Nhà nước pháp quyền XHCN đã, đang và tiếp tục được xây dựng, hoàn
thiện ở nước ta. Điều này đã được thể chế hóa trong văn bản pháp luật có hiệu
lực cao nhất là Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Hiến
pháp năm 2013. Các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đóng vai trò hết sức
quan trọng và cần thiết trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam, trong đó có hệ thống Tòa án nói chung, TAND cấp huyện nói
riêng. Cùng với quyền hạn, nhiệm vụ của mình TAND cần có cơ cấu tổ chức
và phương thức hoạt động phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Hiện nay, tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi còn nhiều hạn chế, vướng mắc phải khắc phục, do đó cần được
các cấp ủy Đảng và nhà nước quan tâm nhằm bảo đảm chất lượng hoạt động
của TAND cấp huyện trong việc giải quyết số lượng án ngày càng tăng. Đó là
những hạn chế về văn bản pháp luật, về biên chế công chức, về phương thức
hoạt động, năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình giải quyết công
việc, về cơ sở vật chất, về áp dụng công nghệ thông tin trong công việc, về
kinh phí hoạt động. Điều này đã thúc đẩy cần có các giải pháp đồng bộ để
giải quyết triệt để các vấn đề trên. Trong đó, trọng tâm là hoạt động của
TAND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong điều kiện xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Và để thực hiện tốt các
nhiệm vụ trên, công chức của TAND cấp huyện cần nhận thức rõ quyền hạn,
trách nhiệm để thực hiện tốt nhiệm vụ chung của TAND. Trên cơ sở quyền
hạn, trách nhiệm đó, công chức TAND cấp huyện khi thực hiện công việc
phải khách quan, công tâm, đáp ứng được nguyện vọng của Đảng, nhà nước97
và Nhân dân. Chỉ khi TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có
những công chức có năng lực chuyên môn cao, có bản lĩnh chính trị vững
vàng thì mới có thể đưa ra những phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi phải tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách
thức trong quá trình hoạt động của mình khi mà tình hình kinh tế - xã hội trên
địa bàn ngày càng chuyển biến phức tạp. Khi điều kiện chưa khắc phục những
hạn chế, vướng mắc trong hoạt động, TAND cấp huyện cần tự mình quán triệt
và đề xuất những giải pháp thiết thực lên cấp có thẩm quyền xem xét, giải
quyết, giúp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để chất lượng hoạt động xét
xử ngày càng được nâng cao, xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, nhà nước
và nhân dân, là nơi thực hiện công lý trong xã hội, góp phần quan trọng trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 110 trang
110 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điểm vô cùng đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong 
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bởi cán bộ, công 
chức của hệ thống TAND trong quyền hạn của mình đóng vai trò giải quyết 
các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND, góp phần trong việc nhân danh nhà 
nước đưa ra phán quyết trong khi thực hiện nhiệm vụ: “ngăn ngừa có hiệu 
quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các 
tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ 
 75 
chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng dân chủ, quyền, lợi ích 
hợp pháp của tổ chức và công dân” [3]. 
3.1.3. Về điều kiện cơ sở vật chất 
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị 
cũng nêu rõ: “Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp 
phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước”, 
“Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, 
hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều 
tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư 
pháp. Khẩn trương trong một vài năm xây xong trụ sở làm việc các cơ quan 
tư pháp cấp huyện; nâng cấp các nhà tạm giam theo đề án đã được Chính 
phủ phê duyệt. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của 
các cơ quan tư pháp” [5]. Đây là những công việc cụ thể cần được thực hiện 
đối với các cơ quan tư pháp nói chung và TAND cấp huyện nói riêng, bởi 
điều kiện vật chất là điều kiện vô cùng quan trọng trong hoạt động của các 
đơn vị. 
Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong đổi mới tổ chức và hoạt động của 
TAND cấp huyện đã được đề ra và vẫn trong quá trình thực hiện, cho thấy 
chất lượng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đóng vai trò vô cùng 
quan trọng trong việc xây dựng và cũng cố nhà nước pháp quyền XHCN Việt 
Nam, cần được cụ thể hóa bằng các chính sách, pháp luật của nhà nước. 
Trong đó, Đảng nhấn mạnh việc sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp 
lý thẩm quyền của TAND cấp huyện. Đồng thời, quan điểm của Đảng về đổi 
mới tổ chức, hoạt động của TAND trong các văn kiện nêu trên, cho thấy 
đường lối lãnh đạo của Đảng đối với TAND trong thời kỳ đổi mới là hoàn 
toàn nhất quán, có sự kế thừa và phát triển từng bước. Đảng luôn quan tâm 
chỉ đạo nhằm kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức TAND, giới thiệu những 
 76 
cán bộ, công chức có năng lực, trình độ chuyên môn cao và phẩm chất chính 
trị vững vàng cho hệ thống Toà án; phát hiện và xử lý kỷ luật nghiêm minh 
đối với những cán bộ, đảng viên có sai phạm công tác trong hệ thống Toà án. 
Đảng lãnh đạo Tòa án thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật 
thông qua việc thường xuyên nghe báo cáo tổng hợp tình hình công tác của 
TAND, để có cơ sở tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp với hoạt động xét 
xử của Toà án. Đảng luôn xác định cải cách tổ chức và hoạt động của hệ 
thống TAND là thể hiện tập trung của cải cách tư pháp, nhưng cải cách 
TAND phải tiến hành đồng bộ với việc cải cách cơ quan điều tra, viện kiểm 
sát và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp khác. 
3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức, bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân 
dân cấp huyện đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa Việt Nam 
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp 
huyện 
3.2.1.1. Thành lập các Tòa chuyên trách 
Quy định về thành lập Tòa chuyên trách TAND cấp huyện được quy 
định tại Luật Tổ chức TAND năm 2014, Thông tư 01/2016/TT-CA ngày 21 
tháng 01 năm 2016 của TAND tối cao. 
Theo đó, Tòa chuyên trách tại TAND cấp huyện được thành lập nếu có 
đủ điều kiện sau: Số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm 
quyền của Tòa chuyên trách theo quy định tại Điều 3 Thông tư này phải từ 50 
vụ/năm trở lên; có biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp 
ứng được yêu cầu tổ chức Tòa chuyên trách. Trường hợp tại Tòa án không 
đáp ứng đủ điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách trên thì không tổ chức Tòa 
chuyên trách nhưng phải bố trí Thẩm phán chuyên trách để giải quyết. TAND 
có thể có các Tòa chuyên trách gồm Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và 
 77 
người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính [50]. 
Việc thành lập Tòa chuyên trách, Thẩm phán chuyên trách cấp huyện 
sẽ giúp nâng cao chất lượng trong việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm 
quyền của TAND cấp huyện, đảm bảo chuyên môn hóa việc giải quyết, xét xử 
của Tòa án theo từng lĩnh vực xét xử nhằm nâng cao chất lượng giải quyết, 
xét xử các loại vụ việc; các Thẩm phán, Thư ký Tòa án nghiên cứu chuyên 
sâu hơn về lĩnh vực mình công tác, xử lý hiệu quả, đúng pháp luật hơn đối với 
các vụ việc thuộc lĩnh vực chuyên môn. 
Thẩm quyền của các Tòa chuyên trách như sau: 
- Tòa hình sự: Xét xử các vụ án hình sự, trừ các vụ án hình sự thuộc 
thẩm quyền giải quyết của Tòa gia đình và người chưa thành niên; xem xét, 
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND trong trường 
hợp tại Tòa án đó không tổ chức Tòa xử lý hành chính, trừ trường hợp việc 
xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính thuộc thẩm 
quyền giải quyết của Tòa gia đình và người chưa thành niên. 
- Tòa dân sự: Giải quyết các vụ việc dân sự; giải quyết các vụ việc kinh 
doanh thương mại, phá sản, lao động, hành chính trong trường hợp tại Tòa án 
đó không tổ chức Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính. 
- Tòa kinh tế: Giải quyết các vụ việc kinh doanh thương mại, phá sản. 
- Tòa hành chính: Giải quyết các vụ án hành chính. 
- Tòa lao động: Giải quyết các vụ việc lao động. 
- Tòa gia đình và người chưa thành niên giải quyết các vụ việc như sau: 
Các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình 
sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới 
18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện 
sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người 
dưới 18 tuổi khác; Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành 
 78 
chính tại TAND đối với người chưa thành niên; Các vụ việc hôn nhân gia 
đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. 
- Tòa xử lý hành chính: Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử 
lý hành chính tại TAND, trừ những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa 
gia đình và người chưa thành niên [50]. 
Thực tế, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có một số TAND huyện đáp ứng 
đủ điều kiên thành lập Tòa chuyên trách các lĩnh vực khi có số án từng lĩnh 
vực từ 50 vụ/năm trở lên như Bình Sơn, Đức Phổ, Mộ Đức, Sơn Hà, Sơn 
Tịnh, thành phố Quảng Ngãi, Trà Bồng, Tư Nghĩa. Nhưng hiện nay việc tổ 
chức thành lập các Tòa chuyên trách chưa được thực hiện ở bất kỳ đơn vị 
TAND huyện nào. TAND tỉnh Quảng Ngãi cần có kế hoạch triển khai thực 
hiện việc thành lập Tòa chuyên trách ở TAND cấp huyện trong địa bàn tỉnh 
mà trước hết là ở TAND thành phố Quảng Ngãi, nơi có số lượng án trên các 
lĩnh vực nhiều nhất, đối với các TAND cấp huyện khác không đủ điều kiện 
thành lập Tòa chuyên trách thì bố trí Thẩm phán chuyên trách. Nếu thực hiện 
được thành lập Tòa chuyên trách, Thẩm phán chuyên trách sẽ tạo điều kiện 
cho TAND cấp huyện thực hiện tốt hơn hoạt động của mình, nâng cao trình 
độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong lĩnh vực 
chuyên trách, ban hành những bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng 
pháp luật theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 
3.2.1.2. Thành lập bộ phận tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn 
Tiếp dân và xử lý đơn là khâu quan trọng trong quá trình Tòa án giải 
quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của mình (kể cả vụ án hình sự trong 
trường hợp có các đơn kiếu nại, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho phép gặp 
mặt bị cáo). Vì vậy, nếu TAND cấp huyện làm tốt khâu này sẽ bảo đảm chất 
lượng hoạt động của Tòa án. 
Trên cả nước, hiện nay có nhiều TAND địa phương đã thành lập bộ 
 79 
phận hành chính tư pháp chịu trách nhiệm tiếp dân tại Tòa án, tiếp nhận và xử 
lý đơn, tiếp nhận và xử lý công văn, giấy tờ ở Tòa án. Đối với cán bộ thực 
hiện theo đúng quy chế tiếp dân, có vào sổ, ghi chép, theo dõi việc giải quyết 
khiếu nại trong hệ thống Tòa án đúng theo trình tự, thủ tục quy định. Hàng 
ngày đều báo cáo tình hình tiếp công dân cho Chánh án giải quyết những yêu 
cầu bức xúc của người dân. Từ việc nhận trực tiếp hoặc từ khâu văn thư, bộ 
phận Hành chính tư pháp nhận đơn tổng hợp và xử lý. Trường hợp Chánh án 
bận công tác sẽ ủy nhiệm cho Phó Chánh án xử lý thay. Đối với đơn khởi 
kiện: Trường hợp đủ điều kiện thụ lý thì ra Thông báo yêu cầu nộp tiền tạm 
ứng án phí để thụ lý, trường hợp chưa đủ điều kiện thụ lý thì ra Thông báo 
yêu cầu sửa đổi, bổ sung, trường hợp không đủ điều kiện khởi kiện thì ra 
Thông báo trả đơn khởi kiện trình Chánh án giải quyết. Đối với đơn khiếu 
nại: Thuộc thẩm quyền giải quyết của bộ phận nào thì trình Chánh án chuyển 
đến bộ phận có thẩm quyền đó để giải quyết. Do vậy, hoạt động tiếp nhận và 
xử lý đơn ở Tòa án đảm bảo đúng quy trình, thủ tục tố tụng; hạn chế tối đa 
tình trạng giải quyết chậm, hay giải quyết quá hạn các đơn được Tòa án tiếp 
nhận. 
 Các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nên áp dụng việc 
thành lập bộ phận tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn thuộc Văn phòng, có cơ 
cấu gồm Thẩm phán và công chức khác; đối với TAND cấp huyện có số 
lượng vụ việc phải giải quyết không nhiều thì bố trí người ở bộ phận này. 
Như vậy, hoạt động này được thực hiện theo quy trình khép kín, xử lý đơn 
khởi kiện, đơn khiếu nại của người dân với thời gian ngắn nhất, không vi 
phạm quy định về thời hạn của pháp luật tố tụng. Đồng thời nâng cao năng 
lực của cán bộ chuyên trách bộ phận này, tránh tình trạng gây khó khăn, phiền 
hà cho người dân, hoặc thụ lý khi chưa đủ điều kiện khởi kiện, thụ lý sai, dẫn 
đến thụ lý tràn lan các vụ việc và từ đó dẫn đến tình trạng án tồn đọng quá 
 80 
hạn. 
3.2.1.3. Đầu tư kinh phí phù hợp 
- Trang bị cơ sở vật chất hiện đại để bảo đảm hoạt động của TAND cấp 
huyện 
Trong các Nghị quyết chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp đều nhấn 
mạnh việc đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp nói chung và cho hệ 
thống TAND nói riêng nhằm bảo đảm chất lượng xét xử. Việc bảo đảm các 
vấn đề liên quan đến hoạt động, nhất là bảo đảm tài chính cho Tòa án phải 
nhất thiết được thực hiện thông qua một cơ chế độc lập để hệ thống Tòa án 
tập trung thực hiện đúng đắn, hiệu quả nhất các hoạt động chuyên môn. Cũng 
trên tinh thần đó cần phải đầu tư xây dựng đầy đủ trụ sở cho TAND cấp 
huyện, trang thiết bị hiện đại, thực sự có tính biểu tượng của quyền lực tư 
pháp, là “công đường” của nhà nước. Hội trường xét xử của TAND cấp 
huyện, phải có nét đặc thù không thể lẫn lộn với trụ sở của các cơ quan nhà 
nước khác. Trụ sở của TAND cấp huyện cần đầy đủ các phòng chức năng: 
Hội trường xét xử, phòng nghị án, phòng lấy lời khai của đương sự, phòng 
làm việc cho Thẩm phán, Thư ký Tòa án Hội trường xét xử cần đảm bảo về 
diện tích và được bài trí sắp xếp theo quy định: Khu vực làm việc của Hội 
đồng xét xử, Kiểm sát viên, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác 
được bố trí riêng biệt, hợp lý; nhân dân đến tham dự phiên toà được bố trí ghế 
ngồi theo nhu cầu xét xử của từng TAND cấp huyện. Hệ thống trang thiết bị 
kỹ thuật của các Tòa án cũng cần được trang bị hiện đại, áp dụng công nghệ 
thông tin tiên tiến để cập nhật thông tin, thống kê và công bố thông tin ra công 
chúng, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch. 
- Chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các chức 
danh khác trong TAND cấp huyện 
Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh nhà nước đưa ra phán 
 81 
quyết quyết định đến quyền nhân thân, quyền con người, ảnh hưởng đến lợi 
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Để đảm 
bảo thực hiện quyền tư pháp, Tòa án phải độc lập xét xử và ngược lại Tòa án 
phải xét xử độc lập mới thực hiện đúng đắn quyền tư pháp mà nhân dân đã 
giao phó, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh. Thẩm 
phán, Hội thẩm nhân dân và các chức danh khác trong TAND cấp huyện thực 
hiện chức năng, nhiệm vụ của TAND cấp huyện góp phần quan trọng trong 
việc giải quyết, xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện, 
trừng trị nghiêm minh các hành vi phạm tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp 
của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Hiện nay mức tiền lương và 
phụ cấp của Thẩm phán, công chức khác trong hệ thống TAND nói chung và 
của Thẩm phán, công chức khác trong hệ thống TAND cấp huyện nói riêng so 
với mức tiền lương của công chức bình thường ở các cơ quan khác chênh lệch 
không bao nhiêu, còn thấp, không tương xứng với công việc phải thực hiện. 
Chế độ hỗ trợ cho Hội thẩm nhân dân khi nghiên cứu hồ sơ và xét xử còn thấp 
90.000 đồng/ngày, một số Hội thẩm nhân dân ở xa, khi tham gia nghiên cứu 
hồ sơ không có thêm kinh phí xăng xe. 
 Từ năm 2004 đến nay, chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với 
Thẩm phán và công chức Tòa án đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều 
vấn đề bất cập, chưa phù hợp với tính chất đặc thù của Tòa án. Mức lương 
của Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án gần giống như mức lương của 
cán bộ, công chức hành chính nhà nước. Thẩm phán TAND cấp huyện (Thẩm 
phán sơ cấp) có 9 bậc lương, trong đó bậc khởi điểm (bậc 1) có hệ số là 2,34 
và bậc cuối cùng (bậc 8) có hệ số là 4,98; khoảng cách giữa các bậc liền kề là 
0,33, giống như các ngạch: Chuyên viên, Kiểm tra viên, Thanh tra viên, Kiểm 
tra viên hải quan, Kiểm soát viên thuếCác ngạch Thư ký Tòa án, chuyên 
viên và các chức danh công chức khác công tác trong cơ quan Tòa án được 
 82 
xếp lương như các ngạch công chức có cùng trình độ đào tạo trong các cơ 
quan hành chính nhà nước. Ngoài ra, được hưởng thêm các phụ cấp đặc thù: 
phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên nghề, bồi dưỡng phiên tòa. Tuy 
nhiên, Thẩm phán Tòa án cấp huyện lại được xếp hệ số lương, nhóm ngạch 
chức danh ngang bằng với Thư ký Tòa án, chuyên viên và kế toán viên. Mức 
phụ cấp trách nhiệm nghề hiện nay đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư 
ký Tòa án chưa phù hợp với vị trí, vai trò, trách nhiệm, tính chất lao động 
phức tạp, nặng nhọc và đặc thù của các chức danh tư pháp trong hệ thống Tòa 
án. Cấp huyện xét xử, giải quyết hầu hết các vụ án trong hệ thống Tòa án, 
chịu áp lực nặng nề nhất trong công tác xét xử. Nhiều cán bộ, công chức Tòa 
án cấp huyện phải làm thêm ngày thứ 7 trong tuần vẫn không giải quyết kịp 
công việc do khối lượng án ngày càng gia tăng, tính chất ngày càng phức tạp. 
Nhiều cán bộ, công chức Tòa án suốt nhiều năm không nghỉ phép hoặc chỉ 
nghỉ tranh thủ nhưng chưa có kinh phí để thanh toán chế độ không nghỉ phép 
do yêu cầu công việc. Trên cơ sở trách nhiệm nặng nề được giao, cần có 
chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán và chức 
danh khác trong Tòa án để họ yên tâm công tác và tăng khả năng tự vệ phòng, 
chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Cụ thể, cần xây dựng thang bảng 
lương riêng đối với Thẩm phán và các công chức có chức danh khác trong hệ 
thống TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng, từng bậc của thang 
bảng lương phụ thuộc vào vị trí và thời gian công tác của từng người, bậc 
lương tương đương với bậc lương của các ngành công an, quân đội để họ yên 
tâm cống hiến cho nghề, trách tình trạng vì khó khăn về kinh tế dẫn đến thoái 
hóa về đạo đức, ảnh hưởng đến tính khách quan trong các phán quyết đưa ra. 
Bên cạnh đó, cũng cần tăng mức phụ cấp cho Hội thẩm nhân dân để phù hợp 
với nhiệm vụ được giao và để họ yên tâm công tác. 
 Vì vậy, cần có chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân 
 83 
và các chức danh khác trong TAND cấp huyện đảm bảo hoạt động xét xử độc 
lập, thực hiện đúng đắn quyền tư pháp theo hiến định, góp phần xây dựng nền 
tư pháp trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại, bảo vệ công lý đáp ứng 
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. 
3.2.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện 
3.2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững 
chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện 
TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng có cơ cấu tổ chức về 
nhân sự và thực hiện hoạt động công tác của mình về tố tụng và nội dung dựa 
trên các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, có hiệu lực thi hành. 
Pháp luật cũng là yếu tố vô cùng quan trọng trong điều kiện xây dựng nhà 
nước pháp quyền XHCN, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam hội nhập với 
thế giới. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam từ những năm đổi mới 
trở lại đây đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Nhiều 
Bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng 
hoàn chỉnh hơn để nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, công tác phổ 
biến và giáo dục pháp luật ngày càng được tăng cường đáng kể. Bên cạnh 
những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã và đang 
bộc lộ những khiếm khuyết, trong đó có vấn đề thiếu tính thống nhất trong 
pháp luật cũng như việc chưa dự liệu được nhiều tình huống thực tiễn. Đây 
cũng là vấn đề gây rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp 
luật khi giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện. 
Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải có một 
hệ thống pháp luật khoa học, đồng bộ, thống nhất và dự liệu được cơ bản 
những quan hệ pháp luật có thể phát sinh trong xã hội. Ngay từ giai đoạn soạn 
thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà trước hết là các đạo luật, 
pháp lệnh, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật 
 84 
đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được bảo đảm. 
Đây phải được coi là một nguyên tắc, một yêu cầu quan trọng trong quy trình 
lập pháp, lập quy. Bởi lẽ, việc chỉnh lý những sai sót, những mâu thuẫn của 
các dự án, dự thảo đang trong giai đoạn soạn thảo sẽ dễ dàng hơn. Hơn nữa, 
việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp 
luật sẽ hạn chế tối đa khả năng gây thiệt hại cho nhà nước và xã hội, xâm 
phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân do việc cho ra đời những văn 
bản quy phạm pháp luật mâu thuẫn lẫn nhau. Đồng thời, các nhà làm luật cần 
nghiên cứu, tham khảo các văn bản pháp luật của các nước phát triển trên thế 
giới, lấy ý kiến nhân dân để có thể dự liệu được cơ bản những quan hệ pháp 
luật có thể phát sinh trong xã hội. 
Luật tổ chức TAND, các luật tố tụng hiện hành cũng đã ghi nhận 
nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Nhưng các quy định 
đó còn hạn chế về phạm vi, mức độ và tính chất, chưa thể hiện hết nội hàm sự 
độc lập của Tòa án và của cá nhân Thẩm phán. Vì vậy, cần có sự thể chế hóa 
nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để nâng cao hơn nữa 
chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện. Mặt khác, cần hoàn thiện các 
quy định để nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán như quy định về kỷ luật, 
quy định về bãi miễn khi Thẩm phán vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc năng 
lực xét xử yếu, kém. Bởi vì, pháp luật quy định người Thẩm phán độc lập 
trong xét xử thì họ cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những phán quyết 
của mình. 
3.2.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề 
nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân 
cấp huyện 
Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật 
này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử. Thẩm phán là 
 85 
thành phần chủ yếu trong đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống TAND nói 
chung và TAND cấp huyện nói riêng, có vai trò chủ yếu trong việc thực hiện 
chức năng, nhiệm vụ của Tòa án; có vai trò quyết định trong toàn bộ hoạt 
động tố tụng tại Tòa án. Các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND có được 
giải quyết, xét xử kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền 
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức hay không thì ngoài Thẩm phán, 
TAND cấp huyện còn có Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên thi hành án và các 
công chức khác. Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo vệ hay 
không, việc xét xử của Tòa án có góp phần vào việc răn đe, phòng ngừa các 
hành vi vi phạm pháp luật và có tác dụng trong việc tuyên truyền, giáo dục 
pháp luật trong nhân dân hay không, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên 
môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các 
chức danh khác trong hệ thống TAND. 
Trong những năm qua TAND rất chú trọng tới công tác xây dựng đội 
ngũ cán bộ, công chức đảm bảo về chất lượng cũng như số lượng, đáp ứng 
yêu cầu nhiệm vụ chính trị của hệ thống Tòa án và của các địa phương. Đội 
ngũ cán bộ, công chức của hệ thống TAND về cơ bản đã giữ vững và phát 
huy được bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó 
với nhân dân. Nhưng bên cạnh đó một số đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu 
về năng lực chuyên môn, thoái hóa về phẩm chất đạo đức; ngân sách của nhà 
nước dành cho hoạt động và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hệ thống 
TAND còn hạn hẹp. Trong khi đó các quan hệ kinh tế, dân sự, lao động... 
ngày càng đa dạng, phức tạp, nhất là những quan hệ có liên quan đến yếu tố 
nước ngoài. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ đó đòi 
hỏi Thẩm phán phải có trình độ chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ cao. Do 
vậy, ngay từ bây giờ phải chăm lo xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngày càng 
vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, ngang tầm nhiệm vụ trong 
 86 
tình hình mới. Cần kiên quyết hơn nữa trong việc rà soát lại đội ngũ Thẩm 
phán và các chức danh khác đấu tranh và xử lý kiên quyết với những hành vi 
vi phạm pháp luật của Thẩm phán, làm cho đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án 
ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của nhân dân. 
Để có được đội ngũ Thẩm phán giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có bản 
lĩnh nghề nghiệp cần có cơ sở đào tạo tốt, để tạo điều kiện trang bị mặt bằng 
kiến thức chung về chuyên môn, nghiệp vụ cho Thẩm phán, trước hết là 
nguồn bổ nhiệm Thẩm phán. Hiện nay đã có thể thực hiện được điều này, Bộ 
Chính trị đã đồng ý giao cho TAND tối cao thực hiện việc đào tạo nghiệp vụ 
xét xử cho cán bộ, công chức của hệ thống Tòa án, tiến tới đào tạo cử nhân 
chuyên ngành và đào tạo bậc trên đại học. Đây chính là tiền đề quan trọng để 
hệ thống TAND từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh 
nghiệm xét xử, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ Thẩm phán. Bên cạnh đó, 
TAND tối cao đã triển khai thực hiện Đề án nâng cao năng lực và quy mô của 
Trường cán bộ Tòa án, trong đó tập trung củng cố Hội đồng Trường, tăng 
cường đội ngũ giảng viên, đầu tư cơ sở vật chất, các trang thiết bị cho Trường 
và nghiên cứu đổi mới giáo trình, tài liệu, phương pháp giảng dạy để đáp ứng 
yêu cầu công tác đào tạo, tập huấn cán bộ trong tình hình hiện nay; đồng thời 
xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hệ thống TAND 
đến năm 2020 với nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp 
vụ, trình độ quản lý, kỹ năng thực hiện công tác dân vận, ngoại ngữ, tin học. 
Mặt khác, Chánh án TAND tỉnh Quảng Ngãi thường xuyên tổ chức các lớp 
bồi dưỡng, tập huấn theo định kỳ hoặc đột xuất về chuyên môn nghiệp vụ cho 
các cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ, công 
chức cần tự nổ lực nghiên cứu, học hỏi các tài liệu, trao đổi chuyên môn, 
nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp để hoàn thành tốt nhiệm vụ công 
tác được giao. 
 87 
Để nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm trong 
công tác cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán, 
cần tăng cường giáo dục về chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án 
như quán triệt kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật 
của nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế về tăng cường kỷ luật 
công vụ, thực hiện thanh tra, kiểm tra gắn với thực hiện chế độ khen thưởng, 
kỷ luật; tăng cường công tác quản lý cán bộ, công chức để phát hiện, ngăn 
chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của tập thể, cá nhân. 
Trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề nghiệp của đội 
ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong TAND cấp huyện được tốt thì 
chất lượng trong hoạt động của TAND sẽ được nâng cao, góp phần bảo đảm 
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nước 
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. 
3.2.2.3. Nâng cao năng lực của Hội thẩm nhân dân 
Để quá trình xét xử vụ án được công bằng, đúng người, đúng tội, người 
tham gia tố tụng được thể hiện ý kiến của mình trong quá trình xét xử, thì một 
trong những nguyên tắc quan trọng là phiên tòa ở Tòa án cấp sơ thẩm đều 
phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Tại các phiên tòa sơ thẩm, số 
lượng Hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử đều nhiều hơn số 
lượng Thẩm phán, khi quyết định những vấn đề trong bản án các thành viên 
Hội đồng xét xử biểu quyết và quyết định theo đa số. Qua đó, chúng ta thấy 
được vai trò của Hội thẩm nhân dân khi xét hỏi tại phiên tòa, cũng như trong 
quá trình nghị án là hết sức quan trọng. Vấn đề này đã được quy định rất chặt 
chẽ trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật 
tố tụng dân sự năm 2015. 
Qua quá trình đánh giá chất lượng xét xử của Hội thẩm nhân dân tại các 
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, bên cạnh những ưu điểm còn 
 88 
có một số hạn chế, vướng mắc nhất định như Hội thẩm nhân dân tham gia xét 
xử nhưng chưa phát huy hết vai trò của mình, Hội thẩm nhân dân ít tham gia 
nghiên cứu hồ sơ vụ án, chưa hiểu kỹ được nội dung vụ án, dễ dẫn đến khi xét 
xử đưa ra phán quyết không đúng với thực tế nội dung vụ án, không đảm bảo 
được quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự. 
Hội thẩm mặc dù có trình độ chuyên môn riêng nhưng còn hạn chế về 
trình độ pháp lý. Cơ quan có liên quan cần phối hợp tốt hơn với TAND cấp 
huyện trong công tác tập huấn, bồi dưỡng cho Hội thẩm, đặc biệt là tập huấn 
các văn bản pháp luật hoặc văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật mới; tổ 
chức rút kinh nghiệm trong xét xử một số loại vụ án đặc thù. Hằng năm, cần 
quan tâm đầu tư kinh phí để bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp lý cho đội ngũ 
Hội thẩm. Ngoài ra, cần phải có cơ chế trách nhiệm đối với Hội thẩm khi 
tham gia xét xử, cùng ban hành các bản án, quyết định để Hội thẩm phát huy 
hết năng lực và trách nhiệm của mình. Nếu Hội thẩm nào có nhiều bản án bị 
hủy, sửa, vi phạm các vấn đề đạo đức nghề nghiệp hoặc thiếu tinh thần trách 
nhiệm đối với hoạt động xét xử thì cần xem xét có các hình thức miễn nhiệm, bãi 
nhiệm và các chế tài xử lý khác. 
Trong điều kiện nhà nước ta đang xây dựng và hoàn thiện nhà nước 
pháp quyền XHCN, thì vấn đề nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhất là 
quá trình áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp huyện cần 
được quan tâm. Hội thẩm nhân dân khi tham gia các phiên tòa phải thể hiện rõ 
vai trò và trách nhiệm của mình, vì vậy cần có giải pháp để nâng cao chất 
lượng Hội thẩm, đồng thời chính bản thân Hội thẩm cũng cần thấy rõ trách 
nhiệm của mình trong vấn đề nâng cao năng lực xét xử của bản thân. 
3.3. Kiến nghị, đề xuất 
3.3.1. Đối với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh 
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay đang gặp khó 
 89 
khăn lớn về mặt nhân lực, bởi có TAND cấp huyện thì số lượng vụ việc hàng 
năm phải giải quyết rất ít như TAND huyện Lý Sơn, Sơn Tây, Tây Trà, Trà 
Bồng với tổng số lượng vụ việc phải giải quyết trên tất cả các lĩnh vực từng 
năm chưa đến 50 vụ việc, tức là giải quyết của mỗi Thẩm phán, Thư ký Tòa 
án có khi chưa tới 10 vụ/năm (TAND Tây Trà mỗi Thẩm phán giải quyết 
trung bình 7,5 vụ việc/năm trong năm 2016) nhưng vẫn được phân bổ số 
lượng nhân sự đầy đủ các chức danh quản lý Chánh án, Phó chánh án và 
Thẩm phán, Thư ký Tòa án, chức danh khác làm nhiệm vụ kế toán, văn 
phòng. Ở những TAND cấp huyện này Thẩm phán, Thư ký Tòa án sẽ khó có 
cơ hội nâng cao kinh nghiệm chuyên môn, rèn luyện năng lực khi có quá ít vụ 
việc để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong khi đó, ở một số 
TAND cấp huyện khác thì số lượng vụ việc phải giải quyết hàng năm lớn, 
mỗi Thẩm phán, Thư ký Tòa án giải quyết số lượng vụ việc lên đến hơn 115 
vụ việc/năm như TAND thành phố Quảng Ngãi, Bình Sơn thì lại gánh số 
lượng công việc quá tải. Để giải quyết số lượng công việc nhiều như vậy, 
Thẩm phán, Thư ký Tòa án nhiều khi phải làm thêm ngoài giờ hành chính, 
thậm chí làm cả vào ngày nghĩ như thứ 7, chủ nhật nhưng không được hưởng 
chế độ phù hợp. Vì vậy, TAND tối cao, TAND cấp tỉnh cần phân bổ số lượng 
Thẩm phán, Thư ký Tòa án hợp lý, theo số lượng án của từng TAND cấp 
huyện nhưng trừ các chức danh quản lý ra. Đồng thời, có sự biệt phái, luân 
chuyển cán bộ, công chức giữa các TAND cấp huyện để cán bộ, công chức có 
điều kiện tiếp xúc, va chạm giải quyết các vụ việc với nhiều đặc điểm khác 
nhau theo điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội của từng địa phương, qua đó trau 
dồi thêm kiến thức xã hội, kinh nghiệm nghề nghiệp. 
Việc tổ chức các Tòa chuyên trách ở các TAND huyện trên địa bàn tỉnh 
Quảng Ngãi có đủ điều kiện theo quy định tại Thông tư số 01/2016/TT-CA 
ngày 21 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao về quy định việc tổ 
 90 
chức các Tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc 
trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và 
tương đương là cần thiết. Chánh án TAND tỉnh Quảng Ngãi căn cứ vào các 
điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách, rà soát, đánh giá nhu cầu tổ chức Tòa 
chuyên trách tại các TAND huyện trên địa bàn, rà soát về biên chế Thẩm 
phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án hiện có, xây dựng hồ sơ đề nghị tổ chức 
Tòa chuyên trách tại các TAND huyện gửi cho TAND tối cao xem xét, quyết 
định. Trong đề án tổ chức Tòa chuyên trách tại các TAND huyện, TAND tỉnh 
Quảng Ngãi cần nêu rõ sự cần thiết tổ chức Tòa chuyên trách, cơ sở của việc 
đề xuất, số lượng Tòa chuyên trách cần tổ chức, tên các Tòa chuyên trách, cơ 
cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, phương án tổ chức nhân sự và đề xuất về 
biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án của từng Tòa chuyên 
trách. 
Việc nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân của 
TAND cấp huyện tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũng cần được TAND cấp trên 
quan tâm, trước mắt là nguồn bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp. Đồng thời, có kế 
hoạch và thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn theo định kỳ hoặc 
đột xuất về chuyên môn nghiệp vụ cho các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để 
phán xét của TAND cấp huyện công bằng, đúng pháp luật đảm bảo công lý 
được thực thi; đồng thời xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế về tăng 
cường kỷ luật, kỷ cương công vụ, thực hiện thanh tra, kiểm tra gắn với thực 
hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động của TAND cấp huyện. 
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũng cần được TAND 
tối cao, TAND tỉnh Quảng Ngãi quan tâm xây mới hoặc tu sửa đối với trụ sở 
những TAND cấp huyện đã xuống cấp trầm trọng, trang bị cơ sở vật chất, 
thiết bị kỹ thuật cần cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết, xét 
xử những vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện. 
 91 
Thừa phát lại là chế định đang được thực hiện thí điểm ở một số địa 
phương, tiêu biểu là thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, người có các tiêu 
chuẩn, được nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để làm các công việc liên quan 
đến hoạt động của Tòa án là tống đạt theo yêu cầu của Tòa án. Tống đạt là 
hoạt động quan trọng ảnh hưởng đến tính hợp pháp trong quá trình giải quyết 
các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện, nhưng hoạt động này 
chiếm rất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến thời gian làm các công việc chuyên 
môn khác và tiến độ giải quyết án. Vì vậy, TAND tối cao, TAND tỉnh quảng 
Ngãi cần quan tâm hơn đến vấn đề này, có thể áp dụng tại một số TAND cấp 
huyện có nhiều công việc, số lượng án nhiều. Nếu áp dụng chế định này, 
Thẩm phán và Thư ký Tòa án có thời gian để nghiên cứu chuyên môn và thực 
hiện các công việc khác. 
TAND tối cao cần xây dựng kế hoạch về cải thiện chế độ tiền lương, 
phụ cấp đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án để phù hợp 
với chức năng, nhiệm vụ đặc trưng mà họ phải thực hiện. Cụ thể, xây dựng 
thang bảng lương riêng của cán bộ, công chức hệ thống TAND đề nghị Quốc 
hội thông qua nhằm cải thiện đời sống của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, 
Thư ký Tòa án, tránh những hành vi suy thoái đạo đức của cán bộ, công chức 
Tòa án nói chung và TAND cấp huyện nói riêng. Ngoài ra, quy định chế độ 
bảo đảm an ninh đối với Thẩm phán và gia đình họ trong trường hợp thi hành 
công vụ cũng là vấn đề TAND tối cao cần quan tâm để Thẩm phán an tâm 
công tác. 
3.3.2. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện 
TAND cấp huyện là cơ quan giải quyết sơ thẩm hầu hết các vụ việc 
thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy, chính bản thân cán bộ, công chức 
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần có những nỗ lực để bảo 
đảm chất lượng của hoạt động xét xử trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp 
 92 
quyền XHCN Việt Nam hiện nay, cụ thể: 
Lãnh đạo TAND cấp huyện cần đề nghị TAND cấp trên bố trí số lượng 
nhân sự hợp lý, phù hợp với số lượng vụ việc phải quyết để bảo đảm hoạt 
động của đơn vị. 
Thẩm phán, Thư ký Tòa án và các công chức có chức danh khác của 
TAND cấp huyện cần nhận thức được vai trò của việc bảo đảm tổ chức và 
hoạt động của TAND cấp huyện trong điều kiên xây dựng nhà nước pháp 
quyền XHCN hiện nay. Họ cần hiểu rõ công việc giải quyết, xét xử nhằm 
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, 
bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp 
của tổ chức, cá nhân. Khi nhận thức được trách nhiệm của mình thì công chức 
Toa án mới thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ xét xử và thực hiện quyền tư 
pháp được trao. 
 Lãnh đạo TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tạo điều 
kiện để Thẩm phán, Thư ký Toà án, Hội thẩm nhân dân đơn vị mình nâng cao 
năng lực, tạo điều kiện tối đa về cơ sở vật chất, tài liệu, trang thiết bị kỹ thuật 
để hỗ trợ cho quá trình công tác nhằm giúp họ phát huy tối đa năng lực, bản 
lĩnh nghề nghiệp của mình trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của 
TAND cấp huyện. Đồng thời, tạo điều kiện về thời gian để Thẩm phán, Thư 
ký Tòa án tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, nghiên cứu tài liệu để phục 
vụ cho quá trình công tác. 
 TAND cấp huyện cần triển khai và tổ chức thực hiện chủ trương của 
Đảng, văn bản pháp luật mới, tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh tới 
toàn công chức trong đơn vị. Bên cạnh đó, TAND cấp huyện cần có cơ chế 
giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện công việc của công chức trong đơn vị 
mình để kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của công chức 
trong đơn vị. Mặt khác, TAND cấp huyện cần có chế độ khen thưởng phù hợp 
 93 
đối với những cá nhân có thành tích vượt bậc. 
 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay hầu hết đều 
hoạt động theo cơ chế mọi hướng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền 
đều có ý kiến của Chánh án hoặc cấp ủy TAND cấp huyện đó, điều này ảnh 
hưởng tới nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được quy định 
tại Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND. TAND cấp huyện cần khắc phục cơ 
chế hoạt động này. Theo đó, mọi quyết định về việc giải quyết vụ việc đã giao 
cho Thẩm phán đều do Thẩm phán độc lập giải quyết, mọi bản án, quyết định 
tại phiên tòa đều do Hội đồng xét xử quyết định, không có bất kỳ một tác 
động nào có thể ảnh hưởng đến quyết định của Hội đồng xét xử. Có như vậy, 
việc xét xử theo quy định pháp luật mới được thực hiện một cách triệt để, như 
tinh thần của các Nghị quyết của Đảng và đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà 
nước pháp quyền XHCN của nước ta. 
 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần nghiên cứu thành 
lập bộ phận chuyên trách tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn nhằm bảo vệ quyền 
và lợi ích hợp pháp của người dân và thực hiện việc tiếp nhận xử lý đơn theo 
quy định của pháp luật. Bởi trong thực tiễn việc tiếp nhận, xử lý đơn tại các 
TAND cấp huyện thường được tiến hành sơ sài, không thực hiện đúng quy 
định tố tụng về trình tự và thời gian tố tụng, gây phiền hà và bức xúc cho 
người dân. Nếu bộ phận chuyên trách này được thành lập và thực hiện đúng 
các quy định tố tụng sẽ thuận lợi cho việc nộp đơn của công dân; giúp TAND 
thụ lý đúng vụ việc tránh trường hợp thụ lý không đúng quy định dẫn đến việc 
giải quyết án tồn đọng, kéo dài. 
 Chánh án của các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần 
chuẩn bị nhân lực, vật lực cho việc thành lập các Tòa chuyên trách nếu đủ 
điều kiện theo quy định. Ngay từ bây giờ, Chánh án TAND cấp huyện xem 
xét, phân công án cho Thẩm phán theo hướng chuyên trách để thuận lợi cho 
 94 
việc nghiên cứu tài liệu, văn bản pháp luật chặt chẽ, để đến khi Tòa chuyên 
trách chính thức được tổ chức, TAND cấp huyện sẽ không bị động. 
 Lãnh đạo của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần phối 
hợp với cơ quan, đơn vị có công chức, viên chức là Hội thẩm nhân dân của 
Tòa án mình để đề nghị các cơ quan, đơn vị này tạo điều kiện cho Hội thẩm 
có thời gian nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử, tránh trường hợp vì thực 
hiện nhiệm vụ công tác tại đơn vị mà không thể nghiên cứu hồ sơ được, ảnh 
hưởng đến chất lượng trong quá trình xét xử, hoặc không tham gia xét xử 
được ảnh hưởng đến hoạt động của TAND cấp huyện. 
 95 
Tiểu kết chương 3 
 Từ kết quả phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của 
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở chương 2, trong chương 
này, tác giả nêu quan điểm về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đáp 
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và đề xuất một 
số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của 
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi như: tiếp tục hoàn thiện hệ 
thống pháp luật; thành lập các Tòa chuyên trách; thành lập bộ phận tiếp dân, 
tiếp nhận và xử lý đơn; nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo 
đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong TAND 
cấp huyện; nâng cao năng lực của Hội thẩm; trang bị cơ sở vật chất hiện đại; 
tăng chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác 
trong TAND cấp huyện. Đây là những giải pháp có mối quan hệ mật thiết với 
nhau, đòi hỏi phải thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất. Thông qua đó, tác 
giả mong muốn chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh 
Quảng Ngãi được nâng lên, đáp ứng nguyện vọng của người dân. 
 96 
KẾT LUẬN 
 Nhà nước pháp quyền XHCN đã, đang và tiếp tục được xây dựng, hoàn 
thiện ở nước ta. Điều này đã được thể chế hóa trong văn bản pháp luật có hiệu 
lực cao nhất là Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Hiến 
pháp năm 2013. Các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đóng vai trò hết sức 
quan trọng và cần thiết trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN 
Việt Nam, trong đó có hệ thống Tòa án nói chung, TAND cấp huyện nói 
riêng. Cùng với quyền hạn, nhiệm vụ của mình TAND cần có cơ cấu tổ chức 
và phương thức hoạt động phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu trong điều kiện xây 
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 
 Hiện nay, tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh 
Quảng Ngãi còn nhiều hạn chế, vướng mắc phải khắc phục, do đó cần được 
các cấp ủy Đảng và nhà nước quan tâm nhằm bảo đảm chất lượng hoạt động 
của TAND cấp huyện trong việc giải quyết số lượng án ngày càng tăng. Đó là 
những hạn chế về văn bản pháp luật, về biên chế công chức, về phương thức 
hoạt động, năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình giải quyết công 
việc, về cơ sở vật chất, về áp dụng công nghệ thông tin trong công việc, về 
kinh phí hoạt động... Điều này đã thúc đẩy cần có các giải pháp đồng bộ để 
giải quyết triệt để các vấn đề trên. Trong đó, trọng tâm là hoạt động của 
TAND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con 
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, 
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong điều kiện xây dựng và 
hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Và để thực hiện tốt các 
nhiệm vụ trên, công chức của TAND cấp huyện cần nhận thức rõ quyền hạn, 
trách nhiệm để thực hiện tốt nhiệm vụ chung của TAND. Trên cơ sở quyền 
hạn, trách nhiệm đó, công chức TAND cấp huyện khi thực hiện công việc 
phải khách quan, công tâm, đáp ứng được nguyện vọng của Đảng, nhà nước 
 97 
và Nhân dân. Chỉ khi TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có 
những công chức có năng lực chuyên môn cao, có bản lĩnh chính trị vững 
vàng thì mới có thể đưa ra những phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp 
luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. 
 Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, TAND cấp huyện 
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi phải tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách 
thức trong quá trình hoạt động của mình khi mà tình hình kinh tế - xã hội trên 
địa bàn ngày càng chuyển biến phức tạp. Khi điều kiện chưa khắc phục những 
hạn chế, vướng mắc trong hoạt động, TAND cấp huyện cần tự mình quán triệt 
và đề xuất những giải pháp thiết thực lên cấp có thẩm quyền xem xét, giải 
quyết, giúp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để chất lượng hoạt động xét 
xử ngày càng được nâng cao, xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, nhà nước 
và nhân dân, là nơi thực hiện công lý trong xã hội, góp phần quan trọng trong 
quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79 - KL/TW ngày 28/7/2010 về Đề 
án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ 
quan điều tra theo Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về 
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 
2. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về tiếp 
tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ 
Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 
3. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về 
“một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. 
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về 
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam đến 
năm 2010, định hướng năm 2020. 
5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ- TW ngày 02/06/2005 về 
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 
6. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (1946), Sắc lệnh số 22B-SL ngày 18 tháng 
02 năm 1946 để quyền tư pháp cho Uỷ ban hành chính ở những nơi 
chưa đặt được Tòa án biệt lập. 
7. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2008), Quyết định số 1138/QĐ- 
TCCB ngày 22 tháng 8 năm 2008 về phân cấp quản lý cán bộ Tòa 
án nhân dân địa phương. 
8. Chính phủ (2003), Nghị định số 145/2003/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 
năm 2003 về việc thành lập huyện Tây Trà; mở rộng thị trấn, thành 
lập xã và đổi tên xã thuộc các huyện Bình Sơn, Lý Sơn, tỉnh Quảng 
Ngãi. 
9. Chính phủ (2005), Nghị định 112/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 
 năm 2005 về việc thành lập thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh 
Quảng Ngãi. 
10. Chính phủ (2013), Nghị quyết số 123/NQ-CP ngày 12 tháng 12 
năm 2013 về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Sơn Tịnh, 
huyện Tư Nghĩa để mở rộng địa giới hành chính thành phố Quảng 
Ngãi và thành lập phường Trương Quang Trọng thuộc thành phố 
Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. 
11. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 33C ngày 13 
tháng 9 năm 1945. 
12. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 37/SL ngày 25 
tháng 9 năm 1945 về việc ấn định địa phương thẩm quyền của các 
Tòa án quân sự. 
13. Chủ tịch Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01 năm 
1946. 
14. Chủ tịch Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 4 năm 
1946. 
15. Chủ tịch Chính phủ (1947), Sắc lệnh số 19/SL ngày 16 tháng 02 
năm 1947. 
16. Chủ tịch Chính phủ (1947), Sắc lệnh số 59/SL ngày 05 tháng 7 năm 
1947. 
17. Chủ tịch Chính phủ (1948), Sắc lệnh số 185/SL ngày 26 tháng 5 
năm 1948. 
18. Chủ tịch nước (1950), Sắc lệnh số 85/SL ngày 22 tháng 5 năm 
1950. 
19. Chủ tịch nước (1950), Sắc lệnh số 158/SL ngày 17 tháng 11 năm 
1950. 
20. Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp, Nxb. 
 Công an nhân dân, Hà Nội. 
21. Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lí luận Nhà nước và pháp 
luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
23. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Lý 
luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Lý luận chính trị, Hà 
Nội. 
24. Học viện Hành chính Quốc gia (2007), Giáo trình Lý luận chung 
về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 
25. Huy Khiên (2016), Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền 
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm đổi mới, Tạp chí điện 
tử Cộng sản điện tử, (ngày 15/8/2016). 
26. Nguyễn Huyền Ly (2012), Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp 
quyền Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia 
Hà Nội. 
27. Nguyễn Thanh Tuấn (2015), Đảm bảo công lý trong thể chế pháp 
quyền, Tạp chí điện tử Tổ chức Nhà nước, (24/3/2015). 
28. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia – 
sự thật, Hà Nội. 
29. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, 
Hà Nội. 
30. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, 
Hà Nội. 
31. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung 
năm 2009, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
32. Quốc hội (2013), Luật đất đai, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
 33. Quốc hội (1988), Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân 
dân năm 1981, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
34. Quốc hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất 
đai năm 2003, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
35. Quốc hội (1993), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ 
chức Tòa án nhân dân năm 1992, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
36. Quốc hội (1995), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ 
chức Tòa án nhân dân năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 1993, Nxb. 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
37. Quốc hội (1960), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
38. Quốc hội (1981), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
39. Quốc hội (1992), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
40. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
41. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị 
Quốc gia – sự thật, Hà Nội. 
42. Quốc hội (2010), Luật tố tụng hành chính, Nxb. Chính trị Quốc gia, 
Hà Nội. 
43. Quốc hội (2015), Luật tố tụng hành chính, Nxb. Chính trị Quốc gia 
– sự thật, Hà Nội. 
44. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, 
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
45. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, 
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
 46. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
47. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
48. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, Nxb. Chính trị Quốc 
gia, Hà Nội. 
49. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
50. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Thông tư 01/2016/TT-CA ngày 21 
tháng 01 năm 2016 quy định việc tổ chức các Tòa chuyên trách tại 
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án 
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. 
51. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2012), Báo cáo tổng kết của Toà 
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 
52. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2013), Báo cáo tổng kết của Toà 
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 
53. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2014), Báo cáo tổng kết của Toà 
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 
54. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo tổng kết của Toà 
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 
55. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2016), Báo cáo tổng kết của Toà 
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 
56. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 41/2012/QĐ-TTG ngày 
05 tháng 10 năm 2012 về chế độ bồi dưỡng với người tham gia 
phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự. 
57. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lí luận Nhà nước 
 và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 
58. Trương Hòa Bình (2014), Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và 
hoạt động của Tòa án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm 
vụ: Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, Báo điện tử Công lý, 
(05/4/2014). 
59. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2014), Nghị quyết số 
719/2014/UBTVQH 13 ngày 06 tháng 01 năm 2014 hướng dẫn thực 
hiện khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 
của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng 
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 
60. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1961), Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ 
chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức các Tòa án nhân dân 
địa phương, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
61. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân 
sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
62. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội 
thẩm Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
63. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội 
thẩm Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
64. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung 
một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân 
dân năm 2002, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_to_chuc_va_hoat_dong_cua_toa_an_nhan_dan_cap_huyen.pdf luan_van_to_chuc_va_hoat_dong_cua_toa_an_nhan_dan_cap_huyen.pdf