh trong cơ sở tín ngưỡng đã được đặt ra thành các chương trình hành động quốc gia do Bộ Văn hóa Thông tin đảm nhận. Tuy nhiên, đây là vấn đề khó khăn, phức tạp nên cần dứt điểm từng giai đoạn, có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các ngành có liên quan từ trung ương tới địa phương. Chúng ta không quên bồi dưỡng kiến thức khoa học, bồi dưỡng về chủ nghĩa vô thần để hướng các hoạt động tín ngưỡng vào việc xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần xây dựng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại đền, phủ, miếu … những nơi thờ Mẫu là nơi thu hút nhiều người tham gia sinh hoạt tâm linh, sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Muốn có một môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh thì ngay từ những nơi này phải có những qui hoạch sắp xếp, hướng dẫn và quản lý của các cấp chính quyền. Xây dựng môi trương văn hóa - xã hội lành mạnh và lưu giữ nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc cùng với lễ hội truyền thống của dân tộc ta. Chúng ta phải biết kết hợp ba yếu tố: Tính tín ngưỡng, tính văn hóa và tính dân tộc. Lễ là nguyên nhân thứ nhất dẫn đến việc hình thành hội trong các lễ hội. Muốn phát triển nhiều hơn yếu tố hội, nhưng nếu mất đi những yếu tố truyền thống dân tộc và tính tín ngưỡng hay tính “thiêng” của lễ, thì hội cũng khó mà tồn tại được lâu dài. Trong những lễ hội dân gian, bao giờ cũng đan xen yếu tố mê tín dị đoan. Để nhận thức đúng đắn về tín ngưỡng và phân biệt nó với mê tín dị đoan là một vấn đề không đơn giản. Vì thế, chúng ta phải khéo léo, mềm dẻo nhưng không mất đi tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời phải cảnh giác và đấu tranh với những âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. * Giải pháp thứ tư: Kết hợp giữa biện pháp tuyên truyền và giáo dục với biện pháp tổ chức, quản lý hành chính. Mục đích của giải pháp này: Kết hợp tăng cường giáo dục nhận thức với biện pháp tổ chức quản lý hành chính thì mới đạt hiệu quả cao. Để có hiệu quả cao trong biện pháp này chúng ta cần kết hợp với công tác phổ biến thế giới quan khoa học trong quần chúng, trước hết là đội ngũ thanh thiếu niên, thông qua đoàn thể, nhà trường, …để chúng ta chủ động và nghiên cứu chính diện những tư tưởng nhân sinh quan trong lĩnh vực tín ngưỡng. Tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng nhân dân nhận thức được hai mặt trong hoạt động tín ngưỡng, từ đó họ có thái độ đối xử đúng đắn và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng. Chúng ta đã biết, tín ngưỡng là sản phẩm của con người,vì vậy bản thân tín ngưỡng không có yếu tố tiêu cực hay tích cực mà chỉ do con người sử dụng và đối xử với nó như thế nào. Trong biện pháp này, chúng ta cần tuyên truyền, giáo dục để mọi người hiểu được vai trò và ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu với văn hóa - xã hội, tinh thần…đồng thời phải tôn trọng đời sống tâm linh trong con người. Giải quyết những vấn đề tín ngưỡng, tâm linh phải thực khéo léo và linh hoạt. Tuy nhiên, chúng ta giải quyết không vượt qua giới hạn của Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Cần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện những quy chế, qui định về lễ hội, việc cúng lễ ở các đền chùa…. Các cấp chính quyền cũng cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng, thường xuyên, có hệ thống các chính sách của Nhà nước về tự do tín ngưỡng và lợi dụng tự do tín ngưỡng. Tăng cường công tác quản lý hành chính còn là việc tăng cường hơn nữa chất lượng công tác của cán bộ văn hóa, đặc biệt là cán bộ văn hóa cơ sở hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng. * Giải pháp thứ năm: Tăng cường công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học về tín ngưỡng, tôn giáo. Mục đích của giải pháp này là: Thứ nhất, đào tạo đội ngũ cán bộ các ban ngành từ trung ương xuống địa phương về tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ hai, nghiên cứu các vấn đề đặt ra về tín ngưỡng nói chung, tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng và đưa ra hướng giải quyết. Từ đó, giúp các cơ quan quản lý, các cơ sở thờ tự và các địa phương có hoạt động liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu đưa ra những nhận định, những chủ trương, chính sách… sát với thực tế hiện tại của loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu này. Để giải pháp này được thực hiện, trước tiên chúng ta phải nghiên cứu tiếp và đầu tư cả kiến thức lẫn vật chất vào những vấn đề đang đặt ra về mặt lý luận của tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay, sau đó cần đưa ra những quan điểm rõ ràng thống nhất trong một số hiện tượng của tín ngưỡng thờ Mẫu. Cần mở nhiều lớp học ngắn hạn hơn nữa để cập nhật thông tin, cung cấp kiến thức về tín ngưỡng cho người làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể xây dựng thêm các trung tâm, các học viện, các viện đào tạo và nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo; viết những tài liệu có tính chất tham khảo về loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu. Đưa sách và tài liệu xuống các địa phương cơ sở tham khảo, để có biện pháp quản lý tốt hơn, tránh sự tùy tiện gây khó khăn phức tạp cho việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Hiện nay, đã có một số cơ quan khoa học nghiên cứu về tôn giáo và tín ngưỡng. Năm 1998 Trung tâm nghiên cứu tiềm năng của con người được thành lập với mục đích tìm hiểu, nghiên cứu về cơ thể, khả năng tiềm ẩn của con người nhằm làm sáng tỏ những hiện tượng đã xuất hiện trong thực tế cuộc sống. Đồng thời, trung tâm này ra đời cũng nhằm khai thác hết những khả năng “kỳ diệu” của con người để phục vụ cho lợi ích cộng đồng và xã hội. Đây là một tiến bộ mới trong việc xây dựng tư tưởng khoa học, tiến bộ, nhân văn của Nhà nước ta và cần phát triển thêm nhiều trung tâm nghiên cứu những hiện tượng “kỳ lạ” của con người, để tránh sự giải thích lệch lạc và nghi hoặc của người dân. Chúng ta nên mở rộng hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các nước khác, nhất là với các nước trong khu vực như Trung Quốc về vấn đề tín ngưỡng, mê tín dị đoan nhưng vẫn giữ được nét đẹp trong văn hóa tâm linh. Nhưng khi vận dụng những kinh nghiệm đó phải dựa vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.Ví dụ, Trung Quốc đã phát động phong trào như chống khoa học giả hiệu, đây là một trong những kinh nghiệm mà chúng ta nên nghiên cứu và tìm hiểu để áp dụng ở Việt Nam... Vì tín ngưỡng và tôn giáo sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc. Cho nên, cần phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ phục vụ cho yêu cầu hiện tại mà còn phải đáp ứng cho tương lai. Muốn đạt được điều này cần đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về tín ngưỡng và nghiệp vụ công tác tín ngưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác này. Tóm lại, có thể có rất nhiều giải pháp, nhưng có thể xem năm giải pháp trên là cơ bản. Để hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hoạt động theo hướng tiến bộ, hạn chế những tiêu cực cần thực hiện đồng bộ các giải pháp. Tuy nhiên, để hiện thực hóa những giải pháp trên, phụ thuộc vào từng đặc thù riêng của từng địa phương, cũng cần phải có những biện pháp cụ thể hoặc có thể tập trung ở biện pháp này hay biện pháp khác nhiều hơn. 3.3. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính khả thi của các giải pháp Để những giải pháp trên được thực hiện có hiệu quả và đi vào thực tiễn cuộc sống. Xin đưa ra một vài kiến nghị nhằm nhanh chóng đưa ra những quan điểm, hướng dẫn cụ thể, kịp thời sát thực tế trong công tác tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng, góp phần cụ thể hóa đường lối chủ trương, chính sách tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới. Một số kiến nghị đó là: 3.3.1. Đối với Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa Thông tin và Ban Tôn giáo Chính phủ - Cần thiết phải có quan điểm, thái độ rõ ràng để đưa ra những định hướng chỉ đạo và qui định thống nhất chung trong toàn quốc đối với hiện tượng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, đó là nghi thức hầu đồng. - Nhà nước hãy tiếp tục cho phép mở những lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu được tổ chức thường xuyên hàng năm như ở Phủ Dầy hay Đền Sòng. Thời gian lễ hội diễn ra không quá dài (tối đa 3 này) tránh lãng phí và tốn kém nhưng vẫn cần trang trọng, vui vẻ và giữ được hình thức sinh hoạt tín ngưỡng chung thiêng liêng của cả cộng đồng dân cư. - Bộ Văn hóa Thông tin cần kết hợp với Ban Tôn giáo Chính phủ, sở Văn hóa Thông tin các tỉnh, thành phố và các ban ngành, đoàn thể có liên quan có sự phân công, phân định rõ ràng trách nhiệm đảm bảo không chồng chéo nhằm đạt hiệu quả cao trong lĩnh vực tổ chức và quản lý lĩnh vực tín ngưỡng. Mở những cuộc hội thảo khoa học, tăng cường mở những lớp bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn cần thiết trong lĩnh vực tín ngưỡng cho cán bộ và chuyên viên chuyên trách trong công tác nghiên cứu và quản lý ở các địa phương. Tổ chức những cuộc trao đổi kinh nghiệm về tổ chức lễ hội của các địa phương. - Đảng và Nhà nước cũng cần có chính sách bồi dưỡng nghiệp vụ và hình thức ưu đãi đối với những người làm công tác văn hóa cơ sở, trang bị cho họ những phương tiện tối thiểu để họ hoạt động. Đồng thời, đề nghị khen thưởng, xử phạt kịp thời những cán bộ văn hóa hoạt động trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. 3.3.2. Đối với Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và Sở Văn hóa Thông tin các tỉnh, Thành phố - Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, quản lý chặt chẽ hoạt động in ấn, xuất bản trên địa bàn và trên toàn quốc, đưa ra những biện pháp truy tìm và xử lý nghiêm minh những cá nhân, tập thể in và xuất bản các sách mê tín dị đoan vi phạm qui định của Nhà nước. Đồng thời phải có qui định chặt chẽ, thậm chí cấm bầy bán những loại sách hiện đang được bày bán trước đền, phủ như: Sách không có tác giả, không nơi xuất bản, không nơi phát hành, không giá bán… - Phải có những qui định cụ thể về xây dựng, tôn tạo và hoạt động tín ngưỡng tại các cơ sở tư nhân. - Bộ văn hóa Thông tin, Sở văn hóa Thông tin Hà Nội, phòng văn hóa Quận Tây Hồ, các nhà nghiên cứu, cùng các cấp chính quyền và nhân dân nơi có trung tâm thờ Mẫu nổi tiếng là Phủ Tây Hồ hãy nghiên cứu, khảo sát và tìm hiểu để mở lại lễ hội ở Phủ Tây Hồ đáp ứng hoạt động tham gia lễ hội của của người dân. Tuy nhiên, khi mở lễ hội phải lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan nghiên cứu, kinh nghiệm về phương thức tổ chức, quản lý… từ các lễ hội khác như Phủ Dầy (Nam Định) hay Đền Sòng (Thanh Hóa) nhằm gạn đục khơi trong, tìm ra những giá trị nhân văn quí giá trong các nghi thức tín ngưỡng thờ Mẫu. 3.3.3. Đối với phòng Văn hóa thông tin cấp quận, huyện và các cấp chính quyền địa phương sở tại - Thành lập ban quản lý di tích và lễ hội, thành viên trong ban quản lý cũng phải biết ít nhiều về công tác tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay và họ phải nhận thức đúng về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời những người này phải hạn chế đến mức tối đa những sơ xuất về thái độ, cũng như cách thức tiến hành. Từ đó làm cho công tác quản lý đạt được hiệu quả cao. - Đối với ban quản lý di tích và lễ hội, cần có sự quản lý toàn diện cả nội dung và phương thức tiến hành, cả phần lễ, phần hội và kinh phí thu chi. Nhất là vấn đề công khai tài chính. - Đối với các cơ sở thờ tự cần có những phương thức tuyên truyền thần tích, lịch sử ra đời của di tích, truyền thuyết của các nhân vật được thờ phụng, nội dung văn hóa và những qui định của di tích để khách thập phương hiểu rõ những giá trị nhân văn và thực hiện đúng các hoạt động trong sinh hoạt tín ngưỡng của mình. - Vấn đề “hòm công đức”: Thực hiện mỗi đền, phủ, miếu …chỉ được phép đặt một hòm công đức, có ban quản lý theo dõi nghiêm túc. Kết luận Thờ Mẫu ở Việt Nam cho đến nay vẫn còn có những quan niệm khác nhau. Có quan điểm cho rằng đó là một tín ngưỡng, nhưng lại có người cho rằng đó là một đạo, một tục thờ Mẫu. Thế nhưng, phần lớn các nhà nghiên cứu hiện nay coi thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc bản địa. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng gắn với nhiều truyền thống văn hóa dân gian. Nó là một biểu trưng, một hình tượng của đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam và tín ngưỡng này đã có một sức hấp dẫn đặc biệt. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hình thức tín ngưỡng này, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ và cần được nghiên cứu, thảo luận, giải quyết trong đời sống khoa học và trong thực tiễn theo nhiều chiều khác nhau. Đồng bằng Bắc bộ là một vùng có nhiều lễ hội, nhiều loại hình tín ngưỡng khác nhau, phản ánh quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc ta và là nơi sản sinh ra nền văn minh sông Hồng, là nơi tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và Mẫu Tam phủ - Tứ phủ được thể hiện đậm nét. Nó thể hiện triết lý sống, một cách nhìn nhận về vũ trụ, hiện tượng tự nhiên… Tín ngưỡng thờ Mẫu từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, lối sống của người Việt Nam và đã trở thành bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc ta. Nó có nguồn gốc, bản chất giống như những loại hình tín ngưỡng khác song nó có sắc thái riêng với những dấu ấn của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước điển hình và phụ nữ luôn có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Đối với cư dân nông nghiệp xưa, mọi sự vần xoay của vũ trụ và tạo hóa đều được giải thích bằng quan niệm Âm - Dương tương khắc, tương sinh và các yếu tố Đất, Nước, Lúa đều mang âm tính, mang tư cách mẹ. Trong tâm thức của người Việt Nam quan niệm cả nước là một đại gia đình, chung huyết thống tất cả đều do mẹ Âu Cơ sinh ra. Sản phẩm của Nho giáo sinh ra luân lý phụ quyền nhưng theo lẽ tự nhiên của Trời Đất thì mẹ sinh ra con cái, không chỉ có sinh vật mà cả những vật vô tri vô giác cũng đều có Mẹ (Mẹ đất, Mẹ nước, Mẹ lúa, Mẹ rừng…) và có lẽ khởi thủy của xã hội loài người là sống bằng “nguyên lý Mẹ”. Theo sự phát triển muôn màu, muôn vẻ của tín ngưỡng dân gian không theo qui luật định sẵn nào và tư duy huyền thoại chính là chỗ dựa cho người nông dân xưa kia, giúp họ tạo ra các thần linh vốn là các nhiên thần có một đời sống thực, một lý lịch rõ ràng như người trần gian và trong một xã hội lịch sử nào đó và nhiều nữ thần xuất hiện dưới thời vua Hùng và sau đó họ trở thành Thánh Mẫu. Nhờ vào các đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu như Lịch sử hóa, trần gian hóa, huyền thoại hóa mà lòng dân tin tưởng, việc tôn thờ các vị thần nữ cho dù các vị đó xuất thân là nhân thần hay nhiên thần, thuộc tộc người nào có địa vị thế nào đều được phong những tước hiệu cao quí:Thượng đẳng thần, trung đẳng thần …hay Vương Mẫu, Thánh Mẫu… Tín ngưỡng thờ mẹ ngày càng bổ sung thêm nhiều những câu chuyện huyền thoại, chuyện lịch sử …để từ đó dân gian tôn một số Mẹ lên thành Mẫu, Mẫu Tam phủ, Mẫu Tứ phủ và thành tín ngưỡng thờ Mẫu. Mặc dù, đó là thờ Mẫu hay Mẫu Tam phủ - Tứ phủ thì đều bắt nguồn từ hiện tượng thờ nữ thần và đi kèm theo các Thánh Mẫu, còn có một đội quân dưới quyền các Mẫu với những cái tên dân dã như: Cô Ba, cô Bảy, ông Hoàng Cả, ông Hoàng Mười…và người ta còn đưa cả một triều đại vào chầu xung quanh đức Thánh Mẫu như hệ thống các vị thần thuộc triều đại nhà Trần cũng có mặt trong điện thờ Mẫu Tứ phủ. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ thường chứa đựng nhiều yếu tố lịch sử trong buổi đầu dựng nước và giữ nước, truyền thuyết dân gian, đan xen vào đó là những yếu tố của nền văn hóa đặc sắc mang tính chất vùng miền, tính phổ biến và tính đa dạng. Được hình thành từ rất lâu, nên tín ngưỡng thờ Mẫu trong quá trình tồn tại và phát triển đã dung nạp, đan xen nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác. ở đồng bằng Bắc bộ hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu đã trở thành một tín ngưỡng rất gần gũi với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, được nhân dân thờ phụng ở nhiều nơi, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi xuống miền xuôi, trong Nam ngoài Bắc. Vì tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính bình dân, tiểu nông dân dã nên ngày càng thu hút nhiều người, nhiều đối tượng tin và theo thứ tín ngưỡng này. Tín ngưỡng này ngoài những nghi lễ thờ cúng, còn sản sinh nhiều giá trị văn hóa - nghệ thuật, góp phần bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa có giá trị, đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra, tín ngưỡng còn đáp ứng nhu cầu không thể thiếu và khát vọng của đời sống thường nhật của con người. Ngày nay, khi mà xu hướng toàn cầu hóa đang có mặt trên khắp các quốc gia và đất nước ta đang có những biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội thì tín ngưỡng thờ Mẫu cũng đang có những thay đổi cả về mặt lý luận lẫn nhận thức. Tuy nhiên, những thay đổi đó có kèm theo cả xu hướng tiến gần tới những hiện tượng mê tín dị đoan, xu hướng thương mại hóa tín ngưỡng. Song xu hướng chính vẫn là đưa hình thức sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành hoạt động mang tính văn hóa và xã hội, trở thành nét đẹp truyền thống dân gian trong sinh hoạt cộng đồng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng, thực hiện đường lối, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo và từ thực tiễn hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay ở đồng bằng Bắc bộ, tác giả luận văn đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị cơ bản như trên nhằm hạn chế một số tiêu cực, phát huy hiệu quả những yếu tố tích cực của tín ngưỡng thờ Mẫu. Bên cạnh đó, phải quán triệt và thực hiện đúng chủ trương, đường lối nhất quán của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đánh giá đúng giá trị văn hóa, đạo đức của tín ngưỡng thờ Mẫu. Chúng ta đã, đang và sẽ cùng với những giá trị văn hóa truyền thống của mình chủ động hội nhập, thực hiện tốt công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh./. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Đặng Anh (2004), Đền Sòng với huyền thoại Liễu Hạnh công chúaNxb Thanh Hoá. 2. Toan ánh (1992), Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Văn bản pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo. 4. Đinh Ngọc Bảo - Đỗ Thanh Bình - Nghiêm Đình Vỳ (1998), Lịch sử thế giới từ thời cổ đại đến năm 1918, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 5. Trần Lâm Biền (1992), "Mẫu thần điện", Tạp chí Văn hoá dân gian, (1), tr.18. 6. Lê Thị Chiêng (1997), Mẫu Liễu Tây Hồ, Phòng Văn hoá Thông tin quận Tây Hồ, Hà Nội. 7. Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hoá tâm linh (tái bản có sửa chữa), Nxb Hà Nội. 8. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hoá văn hoá Việt Nam mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đại Việt sử ký toàn thư (2006), Tập I, Nxb Văn học (in lại lần thứ 6). 13. Tạ Đức (1999), Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn, Nxb Hội Dân tộc học Việt Nam, Hà Nội. 14. Mai Thanh Hải (1998), Tôn giáo thế giới và Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 15. Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 16. Hoàng Quốc Hải (2001), Văn hoá phong tục, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 17. Đỗ Thị hảo (1992), "Về bản Tiên Từ Khả Ký của dòng họ Trần Lê vừa tìm lại được", Tạp chí Văn học, (5). 18. Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc (2001), Các nữ thần Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 19. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia (2004), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Nguyễn Duy Hinh (2003), Người Việt Nam với Đạo giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 21. Trương Sĩ Hùng (chủ biên) (2003), Mấy tín ngưỡng tôn giáo Đông Nam á, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 22. Đinh Gia Khánh (1992), "Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hoá dân gian ở Việt Nam", Tạp chí Văn học, (5). 23. Vũ Ngọc Khánh (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 24. Vũ Ngọc Khánh (1992), "Chúa Liễu qua nguồn thư tịch", Tạp chí Văn học, (5). 25. Vũ Ngọc Khánh (2004), Các bình diện văn hoá Việt Nam những điều học hỏi, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 26. Vũ Ngọc Khánh - Mai Ngọc Chúc - Phạm Ngọc Hà (2002), Nữ thần và thánh Mẫu Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 27. Nguyễn Quang Lê (2001), Khảo sát thực trạng văn hoá lễ hội truyền thống của người Việt ở Đồng bằng Bắc bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 28. Đặng Văn Lung (2004), Văn hoá thánh Mẫu, Nxb Văn hoá - Thông tin. 29. Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu vực phía Bắc, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 30. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2005), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 31. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Lê Hữu Nghĩa - Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 33. Nhiều tác giả (1999), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 34. Nguyễn Minh San (1994), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 35. Nguyễn Minh San (1996), Những thần nữ danh tiếng trong văn hoá tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 36. Trần Đăng Sinh (2002), Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam ở Đồng bằng Bắc bộ hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Bùi Văn Tam (2004), Phủ Dầy và tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội (tái bản lần hai). 38. Hà Văn Tăng - Trương Thìn (chủ biên) (1999), Tín ngưỡng mê tín, Nxb Thanh niên. 39. Trương Thìn (2004), Nghi lễ thờ cúng tổ tiên, đền chùa, miếu truyền thống và hiện đại, Nxb Hà Nội. 40. Trương Thìn (2005), Tôn trọng tự do tín ngưỡng bài trừ mê tín dị đoan, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 41. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1992), Hát văn, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 42. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1996), Đạo mẫu ở Việt Nam, Tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 43. Ngô Đức Thịnh (1992), "Tục thờ Mẫu Liễu Hạnh - một sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá cộng đồng", Tạp chí Văn học, (5). 44. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 45. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2004), Đạo Mẫu và các hình thức shaman trong các tộc người ở Việt Nam và châu á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 46. Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) (1995), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam, Nxb Thuận Hoá, Huế. 47. X.A.Tôcarev (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. Uỷ ban Đoàn kết Công giáo yêu nước Việt Nam (1986), Fidel và tôn giáo những cuộc trao đổi với linh mục Frelbetto, Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản. 49. Đặng Nghiêm Vạn (1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 50. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 51. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (2004), Về tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.pdf
Luận văn liên quan