Việt Nam có nhiều tiềm năng đểphát triển kinh tếvà thu hút đầu tưnước 
ngoài. Nhưng chúng ta cũng còn nhiều khó khăn trởngại đòi hỏi phải có sựnỗ
lực đểvượt qua. Trước hết phải khắc phục những trởngại do chính chúng ta gây 
ra và phát huy tối đa các lợi thếso sánh mà chúng ta có được. Trong bối cảnh 
hiện nay, cùng với những lợi thếcủa mình, chúng ta không được phép bỏlỡcơ
hội trởthành một điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tưnước ngoài nói chung và 
Nhật Bản nói riêng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 99 trang
99 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3204 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp mũi nhọn mà 
nước ta còn yếu và chú trọng phát triển. Các dự án trong lĩnh vực công nghiệp 
hiện chiếm 65,4% tổng số dự án và 81,5% tổng số vốn JDI đang hoạt động tính 
đến tháng 6/2002. Trong số đó, công nghiệp điện tử có 17 dự án với tổng số vốn 
đầu tư 446 triệu USD công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng có 6 dự án với 
tổng số vốn đầu tư 616 triệu USD. Riêng lĩnh vực lắp ráp và sản xuất ô tô, các 
công ty Nhật Bản tham gia đông đảo nhất với 7 dự án có tổng số vốn đầu tư giai 
đoạn đầu là 384 triệu USD. Sản phẩm chủ yếu hiện nay của các doanh nghiệp 
Nhật Bản ở Việt Nam gồm các loại ô tô, xe máy, hàng điện tử và các mặt hàng 
cơ khí cao cấp đạt chất lượng tiêu chuẩn quốc tế. Lĩnh vực khách sạn du lịch và 
văn phòng chu thuê, chỉ có 20 dự án chiếm 10% tổng số vốn của Nhật Bản. 
 Các công ty Nhật Bản đã đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng ba 
khu công nghiệp lớn: Công ty Nomura đầu tư xây dựng khu công nghiệp rộng 
153 ha tại Hải Phòng với số vốn đầu tư 163 triệu USD. Công ty Nisho Iwai đầu 
tư 41 triệu USD xây dựng khu công nghiệp rộng 100 ha tại Đồng Nai. Công ty 
Sumitomo đầu tư 53 triệu USD xây dựng khu công nghiệp Thăng Long rộng 
128 ha. Một trong những khu công nghiệp được triển khai nhanh ở Việt Nam là 
khu công nghiệp Namura Hải Phòng, đến nay công ty liên doanh đã đầu tư 151 
triệu USD và cơ bản hoàn thành việc xây dựng khu công nghiệp. Khu công 
nghiệp này đã thu hút được 10 dự án đầu tư của Nhật Bản với số vốn đăng ký 
110 triệu USD. 
1.4 Hiệu quả của những dự án JDI ở Việt Nam 
Nhìn chung, các dự án đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam được triển khai 
tương đối nhanh, số dự án bị giải thể hoặc rút vốn trước thời hạn có tỷ lệ thấp 
hơn nhiều nước khác. Số dự án đầu tư của Nhật Bản bị giải thể trước thời hạn là 
10 chiếm chưa đầy 4% số dự án của Nhật Bản được cấp phép, thấp hơn nhiều so 
với tỷ lệ chung (16%). Số vốn đăng ký bị rút giấy phép trước thời hạn của các 
nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam là 229,4 triệu USD, chiếm 8% tổng vốn đầu 
tư được cấp phép, tương đương với tỷ lệ chung của các dự án đầu tư nước ngoài 
tại Việt Nam. JDI trong thời gian qua đã có tác động đáng kể đến nền kinh tế 
Việt Nam thể hiện ở các mặt sau: 
 Thứ nhất, các dự án đầu tư của Nhật Bản đã góp phần thúc đẩy sự tăng 
trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam. Hơn mười năm qua, Nhật Bản luôn đứng 
vào hàng ngũ 10 nước có FDI lớn nhất vào Việt Nam. Có thể nói hoạt động JDI 
đã bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế, công 
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chỉ tính riêng thời kỳ 1994 - 1998, đầu tư 
Nhật Bản đã chiếm 11,4% tổng FDI vào Việt Nam, đối với Việt Nam một đất 
nước đang phát triển và vẫn nghèo, hơn nữa tỷ lệ tiết kiệm thấp thì đây là nguồn 
vốn rất đáng được coi trọng. 
 Vai trò thứ hai của JDI vào Việt Nam đáng được ghi nhận là việc thúc 
đẩy các hoạt động thương mại với nước ngoài. Thông thường các tập đoàn kinh 
tế vừa là nhà đầu tư vừa là nhà thương mại, sự phát triển thương mại là một 
bước chuẩn bị cho thị trường đầu tư, cũng như hiệu quả của đầu tư sẽ tăng 
cường quan hệ thương mại.Tính đến tháng 9/2002, kim ngạch xuất khẩu của 
Việt Nam sang Nhật Bản đạt 1,485 tỷ USD cao hơn so với tháng 9 năm 1998 là 
210 triệu USD. Nhìn chung, các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản 
chủ yếu là các sản phẩm dầu thô chế biến, tôm đông lạnh, quần áo, những mặt 
hàng Việt Nam nhập từ Nhật Bản lại chủ yếu là linh kiện điện tử, sản phẩm sắt 
thép, ô tô các loại và các mặt hàng công nghiệp. Điều này cho thấy rằng, hầu hết 
các sản phẩm xuất nhập khẩu của Việt Nam với Nhật Bản đều có mặt trong các 
dự án đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. 
 Thứ ba, các dự án đầu tư của Nhật Bản đã góp phần tạo ra những ngành 
mới và công nghệ mới như khai thác dầu khí, lắp ráp và sản xuất ô tô, xe máy, 
bưu chính viễn thông. Theo tạp chí ô tô xe máy, thị phần của các công ty sản 
xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản ở Việt Nam năm 1999 là 39,5% và xe máy là 
50%. Năm 2001 do tình trạng nhập khẩu xe máy Trung Quốc tràn lan nên thị 
phần của xe máy Nhật Bản chỉ còn 31%. Nếu như trong các năm đầu, các công 
ty Nhật Bản hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực khách sạn, du lịch, dầu khí, thì 
đến nay tập trung tới 2/3 vào khu vực sản xuất vật chất và nhất là ngành công 
nghiệp chế tạo. 
 Thứ tư, hoạt động đầu tư của Nhật Bản đã góp phần tạo việc làm, nâng 
cao năng lực đội ngũ cán bộ và tăng thu nhập cho người dân Việt Nam. Trước 
hết cần phải nói rằng sự phát triển của những ngành sản xuất mới tạo ra nhiều cơ 
hội tìm kiếm việc làm cho người dân Việt Nam, góp phần làm dịu bớt mâu thuẫn 
giữa lực lượng lao động đông đảo với nhu cầu lao động ở Việt Nam. Bên cạnh 
đó, nhờ được làm việc với các nhà quản lý Nhật Bản mà các cán bộ và công 
nhân Việt Nam đã học hỏi tiếp thu được rất nhiều kinh nghiệm. Đây chính là 
những nền tảng cơ sở quan trọng giúp cho người Việt Nam hội tụ được những 
kiến thức cần thiết để vững vàng hơn khi tiến tới kinh doanh độc lập. 
1.5 Một số hạn chế tồn tại 
Theo nhận xét và đánh giá chung của các chuyên gia kinh tế, đầu tư của 
Nhật Bản vào Việt Nam trong giai đoạn 1989 đến nay vẫn còn rất hạn chế, chưa 
tương xứng với tiềm lực của Nhật Bản cũng như nhu cầu đòi hỏi của Việt Nam. 
Hơn nữa, đầu tư của Nhật Bản từ năm 1997 trở lại đây có xu hướng giảm sút 
với tốc độ khá nhanh. Cho đến năm 1997, Nhật Bản có 215 dự án (đứng thứ 2) 
với số vốn gần 3,5 triệu USD (đứng thứ 3). Bước sang năm 1998, Nhật Bản chỉ 
có 17 dự án với số vốn 177,5 triệu USD. Bước sang năm 1999, tốc độ còn giảm 
mạnh hơn, Việt Nam chỉ thu hút được 98 triệu USD JDI, đứng hàng thứ 9 trong 
các đối tác đầu tư vào Việt Nam. Và năm 2000 JDI vào Việt Nam chỉ đạt 20 
triệu USD. Sự suy giảm này gắn liền với hậu quả cuộc khủng hoảng tài chính 
tiền tệ Châu Á và cuộc suy thoái kinh tế của Nhật Bản. Song đánh giá về sự suy 
giảm đầu tư của Nhật Bản trong các năm qua không nên chỉ nhìn nhận từ bối 
cảnh quốc tế và sự suy thoái kinh tế của Nhật Bản. Nguyên nhân sự suy giảm đó 
còn cần được nhìn nhận từ phía Việt Nam. Các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn còn 
chưa hết e ngại trong việc đầu tư vào Việt Nam, vì họ cho rằng môi trường đầu 
tư của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm bất cấp; hạ tầng cơ sở còn nghèo nàn, hệ 
thống pháp luật vẫn đang còn trong quá trình hoàn chỉnh, nhất là các thủ tục 
hành chính xét duyệt và thẩm định dự án đầu tư còn chậm và phiền hà. 
 Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam bên cạnh những thành công thì còn 
có một vài hạn chế. Bởi vậy, trong tương lai, Việt Nam sẽ còn phải có những cố 
gắng, nỗ lực hơn nữa để khắc phục tình trạng yếu kém của môi trường đầu tư 
nhằm thúc đẩy sự hợp tác kinh tế đạt tới mức cao hơn, đóng góp vào sự phát 
triển kinh tế của Nhật Bản vào Việt Nam trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. 
2. Xu hướng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản trong những năm 
đầu thế kỷ 21 
2.1 Duy trì thị trường đầu tư truyền thống, tăng cường khai thác mở 
rộng thị trường mới 
Phân tích chiến lược đầu tư của Nhật Bản cho chúng ta thấy rằng các nhà 
kinh doanh Nhật Bản mang một phần năng lực sản xuất (vốn, thiết bị) từ Nhật 
Bản vào các nước và tác động một cách thực sự vào sự phát triển bên trong của 
thị trường nước đó. Đồng thời tạo nên một mạng lưới liên kết sản xuất không chỉ 
trong một nước mà toàn khu vực, thậm chí cả thế giới. Chiến lược này đã được 
thực hiện thành công trước đây và vẫn là hướng chủ đạo sẽ được tiếp tục trong 
thời gian tới. Vì vậy duy trì mở rộng thị trường đầu tư truyền thống là xu hướng 
sẽ được thực hiện bên cạnh việc mở rộng khai thác các thị trường mới nhằm 
chiến lược đa dạng hóa thị trường của các nhà đầu tư Nhật Bản. 
Châu Mỹ, nhất là Mỹ vẫn là thị trường chủ yếu về buôn bán và đầu tư của 
Nhật Bản. Mặc dù giữa hai nước hiện tại và có thể trong tương lai chưa thể giải 
quyết thỏa đáng các bất đồng và mâu thuẫn trong mậu dịch song vì lợi ích cả hai 
phía, Nhật Bản vẫn coi đây là nơi mà các nhà đầu tư luôn luôn chú trọng. Lĩnh 
vực đầu tư chủ yếu của Nhật Bản vào khu vực này vẫn là công nghiệp và tài 
chính và khối lượng đầu tư vẫn sẽ được duy trì ổn định như những năm trước. 
Một mặt, Nhật Bản vẫn chủ trương duy trì thị trường đầu tư truyền thống này, 
nơi mà Nhật Bản đã có chỗ đứng khá vững chắc. Mặt khác, số lượng đầu tư 
không suy giảm một phần nhờ sự khôi phục kinh tế có hiệu quả của các nước 
này. Khi đánh giá triển vọng các nước châu Mỹ trong thập kỷ đầu thế kỷ 21 các 
dự báo tin cậy đều cho rằng dù tăng trưởng của các nước này có thể thấp hơn tốc 
độ chung của thế giới song vẫn đạt 2,5%. Đây là con số khá khả quan và có ảnh 
hưởng lớn đến kinh tế thế giới vì các nước này chiếm tỷ trọng không nhỏ trong 
GDP toàn cầu. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay trên thị trường thế 
giới nói chung, khu vực châu Mỹ nói riêng, cơ cấu đầu tư của Nhật Bản ở khu 
vực này sẽ ít thay đổi. 
Khi nói đến đầu tư của Nhật Bản vào khu vực này cần nhấn mạnh đến 
một đối tác hết sức quan trọng đó là Mỹ. Mỹ không chỉ là bạn hàng chủ yếu về 
buôn bán với Nhật Bản mà còn là nơi đầu tư lớn đặc biệt về tài chính, bất động 
sản. Trong thập niên đầu thế kỷ 21, Mỹ vẫn có vị trí hết sức quan trọng trong 
đầu tư của Nhật Bản. Như chúng ta đã biết, tốc độ tăng trưởng của Mỹ trong 
mấy năm gần đây khá cao do nhu cầu trong nước tăng mạnh với mức 4,2%/năm. 
Dù vậy, tốc độ đầu tư của Nhật Bản vào châu Mỹ đặc biệt là Mỹ sẽ không tăng 
đột biến bởi những ngành có nhu cầu cao như viễn thông, tin học… lại là những 
lĩnh vực mà hiện nay Nhật Bản chưa chiếm ưu thế. Vì vậy việc duy trì cơ cấu 
đầu tư truyền thống là xu thế nổi trội và định hướng chủ yếu của đầu tư Nhật 
Bản ở khu vực này trong những năm tới. 
Các nước EU vẫn là thị trường hấp dẫn hiện tại và trong tương lai của 
Nhật Bản. Sự phục hồi và phát triển kinh tế những năm gần đây đã chứng tỏ 
thực lực và tiềm năng kinh tế to lớn của các nước này. Hơn nữa, trong tương lai 
khi EU kết nạp thêm nhiều thành viên mới thì đây sẽ càng là khối kinh tế đáng 
nể đối với các khối khác và đối với những nước công nghiệp hàng đầu như Mỹ 
và Nhật Bản. Quá trình tự do hóa kinh tế ở các nước EU đã tác động tích cực tới 
tăng trưởng kinh tế của cả khối cũng như từng nước. Nhiều chính sách được nới 
lỏng đã có tác dụng giảm chi phí, tăng việc làm… chính điều này đã tạo cơ hội 
đầu tư cho các nước trong khối cũng như ngoài khối trong đó có Nhật Bản. Các 
dự báo của IMF, OECD đều cho rằng các thập niên tới các nước EU sẽ đạt tốc 
độ tăng trưởng kinh tế từ 2,2 - 2,5%/năm (con số này cao hơn thập niên trước 
đó). Đây là thị trường đầy tiềm năng và nếu các nước EU đạt được tốc độ trên 
thì đây sẽ là cơ hội thuận lợi để Nhật Bản có thể mở rộng hoạt động đầu tư ở các 
nước này. Tuy nhiên, với các quy chế ràng buộc khá chặt chẽ của khối, xu 
hướng đầu tư nội bộ tăng… sẽ là những nhân tố cản trở không nhỏ đối với các 
nhà đầu tư nước ngoài trong đó có Nhật Bản. Đó là chưa nói tới nhu cầu vốn cho 
các nước này có xu hướng thấp hơn so với nguồn vốn có khả năng cung ứng. 
Việc mở cửa và tự do hóa tài chính đã làm thay đổi khá rõ nét về lợi thế của 
cung ứng vốn gián tiếp hơn vốn trực tiếp… Dù vậy, châu Âu vẫn là một trong 
những thị trường đầu tư tiềm năng của Nhật Bản trong tương lai. 
Châu Á, nhất là Đông Nam Á có tầm quan trọng đặc biệt đối với đầu tư 
của Nhật Bản. Hiện tại và ngay cả trong tương lai, xét ở khía cạnh kinh tế chính 
trị và văn hóa có lẽ người ta không có gì khó hiểu khi Nhật Bản chọn Châu Á là 
thị trường và nơi đầu tư trọng tâm của mình. Sự chuyển hướng quay lại Châu Á 
thể hiện sự thay đổi chiến lược kinh tế và ở mức độ nào đó là cả chính trị của 
Nhật Bản. Tuy nhiên, tình hình Châu Á, đặc biệt là tình hình kinh tế châu lục 
này những năm 90 trở lại đây không mấy khi yên ổn. Cơn bão khủng hoảng tài 
chính tiền tệ ập tới đã cuốn đi thành quả mà nhiều nước Châu Á tốn công xây 
dựng bấy lâu nay, và điều này phần nào ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế giữa 
Nhật Bản và các nước này. Tuy nhiên, đầu tư của Nhật Bản vào khu vực Châu Á 
đã tạo dựng được một mạng lưới sản xuất ở khu vực này dần dần khiến cho các 
nước phụ thuộc vào nhau nhiều hơn. Sự phụ thuộc này vẫn là đặc điểm khá nổi 
bật và cũng là một trong những lý do mà Nhật Bản vẫn coi đây là thị trường 
trọng tâm của mình trong thập kỷ tới. Người ta cho rằng, Châu Á sẽ lấy lại được 
sinh khí và chuẩn bị cho thời kỳ cất cánh mới. Dự báo mới đây của IMF, WB, 
ADB đều cho rằng sau khi khắc phục sai lầm, rút ra các bài học thành công và 
thất bại, Châu Á sẽ lấy lại đà tăng trưởng và vẫn là khu vực phát triển năng động 
do còn giàu tiềm năng. Mức tăng trưởng của khu vực này dự báo sẽ vào khoảng 
4 - 5,3%. Đây là con số khá lạc quan về kinh tế Châu Á sắp tới, chính điều này 
cũng sẽ hứa hẹn dòng vốn đầu tư đổ vào Châu Á tăng lên. Vì thế Nhật Bản chắc 
chắn sẽ không bỏ qua cơ hội này và sẽ là nước đầu tư chủ yếu của khu vực này 
sắp tới. 
Ngoài các thị trường truyền thống thì Đông Âu, Trung Đông và Châu Phi 
đặc biệt là Nga sẽ là nơi thu hút một khối lượng vốn đáng kể của Nhật Bản trong 
thời gian tới. Mặc dù hiện nay đầu tư của Nhật Bản vào các nước này khá khiêm 
tốn chưa tương xứng với tiềm năng của các phía mà một trong những lý do quan 
trọng là sự bất ổn định ở các nước này cũng như nhiều vấn đề liên quan chưa 
được giải quyết. Nếu những trở ngại được khắc phục thì các nước này sẽ là thị 
trường đầy triển vọng đối với các nhà đầu tư Nhật Bản. 
Bảng 9: Các thị trường đầu tư tiềm năng của các công ty Nhật Bản 
Thứ tự 1997 1998 1999 2000 2001 
1 
2 
3 
4 
5 
6 
7 
8 
9 
10 
Trung Quốc 
Thái Lan 
Indonesia 
Mỹ 
Việt Nam 
Malaysia 
Ấn Độ 
Philippin 
Singapore 
Anh 
Trung Quốc 
Mỹ 
Indonesia 
Thái Lan 
Ấn Độ 
Việt Nam 
Philippin 
Malaysia 
Đài Loan 
Trung Quốc 
Mỹ 
Thái Lan 
Indonesia 
Ấn Độ 
Philippin 
Malaysia 
Việt Nam 
Brazin 
Anh 
Trung Quốc 
Mỹ 
Thái Lan 
Ấn Độ 
Indonesia 
Việt Nam 
Malaysia 
Philippin 
Anh 
Brazin 
Trung Quốc 
Mỹ 
Thái Lan 
Indonesia 
Ấn Độ 
Việt Nam 
Đài Loan 
Hàn Quốc 
Malaysia 
Singapore 
Nguồn: JBIC Review 6/2002 
Theo các cuộc điều tra của JBIC về địa chỉ thu hút đầu tư Nhật Bản hứa 
hẹn nhất trong thời gian, Trung Quốc thường xuyên chiếm vị trí hàng đàu do 
tiềm năng to lớn của một thị trường 1,2 tỷ dân và triển vọng phát triển kinh tế 
tương đối khả quan. Một điều đáng nói là thường xuyên có tới năm nước 
ASEAN thuộc tốp mười nước được các nhà đầu tư Nhật Bản chọn là thị trường 
đầu tư tương lai. Việt Nam cũng được các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá là một 
địa điểm đầu tư hứa hẹn mặc dù hiện nay khối lượng đầu tư của họ vào Việt 
Nam chưa cao nhưng chúng ta có quyền hy vọng trong tương lai, những đánh 
giá của các nhà đầu tư sẽ trở thành hiện thực và họ sẽ đẩy mạnh đầu tư vào Việt 
Nam với mục đích hai bên cùng có lợi. 
2.2 Tiếp tục khai thác lĩnh vực đầu tư thế mạnh đồng thời khai thác 
đầu tư các ngành mới. 
Khi phân tích hoạt động đầu tư của Nhật Bản những năm 90 có thể nhận 
thấy rằng cơ cấu đầu tư của Nhật Bản ít có sự thay đổi rõ rệt, lĩnh vực phi sản 
xuất luôn chiếm vị trí dẫn đầu. Thực tế đầu tư tài chính và bất động sản của Nhật 
Bản ra nước ngoài tăng khá, đặc biệt là các năm 1996 và 1997. Tuy nhiên, JDI 
vào thời gian này cũng không tạo ra sự đột biến gì nổi bật. Có nhiều lý do để 
giải thích tình hình trên song có thể nhận thấy rằng Nhật Bản tiếp tục chủ trương 
khai thác những lĩnh vực mà mình có tiềm năng và thế mạnh. Trong những năm 
tới hoạt động JDI sẽ theo hướng củng cố và mở rộng quy mô của các ngành sản 
xuất truyền thống như sản xuất điện tử, tài chính ngân hàng, sản xuất ô tô và hóa 
chất. 
Trong cuộc điều tra của JETRO về chiến lược của các công ty có vốn đầu 
tư của Nhật Bản trong thời gian tới được tiến hành vào tháng 8 năm 2002, 
44,5% doanh nghiệp đựơc hỏi khẳng định họ sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh 
ở nước ngoài và 44,1% trả lời họ sẽ duy trì quy mô hiện tại và 1,4% còn lại nói 
họ sẽ giảm quy mô hoặc rút vốn trước thời hạn. Cũng theo cuộc điều tra này, các 
lĩnh vực sẽ được mở rộng quy mô là ngành hóa chất, thiết bị điện tử, ngành ô tô 
và ngành tài chính bảo hiểm. Nếu như ở ngành thực phẩm chỉ có 34,8% doanh 
nghiệp được hỏi cho rằng họ sẽ tăng quy mô sản xuất thì tỷ lệ này ở ngành hóa 
chất là 53,5% và ở ngành điện tử là 65,4%. Chỉ có 33,8% doanh nghiệp ở ngành 
sản xuất ô tô nói họ sẽ duy trì quy mô hiện thời còn 66,2% còn lại khẳng định họ 
sẽ củng cố và mở rộng quy mô. Xét về mặt phi chế tạo thì ngành tài chính bảo 
hiểm sẽ tiếp tục được phát triển thêm quy mô, bằng chứng là có đến 65% công 
ty được hỏi cho rằng họ sẽ tăng cường hoạt động trong lĩnh vực này trong khi tỷ 
lệ này ở ngành dịch vụ là 57% và ở ngành bất động sản con số này chỉ 30%. 
Các nhà đầu tư Nhật Bản tập trung vào các ngành truyền thống nhưng 
mục tiêu hàng đầu của họ bây giờ là lợi nhuận. Trước đây không giống như các 
công ty của Anh và Mỹ, khi các nhà đầu tư Nhật Bản mở rộng kinh doanh ra thị 
trường nước ngoài, mục đích chính của họ nói chung không phải là thu nhập và 
lợi nhuận. Kinh nghiệm của những năm qua chỉ ra rằng những lý do đằng sau 
việc đẩy mạnh hoạt động JDI bao gồm để đối phó với việc đồng yên mạnh; để 
tránh các xung đột về thương mại; để thích ứng với việc thiếu nguồn nhân lực và 
giá nhân công cao của Nhật Bản hay để theo kịp những công ty khác cùng 
ngành. Do đó, ưu tiên hàng đầu của các công ty Nhật Bản lúc này là duy trì và 
củng cố thị phần và doanh thu. Tuy nhiên khi cạnh tranh quốc tế ngày càng căng 
thẳng thì những công ty không đủ tiềm lực tài chính sẽ không thể tồn tại. Do vậy 
Nhật Bản đã tích cực cơ cấu lại hoạt động sản xuất. Có 53% số công ty được hỏi 
trả lời họ cần phải sắp xếp lại hoạt động của mình tại các chi nhánh ở nước 
ngoài theo hướng giảm chi phí, đơn giản hóa nhằm mục đích cuối cùng là thu 
được nhiều lợi nhuận càng tốt. 
Nhật Bản có lợi thế trong một số ngành truyền thống nhưng nhiều lĩnh 
vực mới như công nghệ thông tin, tin học … Nhật Bản còn thua xa Mỹ. Do đó, 
việc mở rộng đầu tư ra bên ngoài ở các lĩnh vực trên của Nhật Bản còn có nhiều 
hạn chế. Nhật Bản đã sớm nhận ra yếu kém này, chính vì vậy những năm gần 
đây họ đã tăng cường nỗ lực khắc phục sự chậm trễ này bằng việc tăng nhập 
khẩu thiết bị công nghệ hiện đại đồng thời tăng đầu tư cho nghiên cứu khoa học 
kỹ thuật… nhằm rút ngắn khoảng cách so với Mỹ. Với sự gia tăng đầu tư đó, 
Nhật Bản hy vọng trong thời gian tới sẽ chiếm lĩnh một số lĩnh vực công nghệ 
cao như viễn thông, tin học… Chính người Nhật cũng không dấu diếm điều này 
khi dự định xây dựng một xã hội tin học hóa trên cơ sở dịch vụ tin học trong thế 
kỷ 21. Điều này cũng chính là cơ sở cần thiết để Nhật Bản có thể khai thác thị 
trường phần mềm ở Châu Á, đây là hướng rất quan trọng trong triển vọng đầu tư 
của Nhật Bản ở thập niên đầu thế kỷ 21. Ngoài lĩnh vực tin học, hướng mới 
trong đầu tư của Nhật Bản là tập trung vào vấn đề năng lượng mới và môi 
trường ở Châu Á 
Việc lựa chọn chiến lược đầu tư cũng như các quyết định cụ thể về vấn đề 
này của Nhật Bản trong đầu thập kỷ 21 phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố bên 
trong và bên ngoài. Ngoài những nhân tố thuận lợi thì hoạt động JDI cũng gặp 
không ít khó khăn và thách thức thậm chí không lường trước được. Vì vậy đối 
với các nhà đầu tư Nhật Bản thì hoạt động dầu tư ra nước ngoài của họ là cuộc 
đấu khá hấp dẫn và không kém phần quyết liệt trong tương lai 
3. Chiến lược thu hút FDI của Việt Nam 
Việt Nam khẳng định hoạt động FDI tại Việt Nam là bộ phận quan trọng 
của hoạt động kinh tế đối ngoại, do đó, chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài vào 
Việt Nam nằm trong chiến lược chung của chính sách đối ngoại của Việt Nam. 
Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ chín 2001 đã nêu định hướng 
thu hút đầu tư nước ngoài như sau:" Đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước 
ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế 
biến, các nghành công nghệ cao,vật liệu mới, điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng 
kinh tế, xã hội và các nghành Việt Nam có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại 
và tạo việc làm. Tập trung thu hút vốn FDI vào các khu công nghiệp khu chế 
xuất, khu công nghệ cao; tiếp tục nghiên cứu đề án xây dựng khu kinh tế mở để 
đưa vào kế hoạch năm năm. Dự kiến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực 
hiện trong giai đoạn 2001-2005 khoảng 9-10 tỷ USD bao gồm các dự án đã 
được cấp phép mới và vốn bổ sung các dự án đã thực hiện." 
Các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực 
của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư 
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trong những lĩnh vực và địa bàn sau: 
1. Lĩnh vực: 
a. Sản xuất hàng xuất khẩu; 
b. Nuôi, trồng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản; 
c. Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, 
đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; 
d. Sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả 
tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam; 
 đ. Xây dựnh kết cấu hạ tầng và cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng; 
 2. Địa bàn: 
 a. Địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; 
 b. Địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn; 
 Như vậy, thông qua tìm hiểu xu hướng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của 
Nhật Bản và chiến lược thu hút FDI của Việt Nam chúng ta nhận thấy rằng Việt 
Nam và Nhật Bản đã gặp gỡ nhau về mặt lợi ích. Trong khi các nhà đầu tư Nhật 
Bản đang chú trọng đến tiềm năng phát triển của thị trường đầu tư Việt Nam thì 
Việt Nam lại rất hoan nghênh và khuyến khích các nhà đầu tư như Nhật Bản. 
Những thế mạnh của Nhật Bản là những thứ mà chúng ta rất cần cho sự nghiệp 
phát triển đất nước. Đây là nền tảng cho mối quan hệ hợp tác lâu dài và bền chặt 
giữa Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực đầu tư trong thời gian tới. 
4. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút JDI vào Việt Nam. 
Hoạt động FDI tại Việt Nam đã phát huy vai trò tích cực đối với nền kinh 
tế Việt Nam trong thời gian qua. Mục tiêu của kế hoạch năm năm đề cho khu 
vực FDI là vốn đăng ký mới đạt khoảng12 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 11 tỷ 
USD. Đây là mục tiêu không dễ đạt được nếu không khắc phục những hạn chế, 
bất cập về sự đồng bộ của phấp luật, hiệu lực hiệu quả của công tác điều hành, 
nhất là một số chế định chính sách cần theo kịp những đòi hỏi của thực tiễn,việc 
công bố quy hoạch chi tiết từng ngành, từng địa phương... 
Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, 
hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút 
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Giảm mạnh, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính 
sách và pháp luật giữu đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cải tiến nhanh 
các thủ tục hành chính để đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, thực hiện từng 
bước cơ chế đăng ký đầu tư. Chú trọng thu hút đầu tư của các công ty năm công 
nghệ nguồn và có thị phần lớn trên thị trường thế giới. Tăng cường hỗ trợ và 
quản lý sau cấp giấy phép, tạo điều kiện cho các dự án đã được cấp phép hoạt 
động có hiệu quả. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với 
các khu công nghiệp, khu chế xuất và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 
Ngoài các giải pháp chung như trên thì chúng ta cần phải thực hiện một 
số giải pháp sau nhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam: 
4.1 Xóa đi tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư Nhật Bản về môi trường 
đầu tư Việt Nam 
Việc đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam lâu nay còn thấp và có xu hướng 
suy thoái là do rất nhiều nguyên nhân nhưng một nguyên nhân quan trọng mà 
phía Việt Nam phải thừa nhận là môi trường đầu tư của chúng ta còn yếu kém. 
Trong quá trình thực hiện đầu tư, các nhà kinh doanh Nhật Bản đã vấp phải 
không ít những khó khăn cho hoạt động của họ tại Việt Nam. Do đó, điều trước 
hết mà Việt Nam phải làm để tăng cường thu hút JDI là tập trung xử lý kịp thời 
những vướng mắc của các dự án đang triển khai nhằm củng cố lòng tin của các 
nhà đầu tư Nhật Bản đã vào Việt Nam. Vì nếu không làm được điều này thì 
những nỗ lực trong việc vận động đầu tư sẽ không có kết quả như mong muốn vì 
không có gì có sức thuyết phục hơn là sự thành công của các dự án cụ thể. 
Giám đốc một công ty tư vấn đầu tư đã nói rằng "để cuốn hút được các con chim 
đang bay trên trời thì trước hết phải giữ được chân các con chim đã đậu". Theo 
ông, điều quan trọng trước mắt là phải chứng minh được rằng địa bàn đầu tư 
nước ta là "miền đất lành cho các nhà đầu tư đáp xuống" 
Theo điều tra của JETRO ngày 30/4/2002 thì khó khăn chủ yếu mà các 
doanh nghiệp Nhật Bản gặp phải trong khi triển khai hoạt động đầu tư tại Việt 
Nam là: 
- Chế độ pháp luật kinh tế chưa hoàn thiện, cơ sở hạ tầng kém phát triển, 
nạn hàng nhái, hàng giả, hàng nhập lậu hoành hành. 
 Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng ngành lập pháp của chúng ta còn non 
trẻ, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện là 
điều tất yếu. Trong thời gian tới Việt Nam cần phải tích cực đào tạo đội ngũ cán 
bộ lập pháp và học hỏi những kinh nghiệm của các nước bạn, đặc biệt là các 
nước trong khu vực về lĩnh vực này. Bên cạnh đó, việc tăng tiến độ giải ngân 
các dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng cũng là giải pháp tích cực đễ xoá đi tâm 
lý lo ngại của các nhà đầu tư Nhật Bản về cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta. 
Ngoài ra, tích cực thúc đẩy sản xuất trong nước là biện pháp hữu hiệu để ngăn 
chặn nạn nhập lậu. Chính phủ Việt Nam đang triển khai những biện pháp cứng 
rắn để đối phó với nạn hàng giả và hàng nhái, hy vọng trong thời gian tới môi 
trường cạnh tranh tại Việt Nam sẽ lành mạnh hơn. 
- Khả năng cung cấp phụ tùng tại chỗ của Việt Nam còn thấp trong khi đó 
một số ngành thuộc lĩnh vực lắp ráp như ô tô, điện tử, xe máy yêu cầu tỷ lệ nội 
địa hóa cao. Các công ty này phải nhập khẩu phụ tùng từ Nhật Bản làm đẩy giá 
thành sản xuất lên cao. 
Một vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay là phải có những biện pháp tích 
cực để nuôi dưỡng các ngành công nghiệp hỗ trợ như ngành chế tạo máy, công 
cụ sản xuất linh kiện, phụ tùng. Kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản và các 
nước Châu Á khác cho thấy phải có chính sách rõ ràng về từng ngành công 
nghiệp và có biện pháp khuyến khích đầu tư vào những ngành công nghiệp hỗ 
trợ. Biện pháp này bao gồm chính sách bảo hộ và ưu đãi cho những doanh 
nghiệp đi tiên phong. Lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng là thế mạnh của Nhật 
Bản, do vậy nếu chúng ta có chính sách ưu đãi hợp lý thì chắc chắn các nhà đầu 
tư Nhật Bản sẽ tăng cường đầu tư vào đây. Mục đích trước mắt của họ là nhằm 
phục vụ cho hoạt động sản xuất của chính mình và sau đó là cung cấp cho thị 
trường phụ tùng linh kiện đầy tiềm năng của Việt Nam. 
- Các nhà quản lý Nhật Bản chưa đủ tự tin để chuyển giao công nghệ quản 
lý cho nhân viên Việt Nam bởi vì kỹ năng của các giám đốc, tổ đội trưởng được 
tuyển dụng còn chưa cao. Trong khi đó nếu thuê người quản lý từ Nhật Bản lại 
quá tốn kém và không nhận được sự đồng tình ủng hộ của nơi tiếp nhận vốn 
Trong những năm qua, những thành tựu trong công tác giáo dục đào tạo 
của Việt Nam đã được ghi nhận nhưng để đáp ứng được yêu cầu trong tình hình 
mới thì chúng ta cần phải nỗ lực nhiều trong việc mở rộng và nâng cao chất 
lượng của các trường dạy nghề. Nhật Bản là quốc gia có nền văn hoá nói chung 
và văn hoá kinh doanh rất độc đáo. Để hợp tác thành công với người Nhật thì 
trước hết chúng ta cần phải hiểu biết những nét riêng của văn hoá kinh doanh 
Nhật Bản. Do vậy để khắc phục được khó khăn này thì chúng ta cần phải hợp 
tác với Nhật Bản trong việc đào tạo nguồn nhân lực, cử cán bộ sang học tập kinh 
nghiệm quản lý ở Nhật Bản. Trung tâm hợp tác nguồn nhân lực Việt Nam Nhật 
Bản được thành lập và đã phát huy vai trò của mình. Trong thời gian tới, chúng 
ta cần tăng cường hỗ trợ cho hoạt động của trung tâm để đào tạo cho Việt Nam 
nuồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu đặt ra của các nhà đầu tư nước ngoài nói 
riêng và cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung. 
Những khó khăn trên không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của Nhật 
Bản mà còn cả hoạt động FDI tại Việt Nam nói chung. Ngay một lúc chúng ta 
không thể đáp ứng được đòi hỏi của các nhà đầu tư nhưng chúng ta phải tiếp thu 
những ý kiến từ phía họ và tỏ ra thiện chí trong việc nỗ lực cải tạo môi trường 
đầu tư theo hướng tốt hơn. Phía Nhật Bản đã đánh giá cao những nỗ lực của Việt 
Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư theo hướng hoàn thiện hơn. Ông 
Hashimoto –chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam đã công 
nhận hầu hết các lĩnh vực trong môi trường đầu tư của Việt Nam đã được cải 
thiện nhiều so với trước đây, trong đó có những vấn đề chủ yếu như: Luật Đầu 
tư mới đã giảm danh mục sản phẩm bắt buộc xuất khẩu(80%) từ 24 mặt hàng 
xuống còn 14; mở rộng áp dụng trả lương bằng VND; bãi bỏ việc doanh nghiệp 
có vốn đầu tư nước ngoài bị cấm trực tiếp thuê lao động; xây dựng tiêu chuẩn kế 
toán điều chỉnh giữa Hệ thống kế toán Việt Nam và Hệ thống kế toán quốc tế; 
giảm tỉ lệ kết hối bắt buộc xuống còn 40%; bỏ mức lãi trần đối với lãi suất cho 
vay bằng USD; bỏ quy chế về tái bảo hiểm ra nước ngoài; áp dụng chế độ kiểm 
tra mẫu trong hải quan... 
 Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực cải tạo môi trường đầu tư theo hướng 
thông thoáng và hấp dẫn hơn. Điều này hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho hoạt 
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói chung và hoạt động JDI nói riêng. 
4.2 Phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam so với các nước trong khu 
vực 
Hiện nay vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam chỉ bằng 1/33 JDI của 
Nhật Bản vào Trung Quốc và 1/12 JDI vào Thái Lan và 1/5 vào Malaysia. Trong 
một vài năm tới, mức JDI không có dấu hiệu tăng đột biến trong khi nhu cầu vốn 
đầu tư của các nước ASEAN ngày càng tăng nên cạnh tranh giữa các quốc gia 
để thu hút FDI nói chung và đầu tư của Nhật Bản nói riêng ngày càng trở nên 
gay gắt. Nếu so với các nước trong khu vực thì môi trường đầu tư vào Việt Nam 
còn kém hấp dẫn hơn nhiều, chỉ xếp thứ 7 trong số 10 nước ASEAN. Do vậy 
trong cuộc cạnh tranh thu hút JDI, Việt Nam phải hướng vận động đầu tư, quy 
hoạch dự án theo hướng thu hút JDI vào những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế 
hơn so với các nước trong khu vực. 
Theo cuộc điều tra được tiến hành bởi JBIC về lý do tại sao các quốc gia 
lại hấp dẫn các nhà đầu tư Nhật Bản, Việt Nam được các nhà đầu tư Nhật Bản 
đánh giá cao về thế mạnh lực lượng lao động rẻ, chi phí nguyên vật liệu thấp và 
nguồn nhân lực tốt. So với các nước trong khu vực thì Việt Nam là địa chỉ đầu 
tư có chi phí nguyên liệu thấp nhất trong con mắt các chủ đầu tư Nhật Bản. Do 
vậy chúng ta phải tận dụng lợi thế này để hướng các nhà đầu tư Nhật Bản vào 
các ngành cần nguyên liệu sẵn có của Việt Nam như các ngành khai 
khoáng,nông lâm ngư nghiệp, chế tạo thép… Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của 
Việt Nam được đánh giá là tốt hơn nhiều vì có đến 26,5% doanh nghiệp được 
hỏi trả lời Việt Nam có nguồn nhân lực tốt trong khi chỉ có 1,9% công ty trả lời 
như vậy đối với Indonesia, con số của Thái Lan là 13,6%; Malaysia 14,3% và 
philippin 16,7%. Lợi thế này cho phép Việt Nam tăng cường thu hút JDI trong 
các ngành cần lao động kỹ thuật cao như viễn thông, tin học... 
Bảng 10 : Lý do mà các quốc gia hấp dẫn các nhà đầu tư Nhật Bản 
Đơn vị: % doanh nghiệp trả lời 
 Thái Lan Indonesia Malaysia Việt Nam Philippin 
Quy mô thị trường hiện tại 15,9 13,0 16,7 5,9 6,7 
Tiềm năng phát triển thị trường 55,7 50,3 45,2 47,1 43,3 
Lực lượng lao động rẻ 47,7 74,1 47,6 70,6 70,0 
Chi phí nguyên liệu thấp 15,9 22,2 16,7 23,5 6,7 
Cơ sở xuất khẩu sang Nhật Bản 17,0 18,5 21,4 17,6 20,0 
Xuất khẩu sang nước thứ ba 39,8 29,6 33,3 23,5 36,7 
Nguồn nhân lực tốt 13,6 1,9 14,3 26,5 16,7 
Phát triển hội nhập khu vực 6,8 7,4 4,8 0,0 0,0 
Nguồn: JBIC Review 6/2002 trang 54 
 Do nền kinh tế Việt Nam có trình độ phát triển chưa cao nên quy mô thị 
trường hiện tại còn nhỏ so với các nước láng giềng nhưng bù lại vì mức sống 
còn thấp nên tiền lương cũng không cao. Có đến 70,6% công ty được hỏi cho 
rằng Việt Nam có lực lượng lao động rẻ, chỉ xếp sau Indonesia với 74,1%. Đây 
cũng là hướng mà Việt Nam có thể kết hợp để tăng cường thu hút JDI vào 
những ngành cần nhiều người lao động như dệt may, giày da… với việc tạo 
công ăn việc làm cho người lao động. Đối với các dự án sản xuất hàng xuất khẩu 
sang Nhật Bản hoặc sang một nước thứ ba khác thì Việt Nam không có lợi thế 
bằng các nước khác trong khu vực do đó chúng ta chỉ có thể đẩy mạnh thu hút 
JDI vào lĩnh vực này chỉ khi kết hợp với các lợi thế khác. Xét về tiềm lực kinh tế 
thì Việt Nam còn kém hơn các nước khác trong khu vực nhưng các nhà đầu tư 
Nhật Bản vẫn đánh gía cao tiềm năng phát triển thị trường của Việt Nam, , số 
doanh nghiệp được hỏi trả lời về khả năng phát triển thị trường tiềm năng ở Việt 
Nam là 47,1% xấp xỉ bằng con số của các nước láng giềng. Điều này chứng tỏ 
các nhà đầu tư Nhật Bản đã ghi nhận những thành tựu phát triển kinh tế của Việt 
Nam trong tiến trình đổi mới và tỏ ra lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam 
tương lai. 
Trên đây chỉ là những lợi thế tự nhiên mà Việt Nam có được theo sự đánh 
giá của các nhà đầu tư Nhật Bản. Để những lợi thế này thực sự hấp dẫn các nhà 
đầu tư thì Việt Nam cần có các chính sách ưu đãi cụ thể để lôi kéo các nhà đầu 
tư Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam. Phương châm của chúng ta là phải biến tiềm 
năng thành hiện thực chứ không phải để tiềm năng mãi chỉ là tiềm năng. Nhiệm 
vụ của của Việt Nam là phải tăng cường vận động đầu tư tới các nhà đầu tư Nhật 
Bản để quảng bá các lợi thế sẵn có cũng như những ưu đãi của nhà nước đối với 
từng hạng mục dự án kêu gọi đầu tư. 
Dưới con mắt của người Nhật Bản, Việt Nam có khả năng hội tụ được 
những điều kiện cần thiết để lôi cuốn các nhà đầu tư Nhật Bản đưa vốn vào Việt 
Nam mà không phải lo ngại về những rủi ro thường gặp trong quá trình đầu tư. 
Với những tiềm năng và lợi thế như vậy, cùng với một môi trường chính trị xã 
hội ổn định, chính quyền vững mạnh, phù hợp với lòng dân, lại được chính phủ 
Việt Nam luôn tạo những điều kiện thuận lợi và cơ hội kinh doanh cho các nhà 
đầu tư nước ngoài, trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ trở thành một địa bàn lý 
tưởng để Nhật Bản có thể thâm nhập, mở rộng thị trường buôn bán, đầu tư, tiêu 
thụ hàng hóa khai thác nguồn cung cấp nguyên liệu và nguồn nhân lực dồi dào. 
4.3 Tăng cường hợp tác với Nhật Bản trong lĩnh vực đầu tư 
Bên cạnh những nỗ lực của phía Việt Nam trong việc cải thiện môi 
trường đầu tư, phía Nhật Bản cũng đã có những sự trợ giúp tích cực để chia sẻ 
khó khăn với Việt Nam vì các nhà đầu tư Nhật Bản đã tỏ thiện chí muốn làm ăn 
lâu dài với Việt Nam. Trong thời gian tới, Việt Nam cần hợp tác với Nhật Bản 
để chia sẻ những thông tin về hoạt động FDI tại Việt Nam cũng như các dự án 
cần thu hút vốn, những quy định, chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư. 
Một trong những việc làm có ý nghĩa của Nhật Bản đối với việc xúc tiến 
đầu tư ở Việt Nam là sự góp mặt của JETRO - Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật 
Bản - Một tổ chức phi lợi nhuận của chính phủ Nhật Bản trong chương trình 
khuyến khích các doanh nghiệp của Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam. Bắt đầu 
hoạt động vào tháng 10/1993, JETRO đóng vai trò trung gian giữa các công ty 
Nhật Bản đang tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam với các đối tác của họ và 
ngược lại. Bên cạnh đó, JETRO còn cung cấp các thông tin cơ bản về môi 
trường đầu tư của Việt Nam cho các nhà kinh doanh Nhật Bản, giúp đỡ các công 
ty Việt Nam tiếp cận với các chủ đầu tư Nhật Bản có tiềm năng một cách dễ 
dàng hơn. Với vai trò như vậy, JETRO thực sự là chiếc cầu nối thuận lợi cho 
quan hệ hợp tác đầu tư Việt - Nhật. Vì vậy chúng ta phải tận dụng ưu thế của 
chiếc cầu nối này để quảng bá cho các nhà đầu tư Nhật Bản về tiềm năng của 
Việt Nam, danh mục dự án kêu gọi đầu tư. Với cách làm này thì cả hai bên Việt 
Nam và Nhật Bản dễ dàng gặp gỡ nhau về mặt lợi ích. 
Một hoạt động có ý nghĩa nữa trong việc thúc đẩy quan hệ đầu tư giữa hai 
nước là các cuộc họp nhóm đầu tư thương mại Việt Nam-Nhật Bản diễn ra hàng 
năm tại Việt Nam. Đến nay đã có ba cuộc họp đã được tổ chức và cuộc họp gần 
đây nhất là cuộc họp nhóm đầu tư Việt-Nhật lần thứ ba vào trung tuần tháng tư 
năm 2002 tại Hà Nội. Tham dự cuộc họp phía Nhật Bản có sự góp mặt của quan 
chức thuộc Bộ Ngoại giao và Bộ Công thương Nhật Bản và đại diện của các 
doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam. Phía Việt Nam có mặt của 
các quan chức hữu quan. Theo đánh giá của ông Chihiro Atsumi- Vụ phó Vụ 
Châu Á Thái Bình Dương của Nhật Bản, cuộc họp lần thứ ba có kết quả tốt hơn 
so với hai kỳ trước, những nội dung được đề cập tại cuộc họp lần này rất phong 
phú và rất đầy đủ. Hai bên đã trao đổi với nhau rất thẳng thắn các vấn đề nêu ra, 
các câu trả lời của phía Việt Nam đã ăn khớp với các câu hỏi của phía Nhật Bản 
đưa ra. Các cuộc họp này là dịp rất tốt để cả hai phía có thể trao đổi trực tiếp với 
nhau các vấn đề cùng quan tâm. Trong thời gian tới, phía Việt Nam cần hợp tác 
với Nhật Bản để tổ chức các cuộc họp tương tự như thế này. 
Ngoài ra, Việt Nam cần phải có các chương trình hợp tác cấp chính phủ 
với Nhật Bản trong lĩnh vực đầu tư. Các cuộc Hội nghị, các chuyến thăm chính 
thức của các nhà đại diện cấp cao hai nước là cơ hội tốt để cho hai bên tăng 
cường tiếp xúc và hiểu biết lẫn nhau. Chuyến thăm gần đây nhất của Tổng bí thư 
Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh vào ngày 3/10/2002 đã đánh dấu 
bước tiến quan trọng trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản nói chung về 
các lĩnh vực kinh tế đối ngoại, hợp tác song phương. Bên cạnh đó, cả hai chính 
phủ đã bắt đầu đưa ra thảo luận để tiến hành soạn thảo và ký kết hiệp định chung 
về Khuyến khích đầu tư Việt Nam - Nhật Bản. Hiệp định này sẽ mang lại lợi ích 
cho cả hai phía. Về phía Việt Nam điều đó thể hiện sự hoàn thiện và ổn định của 
chế độ pháp luật, khiến các doanh nghiệp Nhật Bản yên tâm hơn khi đầu tư vào 
Việt Nam. Nếu hiệp định này được ký kết sẽ hứa hẹn những triển vọng to lớn 
trong việc thúc đẩy JDI vào Việt Nam. 
Hiện nay báo chí khắp nơi nói nhiều về cuộc khủng hoảng, nói nhiều về 
sự trì trệ và chiếc ngai vàng kinh tế Châu Á mà Nhật Bản nắm giữ đang bị lung 
lay, thế nhưng ý nghĩa của những giá trị thành công của họ trong thế kỷ qua thì 
vẫn còn mãi. Đối với Việt Nam, một đất nước còn nghèo nàn và lạc hậu thì tấm 
gương phát triển kinh tế của Nhật Bản là rất đáng để học tập. Trong xu thế hiện 
nay tiếp nhận JDI một cách có chọn lọc là phương pháp học tập được đánh giá 
cao nhất, có hiệu qủa nhất. Sự phát triển hay tụt hậu phụ thuộc không nhỏ vào 
kết quả thực hiện chính sách thu hút và sử dụng vốn FDI. Bên cạnh những nỗ 
lực nhằm tạo điều kiện thuận lợi như bảo đảm ổn định chính trị, ổn định kinh tế 
vĩ mô, thiết lập môi trường pháp lý lành mạnh, xây dựng hạ tầng cơ sở...thì một 
điều quan trọng mà chúng ta phải rất quan tâm là dung hoà được lợi ích của phía 
Việt Nam với lợi ích của các đối tác Nhật Bản. 
KẾT LUẬN 
Nếu như tốc độ tăng trưởng thương mại Nhật Bản thập kỷ 90 của thế kỷ 
20 vừa qua không ổn định thì tình hình đầu tư ra nước ngoài của nước này có vẻ 
sáng sủa hơn. Dù rằng tốc độ tăng đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản có giảm 
sút so với những thập kỷ trước đó nhưng nhìn chung, từ năm 1990 đến nay, Nhật 
Bản vẫn giữ được mức đầu tư khá cao thậm chí tăng đáng kể. Xét về địa bàn đầu 
tư thì Bắc Mỹ và EU là thị trường đầu tư chủ yếu, thường xuyên chiếm tỷ trọng 
lớn trong tổng JDI. Tuy nhiên, bắt đầu từ những năm1990 các nhà đầu tư Nhật 
Bản đã bắt đầu chính sách hướng mạnh về Châu Á và coi Châu Á là địa bàn 
chiến lược của mình. Còn xét về cơ cấu lĩnh vực đầu tư thì JDI chủ yếu tập trung 
vào nghành phi chế tạo, đây cũng là xu hướng chung của dòng lưu chuyển FDI 
trên thế giới. Các nhà đầu tư Nhật Bản đã tập trung vào hoạt động sát nhập và 
mua lại trong chiến lược đầu tư ra nước ngoài của mình. 
Dù rằng hiện tại nền kinh tế Nhật Bản đang trong tình trạng suy thoái 
song người Nhật đang cố gắng thực hiện nhiều giải pháp cải cách để vượt qua 
những khó khăn đó và hi vọng sự hồi sinh trở lại, trong đó đặc biệt nhấn mạnh 
đến chiến lược kinh tế đối ngoại. Hiện nay nền kinh tế Nhật Bản đang có dấu 
hiệu phục hồi và đáng chú ý là xu thế đồng yên đang tăng giá có thể là những tác 
nhân góp phần cải thiện tình hình đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản. Trong 
thập kỷ đầu của thế kỷ 21 Nhật Bản sẽ vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đầu tư 
ra nước ngoài và cơ cấu địa bàn đầu tư, lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư cũng 
không có nhiều thay đổi so với thập kỷ trước. Đặc biệt các nhà đầu tư Nhật Bản 
đánh giá cao tiềm năng của các nước ASEAN trong đó có Việt Nam như là miền 
đất hứa cho hoạt động kinh doanh của mình. 
 Các nhà đầu tư Nhật Bản luôn tỏ ra thận trọng và chắc chắn khi đầu tư 
vào Việt Nam. Tuy nhiên các công ty Nhật Bản đều coi Việt Nam là thị trường 
mới nổi đầy triển vọng đối với đầu tư của họ các lĩnh vực đầu tư của Nhật Bản 
bao hàm hầu hết các ngành kinh tế thiết yếu của Việt Nam, từ dầu khí đến cơ khí 
chế tạo, đặc biệt là sản xuất ôtô, linh kiện điện tử, chế biến nông sản, thực phẩm, 
du lịch, dịch vụ, xây dựng hạ tầng khu công nghiệp. Các công ty hàng đầu của 
Nhật Bản như Honda, Sony, Sumitomo, Marubeni, Mitsui đã có mặt và đang 
phát triển tích cực các dự án của mình ở Việt Nam. Điểm đáng lưu ý là các dự 
án triển khai nhanh, tỷ lệ đổ bể thấp hơn mức trung bình, sản phẩm sản xuất ra 
có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Một số lĩnh vực đầu tư của Nhật Bản 
đang trở thành sức sống của nền công nghiệp Việt Nam như sản xuất ôtô, công 
nghiệp điện tử. 
 Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế và thu hút đầu tư nước 
ngoài. Nhưng chúng ta cũng còn nhiều khó khăn trở ngại đòi hỏi phải có sự nỗ 
lực để vượt qua. Trước hết phải khắc phục những trở ngại do chính chúng ta gây 
ra và phát huy tối đa các lợi thế so sánh mà chúng ta có được. Trong bối cảnh 
hiện nay, cùng với những lợi thế của mình, chúng ta không được phép bỏ lỡ cơ 
hội trở thành một điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và 
Nhật Bản nói riêng. 
 Hơn mười năm thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản không phải là một 
thời gian dài nhưng chúng ta cũng rút ra được khá nhiều kinh nghiệm, cả kinh 
nghiệm của sự thành công cũng như kinh nghiệm của sự thất bại. Hợp tác kinh 
tế đầu tư giữa hai nước Việt Nam-Nhật Bản vẫn đang đi đúng hướng. Mặc dù 
hiện nay Nhật Bản chưa phải là nhà đầu tư lớn nhất ở Việt Nam nhưng hy vọng 
rằng điều đó sẽ trở thành hiện thực trong một tương lai gần và điều quan trọng 
nhất ở đây là đạt tới một nền kinh tế phát triển ổn định cho cả Việt Nam, Nhật 
Bản cũng như các nước trong khu vực. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phạm Thị Thanh Bình- Vai trò của Nhật Bản trong phát triển kinh tế 
ASEAN thập niên cuối thế kỷ 21- Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông 
Bắc á 2/ 2002. 
2. Nguyễn Duy Dũng- Xu hướng đầu tư vào ODA của Nhật Bản thập niên 
đầu thế kỷ 21- Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á 11/2001 
3. Đỗ Đức Định- Quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản đanh phát triển- NXB 
Khoa học xã hội 1996 
4. Vũ Văn Hà- Điều chỉnh chính sách đầu tư trực tiếp của Nhật Bản trong 
thập niên 90 của thế kỷ 20- Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á 
6/2002. 
5. Hoàng Minh Hằng- Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào ASEAN trong thập 
kỷ 90 vừa qua- Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á 10/ 2001. 
6. Phạm Quý Long- Tác động của đồng yên lên giá tới nền kinh tế Nhật Bản 
và các giải pháp vĩ mô- Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản 11/1995. 
7. Phạm Quý Long- Kinh tế Nhật Bản phải chăng đang phục hồi- Tạp chí 
nghiên cứu Nhật Bản 11/2000. 
8. Vũ Chí Lộc- Giáo trình đầu tư nước ngoài- NXB Giáo dục 1997. 
9. Nguyễn Thị Luyến ( Chủ biên)- Hiện tượng thần kỳ Đông Á, các quan 
điểm khác nhau- NXB khoa học xã hội 1997. 
10. Kim Ngọc ( Chủ biên)- Kinh tế thế giới 2000-2001- Đặc điểm và triển 
vọng- NXB Chính trị quốc gia 2001. 
11. Tập thể tác giả Trung Quốc- Dự báo thế kỷ 21- NXB Thống kê 1998. 
12. Makoto Sakurai thuộc Viện nghiên cứu Mitsui Marine Trường đại học 
Aoyama- Doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản và đầu tư ra nước ngoài của 
họ- Báo cáo hội thảo tại Hà Nội 30/11/1996. 
13. Lê Văn Sang ( Chủ biên )- Chiến lược và quan hệ kinh tế Mỹ- EU- Nhật 
Bản Thế kỷ 21- NXB Khoa học xã hội 2002. 
14. Lê Văn Sang, Đào Lê Minh- Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương- NXB 
Chính trị quốc gia 1998. 
15. Lê Văn Sang, Nguyễn Xuân Thắng- Kinh tế các nước công nghiệp chủ 
yếu sau chiến tranh thế giới thứ hai- NXB Chính trị quốc gia 2000. 
16. Lê Văn Sang, Lưu Ngọc Trịnh- Nhật Bản đường đi tới một siêu cường 
kinh tế- NXB Khoa học xã hội 1991. 
17. Vũ Trường Sơn - Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở 
Việt Nam- NXB Thống kê 1997 
18. Shojiro Tokugana ( Chủ biên) - Đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản và 
sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ở Châu Á- NXB Khoa học xã hội 1996. 
19. Lưu Ngọc Trịnh- Kinh tế Nhật Bản những bước thăng trầm trong lịch sử- 
NXB Thống Kê 1998. 
20. Lưu Ngọc Trịnh- Giới tài chính Nhật Bản đứng trước bước ngoặt sống 
còn- Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản 6/1998. 
21. Lưu Ngọc Trịnh- Quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản trong những năm 
gần đây- Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản 9/2000. 
22. Nguyễn Anh Tuấn- Quan hệ kinh tế của Mỹ và Nhật Bản với Việt Nam từ 
năm 1995 đến nay- NXB Khoa học xã hội 2001. 
23. Thời báo Kinh tế Việt Nam – Kinh tế Việt Nam và Thế giới -các năm từ 
1997 đến 2002 
24. Thời báo Kinh tế Sài Gòn, các số năm 2002 
25. Jbic today- 5/2001,6/20 
26. Jbic Review 2000,20001 
27. Jetro White Paper on International Trade and Invetsment 1997, 1998, 
1999, 2000, 2001,2002 
Webside: 
1.  
2.  
3.  
4.  
5.  
6. http:// www.imf.org.com/ 
Phụ lục 1: Tình hình xuất khẩu FDI của một số nước 
Đơn vị: Triệu USD 
 1997 1998 1999 2000 2001 
Mỹ 
Canada 
105,590 
11,523 
178,200 
22,526 
301,020 
25,206 
307,747 
62,758 
130,796 
27,574 
EU 
Bỉ và Luxembua 
Đan Mạch 
Pháp 
Đức 
Ailen 
Italia 
Hà Lan 
Tây Ban Nha 
Thuỵ Điển 
Anh 
130,443 
11,998 
2,792 
23,048 
12,795 
2,743 
3,700 
11,055 
6,384 
10,271 
37,379 
259,293 
22,619 
6,675 
29,518 
23,279 
11,035 
2,635 
37,634 
11,905 
19,413 
74,652 
490,612 
133,059 
16,077 
46,625 
55,790 
18,615 
6,943 
41,283 
15,541 
59,386 
87,833 
800,005 
234,757 
35,532 
43,173 
189,178 
22,778 
13,175 
56,631 
36,931 
22,125 
119,933 
321,941 
51,214 
7,050 
52,504 
28,699 
9,865 
15,025 
55,563 
21,540 
12,857 
53,854 
Ôxtrâylia 
Trung Quốc 
Hồng Kông 
Ấn Độ 
Nhật Bản 
Malaysia 
Philipin 
Hàn Quốc 
Đài Loan 
Thái Lan 
7,631 
44,237 
11,368 
3,577 
3,200 
5,137 
1,222 
2,844 
2,248 
3,895 
6,046 
43,751 
14,776 
2.635 
3,268 
2,163 
2,287 
5,412 
222 
7,315 
5,699 
38,753 
24,587 
2,169 
12,308 
3,895 
573 
9,333 
2,926 
6,213 
11,512 
38,399 
61,883 
2,315 
8,227 
3,788 
1,241 
9,283 
4,928 
3,366 
4,067 
44,241 
22,834 
3,403 
6,191 
0,554 
1,792 
3,198 
4,109 
2,839 
Áchentina 
Braxin 
Mêxicô 
9,161 
19,650 
12,831 
7,292 
31,913 
11.312 
23,984 
28,576 
11,915 
11,665 
32,779 
13,286 
3,181 
22.636 
24,730 
Cộng Hoà Séc 
Hungary 
Ba Lan 
Nga 
1,300 
2,173 
4,908 
4,865 
3,718 
2,036 
6,365 
2,762 
6,324 
1,970 
7,270 
3,309 
4,986 
1,649 
9,342 
2,714 
4,916 
2,443 
8,000 
2,540 
Israen 
Nam Phi 
1,628 
3,811 
1,760 
550 
2,889 
1,503 
4,392 
0,969 
3,044 
7,162 
Thế giới 
Nước phát triển 
Nước đang phát triển 
461,646 
272,033 
189,613 
688,433 
485,184 
203,249 
1,083,472 
856,234 
227,239 
1,469,211 
1,217,387 
251,384 
694,753 
502,203 
192,549 
Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF 12/2001 
Phụ lục 2: Tình hình tiếp nhận FDI của một số nước 
Đơn vị: Triệu USD 
 1996 1997 1998 1999 2000 
Mỹ 
Canada 
91,880 
13,107 
104,820 
22,521 
155,410 
31,041 
155,410 
17,842 
152,440 
41,499 
EU 
Ôxtrâylia 
Bỉ và Luxambua 
Đan Mạch 
Phần Lan 
Pháp 
Đức 
Hy Lạp 
Ailen 
Italia 
Hà Lan 
Bồ Đào Nha 
Tây Ban Nha 
Thuỵ Điển 
Anh 
185,195 
1,848 
8,026 
2,510 
3,583 
30,362 
50,752 
18 
727 
8,697 
31,890 
972 
5,577 
5,112 
35,157 
223,215 
1,984 
7,252 
4,355 
5,260 
35,488 
42,726 
4 
1,008 
10,414 
24,598 
2,187 
12,423 
12,119 
63,499 
410,115 
2,794 
28,845 
4,215 
18,698 
45,710 
89,678 
262 
4,955 
12,407 
37,226 
3,851 
19,065 
22,671 
119,747 
713,832 
3,306 
119,800 
13,607 
6,739 
119,494 
109,797 
555 
6,102 
6,723 
58,139 
2,856 
41,754 
19,554 
206,518 
805,317 
3,304 
82,342 
27,580 
22,436 
169,481 
52,048 
2,141 
3,983 
12,075 
74,809 
7,139 
52,826 
39,962 
259,472 
Na Uy 
Thuỵ Sĩ 
5,880 
16,152 
5,008 
17,732 
3,263 
16,767 
5,771 
35,952 
8,197 
41,316 
Ôxtrâylia 
NiuZilân 
Nhật Bản 
7,052 
1,533 
23,442 
6,368 
45 
26,059 
3,368 
928 
24,625 
2,989 
803 
22,267 
5,291 
963 
31,534 
Đông Á 
Trung Quốc 
Asian Nies 
Hồng Kông 
Hàn Quốc 
Xinhgapo 
Đài Loan 
Asean 4 
Inđonêsia 
Malaysia 
Philipin 
Thái Lan 
49,467 
2,114 
41,872 
26,531 
4,671 
6,827 
3,843 
5,481 
600 
3,768 
182 
931 
49,542 
2,563 
43,459 
24,407 
4,449 
9,360 
5,243 
3,520 
178 
2,626 
136 
580 
29,857 
2,634 
26,103 
16,973 
4,740 
555 
3,836 
1,119 
44 
785 
160 
130 
35,752 
1,775 
31,978 
19,349 
4,198 
4,011 
4,420 
1,999 
72 
1,640 
-59 
346 
83,114 
916 
79,247 
63,014 
5,256 
4,276 
6,701 
2,951 
150 
2,919 
-95 
-23 
Mỹ Latinh 
Achentina 
Braxin 
Mêhicô 
5,549 
1,600 
-467 
38 
14,391 
3,653 
1,042 
1,108 
8,048 
2,326 
2,721 
1,363 
21,753 
1,354 
1,690 
1,214 
13,442 
1,113 
2,280 
1,600 
Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF 12/2001 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN-TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN TỪ NĂM 1990 VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM.pdf LUẬN VĂN-TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN TỪ NĂM 1990 VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM.pdf