Nhập khẩu thép phế liệu là nhu cầu cần thiết và phù hợp đối với sự nghiệp xây dựng
và kiến tạo đất nước ở các quốc gia và đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay.
Đối với nền kinh tế nước ta, nhập khẩu thép phế liệu là để bổ sung nguồn đầu vào cho các
đơn vị sản xuất thép tránh khỏi tình trạng sản xuất bị đình trệ do thiếu nguyên liệu đầu vào,
góp phần bù đắp những mặt hàng thép mà trong nước cha sản xuất được.
28 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2902 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình hình nhập khẩu thép phế liệu và các biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép phế liệu Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu 1,5 triệu tấn phôi/ năm là cần thiết nhng
không phải làm ra thép bằng mọi giá”3. Cũng theo ông Kinh: “ năng lực xủ lý chất thải của
Việt Nam hiện còn quá kém, nay lại để chất thải ngoại tràn vào thì Việt Nam sớm trở
thành bãi giác”4. Nh vậy, nguy cơ đói nguyên liệu cho ngành sản xuất thép đang dần lộ
diện bởi sự khập khễnh giữa tiêu chuẩn thép phế liệu của Việt Nam với tiêu chuẩn Thế
giới. Trong khi đó, giá thép trên thị trờng thế giới có những biến động mạnh (giá các
nguyên liệu cho luyện thép nh: quặng, gang, thép phế, than cốc...) giá phôi thép; giá thành
phẩm thép xây dựng, thép tấm, lá ...liên tục tăng.
Trớc tình hình đó, các chuyên gia ngành thép cảnh báo sản lợng thép toàn cầu sẽ sụt
giảm hàng loạt sau những đợt nguyên liệu đầu vào tăng chóng mặt. Cung- cầu thép đang
rơi vào tình trạng hỗn loạn, không có đủ cung để đáp ứng cầu đang tăng quá nhanh. Theo
dự kiến, đến năm 2004, nhu cầu sẽ là 936triệu tấn, tăng 5% so với 2003 và sẽ tiếp tục tăng
trong tơng lai. Các chuyên gia ngành thép còn cho biết nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình
trạng trên là do Trung Quốc đang bớc vào xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản làm cho nhu cầu
về thép tăng (2003 là 35 triệu tấn phôi, trong đó nhu cầu trong nớc là trên 25 triệu tấn).
Ngoài ra, Mỹ đã xoá bỏ thuế nhập khẩu (thuế nhập khẩu= 0% ) đối với mặt hàng thép làm
cho nhu cầu thép của nớc này cũng tăng mạnh. Đây là những nguyên nhân chính gây lên
sự biến động lớn cho thị trờng thép trên thế giới, vì Mỹ và Trung Quốc là 2 quốc gia lớn
và có tầm ảnh hởng lớn đối với thị trờng Thế giới.
Tình hình trong nớc và thế giới nh vậy đã gây nên sự biến động lớn về giá thép ở
Việt Nam: Đầu quý I/2004 là 6,4-6,5 triệu/tấn thép, vậy mà đến cuối quý I- đầu quý
II/2004 đã là 8,5- 9,3 triệu/tấn. Chỉ trong một thời gian ngắn giá thép đã tăng chóng mặt.
Để bình ổn lại thị trờng, Hiệp hội thépViệt Nam, Tổng Công ty thép, tổ điều hành thị trờng
trong nớc đã họp và kiến nghị với chính phủ 4 biện pháp: 1.Thúc đẩy sản xuất phôi thép
trong nớc; 2.Tháo gỡ vấn đề nhập khẩu thép phế liệu để sản xuất phôi; 3.Kiểm tra mạng
luới phân phối để tránh đầu cơ; 4.Nhập khẩu thép thành phẩm khi nguồn cung trong nứơc
cha đủ đáp ứng. Bộ công nghiệp cũng có kiến nghị chính phủ sớm điều chỉnh các quy định
về việc nhập khẩu thép phế liệu theo hớng coi thép phế liệu là nguyên liệu cơ bản của
ngành thép.
Vì thép phế liệu là mặt hàng phế liệu, có ảnh hởng tới môi trờng Việt Nam, nên hoạt
động nhập khẩu thép phế liệu vào nớc ta sẽ do Bộ Tài nguyên – Môi trờng toàn quyền
quản lý, trên cơ sở đó Bộ ra quyết định số 03/2004/QĐ- BTN-MT ban hành ngày
02/04/2004 –“Quyết định của Bộ trởng Bộ tài nguyên môi trờng về việc ban hành quy
định về bảo vệ môi trờng đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất”, theo
Quyết định này: “Các cơ sở sản xuất thuộc các ngành thép, giấy, thuỷ tinh và nhựa đều
đợc nhập khẩu phế liệu về làm nguyên liệu sản xuất”. Quy định này nhằm giúp các doanh
nghiệp chủ động có nguồn ngyên liệu giá rẻ hơn để phục vụ sản xuất thép làm giảm giá
thành sản phẩm. Tuy nhiên, không thể tiến hành nhập khẩu phế liệu bừa bãi, phế liệu nhập
về phải đảm bảo tiêu chuẩn sau: “không lẫn tạp chất nguy hại; không lẫn chất thải, trừ tạp
chất không nguy hại còn bám dính hoặc bị rời ra trong quá trình vạn chuyển, bốc xếp”.
Quyết định này cũng quy định một số điều kiện đối với các doanh nghiệp đợc phép nhập
khẩu - chỉ những tổ chức, cá nhân có kho, bãi dành riêng cho việc tập kết phế liệu nhập
khẩu đảm bảo các điều kiện về môi trờng trong quá trình lu giữ phế liệu nhập khẩu; có đủ
năng lực xử lý các tạp chất đi kèm với phế liệu nhập khẩu mới đợc phép nhập khẩu phế
liệu.
Nh vậy, hoạt động nhập khẩu thép phế đã đợc các Bộ, Ngành có liên quan quan tâm
và tạo hành lang pháp lý thông thoáng nhằm giúp các doanh nghiệp đợc thuận lợi hơn khi
tiến hành hoạt động kinh doanh này. Sẽ không có một trở ngại quá lớn nào về mặt pháp lý
gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiến hành nhập khẩu thép phế vào Việt Nam:
. Văn bản pháp lý điều chỉnh trực tiếp và hiện hành đối với nhập khẩu thép phế liệu
của Nhà nớc ta là Quyết định số 03/ 2004/QĐ- BTN- MT của Bộ tài nguyên môi trờng ban
hành ngày 02/04/2004
. Thép phế liệu nằm trong danh mục những mặt hàng đợc phép nhập khẩu theo quy
định của Nhà nớc.
. Hiện nay Nhà nớc không có quy định hạn ngạch nhập khẩu đối với thép phế.
. Thuế nhập khẩu thép phế liệu là 0%.
2) Kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô
Quyền
2.1) Động cơ của hoạt động nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp
tàu thủy Ngô Quyền
* Xuất phát từ nhu cầu thị trờng:
Sắt thép đợc coi là một trong những mặt hàng có tầm quan trọng chiến lợc trong
công cuộc xây dựng đất nớc. Đặc biệt ở nớc ta hiện nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá-
hiện đại hoá, nhu cầu ngày càng cao đối với mặt hàng thép. Khi kinh tế – xã hội phát triển
thì nhu cầu của con ngời đòi hỏi ngày càng cao, có thể nói nhu cầu của con ngời là không
giới hạn. Hiện nay, nớc ta còn lạc hậu, kém xa các nớc trên thế giới (một phần là do bị
chiến tranh tàn phá trong một thời gian dài). Vì vậy, đất nớc cần phải chuyển mình, đổi
mới nền kinh tế - xã hội để bắt kịp với xu thế phát triển của toàn thế giới. Nhng để đạt đợc
mục tiêu đó, vấn đề cơ bản và cũng là nền tảng là phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc
để từ đó đặt nền móng cho đất nớc đi lên (nh một ngôi nhà muốn vơn cao, vơn xa thì trớc
hết phải tạo đợc móng nhà vững chắc). Trong đó sắt thép đóng vai trò quan trọng, chiến
lợc trong sự nghiệp cách mạng cải cách cơ cấu kinh tế - xã hội của nhân dân ta dới sự lãnh
đạo của Đảng. Nhu cầu về thép ngày càng tăng, trong khi nền công nghiệp khai thác quặng
ở nớc ta còn thấp kém cha đủ để đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu của ngành luyện kim.
Hơn nữa, thị trờng thép trên thế giới đang có sự biến động mạnh (giá cả tăng chóng mặt)
khiến cho giá nhập khẩu thép vào nớc ta cao. Trớc tình hình đó, giải pháp trớc mắt và cũng
là lâu dài cho ngành thép ở nớc ta là : nhập khẩu thép phế liệu về để sản xuất phôi thép
phục vụ cho ngành luyện thép đáp ứng nhu cầu thép đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam.
*Đối với Công ty:
Hoạt động nhập khẩu thép phế liệu là phù hợp với đặc điểm kinh doanh của Công
ty- Ngành nghề truyền thống và cũng là xuất phát điểm của Công ty là nhập khẩu tàu cũ về
để đóng mới và sửa chữa phục vụ nhu cầu trong nớc và xuất khẩu sang nớc ngoài. Cùng
với việc nhập khẩu tàu cũ từ nớc ngoài về, thay vì vận chuyển tàu không, Công ty vận
chuyển thêm sắt thép phế nhập khẩu trên những con tàu nhập khẩu đó, tránh sự lãng phí và
tiết kiệm đợc chi phí nhập khẩu . Hơn nữa, hoạt động đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ của
Công ty cũng cần sử dụng lợng sắt thép phế liệu lớn, do đó thay vì mua lại ở thị trờng
trong nớc, Công ty nhập khẩu trực tiếp thì giá sẽ thấp hơn.
Nh vậy, hoạt động nhập khẩu thép phế liệu không chỉ giúp cho Công ty tăng doanh
thu và lợi nhuận trong kinh doanh mà còn đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trờng góp phần
bình ổn lại thị trờng thép trong nớc và cũng không trái với quy định pháp luật Việt Nam.
2.2 Kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô
Quyền
a) Giai đoạn 1996 –1999:
Nh đã trình bày ở trên, tiền thân của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền là
Xởng phá dỡ tàu cũ và sản xuất khí công nghiệp thuộc Tổng công ty Vinashin, với chức
năng đó thì mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của Xởng đều phải dựa trên chỉ tiêu, mệnh
lệnh của Tông công ty, cha thực sự tự ý thức và phát huy tối đa mọi tiềm năng có đợc để
đạt hiệu quả cao. Sau khi có quyết định thành lập Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô
Quyền và trở thành một trong 29 đơn vị hạch toán độc lập, Công ty đã chủ động trong kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh của mình. Công ty đã có nhiều
đổi mới, phát huy tối đa mọi nguồn lực có thể có để từng bớc nâng cao chất lợng kinh
doanh nói chung và kinh doanh thép phế liệu nhập khẩu nói riêng.
Bảng 1. Sản lợng và kim ngạch nhập khẩu (KNNK) thép phế liệu của Công ty
giai đoạn 1996 – 19995
STT Năm Sản lợng(tấn) KNNK
(USD)
1 1996 1130 63000
2 1997 1350 77000
3 1998 2300 138000
4 1999 3050 189100
Bảng 1 cho thấy sản lợng và kim ngạch nhập khẩu của Công ty nhìn chung tăng từ
năm 1996 đến năm 1999. Tuy nhiên, sự tăng trởng này là không đều giữa các năm: giai
đoạn 1996 – 1997 tăng thấp - sản lợng tăng 20%, KNNK tăng 22%, 1997 – 1998 tăng
mạnh - sản lợng tăng 70%, KNNK tăng 79%, 1998 – 1999 sản lợng tăng 33%, KNNK
tăng 37%. Năm 1998 có sự tăng trởng mạnh nh vậy là do Nhà nớc đã cho phép nhập khẩu
mặt hàng này và từ năm nay sản lợng nhập khẩu vào Việt Nam nhìn chung tăng cao do
nhu cầu nguyên liệu cho ngành thép lớn. Qua phân tích cũng cho thấy mức độ tăng sản
lợng và KNNK không bằng nhau- KNNK thờng tăng cao hơn sản lợng trong cùng một
thời kì, nguyên nhân chủ yếu là do giá thép phế liệu trên thị trờng trong nớc và Thế giới
đang biến động theo xu hớng ngày càng tăng.
Trong giai đoạn đầu thành lập, ngành kinh doanh “nhập khẩu thép phế liệu của
Công ty còn non trẻ, chủ yếu thực hiện theo phơng thức “nhập khẩu tàu cũ về phá dỡ để
sản xuất sắt thép. Thực tế cho thấy, hoạt động kinh doanh “ thép phế liệu nhập khẩu” trong
giai đoạn này cha thực sự làm ăn có hiệu quả, doanh thu thấp, hình9thức kinh doanh còn
manh mún, nhỏ bé, phân tán. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh này chỉ chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng doanh thu của Công ty, do đó chỉ có thể đợc tính gộp vào là doanh thu
chung của ngành “ phá dỡ tàu”.
* Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do:
1. Do mới thành lập nên vốn của Công ty còn hạn hẹp, nên không thể thực hiện các
hợp đồng lớn về nhập khẩu tàu cũ đợc, mà sản lợng thép phế liệu hoàn toàn dựa vào số
lơng tàu cũ nhập về để phá dỡ. Điều này dẫn đến sản lợng thép phế liệu của Công ty thấp.
Ngoài ra, mới thành lập cũng là nguyên nhân tạo ra sự bất lợi về thời gian và điều kiện gia
nhập thị trờng cha đủ để tạo lập cho mình một vị trí và chỗ đứng trên thị trờng trong và
ngoài nớc. Vì vậy Công ty cha khẳng định đợc uy tín của mình, Điều này khiến cho công
việc kinh doanh của Công ty gặp rất nhiều khó khăn: khó khăn trong việc ký kết các hợp
đồng nhập khẩu tàu cũ (khó khăn trong khâu đầu vào), các doanh nghiệp trong nớc còn ít
biết đến sự tồn tại của Công ty hoặc nếu có biết thì vẫn cha có cơ sở để họ đặt niềm tin để
kí các hợp đồng mua sắt thép phế liệu của Công ty (khó về đầu ra).
3. Nhiệm vụ đóng tàu gặp nhiều khó khăn, dẫn đến sản lợng thép phế liệu thấp: Do
từ sau khi Nhà nớc cho phép các doanh nghiệp đợc phép phá dỡ tàu cũ để lấy sắt thép phế
liệu, khiến cho ngày càng có nhiều doanh nghiệp phá dỡ tàu cũ nên việc mua tàu cũ bị
căng giá.
4. Việc làm thủ tục mua bán còn nhiều phiền toái, phụ phí cao, nhất là đối với tàu cũ
của nớc ngoài. Nhiều khi bế tắc sản xuất do khâu thủ tục phải “qua” nhiều “ cửa”, nhiều
“dấu”, đối tác mất niềm tin, Công ty mất nguồn cung.
5.Mặt khác, lúc bấy giờ quy trình công nghệ phá dỡ tàu để sản xuất sắt thép phế liệu
còn rất xa lạ đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp vừa tự sản xuất vừa tự rút ra quy trình
công nghệ sản xuất cho mình. Do vậy năng suất thấp, việc quản lý lao động rất khó khăn,
khó giao chỉ tiêu, khó đạt mức khoán, khó quản lý sản phẩm và tài sản dễ dẫn đến lãng phí,
hao hụt, mất mát...
6. Giá phế liệu không ổn, do việc cung cấp sản phẩm khi thì dồn dập, khi thì khan
hiếm
7.Chất lợng công nhân viên làm việc cha có chuyên môn kĩ năng cao dẫn đến năng
suất lao động thấp, sản lợng thép phế liệu thấp.
Từ những nguyên nhân trên dẫn đến việc kinh doanh “ thép phế liệu nhập khẩu” nói
riêng và hiệu quả kinh doanh của cả Công ty nói chung cha cao. Tính cho tới cuối năm
1999, doanh thu của cả ngành “phá dỡ tàu cũ” ớc tính đạt trên 20 tỷ VNĐ.
Thực trạng trên đòi hỏi Công ty phải có sự đổi mới từ công tác tổ chức, quản lý,
nâng cấp cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ cho tới việc nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ
công nhân viên trong Công ty.
* Giai đoạn 2000- 2004
Trớc thực trạng làm ăn kém hiệu quả nh vậy, Công ty đã phải sử dụng nhiều biện
pháp khác nhau để góp phần cải thiện lại tình hình. Trớc hết phải kể đến sự đổi mới trong
phơng thức kinh doanh: thay vì nhập khẩu thép phế liệu hoàn toàn dới hình thức “ nhập
khẩu tàu cũ về phá dỡ để sản xuất thép phế liệu”, nay Công ty đã tiến hành nhập khẩu trực
tiếp thông qua thu mua thép phế liệu. Điều này giúp cho sản lợng thép phế liệu mà Công
ty nhập khẩu tăng cao.
Bảng2.
Sản lợng và kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ
Ngô Quyền6
T
T
NĂM SẢN
LỢNG(TẤN)
KNNK( US
D)
THỊ TRỜNG
1 2000 7.500 562.500 100%châu âu
2 2001 11.000 847.000 100%châu âu
3 2002 13.700 2.856.000 70%châu âu, 30%châu á
4 2003 16.000 4.080.000 90%châu á, 10%châu âu
5 2004 21.000 6.447.000 70%châu á,30%châu âu và mỹ
Từ bảng trên cho thấy, số lợng thép phế liệu Công ty nhập khẩu tăng nhanh trong
giai đoạn 2000- 2004, tuy nhiên sự tăng trởng này không đồng đều giữa các năm: 2000-
2001 tăng 3500 tấn (tăng trên 40%), 2001- 2002 tăng 2000 tấn( tăng 18%), 2002- 2003
tăng 3000 tấn (tăng 24%), 2003- 2004 tăng 5000 tấn (tăng 30%). Mặc dù, sự tăng sản lợng
thép phế nhập khẩu của Công ty trong những năm qua là không đồng đều cả về số lợng và
tỷ lệ tăng trởng giữa các năm, nhng nhìn chung sản lợng thép phế nhập khẩu của Công ty
đã tăng khá cao từ năm đầu giai đoạn (năm2000) cho tới năm kết thúc giai đoạn (năm
2004) từ 7.500tấn lên tới 21.000tấn ( tăng 180%). Cùng với sự tăng lên về số lợng thì
KNNK đối với mặt hàng này cũng tăng với mức tăng cao hơn. Đặc biệt là trong giai đoạn
2001 – 2004, KNNK tăng tới mức chóng mặt (tăng 5.600.000 – tơng ứng trên 660%).
Nguyên nhân chủ yếu là do giá thép trong giai đoạn này tăng cao( tăng từ 77USD/tấn năm
2001 lên tới 307USD/tấn năm 2004),và một phần cũng là do sản lợng tăng cao. Trong 6
tháng đầu năm 2005, sản lựong thép phế liệu nhập khẩu của Công ty đạt 16.450tấn, đạt
57% kế hoạch năm, KNNK đạt trên 5triệu USD. Mặc dù con số này còn rất nhỏ so với
tổng KNNK của Việt Nam nhng nó cũng góp phần bình ổn lại thị trờng đang trong tình
trạng hỗn loạn cung – cầu về thép. Nếu tiếp tục duy trì ở mức tăng trởng nh vậy việc hoàn
thành và vợt mức chỉ tiêu năm nay của Công ty sẽ là tất yếu.
Từ bảng 2 cũng cho ta thấy sự thay đổi đáng kể về thị trờng nhập khẩu của Công ty,
chuyển dịch từ nhập khẩu thép phế liệu hoàn toàn từ Châu Âu (năm 2000, 2001 nhập khẩu
100%) dần sang nhập khẩu chủ yếu từ thị trờng Châu á ( hiện nay lợng thép phế nhập khẩu
từ châu á chiếm trên 70%).
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi trên? Trớc đây, bạn hàng truyền thống
của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền là các nớc nằm trong khu vực Châu Âu,
Công ty chủ yếu tiến hành các hoạt động kinh doanh ở khu vực thị trờng này, do đó việc
thép phế liệu đợc nhập khẩu 100% từ đây là hoàn toàn phù hợp . Tuy nhiên đó chỉ mang
tính tạm thời và tình thế. Xuất phát từ mục tiêu tăng doanh thu và lợi nhuận, đòi hỏi Công
ty phải chủ động tìm kiếm những khu vực thị trờng mới có giá rẻ hơn, có nhiều lợi thế đối
với công việc kinh doanh của mình. Thị trờng Châu á bao gồm các nớc nằm trong cùng
khu vực địa lý, có cùng chung đờng bờ biển, hoặc là những nớc có đờng biên giới giáp với
Việt Nam, vì vậy thuận lợi rất nhiều cho các hoạt động giao lu kinh tế văn hoá giữa ta với
các nớc bạn nói chung và cho hoạt động nhập khẩu của Công ty nói riêng. Điều này giúp
cho Công ty tiết kiệm đợc chi phí và thời gian từ khâu nghiên cứu thị trờng, kí kết hợp
đồng và cuối cùng là vận chuyển thép phế liệu về nớc. Khoảng cách giữa Việt Nam và các
nớc Châu á là tơng đối gần so với Châu âu, vì vậy ta có bắt thể nắm bắt tình hình thị trờng
và có thông tin nhanh về sự thay đổi của thị trờng này giúp ta có sự điều chỉnh nhanh,
chính xác và kịp thời. Ngoài ra, lợi thế có chung đờng bờ biển sẽ tạo lợi thế cho việc tiến
hành mua bán ngoại thơng giữa Việt Nam với các nớc trong khu vực, do việc vận chuyển
dễ dàng, mà thép phế liệu do Công ty tàu thuỷ Ngô Quyền nhập khẩu đợc coi là mặt hàng
cồng kềnh, có trọng tải lớn nên phơng tiện vận chuyển chủ yếu là bằng tàu thuỷ. Trên cơ
sở đó cho thấy quyết định chuyển hớng thị trờng này của Công ty là đúng đắn, phù hợp
với thực tế kinh doanh của Công ty.
3. Cơ cấu, giá, chất lợng và thị trờng nhập khẩu thép phế liệu của Công ty
* Về cơ cấu nhập khẩu: Do chính sách bảo hộ ngành thép của Nhà nớc nên hoạt
động nhập khẩu thép phế liệu có những bớc phát triển đáng kể nhằm đáp ứng thị trờng về
cơ cấu, chủng loại, chất lợng. Trong số các mặt hàng đợc phép nhập khẩu vào Việt Nam
theo quy định của pháp luật, cơ cấu nhập khẩu của Công ty chủ yếu tập trung vào 2 mặt
hàng sau: Thép phế liệu dùng cho cán kéo chiếm 48% tổng KNNK, thép phế liệu dùng
cho nấu chảy chiếm 45% tổng KNNK của Công ty.
* Về giá nhập khẩu: Cũng nh hầu hết các đơn vị kinh doanh với mục tiêu cuối cùng
là lợi nhuận thì việc xem xét và lựa chọn giá trớc khi kí hợp đồng mua bán là rất cần thiết.
Đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu, giá cả ở một số thị trờng lớn đóng vai trò
quyết định và là cơ sở để ngời mua chấp nhận giá từ phía chào hàng đa ra. Đối với Công ty
công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền cũn vậy: Sau khi nhận đợc đơn chào hàng của nớc ngoài
chào bán, cơ sở để tính giá nhập khẩu của Công ty là giá ở một số thị trờng thép phế liệu
lớn trên thế giới, hoặc có thể tham khảo giá của bạn hàng truyền thống Châu Âu hay giá
trên các tạp chí , bản tin có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, Công ty không thể không tính
đến giá đầu ra cho mặt hàng này nhằm đảm bảo thu lợi nhuận và làm ăn có hiệu quả. Để đi
đến quyết định có chấp nhận giá của phía chào hàng đa ra hay không, Công ty phải tính
toán phần chênh lệch giữa giá thép phế liệu nhập khẩu và giá bán lại ở thị trờng trong nớc,
sau khi trừ đi các khoản chi phí có liên quan có thu đợc lợi nhuận không và khoản lợi
nhuận thu đợc này có đợc coi là hiệu quả kinh doanh hay không? Hiện nay, giá nhập khẩu
và giá bán lại thép phế trên thị trờng Việt Nam của Công ty: Tuỳ từng chủng loại mà Công
ty sẽ nhập khẩu và bán lại với các mức giá khác nhau:
- Loại thép phế liệu dùng cho Cán kéo: Công ty nhập khẩu với giá là 270- 280 USD/
tấn giá CNF Cảng Hải Phòng (cha có thuế VAT, bảo hiểm, phí mở L/C, phí giao nhận bốc
xếp Cảng, phí giám định...), giá bán loại này trên thị trờng hiện nay: từ 4.800.000đ/tấn đến
5.400.000đ/tấn tuỳ thuộc vào kích thớc và chủng loại cụ thể.
- Loại thép phế liệu dùng cho nấu chảy: giá nhập khẩu là 225 USD/tấn giá CNF Hải
Phòng (cha có thuế VAT, bảo hiểm, phí mở L/C...), giá bán 3.900.000đ/tấn-
4.100.000đ/tấn( chỉ bán cho các lò luyện phôi thép, nh: Công ty gang thép Thái nguyên,
Thép Hoà Phát...).
Ngoài việc thụ động chờ phía chào hàng đa ra đơn giá, sau đó so sánh và đa ra
quyết định có chấp nhận giá đó hay không, Công ty cũng đẩy mạnh công tác nghiên cứu,
tìm hiểu thị trờng để chuyển mình sang thế chủ động tìm đến những thị trờng mới có giá
thấp và đảm bảo cung cấp ổn định, lâu dài cho Công ty.
* Về chất lợng thép phế liệu nhập khẩu: Chất lợng là một trong những điều khoản
của hợp đồng nhập khẩu. Vì vậy, phải đề cập chi tiết, cụ thể về chất lợng và quy cách
phẩm chất của hàng hoá để tránh xảy ra sự tranh chấp giữa ngời bán và ngời mua. Mỗi
một mặt hàng có những quy định riêng về tiêu chuẩn phẩm chất và ở mỗi nớc lại có những
quy định khác nhau về mặt hàng đó, đối với thép phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam cũng
vậy. Nhng khi tham gia vào buôn bán ngoại thơng thì phải sử dụng những tiêu chuẩn mang
tính quốc tế.
Đối với việc nhập khẩu thép phế liệu, Nhà nớc ta vẫn cha có văn bản pháp lý cụ thể
quy định về tiêu chuẩn đối với mặt hàng này. Vì vậy khi nhập khẩu thép phế các doanh
nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì họ cha có một tiêu chuẩn nào để dựa vào đó mà xem
xét, xác định thép phế liệu do doanh nghiệp mình nhập khẩu về có đạt tiêu chuẩn chất lợng
hay không. Do đó, đã có nhiều ý kiến kiến nghị về vấn đề này, trong đó đáng kể nhất là ý
kiến của Tiến sĩ Nguyễn Văn Sa - kiến nghị Nhà nớc cần đa ra các tiêu chuẩn về thép phế
và của ông Phạm Chí Cờng- kiến nghị Nhà nớc cần xây dựng các tiêu chuẩn chất lợng cho
sắt thép phế dựa trên tiêu chuẩn quốc tế. Những ý kiến này đợc đa ra đều nhằm giúp các
doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc xác định tiêu chuẩn chất lợng đối với thép phế nhập
khẩu, khiến cho hoạt động nhập khẩu đợc dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, việc nhập khẩu thép phế nói riêng và nhập khẩu các phế phẩm vào Việt
Nam nói chung luôn phải đảm bảo quy định của Bộ Tài nguyên - môi trờng, đó là: “không
biến Việt Nam thành bãi giác của thế giới”.
Hiện nay, chất lợng thép phế do Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền nhập
khẩu không chỉ đáp ứng đợc các tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn của Việt Nam theo quy
định pháp luật (Quyết định số 03/QD- BTNMT của Bộ tài nguyên môi trờng) đối với mặt
hàng này mà còn phù hợp và có thể phục vụ cho công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu
thuỷ của Tổng Công ty, các loại thép có khả năng tái chế đợc để phục vụ cho sản xuất.
* Về thị trờng nhập khẩu: Xây dựng thị trờng nhập khẩu ổn định vững chắc và lâu
dài có ý nghĩa to lớn trong quá trình nhập khẩu trớc mắt cũng nh lâu dài. Làm tốt phơng
châm này là góp phần tích cực vào sự phát triển của Công ty nói riêng và của Tổng Công
ty Vinashin nói chung. Do vậy mà Công ty luôn duy trì những thị trờng nhập khẩu ổn định
để tạo điều kiện thuận lợi cho công việc kinh doanh của mình.
Trong giai đoạn đầu của công cuộc xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế của ta vận hành
theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp thì bạn hàng chủ yếu là Liên Xô cũ và các nớc
thuộc khối SEV. Trong đó tổng sản lợng thép nhập khẩu từ các nớc này chiếm 90 - 95%.
Sau một thời gian dài bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nền kinh tế của ta còn nghèo nàn, lạc
hậu - cơ sở hạ tầng còn thấp kém, công nghệ kĩ thuật cha phát triển khiến cho nền sản xuất
của ta còn yếu kém, cha thể tự mình đáp ứng đợc những nhu cầu trong nớc, do đó việc
nhập khẩu thép thành phẩm phục vụ tiêu dùng trong nớc là phù hợp và không thể tránh
khỏi.
Từ năm 1986 trở lại đây, Việt Nam thực hiện cơ chế đổi mới, từng bớc tiến hành
công nghiệp hoá- hiện đại hoá, ngành sản xuất thép trong nớc đã có sự chuyển mình. Thay
cho nhập khẩu thép thành phẩm , Việt Nam nhập khẩu phôi thép và thép phế liệu về để
phục vụ cho ngành luyện kim, từ đó tự mình sản xuất thép và từng bớc đáp ứng nhu cầu
trong nớc. Đây là kết quả đáng mừng cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và cho
sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nớc ta nói riêng- Việt Nam từ chỗ là một nớc
nhập khẩu thành phẩm là chính nay đã trở thành một thị trờng nhập khẩu nguyên liệu về
để tự mình sản xuất
Cơ chế mở cửa đã giúp Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ kinh tế với các nớc
trên thế giới, thực hiện phơng châm của Đảng “ Việt Nam muốn trở thành bạn của tất cả
các nớc trên thế giới”. Trên cơ sở đó, bạn hàng của Việt Nam không còn chỉ hạn chế là
Liên Xô cũ và các nớc thuộc khối SEV mà đã mở rộng ra ở tất cả các nớc trong khu vực
và thế giới. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty có nhiều cơ hội để lựa chọn
và xác định bạn hàng cho phù hợp với nhu cầu và ngành nghề kinh doanh của mình, hơn
nữa còn giúp cho Công ty có điều kiện tiến hành phân tích kỹ lỡng và phân loại thị trờng
nào sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho mình.
Phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, Công ty nhập khẩu thép phế liệu chủ yếu từ
thị trờng Châu á và các nớc thuộc khu vực Châu Âu và một số lợng nhỏ từ các nớc khác
(Nhập khẩu từ Châu á chiếm 70%, Châu Âu và các nớc khác chiếm trên 30% tổng sản
lợng thép phế liệu nhập khẩu của Công ty). Các yếu tố dẫn tới việc quyết định lựa chọn thị
trờng của Công ty: giá cả, chất lợng, số lợng và một vài yếu tố khác.
4. Tình hình tiêu thụ thép phế liệu nhập khẩu của Công ty
Thị trờng trong nớc hiện nay, cầu luôn luôn lớn hơn cung, vì vậy mà số lợng thép
phế Công ty nhập về luôn đợc tiêu thụ hết, Công ty bán lại sản phẩm này với mức giá vừa
phải, phù hợp với giá bán trên thị trờng và đảm bảo Công ty làm ăn có lãi. Tuỳ thuộc vào
từng loại mà giá bán chúng có sự khác nhau, ví dụ: thép dùng cho cán kéo giá bán là
4.800.000đ/tấn- 5.400.000đ/tấn, thép phế liệu dùng cho nấu chảy từ 3.900.000đ đến
4.100.000đ/tấn
4.1. Thị trờng tiêu thụ thép phế của Công ty:
- Các Công ty có chức năng kinh doanh sắt thép phế liệu ở Hải Phòng.
- Làng cán kéo thép Đa hội- Bắc Ninh.
- Làng nghề Nam Định.
- Một số cơ sở cán kéo thép ở Hải Phòng, Hà Nội.
- Công ty gang thép Thái Nguyên.
- Công ty cổ phần thép Hoà Phát....
4.2. Hình thức tiêu thụ
- Bán cả lô cho một đơn vị hoặc nhà máy.
- Bán chọn lọc từng phần nhỏ trong lô hàng nhập khẩu về cho các đơn vị cá nhân,
làng nghề theo nhu cầu ngời mua hàng.
- Bán hàng trên Bill khi hàng đang trên đờng về.
4.3 Phơng thức tiêu thụ:
- Bán thanh toán 100% tiền mặt hoặc chuyển khoản.
- Bán giao hàng và thu tiền dần, ngời mua phải chịu lãi suất của số tiền chậm trả
theo mức lãi suất của ngân hàng.
- Bán theo bảo lãnh ngân hàng của ngời mua ( nếu ngời mua là lần đầu hoặc cha có
uy tín trên thị trờng).
Nh vậy, Công ty đã tận dụng mọi hình thức và phơng thức bán hàng để tiêu thụ
hàng với số lợng lớn nhất có thể, và chúng phải đảm bảo khả năng an toàn cho công tác
bán hàng của Công ty tránh những rủi ro có thể xảy ra gây thất thoát và thiệt hại cho Công
ty.
5. Kết quả kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu
thủy Ngô Quyền
Trong 5 năm gần đây, nhìn chung tình hình sản xuất của Công ty ổn định và phát
triển, doanh thu năm sau tăng 30% so với năm trớc. Hoạt động nhập khẩu thép phế liệu
của Công ty đã hỗ trợ rất nhiều cho các đơn vị luyện thép trong nớc, cung cấp đầu vào cho
sản xuất, góp phần tạo môi trờng cạnh tranh làng mạnh trong nớc. Hàng năm đóng góp
cho ngân sách nhà nớc hàng tỷ đồng thông qua việc đóng thuế (thuế doanh thu, thuế
VAT…). Trong đó chủ yếu là 2 ngành kinh doanh chính là : sản xuất khí công nghiệp; phá
dỡ tàu cũ và nhập khẩu thép phế liệu. Trong đó, đóng góp của hoạt động “ phá dỡ tàu cũ
và nhập khẩu thép phế liệu là rất lớn trong tổng doanh thu của cả Công ty. Để minh chứnh
cho điều này, ta có thể làm một phép so sánh đơn giản giữa doanh thu từ hoạt động kinh
doanh nhập khẩu thép phế liệu với doanh thu từ sản xuất khí công nghiệp trong cùng kì:
Năm 2000 doanh thu từ nhập khẩu thép phế liệu là 17,75 tỷ VNĐ, trong khi đó sản xuất
khí công nghiệp chỉ đạt doanh thu 2,7 tỷ (gấp 7 lần); so sánh tơng tự, trong năm 2004 nhập
khẩu thép phế liệu đạt 84 tỷ VNĐ - gấp 14 lần sản xuất khí công nghiệp (5,85 tỷ VNĐ).
Sở dĩ có sự chênh lệch nh vậy là do: hoạt đông sản xuất khí công nghiệp chủ yếu phục vụ
cho công nghiệp phá dỡ trong Công ty và Tổng công ty, chỉ phần nhỏ còn lại là đem ra
tiêu thụ trên thị trờng.
Bảng 3
Bảng doanh thu và lợi nhuận từ “nhập khẩu thép phế liệu”
của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô quyền7
T NĂM ĐƠN VỊ DOANH LỢI
T TÍNH THU NHUẬN
1 2000 1000đ 18.750.000 562.500
2 2001 1000đ 29.700.000 891.000
3 2002 1000đ 43.840.000 1.096.000
4 2003 1000đ 56.000.000 1.120.000
5 2004 1000đ 84.000.000 1.680.000
Từ bảng 3 cho ta thấy: doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động “nhập khẩu thép phế
liệu” của Công ty tăng tỷ lệ thuận với mức tăng sản lợng thép phế nhập khẩu. Do nhu cầu
đối với thép phế liệu ở thị trờng trong nớc ngày càng tăng, cung không đủ đáp ứng cầu nên
lợng thép phế do Công ty nhập về không bị tồn kho, nhập về bao nhiêu lại xuất ra hết bấy
nhiêu. Thông thờng, giá tăng sẽ dẫn đến cầu giảm, nhng vì trong giai đoạn hiện nay, sắt
thép đợc coi là mặt hàng thiết yếu đối với ngời dân nên nhu cầu tiêu dùng sắt thép là cần
thiết, mà nguyên liệu chính cho công nghiệp luyện thép lại là thép phế liệu. Do đó, cầu đối
với mặt hàng này không còn phụ thuộc nhiều vào giá cả nữa (mặc dù giá thép phế liệu
tăng cao - trong vòng 3 năm tính từ đầu năm 2001 đã tăng lên gấp 3 lần từ 77USD/tấn lên
đến 307USD/tấn). Giá thép phế liệu tăng cao là một trong những nhân tố tạo lên sự tăng
nhanh cả về doanh thu và lợi nhuân của Công ty.
. Năm 2000-2001: doanh thu và lợi nhuận tăng 58,4%
. Năm 2001-2002: doanh thu và lợi nhuận tăng 47,6%
. Năm 2002-2003: doanh thu và lợi nhuận tăng 27,8%
. Năm 2003-2004: doanh thu và lợi nhuận tăng 50%
Nhìn chung, doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động “nhập khẩu thép phế liệu“ của
Công ty đều tăng ở năm sau so với cùng kì năm trớc, xét trong cả giai đoạn, doanh thu và
lợi nhuận tăng mạnh( doanh thu từ 18,75 tỷ đồng năm 2000 lên tới 84 tỷ đ vào năm 2004 –
tức là tăng 65,25tỷ, lợi nhuận từ 562 triệu đ lên tới 1680 triệu đ)- tăng 348% doanh thu và
200% lợi nhuận.Tuy nhiên, tỷ suất tăng trởng không đều giữa các năm, giai đoạn từ 2000
đến 2003 lại có xu thế giảm (từ 58,4% xuống 47,6% và cuối cùng là giảm xuống 27,8%),
bớc sang năm 2004 nó lại tăng mạnh (từ 27,8% lên đến 50%).
Trong 5 năm qua chức năng này đợc Công ty thực hiện và phát huy tơng đối tốt, dựa
trên các lợi thế sau:
+ Đội ngũ cán bộ công nhân viên đợc đào tạo và sát hạch với tình hình thực tế nhiều.
Công tác này đợc tiến hành bằng việc mở các lớp, khoá học định kì để đạo tạo và nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với ngành nghề kinh doanh của Công ty, hớng
dẫn cho công nhân viên xuống thị trờng để tìm hiểu và bám sát thị trờng từ đó nâng cao
hiệu quả công việc
+ Lợi thế về vai trò của doanh nghiệp Nhà nớc trong việc vay vốn của các tổ chức
tín dụng. Công ty đợc thành lập với vai trò là một đơn vị kinh doanh Nhà nớc, do Nhà nớc
quản lý. Chính vì vậy mà đối với các tổ chức tín dụng, Công ty thuộc diện đợc u tiên khi
xét duyệt việc cấp vốn. Hơn nữa, Công ty Nhà nớc đợc coi là chứa đựng ít rủi ro nhất, vì
vậy việc vay vốn của Công ty thuận lợi hơn.
+ Lợi thế về mặt bằng và công nghệ phá dỡ. Công ty có mặt bằng rộng lớn dành cho
việc phá dỡ, mấy năm gần đây Công ty đã đầu t 1 dây truyền hiện đại dành cho phá dỡ tàu,
do đó công tác phá dỡ đợc tiến hành nhanh gọn, an toàn và dễ dàng...giúp nâng cao hiệu
quả
+ Uy tín với ngân hàng và các khách hàng trong và ngoài nớc: Uy tín với ngân hàng
và khách hàng nớc ngoài tạo điều kiện thuận lợi trong khâu nhập khẩu của Công ty, các
hợp đồng mua bán, thanh toán và mở L/C đợc thực hiện nhanh.Tạo lập đợc uy tín với
khách hàng trong nứơc giúp Công ty có đợc thêm nhiều hợp đồng bán sản phẩm của mình
và ngày càng mở rộng thị trờng.
+ Ngoài ra, thị trờng đầu ra của chủng loại hàng hoá này là rất lớn( cầu luôn lớn hơn
cung), nh đã đợc phân tích ở trên đối với nhu cầu này là rất lớn – cầu luôn lớn hơn cung
(nh đã phân tích ở trên).
Việc đổi mới, cải tiến hoạt động kinh doanh “nhập khẩu thép phế liệu” theo hớng
ngày càng nâng cao năng lực và chất lợng kinh doanh góp phần làm tăng doanh thu và lợi
nhuận , từng bớc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành quả đạt đợc, hoạt động kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu còn một số vấn đề từ
phía Nhà nớc và cả phía công ty:
+ Trớc hết cần phải kể đến sự cạnh tranh của các đơn vị ngoài ngànhtham gia nhập
khẩu thép phế liệu: Trong cơ chế thị trờng, hệ thống các công ty t nhân rất phát triển. Do
cơ chế thoáng, họ đã nhập ủy thác, nhập trực tiếp, lậu thuế… tạo thành sự cạnh tranh gay
gắt về giá và một sự cạnh tranh gay gắt đáng sợ hơn cả là cơ chế thởng, gửi giá …bất chấp
mọi quy chế tài chính mà Công ty phải chấp hành đầy đủ. Trong khi đó, hệ thống phân
phối của Công ty này vẫn trông mong vào sự mua lại của các công ty luyện thép và các
làng nghề thủ công.
+ Nhà nớc cha có văn bản pháp lý cụ thể quy định chi tiết về quy cách phẩm chất
đối với thép phế liệu nhập khẩu.
+ Thủ tục Hải quan phải qua nhiều khâu, nhiều cửa gây nên nhiều khó khăn cho các
đơn vị kinh doanh nhập khẩu trong khâu làm thủ tục nhập khẩu.
+ Tồn tại cần đợc đề cập ở đây là sự yếu kém của một số đơn vị thuộc khối lu thông,
đầu mối tiêu thụ thép phế liệu nhập khẩu của Công ty. Khối lu thông này nay rơi vào tình
trạng kém năng động nhờng hầu hết thị trờng bán lẻ cho các công ty t nhân.
+ Thị trờng nhập khẩu chủ yếu của Công ty là Châu á luôn có những biến động khó
khăn về kinh tế, chính trị khiến cho công tác nhập khẩu của Công ty gặp nhiều khó khăn,
không ổn định.
+Tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam không ổn định, luôn luôn biến động gây ra nhiều
khó khăn trong công tác nhập khẩu.
+ Hệ thống thông tin tìm hiểu thị trờng, bạn hàng, tình hình kinh doanh nhập khẩu
của các đơn vị ngoài ngành… còn cha đáp ứng đợc.
+ Đội ngũ cán bộ công nhân viên của Công ty còn yếu kém về năng lực trong công
tác nhập khẩu.
+ Một tồn tại nữa là vốn của Công ty còn hạn hẹp, cha đủ khả năng thực hiện các
hợp đồng nhập khẩu lớn ; diện tích mặt bằng dành cho phá dỡ tàu còn hạn chế; công nghệ
phá dỡ còn lạc hậu…
CHƠNG II
KIẾN NGHỊMỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LỢNG
NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU
1) Căn cứ vào các chỉ tiêu phát triển ngành thép
Thực tế cho thấy mức tiêu thụ thép phụ thuộc vào mức tăng GDP, mức tăng dân số, số vốn
đầu t chính phủ phân bổ cho các dự án phát triển kinh tế trong nớc. Chính vì vậy, việc dự
đoán đợc các chỉ tiêu trên là cơ sở để đa ra dự đoán về nhu cầu tiêu thụ thép trong tơng lai.
Tuy nhiên để có thể dự đoán đợc các chỉ tiêu đó thì các con số trong quá khứ và thực tế lại
rất cần thiết. Năm 1999 – 2000, mức tăng trởng GDP là 6 – 7%, thì dự kiến giai đoạn
2001 – 2010 GDP sẽ tăng 10 – 12%. Bên cạnh những chỉ tiêu đó thì, thực tế tiêu thụ thép
trong nớc trong những giai đoạn trớc cũng góp phần giúp các Bộ, Ngành đa ra những dự
đoán chính xác hơn.
Trên cơ sở dự đoán mức tăng GDP giai đoạn 2001 – 2010 và thống kê của một số
hãng kinh doanh lớn (Nippon steel, Nippon kokan, BHP, Posco…) và mức tiêu thụ thép
thực tế của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, Bộ công nghiệp dự báo nhu cầu tiêu thụ thép
năm 2010 sẽ là 7,7 triệu tấn.
Qua đó ta thấy, đối với nớc ta đang ở thời kì cất cánh thì nhu cầu tiêu thụ thép giai
đoạn 2000- 2005 là 13%, 2005- 2010 là 7% là tơng đối phù hợp với sự tăng trởng các
nứơc trong khu vực. Nhng vấn đề đặt ra với Việt Nam là: ta sẽ lấy thép ở đâu để phục vụ
cho nhu cầu về thép đang ngày càng tăng nh vậy?
Hiện nay, ngành luyện kim của ta mới chỉ đáp ứng đợc trên 50% nhu cầu tiêu thụ
thép trong nớc, số còn lại là từ nguồn thép nhập khẩu. Trong đó, nguyên liệu chính phục
vụ cho ngành luyện kim không phải là quặng khai thác đợc trong nớc mà là thép phế nhập
khẩu từ nớc ngoài là chủ yếu.
Theo tính toán cho thấy: Nếu một máy công suất 200.000tấn phôi/năm thì thép phế
thu gom đợc trong nớc ớc tính nhiều nhất chỉ đợc 80.000tấn, phần còn lại là nhập khẩu.
Hiệp hội thép Việt Nam cho biết: mỗi năm ngành thép cần 1,5- 2triệu tấn thép phế liệu
phục vụ cho sản xuất và lợng thép phế này chủ yếu có đợc từ nguồn nhập khẩu.
Từ phân tích nhu cầu đối với thép phế liệu ở trên cho ta thấy đợc tầm quan trọng của
nhập khẩu thép phế đối với ngành thép nói riêng và nền kinh tế quốc dân của Việt Nam
nói chung.
2) Xuất phát từ lợi ích của Công ty:
Hoạt động nhập khẩu thép phế liệu suy cho cùng cũng là nhằm mục đích tăng doanh
thu và lợi nhuận cho Công ty. Nh trên đã phân tích, mức tăng trởng của Công ty hàng năm
đạt tới 30%/năm. Trong đó doanh thu từ hoạt động kinh doanh thép phế liệu nhập khẩu
đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng trởng đó ( chiếm trên 60% ). Để có đợc kết quả đó,
tất cả các hoạt động kinh doanh của Công ty nói chung và kinh doanh thép phế liệu nói
riêng phải đạt đợc hiểu quả. Ngoài chức năng thu lợi nhuận cho Công ty, việc nhập khẩu
thép phế còn có một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, đó là góp phần bình
ổn lại thị trờng thép ở trong nớc- nhập khẩu thép phế liệu giúp các doanh nghiệp sản xuất
thép ổn định về nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, từ đó giúp giảm bớt sự biến động
của thị trờng thép trong nớc do nhu cầu đối với mặt hàng này đang tăng mạnh.
Nh vậy, việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép phế liệu là rất cần thiết đối với
Công ty, cũng nh đối với nền kinh tế nớc ta.
II. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU
THÉP PHẾ LIỆU
1. Kiến nghị đối với nhà nớc
Nh trên đã trình bày, còn khá nhiều vấn đề tồn tại trong công tác quản lý Nhà nớc
đối với hoạt động nhập khẩu thép phế liệu gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu.
Trong khi đó, công tác quản lý nhập khẩu của nhà nớc đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao chất lợng nhập khẩu thép phế liệu. Vì vậy, trên cơ sở phân tích những tồn tại ở
trên, để nâng cao chất lợng nhập khẩu thép phế liệu, ngời viết đa ra những kiên nghị sau:
+ Hiện nay, nớc ta đã có thể sản xuất ra một số mặt hàng thép để phục vụ nhu cầu
trong nớc. Đối với những mặt hàng này, Nhà nớc nên áp dụng các biện pháp là rất cần
thiết, nh: chính sách thuế nhập khẩu (biểu thuế nhập khẩu có hiệu lực 01/01/1999) và
chính sách quản lý nhập khẩu. Thực chất, Nhà nớc cấm nhập những mặt hàng này, nhng
khi tham gia vào hiệp hội: AFTA, WTO... Nhà nớc ta không thể cấm nhập mà chỉ có thể
hạn chế nhập thông qua biểu thuế nhập khẩu( thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng này rất
cao- khoảng 40%).
Nh vậy, các biện pháp bảo hộ ngành thép mà Nhà nớc ta sử dụng đã góp phần giúp
cho ngành luyện thép trong nớc ngày một phát triển, từ đó dẫn tới nhu cầu nguyên liệu cho
sản xuất tăng cao (nh thép phế liệu, quặng...) tạo điều kiện cho các đơn vị nhập khẩu kinh
doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, công tác bảo hộ này vẫn cha triệt để và thực sự có hiệu quả.
Do việc quản lý nhập khẩu của nớc ta cha chặt chẽ: các cơ quan quản lý nhập khẩu còn tạo
ra khá nhiều kẽ hở cho các đơn vị, cá nhân tiến hành nhập khẩu lậu, chốn thuế gây nên sự
cạnh tranh gay gắt về giá với các doanh nghiệp sản xuất trong nớc, do đó gặp nhiều khó
khăn và kinh doanh kém hiệu quả, một số bị phá sản do không có khả năng cạnh tranh
trong môi trờng đó. Chính vì vậy, Nhà nớc cần sớm có sự điều chỉnh trong quản lý nhập
khẩu thép theo hớng chặt chẽ hơn và xử ly nghiêm minh đối với các đơn vị, cá nhân cố
tình vi phạm.
+ Nhà nớc cần phải quản lý tốt hơn hoạt động nhập khẩu thép phế của các Công ty t
nhân ngoài ngành, tránh tình trạng buôn lậu, trốn thuế... nhờ đó hàng nhập khẩu của họ
bán ra với giá rẻ hơn, gây nên sự cạnh tranh gay gắt về giá trên thị trờng; áp dụng các biện
pháp cỡng chế, bắt buộc họ phải chấp hành nghiêm chỉnh, đầy đủ mọi quy chế tài chính.
Nhờ đó, tạo ra môi trờng cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các đơn vị kinh doanh
thép phế liệu nhập khẩu ở thụ trờng trong nớc.
+ Các đơn vị sản xuất thép trong nớc đang gặp khó khăn do thiếu nguyên liệu đàu
vào - “Nguy cơ đói nguyên liệu cho ngành sản xuất thép đang dần lộ diện bởi sự khập
khễnh giữa tiêu chuẩn thép phế liệu của Việt Nam với tiêu chuẩn Thế giới”8. Bộ công
nghiệp còn cho biết “theo cân đối thị trờng mặt hàng thép xây dựng, trong năm 2006 các
doanh nghiệp sẽ phải nhập khẩu 2triệu tấn thép phế phục vụ cho nhu cầu của các nhà máy
sản xuất thép”9 .Nh vậy, nhu cầu nhập khẩu thép phế liệu của nớc ta sẽ là rất lớn. Trong
khi đó, các doanh nghiệp nhập khẩu thép phế liệu đang gặp rất nhiều khó khăn do cha có
tiêu chuẩn cụ thể đối với thép phế nhập khẩu - Theo Quyết định số 03/QD-BTNMT của
Bộ tài nguyên môi trờng, chỉ quy định một số tiêu chuẩn chung chung đối với phế liệu
nhập khẩu nói chung. Vì vậy, việc ban hành các văn bản pháp lý quy định chi tiết về quy
cách phẩm chất đối với thép phế liệu nhập khẩu là rất cần thiết và phải đợc tiến hành càng
sớm càng tốt. Khi ban hành các quyết định, thông t, nghị định...Nhà nớc , các Bộ, các
Ngành cần đa ra các văn bản hớng dẫn chi tiết và thống nhất các cơ quan chức năng thực
hiện tốt các quyết định, thông t đó...
+ Mặc dù hiện nay Nhà nớc ta quy định thuế nhập khẩu đối với thép phế là 0%,
nhng đây vẫn là mặt hàng nằm trong diện chịu thuế, phải thực hiện kê khai thuế. Nh vậy sẽ
gây khó khăn hơn cho các doanh nghiệp khi tiến hành làm các thủ tục nhập khẩu, mà pháp
luật Việt Nam đợc coi là rờm rà, nhiều khâu và nhiều cấp quản lý. Vì vậy, nớc ta nên tiến
hành cải tiến lại bộ máy quản lý theo hớng ngày càng nâng cao năng lực cán bộ quản lý và
tinh giản hoá các thủ tục pháp lý, giảm bớt sự cồng kềnh trong các khâu pháp lý.
+ Tỷ giá ngoại tệ ảnh hởng rất lớn tới hoạt động nhập khẩu, việc tăng giá đồng
ngoại tệ sẽ gây thiệt hại cho các đơn vị nhập khẩu. Trong khi đó, ở Việt Nam giá ngoại tệ
thờng xuyên biến động là vấn đề đáng lo ngại cho các doanh nghiệp nhập khẩu. Chính vì
vậy, Nhà nớc ta cần phải có chính sách quản lý ngoại tệ để hạn chế sự biến động về giá
ngoại tệ, giúp các doanh nghiệp an tâm nhập khẩu và từng bớc nâng cao chất lợng nhập
khẩu của đơn vị mình, trong đó bao gồm cả đơn vị nhập khẩu thép phế liệu.
2. Kiến nghị đối với Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền
+ Trớc hết cần giải quyết những khó khăn về vốn: Mặc dù, hiện nay Công ty công
nghiệp tàu thủy Ngô Quyền đã là một trong 29 đơn vị hạch toán độc lập của tổng công ty
VINASHIN, nhng Công ty vẫn cha thực sự chủ động về nguồn vốn kinh doanh của mình,
vốn chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vốn cấp của Tổng công ty (Tổng công ty cấp vốn dựa
trên quyết định của Thủ tớng Chính phủ, vì đây là Tổng công ty của nhà nớc), do vậy hoạt
động kinh doanh của Công ty kém hiệu quả. Vì vậy, muốn Công ty làm ăn có hiệu quả hơn
thì Công ty cần chủ động về vốn và chủ động trong kinh doanh. Để làm đợc điều này, cổ
phần hoá Công ty là vô cùng cần thiết, Nhà nớc nên giữ ở vai trò điều tiết vĩ mô mà thôi.
Tiến hành cổ phần hoá sẽ giúp Công ty làm ăn có hiệu quả hơn, do có thể huy động tối đa
mọi nguồn lực trong Công ty (đặc biệt là huy động vốn từ các thành viên trong Công ty)
các thành viên sẽ tự ý thức, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của
chính mình, tránh tình trạng “cha chung không ai khóc” nh đã từng xảy ra với nền kinh tế
nớc ta. Hơn nữa, cổ phần hoá còn góp phần tăng khả năng sáng tạo, kích thích t duy của
tất cả công nhân viên trong Công ty.
+ Ngày càng nâng cao chất lợng cán bộ, công nhân viên làm việc cho Công ty. Đặc
biệt là đối với hoạt động nhập khẩu, Công ty đã biết tận dụng và sử dụng nhiều cán bộ có
chuyên môn nghiệp vụ cao về nhập khẩu để hoạt động này đạt hiệu quả cao. Việc tuyển
công nhân viên đợc tiến hành hàng năm theo định kì nhằm giúp Công ty ngày càng đổi
mới đội ngũ cán bộ nhân viên theo hớng nâng cao chất lợng. Ngoài ra, Công ty nên mở
các khóa đào tạo chuyên môn cho đội ngũ nhân viên theo chức năng nhiệm vụ của các cá
nhân và các phòng ban, hoặc tạo điều kiện cho các nhân viên đi học để nâng cao nghiệp vụ,
chuyên môn, trong đó cần chú trọng tới công tác nhập khẩu.
+ Mở rộng và nâng cao công tác marketing, các chuyên gia nghiên cứu thị trờng cần
phải làm việc nỗ lực hết mình để tìm hiểu và nghiên cứu tìm ra những khu vực thị trờng
mới có giá thấp, chất lợng tốt và số lợng phong phú phù hợp với nhu cầu của Công ty.
Công ty cần phải có các chuyên gia marketing phụ trách một khu vực thị trờng nhất định
để bám sát tình hình và sự thay đổi của thị trờng đó, trên cơ sở đó Công ty có thể ra các
quyết định kịp thời và đúng đắn.
+Về mặt bằng dành cho phá dỡ: hiện nay, diện tích mặt bằng dành cho phá dỡ của
Công ty còn hạn hẹp – Tổng diện tích Xởng phá dỡ của Công ty là 1000ha. Diện tích này
còn nhỏ so với các đơn vị khác cùng ngành và so với nhu cầu chung của ngành . Chính vì
vậy, việc mở rộng diện tích mặt bằng phá dỡ nói riêng và diện tích nhà xởng của Công ty
nói chung là rất cần thiết. Công ty nên đầu t vốn để mua thêm mặt bằng, xây dựng nhà
xởng. Việc xây dựng hạ tầng cơ sở này là yếu tố quyết định tới hiệu quả kinh doanh của
Công ty sau này, vì vậy Công ty nên xúc tiến thực hiện càng sớm càng tốt.
+ Về công nghệ phá dỡ: Trớc đây, việc phá dỡ tàu cũ của Công ty chủ yếu thực hiện
bằng các phơng pháp thủ công nên hiệu quả cha cao, sản lợng thép phế liệu thấp. Mặc dù,
Công ty đã thay thế các biện pháp thủ công bằng những dây truyền máy móc, thiết bị, từng
bớc công nghệ hóa, nhng so với mặt bằng chung của Thế giới thì dây truyền công nghệ
hiện có của Công ty còn lạc hậu rất nhiều. Tháng 9 vừa qua, Xởng phá dỡ đã đệ trình lên
Giám đốc Công ty dự án nhập khẩu dây truyền phá dỡ tàu hiện đại của Nhật trị giá trên 20
tỷ VNĐ và kế hoạch đó đang trong giai đoạn chờ đợc phê duyệt. Việc nhập khẩu dây
truyền phá dỡ này giúp cho hoạt động phá dỡ đợc tiến hành nhanh, dễ dàng, từ đó tăng
sản lợng thép phế liệu góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của Công ty. Dự án này nên
sớm đợc phê duyệt và đi vào thực hiện vì lợi ích chung của Công ty.
+ Thực trạng kinh doanh của khối lu thông trong nhiều năm qua cho thấy giữa các
Công ty cùng ngành thiếu nhiều thông tin có liên quan trong thị trờng và khách hàng của
mình. Bởi vậy cần xây dựng hệ thống thông báo cho toàn ngành về thị trờng, xu hớng thị
trờng, xây dựng kế hoạch nối mạng máy tính trong toàn Tổng Công ty, trớc mắt là trong
khối văn phòng Công ty và đề nghị sử dụng mạng Internet cho phòng nghiệp vụ kinh
doanh xuất nhập khẩu. Từ đó tạo điều kiện cho cán bộ của phòng nắm bắt đợc toàn bộ tình
hình thị trờng nhập khẩu, sự cạnh tranh của các đơn vị ngoài ngành, nhờ đó có thể đa ra
đợc các quyết định đúng đắn và kịp thời.
+ Phân chia thị trờng kinh doanh các sản phẩm thép phế liệu nhập khẩu phải hết sức
rõ ràng. Kiên quyết ngăn chặn các hình thức tranh dành thị trờng giữa các Công ty thành
viên. Là một Tổng công ty lớn, có nhiều đơn vị thành viên, vì vậy tình trạng không thống
nhất giữa các đơn vị là không thể tránh khỏi. Đặc biệt là các đơn vị thờng xảy ra tình trạng
tranh dành thị trờng vì mục tiêu của đơn vị mình. Để hạn chế điều này, Tổng công ty
VINASHIN cần có chính sách phân định thị trờng cụ thể, rõ ràng cho từng đơn vị.
+ Tổng Công ty đã xây dựng cơ chế thởng phạt cho các đơn vị, cá nhân có thành
tích, kỷ luật nghiêm minh những giám đốc có cơ sở kinh doanh thua lỗ kéo dài, cố tình
không chấp hành các chỉ thị, quy định của Tổng Công ty. Trong Công ty cũng vậy, xây
dựng quy chế phạt rõ ràng, nghiêm túc góp phần hạn chế, ngăn chặn những sai lầm của
các đơn vị, cá nhân có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Công ty (với những vi phạm nhỏ có
thể cảnh cáo hoặc kiểm điểm, nặng thì phạt hành chính hoặc cắt chức), bên cạnh đó cũng
cần xây dựng cơ chế thởng khi họ đạt đợc những thành tích cao (tơng tự nh phạt thì cũng
co thởng bằng các bằng khen, tiền, thăng chức).
Nh vậy, nâng cao chất lợng nhập khẩu thép phế liệu là rất cần thiết trong tình hình hiện
nay. Tuy nhiên, để làm đợc điều này thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nớc và
Công ty. Trong đó, các biện pháp của Nhà nớc đợc xây dựng dựa trên tình hình thực tế của
toàn ngành, hỗ trợ, tạo điều kiên thuận lợi và là định hớng cho các đơn vị kinh doanh; các
biện pháp của Công ty phải phù hợp với chính sách , chỉ tiêu của nhà nớc, với tình hình
kinh doanh của mình và phát huy tối đa nhng lợi thế mà Nha nớc tạo ra.
KẾT LUẬN
Nhập khẩu thép phế liệu là nhu cầu cần thiết và phù hợp đối với sự nghiệp xây dựng
và kiến tạo đất nớc ở các quốc gia và đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay.
Đối với nền kinh tế nớc ta, nhập khẩu thép phế liệu là để bổ xung nguồn đầu vào cho các
đơn vị sản xuất thép tránh khỏi tình trạng sản xuất bị đình trệ do thiếu nguyên liệu đầu vào,
góp phần bù đắp những mặt hàng thép mà trong nớc cha sản xuất đợc.
Còn đối với Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền, nhập khẩu thép phế liệu là một
mặt hàng cần thiết để mở rộng và ổn định mặt hàng nhằm đa dạng hoá các mặt hàng và
góp phần tăng trởng và phát triển Công ty. Xét trong tình hình thực tế hiện nay, nhập khẩu
thép phế liệu là mặt hàng lớn về kim ngạch cho nên việc kinh doanh cũng có nhiều thuận
lợi để tạo ra lợi nhuận. Do đó đòi hỏi Công ty phải có sự đầu t lớn về vốn và nhân lực
nhằm giúp lợi nhuận đạt ngày càng tăng.
Tuy nhiên, nhập khẩu thép phế liệu trong điều kiện có nhiều biến động lớn của nền
kinh tế - xã hội nh hiện nay ở nớc ta (nh biến động về giá, biến động về ngoại tệ, chính
sách của Nhà nớc có sự thay đổi ...) thì việc tổn thất là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy
mà cần có điều chỉnh thích hợp và có sự quan tâm đún mức của Công ty nói riêng và của
Nhà nớc ta nói chung để góp phần hạn chế những tổn thất có thể xảy ra và giúp tăng hiệu
quả kinh doanh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kĩ thuật nghiệp vụ ngoại thơng – PGS Vũ Xuân Tửu - ĐH Ngoại thơng
2. Ngoại thơng Việt Nam – PGS-PTS Bùi Xuân Lu- ĐH Ngoại thơng
3. Phòng tổ chức lao động ( cơ cấu tổ chức của Công ty, tài liệu về Công ty)
4. Phòng kinh doanh tổng hợp (các báo cáo tình hình kinh doanh nhập khẩu của Công
ty
5. Các văn bản pháp lý về quản lý hoạt động nhập khẩu thép phế liệu của Nhà nớc
6. Phơng hớng phát triển ngành thép đến năm 2010
7. Các tạp chí báo điện tử ( VIET NAM NET, TỔNG CỤC HẢI QUAN...)
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
ChơngI THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU CỦA CÔNG TY CÔNG
NGHIỆP TÀU THUỶ NGÔ QUYỀN 4
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ NGÔ
QUYỀN 4
1) Sự hình thành và phát triển của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền
4
2)Cơ cấu tổ chức 5
3)Chức năng, nhiệm vụ của Công ty5
II. TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU CỦA CÔNG TY CÔNG NGHIỆP
TÀU THỦY NGÔ QUYỀN 7
1)Quản lý Nhà nớc đối với hoạt động nhập khẩu thép phế liệu. 7
2) Thực trạng nhập khẩu thép phế liệu của Công ty. 10
2.1. Động cơ kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty 10
2.2. Kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty 12
3) Cơ cấu, giá, chất lợng, thị trờng thép phế liệu nhập khẩu của Công ty 17
4)Tình hình tiêu thụ thép phế liệu nhập khẩu của Công ty 21
4.1. Thị trờng tiêu thụ 21
4.2. Hình thức tiêu thụ 21
4.3. Phơng thức tiêu thụ 21
5) Kết quả kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty 22
Chơng II: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP
KHẨU THÉP. PHẾ LIỆU CỦA CÔNG TY CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ NGÔ
QUYỀN. 27
I.SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU.
27
1) Căn cứ vào các chỉ tiêu. 27
2) Xuất phát từ lợi ích của Công ty. 28
II. KIẾN NGHỊ CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU THÉP
PHẾ LIỆU 28
1) Kiến nghị đối với Nhà nớc 28
2) Kiến nghị đối với Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền 31
KẾT LUẬN 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO 36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn-Tình hình nhập khẩu thép phế liệu và các biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền.pdf