Luận văn Tình hình nợ Bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012

Có thể nói tình trạng doanh nghiệp không đóng BHXH đúng, đủ cho người lao động rất phổ biến trên phạm vi cả nước, ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi, tâm lí của người lao động. Người lao động không được hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, tử tuất, nghỉ hưu, chuyển công tác Có người đến tuổi nghỉ hưu nhưng không làm thủ tục được, có người sinh con đã 2 năm nhưng vẫn chưa được hưởng chế độ thai sản Người thì ốm đau không có chế độ bảo hiểm, mất việc không được trợ cấp Ngoài ra, việc các doanh nghiệp trốn BHXH còn gây thất thu lớn cho cơ quan BHXH. BHXH ở Việt Nam từ lâu đã trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Với bản chất chăm lo cho một vòng đời người, BHXH càng có ý nghĩa quan trọng và liên quan trực tiếp đến việc ổn định đời sống của hàng triệu NLĐ và gia đình họ trong các trường hợp ốm đau, thai sản, chế độ hưu. Vì thế việc nợ BHXH gây rất nhiều khó khăn cho tổ chức BHXH, việc thu hồi nợ BHXH là việc bắt buộc, nhằm tăng cường nguồn vốn để thực hiện các chính sách về BHXH.

pdf32 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2727 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình hình nợ Bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể tránh được. Để phòng ngừa và hạn chế những tác Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 6 động tiêu cực của rủi ro đối với con người và xã hội là nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động của BHXH. o BHXH có vai trò ổn định thu nhập cho người lao động và gia đình o BHXH tạo được tâm lý an tâm, tin tưởng. Khi đã tham gia BHXH góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân lao động. 1.4. Nguồn hình thành quỹ - Người sử dụng lao động: sự đóng góp này không những thể hiện trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ đồng thời con thể hiện lợi ích của NSDLĐ bởi đóng góp một phần BHXH cho NLĐ, NSDLĐ sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ của mình đồng thời cũng giảm bớt được những tranh chấp. Thông thường phần đóng góp này được xác định dựa trên quỹ lương của đơn vị, doanh nghiệp. - Người lao động: Người lao động tham gia đóng góp cho mình để bảo hiểm cho chính bản than mình. Khoản đóng góp vào quỹ BHXH chính là khoản để dành dụm, tiết kiệm cho về sau bằng cách là hưởng lương hưu hoặc được hưởng trợ cấp khi gặp rủi ro xảy ra. - Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm: Quỹ BHXH được nhà nước bảo hộ và đóng góp khi quỹ bị thâm hụt không đủ khả năng để chi trả cho các chế độ xã hội. Nhằm mục đích đảm bảo cho các hoạt động xã hội diễn ra được đều đặn, ổn định. Nguồn thu từ sự hỗ trợ Ngân sách Nhà nước đôi khi là khá lớn, sự hỗ trợ này là rất cần thiết và quan trọng. - Các nguồn khác: như sự giúp đỡ của các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước.Lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi, khoản tiền thu nộp phạt từ các đơn vị chậm đóng BHXH…  Phương thức đóng góp - Căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. - Căn cứ và mức thu nhập cơ bản của NLĐ được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp  Mức đóng góp BHXH - NLĐ đóng 5% lương tháng cho BHXH, 1% lương tháng cho BHYT - NSDLĐ đóng 15% quỹ lương tháng cho BHXH và 2% quỹ lương tháng cho BHYT. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 7 2. Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH 2.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH Con người ai cũng phải trải qua các giai đoạn phát triển của đời người đó là sinh ra, lớn lên, trưởng thành và chết. Đó là vòng: sinh, lão, bệnh, tử và ước muốn của con người là có được cuộc sống an sinh, hạnh phúc. Nhưng quy luật của tạo hóa là sinh ra lớn lên và già yếu mà ai cũng phải trải qua. Đi theo cùng quy luật đó là những rủi ro, ốm đau, bệnh tật, hoạn nạn có thể đến bất cứ lúc nào trong cuộc sống. Chính những lúc ốm đau, bệnh tật họ rất cần sự quan tâm, chia sẻ từ chính doanh nghiệp họ công tác, từ xã hội và từ những người xung quanh họ. Xuất phát từ thực tế khách quan trên người ta hiểu rằng toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ chặt chẽ đó được quan niệm là Bảo hiểm xã hội (BHXH) đối với người lao động. Hệ thống BHXH ngày càng được mở rộng đã góp phần to lớn vào việc ổn định cuộc sống cho người lao động, góp phần ổn định kinh tế chính trị xã hội của đất nước. Sự tồn tại của hệ thống BHXH là một sự cần thiết tất yếu khách quan cho quốc gia, cho mọi người Lao động và người Sử dụng lao động. 2.1.1. Đối với người lao động - Góp phần bảo đảm cuộc sống ổn định cho người lao động và gia đình họ khi gặp bất trắc rủi ro : tai nạn lao động, ốm đau, thai sản… ảnh hưởng tới sức lao động gây ảnh hưởng tới thu nhập của NLĐ - BHXH làm cho NLĐ ngày càng yêu nghề hơn, gắn bó với công việc, sống có trách nhiệm hơn với bản than, gia đình bạn bè và cộng đồng hơn. - Là sợi dây ràng buộc, kích thích họ hăng hái tham gia sản xuất hơn, gắn kết NSDLĐ với NLĐ lại gần nhau hơn. - BHXH còn bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho NLĐ góp phần tái sản xuất sức lao động cho NLĐ nhanh chóng trở lại làm việc tạo ra sản phẩm mới cho doanh nghiệp và xã hội, đảm bảo thu nhập cho bản thân NLĐ. 2.1.2. Đối với người sử dụng lao động - BHXH góp phần điều hòa hạn chế các mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ. - Tạo ra môi trường làm việc ổn định cho người lao động, taọ sự ổn định cho người sử dụng lao động trong công tác quản lý Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 8 2.1.3. Đối với nhà nước - Giúp cho Ngân sách Nhà nước giảm chi đến mức tối thiểu nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho NLĐ và gia đình họ được phát triển an toàn hơn. - BHXH góp phần giữ vững an ninh, chính trị trong nước ổn định trật tự an toàn cho xã hội: BHXH điều hòa, hạn chế các mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ đồng thời tạo ra môi trường làm việc thuận lợi, ổn định cho người lao động - BHXH có vai trò quan trọng trong việc tăng thu, giảm chi cho Ngân sách Nhà nước: o BHXH làm tăng thu cho ngân sách nhà nước o BHXH giúp cho nhà nước thực hiện được các công trình xây dựng trọng điểm của quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế. 2.1.4. Đối với xã hội : - Tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước, NSDLĐ và NLĐ, mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ, chia sẻ trách nhiệm, chia sẻ rui ro. Mối quan hệ thể hiện tính nhân sinh, nhân văn sâu sắc của BHXH. - BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, BHXH tạo cho những người bất hạnh có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc phục những biến cố xã hội, hòa nhập vào cộng đồng. BHXH là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người, không phân biệt chính kiến, tôn giáo chủng tộc, vị thế xã hội đồng thời giúp mọi người hướng tới một xã hội nhân ái, cuộc sống công bằng, bình yên. - BHXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tương thân tương ái của cộng đồng. - BHXH góp phần thực hiện bình đẳng xã hội. BHXH là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. 2.1.5. Đối với nền kinh tế thị trường - Khi chuyển sang cơ chế thị trường, xảy ra sự phân tầng giữa các tầng lớp trong xã hội. Tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các ngành nghề khác nhau trong xã hội. Nếu xảy ra rủi ro cho những người có kinh tế khó khăn, BHXH góp phần ổn định đời sống cho họ và gia đình. - Đối với các doanh nghiệp, khi những người lao động không may gặp rủi ro thì đã được chuyển giao cho cơ quan BHXH chi trả. Nhờ vậy tình hình tài chính của các doanh nghiệp được ổn định hơn. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 9 - Khi tham gia BHXH cho người lao động sẽ phát huy tinh thần trách nhiệm, gắn bó tận tình của người lao động trong các doanh nghiệp làm cho mối quan hệ thị trường lao động trở nên lành mạnh hơn, thị trường sức lao động vận động theo hướng tích cực góp phần xây dựng và có kế hoạch phát triển chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường. - Quỹ BHXH do các bên tham gia đóng góp được tích tụ tập trung rất lớn, phần quỹ nhàn rỗi được đem đầu tư cho nền kinh tế tạo ra sự tăng trưởng, phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm cho người lao động - BHXH vừa tạo động lực cho các thành phần kinh tế phát triển nhưng mặt khác tạo ra sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư thông qua hệ thống phân phối lại thu nhập góp phần lành mạnh hóa thị trường lao động. 3. Bản chất và chức năng của BHXH 3.1. Bản chất của BHXH - BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập cho người lao động, là sản phẩm tất yếu khách quan của xã hội phát triển, là hình thức dịch vụ công để quản lý và đáp úng nhu cầu chia sẻ các rủi ro trong cộng đồng, là quyền cơ bản của người lao động. - BHXH vừa để thực hiện các mục đích xã hội, vừa để thực hiện các mục đích kinh tế trong mỗi cộng đồng, quốc gia. Trong đó, mục đích kinh tế và mục đích xã hội luôn được thực hiện đồng thời, đan xen lẫn nhau, là hai mặt không thể tách rời. o Về phương diện xã hội: BHXH là sự chia sẻ rủi ro, bảo đảm an toàn xã hội o Về phương diện kinh tế: BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm, thông qua việc hình thành quỹ tiền tệ chung. o Về phương diện chính trị, pháp lý: khi được nhà nước điều chỉnh bằng pháp luật, BHXH đã trở thành quyền cơ bản của người lao động, xét trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Đồng thời đó cũng là trách nhiệm của NLĐ và NSDLĐ phải tham gia BHXH. - BHXH đóng vai trò như một vị cứu tinh cho NLĐ khi họ gặp phải những rủi ro làm giảm thu nhập trong cuộc sống, nhu cầu về BHXH thuộc về nhu cầu tự nhiên của con người. Xuất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo cho các tiêu chuẩn hay giá trị cho cuộc sống tối thiểu. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 10 - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể nói là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp… hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản… - Phần thu nhập của NLĐ bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích lại. Chính sách BHXH nằm trong hệ thống chung của chính sách về kinh tế xã hội và là một trong những bộ phận hữu cơ trong hệ thống chính sách quản lý đất nước của quốc gia. - Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động Quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau: o Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo như cầu sinh sống thiết yếu của họ o Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật o Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu dân cư và nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. 3.2. Chức năng của BHXH - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản của BHXH, quyết định nhiệm vụ, tính chất và cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. BHXH xã hội hóa cao hơn hẳn các loại hình BHXH khác đồng thời cũng thể hiện tính công bằng xã hội cao. - BHXH góp phần kích thích người lao động hăng hái sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân tăng năng suất lao động xã hội góp phần tăng mối quan hệ tốt đẹp và gắn bó lợi ích giữa NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. - BHXH thực hiện chức năng điều hòa lợi ích giữa ba bên: NLĐ, NSDLĐ, Nhà nước đồng thời làm giảm bớt mâu thuẫn xã hội, góp phần ổn định chính trị, kinh tế, xã hội. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 11 - BHXH còn thực hiện chức năng giám đốc bởi BHXH tiến hành kiểm tra, giám sát việc tham gia thực hiện chính sách BHXH của NLĐ, NSDLĐ theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, góp phần ổn định xã hội. - BHXH góp phần thu hút lao động, hình thành và phát triển thị trường lao động, gắn bó các lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và các lợi ích xã hội. 4. Đối tương và đối tượng tham gia BHXH 4.1. Đối tượng BHXH BHXH là một hệ thống bảo đảm khoản thu nhập bị giảm hoặc mất do giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm vì có các nguyên nhân như ốm đau tai nạn, tuổi già. Chính vì vậy, đối tượng của BHXH là phần thu nhập của NLĐ bị biến động hoặc giảm, mất đi do gặp phải những rủi ro ngẫu nhiên, bất ngờ xảy ra. Đối tượng của BHXH không chỉ là các khoản thu nhập theo lương mà bao gồm các khoản thu nhập khác ngoài lương như: thưởng, phụ cấp… cho NLĐ có nhu cầu đóng góp them để được hưởng mức trợ cấp BHXH. 4.2. Đối tượng tham gia BHXH Đối tượng tham gia của BHXH là NLĐ và NSDLĐ. Họ là những người trực tiếp tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản % nhất định so với tiền lương của NLĐ theo quy định của luật BHXH. Tùy theo điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào đó trong xã hội. Đối tượng tham gia của BHXH bao gồm: o Đối tượng bắt buộc tham gia BHXH: là NLĐ và NSDLĐ phải tham gia BHXH một cách bắt buộc với mức đóng góp và mức hưởng BHXH theo quy định của luật BHXH. o Đối tượng tự nguyện tham gia BHXH: áp dụng cả với người làm công ăn lương và NLĐ không làm công ăn lương. Thường là do sự đóng góp của NLĐ cùng với sự giúp đỡ của ngân sách Nhà nước. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 12 5. Các chế độ BHXH Theo công ước 102 kí kết tại Giơnevơ tháng 6 năm 1952 của Tổ chức Lao động quốc tế với sự tham gia của rất nhiều quốc gia đã xác định rõ, BHXH bao gồm các chế độ sau: 1) Chế độ chăm sóc y tế 2) Chế độ trợ cấp ốm đau 3) Chế độ trợ cấp thất nghiệp 4) Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 5) Chế độ trợ cấp tuổi già 6) Chế độ trợ cấp gia đình 7) Chế độ trợ cấp sinh đẻ 8) Chế độ trợ cấp khi tàn phế 9) Chế độ trợ cấp cho người còn sống Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tùy điều kiện kinh tế chính trị xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 trong 9 chế độ. Trong đó có ít nhất một trong năm chế độ 3,4,5,8,9. Ở Việt Nam, theo nghị định 218/CP ra đời ngày 27/12/1961 quy định chế độ BHXH ở Việt Nam gồm 6 loại chế độ trợ cấp: ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN, hưu trí, mất sức lao động, chế độ tử tuất. Khi nền kinh tế phát triển và chuyển đổi theo cơ chế thị trường, điều kiện kinh tế đã thay đổi thì Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 thống nhất bỏ chế độ trợ cấp mất sức lao động. Do BHYT Việt Nam sát nhập với BHXH Việt Nam do đó, hiện nay ở Việt Nam thực hiện 6 chế độ BHXH. Các chế độ đó là: 1) Ốm đau 2) Thai sản 3) TNLĐ- BNN 4) Hưu trí 5) Chế độ tử tuất 6) Chế độ chăm sóc y tế. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 13 II. Công tác thu 1. Vai trò của công tác thu - Là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung thống nhất - Để chính sách BHXH được diễn ra thuận lợi thì công tác thu BHXH có vai trò như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cùng thực hiện chính sách BHXH. - Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một mối, vừa đóng vai trò như một công cụ kiểm tra số lượng người tham gia BHXH biến đổi ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên phạm vi toàn quốc. - Hoạt động của công tác thu BHXH hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai 2. Quy trình thu BHXH - NLĐ, NSDLĐ đăng ký tham gia BHXH. - Cơ quan BHXH định kỳ sẽ tiến hành thu BHXH từ người tham gia BHXH hoặc từ các đơn vị, cơ quan. - Quá trình thu được tiến hành theo hai cách sau: o Trường hợp 1: Cán bộ BHXH phải trực tiếp thu BHXH từ người tham gia BHXH. Họ sẽ xuống tận cơ sở, nơi người lao động làm việc để trực tiếp thu. o Trường hợp 2: Cơ quan BHXH thu thông qua NSDLĐ hoặc thông qua đại lý thu như: Ngân hàng, bưu điện, thông qua cơ quan Thuế… Cơ quan BHXH thường mở tài khoản tại ngân hàng hoặc tại kho bạc nhà nước để công việc chuyển tiền từ NSDLĐ và các đại lý thu đến cơ quan BHXH được thuận lợi hơn. 3. Quản lý thu BHXH Tham gia BHXH là nhiệm vụ, nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng lao động nhằm thực hiện quyền lợi cho NLĐ nhằm thực hiện quyền lợi cho NLĐ Trên cơ sở nhiệm vụ của công tác thu là phải thu đúng, thu đủ, thu đúng đối tượng và rõ ràng minh bạch nhằm đảm bảo tính công bằng và quyền lợi giữa những người tham gia BHXH. Bên cạnh đó cần phải tổ chức theo dõi, ghi chép kết quả Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 14 đóng BHXH của từng người, đơn vị để làm cơ sở cho việc tính mức hưởng BHXH theo quy định. Hơn nữa, công tác thu BHXH có những đặc điểm sau: Số đối tượng phải thu là rất lớn và gia tăng theo thời gian nên công tác quản lý thu BHXH là rất khó khăn và phức tạp. Công tác thu mang tính chất định kỳ, lặp đi lặp lại do đó khối lượng công việc là rất lớn đòi hỏi nguồn nhân lực và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thu cũng phải tương ứng. Đối tượng thu là tiền nên dễ xảy ra sai phạm, vi phạm đạo đức và lạm dụng quỹ vốn tiền thu BHXH Để công tác thu BHXH đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi phải có quy trình quản lý thu chặt chẽ hợp lý, khoa học nhất là trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ hiện nay. Vì vậy, công tác quản lý thu BHXH phải được tổ chức chặt chẽ, thống nhất trong cả hệ thống từ lập kế hoạch thu, phân cấp thu, ghi kết quả đặc biệt là quản lý tiền thu quỹ BHXH… Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 15 Chương 2: Tình hình nợ BHXH của các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011- 2012 I. Hiện trạng chung của toàn ngành BHXH và tại Đà Nẵng 1.1. Toàn ngành - Theo đánh giá của BHXH Việt Nam, từ đầu năm đến nay, do nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ, số lao động mất việc làm tăng mạnh… - Nhìn chung, các lĩnh vực như xây dựng, may mặc, giày da, tàu biển… đang là những đơn vị nợ BHXH nhiều nhất. Nợ BHXH luôn ở mức cao do tình hình kinh tế có nhiều biến động, lạm phát tăng cao, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Hiện nay, số lượng người đến đăng ký bảo hiểm thất nghiệp và hưởng bảo hiểm thất nghiệp ngày một tăng. Mỗi ngày, Phòng Bảo hiểm thất nghiệp của Trung tâm giới thiệu việc làm Hà Nội tiếp nhận 3.000 - 4.000 người đến đăng ký bảo hiểm thất nghiệp và hưởng bảo hiểm thất nghiệp. - Số người được hưởng bảo hiểm thất nghiệp cũng tăng. Theo thống kê, trong 3 năm (2009-2012) thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, trên địa bàn TP. Hà Nội đã có gần 43.000 người đến đăng ký tham gia bảo hiểm thất nghiệp và hơn 36.000 người được hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Số tiền Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội đã chi trả hưởng bảo hiểm thất nghiệp là hơn 295 tỷ đồng. - Hiện nay, không chỉ lao động phổ thông mà những người có chuyên môn, thu nhập cao cũng tìm đến bảo hiểm thất nghiệp. Cụ thể trong 11 tháng đầu năm 2012, số lao động phổ thông đến đăng ký chiếm 53%, lao động có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 35%. Trong các loại hình DN thì đối tượng đăng ký nhận bảo hiểm thất nghiệp thuộc loại hình DN TNHH chiếm đến 60%, công ty cổ phần chiếm 33% và các loại hình DN khác chiếm 7%. - Thống kê của Trung tâm Giới thiệu việc làm TP. HCM cho thấy, 11 tháng đầu năm 2012, tại TP. HCM có khoảng 130.000 người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm 2011, trung bình mỗi tháng trên địa bàn thành phố có khoảng 11.000 người thất nghiệp. - Gia tăng tình trạng nợ đọng. Tính đến hết tháng 10-2012, số tiền nợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của các cơ quan, đơn vị, DN đã lên đến 8.492,7 tỷ đồng, tăng 2.047,2 tỷ đồng (31,8%) so với cùng kỳ năm 2011. Trong số này, nợ bảo hiểm xã Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 16 hội là 6.554,1 tỷ đồng (trong đó: nợ bảo hiểm thất nghiệp là 410,8 tỷ đồng, riêng ngân sách các địa phương nợ 256,7 tỷ đồng, chiếm 62,5% tổng số nợ bảo hiểm thất nghiệp), tăng 500,9 tỷ đồng so với tháng 9-2012. Tình trạng nợ đọng, chậm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế xảy ra hầu hết ở các địa phương và ngày càng diễn biến phức tạp, gia tăng cả số đơn vị, số tiền. Nhiều đơn vị để nợ đọng trong thời gian dài, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. Không ít trường hợp chủ DN trích tiền lương của người lao động để đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế nhưng không nộp hoặc khi các cơ quan thanh tra, xử lý thì DN mới chịu nộp. Đáng chú ý, nợ bảo hiểm thất nghiệp ở khu vực hành chính, sự nghiệp lại phổ biến hơn ở các khối ngành nghề khác. - Nợ bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cũng tăng cao. Cụ thể, số nợ BHTN trong 9 tháng là 38,1 tỷ đồng, tăng 47,2% so với cùng kỳ; nợ BHYT là 276 tỷ đồng, tăng 27,5%. - Tình trạng trốn, chậm đóng bảo hiểm hoặc khai báo không trung thực về số lao động và mức lương tại doanh nghiệp cũng còn diễn ra. - Rất nhiều doanh nghiệp đã giải thể không còn hoạt động, hoặc chuyển đi nơi khác cũng đã bỏ luôn nghĩa vụ phải đóng BHXH, khiến cho số nợ tăng lên nhưng BHXH không thu được. Nhiều doanh nghiệp đã bị khởi kiện ra tòa nhưng việc thi hành gặp khó khăn do doanh nghiệp cố tình né tránh, trì hoãn việc thi hành án. 1.2. Tại địa bàn Đà Nẵng - Những năm gần đây, tình hình các doanh nghiệp nợ BHXH trên địa bàn Đà Nẵng có xu hướng tăng đột biến. Đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, kinh doanh trong những lĩnh vực chính của nền kinh tế và đặc biệt theo định hướng phát triển của thành phố như: Xây dựng, Công nghệ thông tin….với số lượng người lao động lớn. - Trong các năm 2009 và 2010, BHXH TP Đà Nẵng đã khởi kiện 15 doanh nghiệp, đơn vị để xử lý nợ tồn đọng kéo dài. Tuy nhiên, đến cuối năm 2010, vẫn có 448 doanh nghiệp, đơn vị nợ BHXH 27,5 tỉ đồng. - Từ đầu năm 2011 đến nay, số đơn vị nợ BHXH tăng thêm 270 doanh nghiệp và hơn 13 tỉ đồng. Tính đến cuối năm 2012, nhiều doanh nghiệp trên địa bàn vẫn nợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (BHXH, BHYT) của người lao động lên đến 127 tỉ đồng, trong đó số tiền nợ BHXH, BHYT trên ba tháng là 67 tỉ đồng, khiến người lao động gặp rất nhiều thiệt thòi. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 17 - Hiện nay, TP Đà Nẵng có hơn 10.000 doanh nghiệp sử dụng trên 193.000 lao động, nhưng chỉ có gần 4.000 đơn vị với hơn 160.000 lao động đăng kí tham gia BHXH và y tế. - Theo thống kê của Liên đoàn Lao động TP.Đà Nẵng, thu nhập trung bình của công nhân, viên chức và người lao động tại TP.Đà Nẵng năm 2012 đạt 3,5 triệu đồng/người/tháng, tuy tăng 3,92% so với trước nhưng chỉ số giá tiêu dùng tăng, đặc biệt là ở các mặt hàng thiết yếu nên đời sống vẫn chưa cao. - Đặc biệt, hiện nay diễn ra tình trạng nhiều người lao động chỉ đến cơ quan bảo hiểm để nhận khoản tiền hỗ trợ thất nghiệp mà quên mất những khoản hỗ trợ khác ngoài trợ cấp bằng tiền. Một phần trong hoạt động của bảo hiểm thất nghiệp là hỗ trợ người lao động học nghề và tư vấn giới thiệu việc làm. Tuy nhiên, khoản chi hỗ trợ học nghề cho cơ sở dạy nghề để đào tạo người lao động trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng lại rất thấp, số lượng người học nghề để tìm kiếm công việc mới càng thấp hơn, chỉ bằng 0,2% so với tổng số người hưởng trợ cấp thất nghiệp. II. Nguyên nhân các doanh nghiệp nợ BHXH 2.1. Nguyên nhân khách quan - Trước hết xuất phát từ ý thức pháp luật và đạo đức yếu kém của chủ doanh nghiệp - Tình hình kinh tế khó khăn, tốc độ tăng trưởng chậm - Sản xuất kinh doanh đình đốn - Sức mua thị trường giảm - Nhiều doanh nghiệp phá sản, giải thể, hoặc tạm ngừng hoạt động. - Các công trình xây dựng đều bị cắt giảm đầu tư - Kinh phí chậm quyết toán - Doanh nghiệp mất khả năng chi trả. - Doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn - Bị chậm thanh toán các công trình đã hoàn thành - Xử phạt tối đa chỉ đến 30 triệu đồng chưa đủ răn đe - Việc chiếm dụng tiền BHXH có lợi hơn so với việc vay tiền ngân hàng do không cần thế chấp tài sản, hay kê khai thủ tục mà lãi suất chậm đóng BHXH lại thấp hơn lãi suất vay ngân hàng. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 18 - BHXH không có chức năng xử phạt mà chỉ được quyền lập biên bản và sau đó báo cáo cơ quan chức năng tiến hành thanh, kiểm tra với các đơn vị còn nợ, nợ đọng kéo dài. Điều này khiến cho công tác thanh tra xử phạt không chủ động được - Chế tài xử phạt thấp, thủ tục xử phạt phức tạp và không quy định xử lý hình sự khi chiếm dụng tiền đóng BHXH của người lao động. Tại Đà Nẵng, năm 2011 có 80 đơn vị nợ BHXH với số tiền 23 tỷ đồng chỉ bị xử phạt gần 48 triệu. Mức xử phạt quá thấp, không đủ sức răn đe. 2.2. Nguyên nhân chủ quan - Doanh nghiệp chỉ muốn thu lợi nhuận tối đa, không quan tâm đến quyền lợi của người lao động, tìm cách trốn tránh, đối phó với cơ quan chức năng. - Nhiều cơ quan, doanh nghiệp lại phân biệt cán bộ trong biên chế và ngoài biên chế. Chỉ có cán bộ trong biên chế mới được hưởng các chế độ BHXH, BHYT. - Việc nợ- chiếm dụng quỹ BHXH vốn luôn là “căn bệnh mãn tính” của nhiều doanh nghiệp. - Tổ chức Công đoàn của nhiều doanh nghiệp thiếu tính độc lập, chưa trở thành chỗ dựa tin cậy của người lao động. - Công tác thanh, kiểm tra chưa thường xuyên, chế tài xử lí chưa đủ mạnh để buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ luật Lao động và luật BHXH. Lực lượng Thanh tra lao động của các địa phương rất mỏng, mỗi năm chỉ tiến hành thanh tra được cài chục doanh nghiệp. - Ngoài những doanh nghiệp thật sự đang gặp khó khăn do sản xuất kinh doanh thua lỗ, phần lớn doanh nghiệp còn lại cố tình chây ì dây dưa chậm nộp để chiếm dụng quỹ BHXH làm vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. - Nhận thức về pháp luật lao động của người lao động còn rất nhiều hạn chế. Người lao động chưa nhận thức đầy đủ về quyền lợi của mình. Một số lao động không muốn tham gia tổ chức Công đoàn, không muốn trích nộp BHXH vì sợ thu nhập bị giảm đi. Hoặc người lao động không dám đấu tranh do tâm lí sợ bị trù dập, đuổi việc. - Một số chủ doanh nghiệp thiếu trách nhiệm với người lao động. - Các NHTM chưa thực hiện trích tiền từ tài khoản của doanh nghiệp nợ BHXH để đóng BHXH theo quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2008/TTLT- BLĐTBXH- BTC- NHNN ngày 18/2/2008 của Bộ Lao động- Thương bình và Xã hội, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 19 III. Ảnh hưởng về quyền lợi việc các doanh nghiệp nợ BHXH 3.1. Đối với người lao động - Để trốn tránh nộp BHXH, các doanh nghiệp không kí kết hợp đồng, hoặc kí kết hợp đồng ngắn hạn (dưới 3 tháng).Điều này gây ảnh hưởng tới sự ổn định trong công việc của người lao động. Gây tâm lý không tốt trong quá trình tham gia hoạt động sản xuất - Doanh nghiệp không đóng BHXH đồng nghĩa không đóng BHYT. Vì thế các quyền lợi về thai sản, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, tử tuất, hưu trí, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… của người lao động coi như mất trắng. - Người lao động không được hưởng bất kỳ chế độ nào khi rủi ro xảy ra và không được các cơ quan BHXH bồi thường khi gặp rủi ro. - Quyền lợi của NLĐ mất đi, dù họ vẫn phải đóng BHXH ngay tại doanh nghiệp, và lương của họ bị trích ra để đóng BHXH. 3.2. Đối với thành phố - Không có quỹ để đền bù, giải quyết cho NLĐ khi gặp rủi ro.Mặc dù họ là người trực tiếp đóng BHXH - Không có quỹ để tiến hành đầu tư vào các chương trình trọng điểm cho NLĐ liên quan tới BHXH, BHYT. - Gây hiểu lầm về chính sách bồi thường cho NLĐ khi không giải quyết bồi thường theo đúng thỏa thuận - Thiếu tiền để duy trì các hoạt động liên quan tới BHXH như: thuê lao động làm việc, xây dựng trang thiết bị để kiểm định rủi ro, xây dựng chế tài cho NLĐ gặp rủi ro… - Thiếu vốn để đầu tư các dự án nhằm mang lại lợi nhuận. IV. Tình hình nợ thực tế BHXH của thành phố - Số tiền nợ còn cao nhưng chậm được khắc phúc. - Hiện tại trên địa bàn tỉnh, có 65 đơn vị có số nợ BHXH, BHYT hơn 3 tháng trở lên với số tiền hàng trăm triệu đồng/đơn vị. Tổng số nợ BHXH, BHYT của 65 đơn vị trên hiện nay là hơn 35 tỷ đồng. - Trong sáu tháng đầu năm 2012, trên địa bàn Đà Nẵng có 1.393 doanh nghiệp giải thể, bỏ trụ sở, đóng mã số thuế hoặc tạm ngừng sản xuất, kinh doanh. Số lao Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 20 động mất việc, thiếu việc làm có xu hướng tăng, với 5.127 trường hợp được nhận trợ cấp thất nghiệp. - Số doanh nghiệp nợ BHXH từ một tỷ đồng trở lên ngày càng tăng. Có nhiều doanh nghiệp nợ tiền BHXH kéo dài nhiều năm như:  Chi nhánh Trung tâm điện thoại di động CDMA Đà Nẵng đã hơn ba năm - rưỡi  Công ty CP Tư vấn đầu tư và xây dựng thuộc Tổng công ty Xây dựng Miền Trung ba năm ba tháng  Công ty CP ECICO hai năm tám tháng... - Tính đến ngày 30/9/2012, tổng số tiền nợ BHXH, BHYT (bao gồm cả bảo hiểm thất nghiệp) là 122 tỷ đồng (chiếm khoảng 6,9%/kế hoạch giao năm 2012). Hàng trăm doanh nghiệp đang là “con nợ” của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam với những món nợ từ vài trăm triệu đến cả chục tỷ đồng, dây dưa, kéo dài. - Theo số liệu tổng hợp, tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2012, toàn thành phố Đà Nẵng có 858 đơn vị sử dụng lao động nợ BHXH, BHYT từ 03 tháng trở lên ứng với số tiền nợ là 76 tỷ đồng, trong đó có hàng chục đơn vị nợ với số tiền từ 01 đến 02 tỷ đồng, thậm chí có những đơn vị nợ trên 2 tỷ đồng như: - Chi nhánh Công ty cổ phần Someco Sông Đà tại miền Trung, nợ 2.876.868.730 đồng; - Chi nhánh Trung tâm điện thoại di động C.D.M.A tại Đà Nẵng, nợ 2.283.471.627 đồng. - Chi nhánh công ty cổ phần đầu tư xây dựng và thương mại VINAWACO 25 nợ 1,7 tỷ đồng - Công ty cổ phần xây dựng điện VNECO 6 nợ 1,3 tỷ đồng - Công ty cổ phân Tư vấn đầu tư và xây dựng TCT Miền Trung nợ 1,3 tỷ đồng - Công ty cổ phần ECICO nợ 1,1 tỷ đồng… Trong 858 đơn vị, doanh nghiệp nợ tiền BHXH từ 3 tháng trở lên với tổng số gần 76 tỷ đồng, có 65 đơn vị có số tiền nợ nhiều và mang tính dây dưa kéo dài với số tiền trên 35 tỷ đồng. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 21 Chương 3: Tình hình sử dụng nguồn thu từ BHXH. Giải pháp nhằm giảm lượng nợ BHXH trên toàn thành phố. I. Kết quả đạt được - Trong ba năm qua, Bảo hiểm hiểm xã hội thành phố Đà Nẵng đã tiếp nhận, quản lý chi trả và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho gần 19 ngàn người hưởng trợ cấp thất nghiệp với số tiền gần 75 tỷ đồng. Trong đó chi trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp một lần cho 153 người số tiền hơn 860 triệu đồng, chi hỗ trợ học nghề cho 5 người số tiền 3,3 triệu đồng. - Trong năm 2011, có 4.121 đơn vị với 173.246 người tham gia BHXH bắt buộc, tổng số thu BHXH là 978.074 triệu đồng, so kế hoạch đạt 111,90%, so với năm 2010 tăng 25,00%. Tình hình chi trả trong năm 2011: (Đvt: triệu đồng) Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 22 - Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng chậm đóng và nợ đọng BHXH. Số người tham gia BHXH tự nguyện còn ít, chỉ có 434 người tham gia; gần 157.000 người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp Tình hình chi trả chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong năm 2011 tăng cao do nhiều công ty, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố hoạt động kinh doanh không hiệu quả, dẫn đến giải thể, nhiều lao động bị mất việc làm. BHXH thành phố đã phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố tổ chức chi trả kịp thời, đầy đủ, đúng chế độ chính sách cho người hưởng Bảo hiểm thất nghiệp. - Công tác hỗ trợ học nghề và hỗ trợ tìm việc làm cho người hưởng bảo hiểm thất nghiệp còn hạn chế, do người lao động chưa tích cực liên hệ và phối hợp với Trung tâm giới thiệu việc làm và các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn. Bên cạnh đó, tình trạng người sử dụng lao động “lách luật” để không đóng BHXH cho người lao động vẫn còn xảy ra, công tác tuyên truyền pháp luật còn hạn chế nên nhiều người lao động chưa hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia đóng BHXH... Công tác quản lý số lượng người tham gia BHXH tại các doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do cơ quan quản lý Nhà nước chưa nắm bắt được tình hình hoạt động và việc ký hợp đồng lao động của các doanh nghiệp. Đồng thời, chủ sử dụng lao động không khai báo đúng, đầy đủ số lao động phải tham gia BHXH với cơ quan quản lý Nhà nước. - Năm 2012, cùng với sự phối hợp làm việc giữa ngành đóng vai trò chủ trì là Y tế và Bảo hiểm xã hội với các ngành khác một cách chặt chẽ, đồng bộ như:  Ngành Thông tin truyền thông đã tổ chức tuyên truyền thường xuyên, liên tục chủ trương BHYT toàn dân của thành phố trên nhiều phương tiện thông tin với nhiều hình thức khác nhau. Cho mọi người biết được đây là chủ trương lớn của Cấp ủy đảng và Chính quyền thành phố với mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân, thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân gắn với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo năm hướng đột phá chiến lược của thành phố  Ngành Lao động Thương binh và Xã hội đã tiến hành rà soát các loại đối tượng do ngành quản lý để tiếp tục bổ sung, đặc biệt là đối tượng cận nghèo.Đã cấp thẻ BHYT miển phí cho 11.916 người.  Ngành Giáo dục đào tạo và Đại học Đà Nẵng phối hợp với Bảo hiểm xã hội thành phố.  Ngành Tài chính thành phố chủ động bố trí nguồn kinh phí và cấp phát kịp thời cho các nhóm đối tượng. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 23  Hội Nông dân thành phố tham gia công tác tuyên truyền vận động nhân dân, đặc biệt là vùng nông thôn  Ở cấp quận, huyện, các cơ quan chuyên môn của Quận ủy, Ủy ban nhân dân cũng đã tăng cường phối hợp với cơ quan Bảo hiểm xã hội quận, huyện để triển khai tuyên truyền, vận động, quán triệt chủ trương của thành phố đến từng tổ dân phố, thông qua tổ dân phố để thống kê tổng hợp số người chưa có thẻ BHYT trên địa bàn. Đà Nẵng đã cơ bản hoàn thành bảo hiểm y tế toàn dân vào cuối năm 2012. Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội thành phố Đà Nẵng, tính đến ngày 30 tháng 11 năm 2012 tổng số người tham gia các loại hình bảo hiểm y tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là 887.058 người Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là kết quả bước đầu, để tiếp tục duy trì độ bao phủ BHYT đã đạt được và phát triển trong những năm tiếp theo, theo hướng phấn đấu 100% dân số thành phố tham gia BHYT vào năm 2014.. Mặt khác, đồng thời với việc duy trì, phát triển độ bao phủ là chất lượng dịch vụ y tế và quyền lợi của đối Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 24 tượng tham gia cần đươc mở rộng và phát triển tức là phải tiếp cận đầy đủ BHYT toàn dân trên cả ba phương diện: Độ bao phủ - chất lượng dịch vụ - quyền lợi của đối tượng. Về chất lượng dịch vụ: Trong thời gian qua công tác khám chữa bệnh BHYT luôn được ngành Y tế và BHXH đặc biệt quan tâm. Với định hướng phấn đấu  “Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh”  Nâng cao đạo đức nghề nghiệp  Nâng cao tinh thần và thái độ phục vụ người bệnh của đội ngũ y bác sỹ, Đầu tư mạnh về cơ sở vật chất. Cụ thể là Bệnh viện Phụ sản - Nhi được thành lập và đưa vào hoạt động từ tháng 5-2012; Bệnh viên Ung bướu Đà Nẵng khánh thành đầu tháng 9-2012; Khu Hồi sức cấp cứu - Bệnh viện Đà Nẵng và Trung tâm Y tế quận Hải Châu đang được xây thêm để đáp ứng nhu cầu khám bệnh của người dân. Ngoài ra, dự kiến năm 2013, Bệnh viện Hòa Vang sẽ đưa vào vận hành giai đoạn 1. Về quyền lợi đối với người tham gia BHYT:  Cơ chế chính sách về BHYT đã được Nhà nước thường xuyên quan tâm điều chỉnh  Danh mục các dịch vụ - kỹ thuật cao chi phí lớn được quỹ BHYT thanh toán ngày càng được bổ sung, có rất nhiều trường hợp người bệnh BHYT được thanh toán hàng trăm triệu đồng, đặc biệt là các bệnh nan y, hiểm nghèo. Tin tưởng rằng, với kết quả bước đầu đạt được trong việc thực hiện BHYT toàn dân năm 2012, thành phố Đà Nẵng bước vào năm 2013 - năm bản lề của kế hoạch 5 năm - và những năm tiếp theo với nhiều nỗ lực và quyết tâm cao hơn nữa để thực hiện thắng lợi mục tiêu BHYT toàn dân với độ bao phủ 100% dân số như chỉ đạo thành phố. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 25 II. Hướng giải quyết của thành phố 2.1. Hướng giải quyết của thành phố - Ngày 12 tháng 11 năm 2012, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã ký ban hành Quyết định số 9341/QĐ-UB về việc thành lập Đoàn Thanh tra liên ngành để thanh tra việc trích nộp BHXH, BHYT. Đoàn thanh tra liên ngành của thành phố Đà Nẵng đã tiến hành kiểm tra tại 80 đơn vị có tổng số tiền nợ hơn 25,6 tỷ đồng, trong đó đơn vị nợ nhiều nhất là 1,54 tỷ đồng. Theo đánh giá của BHXH Đà Nẵng, hiệu lực của Đoàn thanh tra được thể hiện khá rõ nét. Trước khi đoàn đến làm việc tại doanh nghiệp, có 22 đơn vị nộp ngay số tiền nợ BHXH, BHYT là 4,6 tỷ đồng; 28 đơn vị nộp một phần nợ BHXH, BHYT hơn 6,4 tỷ đồng và ký cam kết sẽ tiếp tục nộp dứt điểm trong thời gian tới. Riêng 25 đơn vị nợ tiền hơn 7,7 tỷ đồng. Kết quả sau thanh tra, các đơn vị nợ BHXH, BHYT trên địa bàn TP Đà Nẵng đã nộp gần 13 tỷ đồng. Đoàn Thanh tra liên ngành có 21 thành viên của 8 cơ quan, gồm: Thanh tra thành phố Công an thành phố Sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Liên đoàn lao động thành phố Sở Y tế thành phố Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Cục thuế thành phố và Bảo hiểm xã hội thành phố. Ông Nguyễn Đức Cam, Thanh tra viên cao cấp, Phó Chánh Thanh tra thành phố làm Trưởng đoàn. - Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP.Đà Nẵng đã xử phạt hành chính với tổng số tiền 47 triệu đồng đối với các doanh nghiệp nợ BHXH trên địa bàn. Liên đoàn Lao động TP.Đà Nẵng cũng đã khởi kiện 14 đơn vị nợ BHXH - Trong 9 tháng đầu năm, BHXH thành phố đã kiểm tra 62 đơn vị sử dụng lao động. Đã kiến nghị thu hồi tổng số nợ BHXH là gần 16 tỷ đồng; đã thu hồi ngay sau khi kiểm tra số tiền gần 4 tỷ đồng tại 106 đơn vị sử dụng lao động. Kiến nghị truy thu BHXH, BHYT, BHTN của 89 lao động với số tiền gần 50 triệu đồng do đóng không đúng theo mức tiền lương tối thiểu vùng quy định và kiến nghị các đơn vị tham gia BHXH, BHYT và BHTN cho 439 lao động. - Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng đã chỉ đạo Giám đốc Sở LĐ-TB&XH giao cho Thanh tra Sở lập các thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với 13 đơn vị vi phạm. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 26 Nếu không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ thì đề xuất với cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp buộc trích tiền truy nộp vào quỹ BHXH. - Sở KH-ĐT chủ trì, phối hợp với Sở LĐ-TB&XH, Liên đoàn Lao động… kiểm tra, xử lý ,đề xuất cấp thẩm quyền quyết định xử lý đối với 5 đơn vị Cty Cổ phần Kiến trúc xây dựng Hoàn Kiếm Cty TNHH Thương mại và Dịch vụ Phước Thành Cty TNHH Đại Phúc Cty Xây dựng viễn thông Minh Quân Chi nhánh Cty Tư vấn quản lý quốc tế tại Đà Nẵng Do nợ tiền BHXH mà Đoàn không tìm ra địa chỉ làm việc. - Chủ tịch UBND thành phố cũng yêu cầu xem xét lập thủ tục khởi kiện các đơn vị cố tình chây ỳ, không thực hiện việc nộp nợ BHXH, BHYT ra Toà án. Riêng 2 đơn vị không chấp hành quyết định thanh tra của UBND TP là Cty Cổ phần Nhựa Việt Thái Cty Cổ phần Việt Mỹ Thì lập thủ tục khởi kiện ra Toà án trong thời gian sớm nhất. - Từ đầu năm đến nay, Thanh tra Sở LĐTBXH TP Đà Nẵng chỉ xử phạt 3 đơn vị vi phạm về pháp luật lao động liên quan đến nợ tiền lương và BHXH với tổng số tiền xử phạt là… 2 triệu đồng. - UBNH thành phố thanh tra liên ngành khoảng 100 đơn vị, tiến hành khởi kiện khoảng 30 đơn vị còn nợ đọng kéo dài. - Ngày 10/8, Bảo hiểm Xã hội (BHXH) Đà Nẵng vừa nộp đơn khởi kiện 6 doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn ra toà vì cố tình dây dưa, chây ì, không chịu nộp BHXH. Trong đó:  Công ty Công trình 5 (đường Ngô Quyền) nợ bảo hiểm 46 tháng với số tiền hơn 1,5 tỷ đồng  Công ty Cơ khí ôtô và Thiết bị điện Đà Nẵng (149 Trần Phú) nợ 7 tháng, hơn 1 tỷ  Công ty Công trình giao thông 503 (693B Trần Cao Vân) nợ 34 tháng, 625 triệu  Công ty cổ phần VLXD 323 (Hòa Nhơn, Hòa Vang) nợ 21 tháng, 453 triệu  Công ty cổ phần Xây dựng giao thông 325 (K693/20 Trần Cao Vân) nợ 21 tháng, 410 triệu Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 27  Công ty liên danh xây dựng đường bộ 5 (16 Lý Tự Trọng) nợ 50 tháng, 1,237 tỷ. - Hiện BHXH quận Hải Châu cũng đang kiện 4 doanh nghiệp khác ra toà với lý do cố tình dây dưa, chây ý, không chịu nộp BHXH. Đó là :  Công ty cổ phần kỹ thuật cơ điện lạnh Tadico (170 Núi Thành) nợ 27 tháng, 465 triệu  Xí nghiệp sản xuất VLXD và thi công cơ giới (1166 - 1167 Phan Đăng Lưu) nợ 19 tháng, 485 triệu  Chi nhánh Công ty TNHH Tài nguyên công nghệ VN tại Đà Nẵng (127 Huỳnh Thúc Kháng) nợ 8 tháng, 1,053 tỷ  Chi nhánh miền Trung Công ty cổ phần Đầu tư và xây dựng giao thông (lô 287 đường 7,5m khu dân cư dọc tuyến Trường Sa) nợ 21 tháng, 265 triệu. - Không chỉ các doanh nghiệp nợ đọng BHXH kéo dài mà nhiều cơ quan nhà nước cũng nợ BXH suốt nhiều tháng. Như Nhà khách Văn phòng UBND TP nợ 6 tháng, Thanh tra huyện Hòa Vang nợ 4 tháng, UBND xã Hòa Tiến nợ 4 tháng, UBND phường Phước Mỹ nợ 4 tháng... Ngoài ra, thành phố còn sử dụng một số biện pháp như: - Tập trung cán bộ quản lý, thường xuyên đôn đốc từng đơn vị để thu hồi nợ. - Tăng cường công tác tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chính cũng như tuyên truyền trực tiếp đến đơn vị và người lao động về tình hình nợ BHXH, BHYT - Tiến hành phân loại doanh nghiệp theo năng lực tài chính 2.2. Hướng giải quyết của BHXH o Hiện BHXH Việt Nam đang kiến nghị nâng mức chế tài xử phạt lên 10% số tiền doanh nghiệp nợ. o Bổ sung tội danh chiếm dụng quỹ BHXH vào Bộ luật Hình sự đối với người đứng đầu cơ quan tổ chức sử dụng lao động. o Cần xử lý hình sự đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm nhiều lần. o Nâng cao nhận thức đối với người nộp. Cần cho họ nhận thấy nộp BHXH là nhiệm vu chung của toàn xã hội o Nhà nước cần sửa đổi một số quy định đã lạc hậu, không khả thi hoặc chưa quy định cụ thể. o Nâng lãi suất chậm nộp lên mức tương đương tín dụng ngân hàng Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 28 o Trích chuyển tài khoản của đơn vị nợ, rút giấy phép kinh doanh, xử lý hình sự phải đủ nghiêm o Cử cán bộ theo dõi việc thực hiện sau kiểm tra, nếu doanh nghiệp không chấp hành, cơ quan BHXH đều gửi văn bản cho các đơn vị BHXH quản lý thu của doanh nghiệp khởi kiện ra Toà III. Giải pháp nhằm giảm bớt nợ - Sử dụng sản phẩm của đơn vị nợ BHXH vào việc hỗ trợ hồi phục cho chủ thể sử dụng BHXH. Ví dụ: sử dụng sản phẩm Sữa, Thuốc… của doanh nghiệp - Nhà nước phải có chế tài đủ mạnh để bắt buộc chủ sử dụng lao động phải tham gia BHXH cho người lao động - Giao chức năng thanh tra cho ngành BHXH để nâng cao tính khả thi trong việc thực hiện chính sách BHXH - Quy định lại việc thu BHXH khu vực doanh nghiệp dựa trên bảng lương đóng thuế - Bổ sung các điều luật như khi doanh nghiệp nợ đọng hay không đóng BHXH thì doanh nghiệp phải giải quyết các chế độ cho người lao động - Sớm sửa đổi, bổ sung Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn - Cần ban hành Thông tư mới thay thế cho Thông tư liên tịch số 11/1999/TTLT-BYT-BHXH ngày 22/6/1999 - Tăng cường công tác chỉ đạo lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền từ thành phố đến xã, phường - Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về công tác BHYT - Tích cực thanh tra, kiểm tra, xử phạt nghiêm minh, hoàn thiện tổ chức công đoàn, tăng cường công tác tuyên truyền vận động đối với các doanh nghiệp và người lao động. - Cho Doanh nghiệp thấy đây chính là phao cứu sinh trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn - Tỉnh cần chỉ đạo các ngành chức năng xúc tiến ra soát lại toàn bộ các hạng mục công trình xây dựng cơ bản vốn đầu tư ngân sách Nhà nước nay đã đưa vào sử dụng, cần được thanh toán hết vốn cho doanh nghiệp. Không nên để tình trạng Nhà nước nợ doanh nghiệp không lãi suất - Cần có cơ chế ưu tiên cho doanh nghiệp của tỉnh tham gia đấu thầu thi công khi có dự án hoặc công trình xây dựng cơ bản. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 29 - Tạo mối liên kết “hai nhà” xây dựng nông thôn mới, tạo cơ hội cho doanh nghiệp có công trình xây dựng và bao tiêu sản phẩm vật liệu xây dựng. - Đối với Ngân hàng, cần quán triệt tinh thần chỉ đạo của chính phủ để doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay và chi trả lãi suất. - Ngân hàng chính sách cần cải thiện cơ chế giải ngân đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh bảo đảm: “Đúng đối tượng- Đúng mục đích- Luân chuyển vốn kịp thời- Đạt hiệu quả”. - Đối với tổ chức công đoàn, tăng cường hoạt động hướng về cơ sở, lấy doanh nghiệp làm địa bàn hoạt động, lấy người lao động làm đối tượng vận động, tạo mối quan hệ hài hòa, ổn định. Làm tốt công tác tư tưởng cho người lao động cùng chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, đồng thuận “chung tay” cùng doanh nghiệp tham gia BHXH do nguyên nhân bất khả kháng. - Ngành BHXH tiếp tục chủ động và tăng cường phối hợp với các ngành chức năng kiểm tra, thanh tra công tác thu, chi BHXH ở doanh nghiệp. Xử lý hài hòa vừa mang tính pháp lý vừa đảm bảo tính nhân văn để giải quyết chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động … cho người lao động. - Cơ quan BHXH cần phối hợp với cơ quan ban ngành có chức năng nhằm tăng cường công tác thông tin tuyên truyền rộng rãi về quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH. - Cơ quan BHXH cần đổi mới công tác thu BHXH trong đó tăng cường công tác thu ngay tại địa bàn. Quản lý chặt chẽ và đầy đủ các đơn vị thuộc diện đối tượng tham giam BHXH bắt buộc theo quy định. - Cơ quan BHXH cần có quan điểm mềm dẻo song cũng phải kiên quyết đối với những doanh nghiệp nợ đọng, chậm nộp BHXH. - Ngân hàng Nhà nước tích cực chỉ đạo các NHTM thực hiện nghiêm túc việc trích tiền từ tài khoản của doanh nghiệp nợ BHXH để đóng BHXH theo đúng quy định tại Thông tư liên tịch sô 03/2008/TTLT- BLĐTBXH- BTC- NHNN ngày 18/02/2008. - UBND tỉnh cần chỉ đạo Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tăng cường thanh tra, kiểm tra liên ngành và xử lý các vi phạm về BHXH, BHYT Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 30 Kết luận Có thể nói tình trạng doanh nghiệp không đóng BHXH đúng, đủ cho người lao động rất phổ biến trên phạm vi cả nước, ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi, tâm lí của người lao động. Người lao động không được hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, tử tuất, nghỉ hưu, chuyển công tác…Có người đến tuổi nghỉ hưu nhưng không làm thủ tục được, có người sinh con đã 2 năm nhưng vẫn chưa được hưởng chế độ thai sản…Người thì ốm đau không có chế độ bảo hiểm, mất việc không được trợ cấp… Ngoài ra, việc các doanh nghiệp trốn BHXH còn gây thất thu lớn cho cơ quan BHXH. BHXH ở Việt Nam từ lâu đã trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Với bản chất chăm lo cho một vòng đời người, BHXH càng có ý nghĩa quan trọng và liên quan trực tiếp đến việc ổn định đời sống của hàng triệu NLĐ và gia đình họ trong các trường hợp ốm đau, thai sản, chế độ hưu. Vì thế việc nợ BHXH gây rất nhiều khó khăn cho tổ chức BHXH, việc thu hồi nợ BHXH là việc bắt buộc, nhằm tăng cường nguồn vốn để thực hiện các chính sách về BHXH. Chính vì thế, nhằm đẩy nhanh công tác thu hồi các khoản nợ BHXH, đặc biệt là thu những khoản nợ khó đòi với thời gian nợ kéo dài thì cần phải sự vào cuộc đồng bộ của các đơn vị ban ngành trong toàn thành phố. Đặc biệt phải kiên quyết thu đủ, thu nhanh với các doanh nghiệp nhà nước có kết quả kinh doanh thấp mà có số nợ BHXH lớn. BHXH cần được trao nhiều quyền hạn hơn trong việc kiểm tra kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và cần được trao nhiều quyền xử lý ngay các doanh nghiệp có dấu hiệu trốn nộp và dây dưa nộp. BHXH cần phải được các tổ chức, doanh nghiệp chấp nhận với thái độ tích cực, phải tạo cho họ thấy đây là một chính sách mang lại cho họ nhiều lợi ích trong bối cảnh kinh tế gặp khó khăn và số người bỏ việc đang tăng cao như hiện nay. Việc giải quyết nợ BHXH không thể giải quyết trong thời gian ngắn, để mục tiêu thu nợ BHXH được giải quyết thì cần thời gian và chế tài phù hợp, đủ sức răn đe mới mong các doanh nghiệp hoàn trả đủ số nợ. Với việc Đà Nẵng đang chuyển mình trở thành trung tâm kinh tế của toàn miền Trung, việc nợ BHXH sẽ gây rất nhiều khó khăn cho thành phố. Vì thế, với việc vừa chú trọng phát triển kinh tế, rất mong những người lãnh đạo thành phố sẽ quan tâm tới việc giải quyết các nhu cầu cấp thiết tới BHXH của người lao động. Tiểu luận: Tình hình nợ BHXHcủa các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012 2012 Nguyễn Hoàng Giang Lớp: K15QNH5 MSSV: 152523844 Page 31 DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1) 2) nang-cao-hieu-qua-cua-cong-tac-thu-bhxh-o-viet-nam-.39429.html

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_luan_bao_hiem_xa_hoi_1753.pdf
Luận văn liên quan